Vì chúng tôi có rất nhiều công việc phải hoàn thành trước khi vượt qua dãy Tuyết Sơn, nên làng Asmah là nơi căn cứ tốt nhất của chúng tôi. Người bạn mà chúng tôi đã để lại ở Potal để quan sát đức Tuệ Minh cũng đã về đến nơi. Y thuật lại rằng y đã nói chuyện với đức Tuệ Minh cho đến gần bốn giờ chiều ngày mà Ngài hẹn có mặt tại chỗ đến tiếp đón chúng tôi ở Asmah. Vào lúc đó đức Tuệ Minh nói rằng Ngài phải đi ngay đến chỗ hẹn. Thể Xác Ngài bèn trở nên cứng đơ, nằm yên như người ngủ trên nệm. Ngài nằm trên tư thế đó độ chừng ba tiếng đồng hồ, cái Thể Xác trở nên lu mờ dần và biến mất. Đó là giờ phút mà đức Tuệ Minh tiếp đón chúng tôi vào buổi chiều tại quán trọ làng Asmah.
Mùa này chưa thuận tiện để cho chúng tôi vượt qua các truông núi. Ba người bạn cao cả của chúng tôi có thể vượt qua các đoạn đường núi một cách dễ dàng và mau chóng hơn chúng tôi nhiều, nhưng không có vị nào phàn nàn về sự chậm trễ này. Tôi gọi các vị ấy là cao cả, bởi vì họ thật sự xứng đáng với danh từ ấy do đức hạnh của họ.
Tại Asmah, chúng tôi đã xuất hành nhiều lần đi ra các vùng chung quanh, có khi thì đi với Dật Sĩ, có khi đi với Nê Bưu. Mỗi lần như vậy, họ đều chứng tỏ những đức tính quý báu. Một trong những chuyến ngao du này nhằm mục đích viếng thăm một làng trong đó có một ngôi đền gọi là Đền Im Lặng. Làng này gồm có ngôi đền và nhà cửa của những người giúp việc công quả trong đền. Trước kia, vùng này là nơi tọa lạc của một làng khác đã hầu như hoàn toàn bị tàn phá bởi các bịnh truyền nhiễm và loài thú dữ. Đức Tuệ Minh, dật Sĩ, Nê Bưu cùng đi với chúng tôi và nói cho chúng tôi biết rằng thuở xưa kia khi các Chân Sư đến viếng nơi này, các Ngài chỉ thấy có một thiểu số lưa thưa những người còn sống sót trong số ba ngàn dân cư trong làng. Các Ngài săn sóc họ, và sau đó những thú dữ và bịnh tật đều biến mất. Những kẻ sống sót mới cầu nguyện rằng trong trường hợp họ được bình yên, họ sẽ xin lập công quả suốt đời và phụng sự trong bất cứ công việc nào do Thượng Đế sắp đặt. Các Chân Sư bèn ra đi, và về sau khi các Ngài trở lại, các Ngài thấy ngôi đền này được dựng lên và những dân làng sống sót trước kia chăm lo việc công quả thờ phượng trong đền.
Đó là một ngôi đền rất đẹp, xây trên một ngọn đồi cao, ngự trị khắp vùng chung quanh. Đền xây bằng đá trắng và đã có từ sáu ngàn năm nay. Nó không bao giờ cần có một sự tu bổ nào.
Đức Tuệ Minh nói:
-Đây là ngôi Đền Im Lặng, tức là nơi chỗ của Quyền Năng, khi chúng ta đạt tới chỗ im lặng trong tư tưởng, chúng ta đến tại chỗ của quyền năng, nơi đó tất cả đều là sự hợp nhất, một quyền năng duy nhất, tức là Thượng Đế vậy. Quyền năng hao tán là động, quyền năng tập trung là tĩnh. Khi ta tập trung mọi sức mạnh vào một trung tâm tinh lực duy nhất, chúng ta tiếp xúc với Thượng Đế trong im lặng. Chúng ta hợp nhất với Ngài và do đó hợp nhất với mọi quyền năng. Đó là cái gia tài thừa kế của con người: "Thượng Đế và tôi chỉ là một".
Phương pháp duy nhất để hợp nhất với quyền năng của Thượng Đế là tiếp xúc một cách ý thức với Thượng Đế.
Điều này không thể thực hiện được từ bên ngoài, vì Thượng Đế xuất phát từ bên trong nội tâm.
Chúng ta hãy từ bỏ ngoại cảnh để quay về sự yên tĩnh của nội tâm. Nếu không như vậy, chúng ta không thể hy vọng hợp nhất một cách ý thức với Thượng Đế. Chúng ta sẽ hiểu rằng quyền năng của Ngài cũng ở trong tầm tay chúng ta, và chúng ta sẽ luôn luôn sử dụng quyền năng ấy. Chừng đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta hợp nhất với quyền năng của Ngài và chúng ta sẽ cảm thông với nhân loại. Con người sẽ từ bỏ những ảo giác của lòng tự ái, sẽ nhận thức được sự vô minh và hèn kém của mình, và sau cùng sẽ sẵn sàng chịu học hỏi. Y sẽ thấy rằng người ta không thể truyền dạy điều gì cho những kẻ kiêu căng tự phụ, và chỉ có những người có lòng khiêm tốn nhỏ nhoi mới có thể hiểu được Chân Lý. Hai chân y sẽ đứng vững trên một nền tảng cứng rắn, y sẽ không còn hoang mang bấp bênh nữa, y sẽ có ý thức về sự quân bình và lòng cương nghị...
Thượng Đế không nghe những lời cầu xin tuôn tràn như suối của chúng ta, cũng không nghe những lời kêu gọi thiết tha ầm ĩ lập đi lập lại nhiều lần một cách vô ích. Chúng ta phải tìm kiếm Ngài bằng cái Chân Ngã trong nội tâm, đó là sự liên lạc vô hình giữa ta với Ngài mà ta vốn có sẵn ở tự nơi mình. Ngài nghe lời kêu gọi của linh hồn chân thành cởi mở để tiếp đón Ngài, nếu người cầu xin biết sùng kính Ngài bằng tâm hồn và trong im lặng. Người nào tiếp xúc với Thượng Đế trong âm thầm sẽ nhận biết được quyền năng của Ngài do sự thực hiện được tất cả những điều mong ước của họ. Vì Thượng Đế công khai ban thưởng cho kẻ nào tìm kiếm Ngài trong chỗ thâm sâu kín đáo của tâm hồn.
Trong một cơn linh ảnh hiện ra trước mắt Đức Jesus trong bãi sa mạc, Ngài thấy "các cõi Trời rộng mở" và thấu hiểu cái định luật "biểu lộ", theo đó những ý niệm có sẵn trong Tư Tưởng Thiêng Liêng sẽ xuất hiện ra để biểu lộ trong những hình thể sắc tướng. Luật này được tiết lộ cho Ngài một cách hoàn toàn, đến nỗi Ngài thấy rằng Ngài có thể biến đổi tất cả mọi hình thể bằng cách điều chỉnh những trạng thái tâm thức của mình đối với chúng.
Trước hết Ngài có ý muốn biến đổi những hòn đá tảng thành bánh mì để ăn cho dịu bớt cơn đói lòng. Nhưng trong khi đó, Ngài cũng tiếp nhận được sự diễn đạt đúng đắn về "luật biểu lộ". Các viên đá tảng, cũng như tất cả mọi vật hữu hình, đều xuất xứ từ cái Chất Liệu của Tư Tưởng Thiêng Liêng, tức là Thượng Đế. Chúng nó là những biểu lộ thật sự của Tư Tưởng của Ngài. Mọi vật mà ta mong muốn, nhưng chưa hình thành, vẫn có sẵn trong chất Tiên Thiên Khí, nó sẵn sàng cung cấp vật liệu cho cơ Sáng Tạo, sẵn sàng tự biểu hiện ra ngoài để thỏa mãn mọi điều ước vọng của con người. Sự cần dùng bánh mì để chứng minh rằng cái chất liệu để làm bánh mì dùng để chứng minh rằng cái chất liệu để làm bánh mì vốn ở trong tầm tay của ta và có sẵn với những số lượng vô biên bất tận. Cái chất liệu đó, nó vốn là tinh hoa của mọi vật, có thể tự biến đổi thành đá tảng hay thành bánh mì.
Khi con người mong ước điều lành, sự mong ước của y cùng là một với sự mong ước của Thượng Đế. Kho Chất Liệu Thiên Nhiên, hay Tiên Thiên Khí bao bọc chung quanh chúng ta, có chứa đựng một nguồn tài nguyên vô tận để làm thỏa mãn tất cả mọi sự mong ước tốt lành. Chúng ta chỉ cần tập sử dụng lấy những gì mà Thượng Đế sáng tạo ra trước cho chúng ta. Ngài muốn rằng chúng ta hãy sử dụng cái kho thiên nhiên đó để vượt qua mọi giới hạn vật chất của mình và trở nên "tự do trong sự sung mãn..."
CHƯƠNG HAI
Quyền năng Sáng Tạo và tâm thức Bồ Đề- Thuật đi trên mặt nước- Ngôi Đền Chữa Bịnh- Phép chuyển di tư tưởng- Những sơn nhân "Người Tuyết"
I
Bận về, chúng tôi thấy có một số đông những người lạ tề tựu tại làng Asmah. Họ đến từ những vùng chung quanh. Một số các vị Chân Sư đã tựu họp lại để sắp sửa đi hành hương đến một làng hẻo lánh cách đó gần 400 cây số. Điều này làm chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi đã đi xuất hành một chuyến về hướng ấy và nhận thấy rằng cách đấy 120 cây số, con đường mòn đi ngay vào một bãi sa mạc hoang vu. Bãi sa mạc này thật ra là một vùng cao nguyên bao phủ bởi những cồn cát di động luôn luôn dưới những cơn gió lớn, và ở đó cỏ cây rất thưa thớt. Bên kia đồng cát, con đường mòn vượt lên một dãy núi nhỏ trong dãy Tuyết Sơn. Chiều hôm đó, chúng tôi được mời cùng đi trong chuyến hành hương, và sẽ lên đường vào ngày thứ hai kế đó. Chúng tôi được cho hay trước rằng không cần đem theo những đồ hành lý nặng vì chúng tôi sẽ còn trở về Asmah trước khi vượt qua dãy Tuyết Sơn.
Dật Sĩ và Nê Bưu dĩ nhiên là đã chuẩn bị tất cả mọi việc, và ngày thứ hai lúc trời còn chưa sáng, chúng tôi đã nhập bọn với ba trăm đoàn viên của nhóm người hành hương. Phần nhiều những người này bị đau vì những bịnh tật mà họ hy vọng sẽ được chữa khỏi trong chuyến đi này. Mọi việc đều trôi chảy êm đẹp cho đến ngày thứ bảy, trời thình lình nổi lên một cơn giông bão dữ dội nhất mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ. Trong ba ngày và ba đêm, những cơn mưa lũ rơi xuống không dứt, báo hiệu sắp đến mùa hè. Chúng tôi cắm trại ở một nơi cao ráo sạch sẽ, và cơn giông không gây cho chúng tôi một sự trở ngại nào. Chúng tôi lo ngại nhất là vấn đề tiếp liệu, vì chúng tôi biết rằng một sự trì hoãn kéo dài sẽ rất bất tiện cho tất cả mọi người.
Thật vậy, những người này chỉ đem theo một số lương thực tối thiểu, vừa đủ dùng cho chuyến hành hương, và không có phòng bị những trường hợp trì hoãn có thể xảy đến. Sự trì hoãn này lại càng nghiêm trọng gấp đôi, vì chúng tôi không thấy có giải pháp nào khác hơn là quay trở về Asmah để tiếp tế lương thực. Trong trường hợp này, chúng tôi phải vượt qua hai trăm cây số đường trường, mà phần lớn đi xuyên qua bãi sa mạc như đã nói ở trên.
Sáng ngày thứ năm, mặt trời chói rạng trên một bầu trời quang đãng, và chúng tôi quyết định lên đường. Nhưng người ta cho hay là tốt hơn chúng tôi nên đợi cho đường khô ráo và mực nước sông giựt xuống thấp, để chuyến đi được dễ dàng hơn. Một người trong chúng tôi bày tỏ nỗi lo ngại chung của tất cả mọi người là lương thực sẽ cạn. Đức Tuệ Minh là vị đảm trách việc tiếp liệu, bèn nói với chúng tôi:
-Không cần phải lo ngại chi cả. Thượng Đế há chẳng săn sóc tất cả chúng sinh, lớn cũng như bé, và chúng ta há chẳng phải là chúng sinh của Ngài hay sao? Các bạn hãy nhìn xem những hột giống lúa mì này. Tôi trồng nó xuống đất. Cử chỉ đó xác nhận rằng tôi cần dùng lúa mì, tôi đã tạo lúa mì trong trí tôi. Tôi đã làm đúng theo định luật tự nhiên và lúa mì sẽ mọc đúng vào thời kỳ của nó. Phương pháp trồng lúa mì theo luật tự nhiên rất lâu dài và khó nhọc. Chúng ta cần phải chịu khó chờ đợi lâu lắc như vậy chăng?
Tại sao không kêu gọi đến một định luật cao siêu và toàn vẹn hơn để làm cho lúa mì mọc lên mau lẹ? Người ta chỉ cần định thần một lát trong sự yên tĩnh, quan niệm rõ lúa mì trong tư tưởng, và đây là những hột lúa mì sẵn sàng để đem xay giã. Nếu các bạn nghi ngờ, các bạn hãy lượm lấy nó, xay nó ra thành bột, và nướng lên thành bánh. Thật vậy, trước mặt chúng ta có lúa mì đã đập xong, chúng ta chỉ cần đem xay ra bột và làm bánh mì.
Đức Tuệ Minh nói tiếp:
-Các bạn đã thấy và đã tin. Nhưng tại sao chúng ta không kêu gọi đến một định luật còn toàn vẹn hơn nữa và sản xuất một vật còn toàn vẹn hơn, nghĩa là đúng cái món ăn mà ta cần dùng, tức là bánh mì! Các bạn sẽ thấy rằng cái định luật toàn vẹn hơn, tế nhị hơn ấy, sẽ giúp cho tôi làm ra đúng cái món ăn mà tôi cần: đó là bánh mì.
Trong khi chúng tôi ngồi nghe một cách thích thú, thì một ổ bánh mì lớn xuất hiện trên tay đức Tuệ Minh, rồi nhiều ổ nữa mà Ngài đặt lên bàn cho đến khi chúng tôi đếm tất cả bốn chục ổ. Đức Tuệ Minh nói:
-Các bạn thấy rằng có đủ bánh mì cho tất cả mọi người. Nếu ăn không đủ, thì sẽ có những ổ khác nữa cho đến khi chúng ta ăn còn dư thừa.
Tất cả chúng tôi đều ăn bánh mì đó và thấy nó rất ngon. Đức Tuệ Minh lại nói tiếp:
-Khi Đức Jesus hỏi Thánh Philips ở thành Galilée: "Chúng ta sẽ mua bánh mì ở đâu?" Thì đó là để thử thách vị môn đồ. Đức Jesus biết rõ rằng bánh mì mà đám quần chúng đang cần dùng không cần phải mua ở ngoài chợ hay ở các thị trường thương mãi. Ngài mượn dịp đó để chỉ các môn đồ thấy rằng người ta có thể tạo ra bánh mì bằng sức mạnh của Tinh Thần. Người đời thường có cái quan niệm vật chất như Philips! Vị môn đồ này cũng tính như mọi người: "Ta có bấy nhiêu bánh mì, bấy nhiêu lương thực, hay bấy nhiêu tiền bạc..."
Đức Jesus biết rằng khi người ta sống với tâm thức Bồ Đề hay sống với tâm thức của Chân Ngã, thì người ta không còn bị thiếu thốn hay gò bó trong một sự giới hạn nào cả. Ngài nhìn về Thượng Đế là Nguồn Gốc và đấng Sáng Tạo ra muôn loài và tạ ơn Ngài đã luôn luôn đặt trong tầm tay của loài người cái quyền năng và chất liệu cần thiết để thỏa mãn tất cả những nhu cầu của họ. Ngài bèn bẻ bánh mì và bảo các môn đồ hãy phân phát cho tất cả mọi người. Khi tất cả mọi người đều đã ăn no, thì hãy còn thừa tới mười hai rổ bánh. Đức Jesus dạy rằng trong Tiên Thiên Khí có chứa đựng chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể tìm ra lương thực của mình từ trong đó. Chúng ta chỉ cần rút cái chất liệu ấy ra để tạo nên mọi thứ cần dùng.
Cũng bằng cách đó mà Elisée làm cho người quả phụ thành Jérusalem có dầu để ăn thừa thãi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có thừa dầu ăn trong nhà, vì như thế số dầu chỉ có giới hạn. Ngài tiếp xúc với cõi Thiên Nhiên, và số dầu tạo ra không có giới hạn nào khác hơn là dung lượng của những bình chứa. Nếu người ta có đủ số lu, bình, vại để chứa, thì có lẽ đến bây giờ, dầu ấy vẫn còn chảy chưa hết!
Đức Tuệ Minh nói tiếp:
-Đây không phải là một cuộc thôi miên. Không có người nào trong các bạn đã có cảm giác rằng mình bị thôi miên. Nhưng các bạn đã tự thôi miên lấy mình từ lúc đầu bằng cách tin tưởng rằng người ta không thể nào thực hiện công việc toàn vẹn của Thượng Đế, hay tạo nên những đồ vật mà mình mong ước. Sự nhu cầu phải chăng cũng là ý muốn sáng tạo? Thay vì vươn mình lên để sáng tạo theo như ý muốn của Thượng Đế, người ta tự thu mình trong một cái vòng chật hẹp và nói: "Tôi không thể". Do sự tự kỷ ám thị đó, rốt cuộc người ta tin rằng mình là một thực thể cách biệt với Thượng Đế. Họ đã đi lệch ra ngoài con đường toàn vẹn, họ đã bỏ lỡ mất cái mục đích sáng tạo. Họ không để cho Thượng Đế để tự biểu lộ xuyên qua họ như Ngài muốn.
Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, há chẳng nói rằng:
"Những việc gì mà ta đã làm, các ngươi cũng sẽ làm được, và các ngươi còn sẽ làm được những việc lớn lao hơn nữa".
Con người trong cương vị chân thật của họ, là con của Thượng Đế, sứ mạng của Đức Jesus trên thế gian phải chăng là để chứng tỏ rằng trong cương vị đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách toàn hảo và tốt đẹp như Thượng Đế? Khi Đức Jesus ra lịnh cho người mù hãy đứng dậy rửa mắt y trong nước ao Siloé, phải chăng là để cho đám quần chúng thấy rằng Ngài được Chúa Trời gửi xuống thế gian để sáng tạo cũng y như Chúa Trời vậy? Đức Jesus muốn rằng mỗi người trong chúng ta cũng làm y như vậy bằng cách thực hiện Chân Ngã nơi mình và nơi kẻ khác.
Tôi có thể tiến thêm một bước xa hơn nữa. Cái ổ bánh mà tôi nhận được và cầm trên tay đã tiêu hủy dường như bị lửa đốt cháy. Tại sao? Tôi đã lạm dụng cái định luật huyền bí nó đã giúp tôi thể hiện ý muốn. Tôi đã đốt cháy món đồ vật mà tôi vừa sáng tạo nên. Làm như vậy, tôi đã lạm dụng cái định luật toàn vẹn đó, định luật này cũng đúng đắn như những luật của âm nhạc chẳng hạn. Nếu tôi cứ tiếp tục lạm dụng hoài, thì không những luật ấy sẽ đốt cháy những vật tôi đã tạo nên, mà còn đốt cháy thiêu luôn cả người sáng tạo, là chính tôi nữa.
Mới đây, các bạn đã thấy một cục nước đá tượng hình trong ly nước mà không có nguyên nhân rõ rệt. Tuy vậy, vẫn có một nguyên nhân đã tạo nên ổ bánh mì. Tôi có thể sử dụng cái định luật huyền bí đó khi mà tôi dùng ổ bánh mì hay khối nước đá để làm việc lợi ích cho nhân loại, hay là khi mà tôi hành động với tình thương,phù hợp với luật ấy, hoặc là khi mà tôi biểu lộ sự hành động của tôi theo ý muốn của Thượng Đế. Làm ra bánh mì, nước đá hay một vật mà mình mong ước, là điều tốt. Mỗi người nên đi mau đến nơi chỗ mà người ta có thể làm những vật ấy. Các bạn có thấy là các bạn nên sử dụng cái định luật cao cả nhất, tức là luật tuyệt đối của Thượng Đế chăng? Các bạn sẽ tạo nên những gì mà các bạn cần dùng và thực hiện được những gì mà các bạn đã quan niệm sẵn trong trí như là cái lý tưởng cao đẹp nhất của mình. Các bạn sẽ được đẹp lòng Thượng Đế hơn bằng cách tự biểu lộ toàn vẹn hơn với điều kiện là phải biết, cũng như Đức Jesus, rằng mình là những người con toàn hảo của Thượng Đế.
II
Sau tám ngày dừng chân một chỗ, một buổi sáng chúng tôi dỡ trại và tiếp tục lộ trình. Vào lúc xế trưa ngày thứ ba, chúng tôi đến bờ một con sông lớn chừng sáu hay bảy trăm thước bề rộng, nước chảy tràn bờ với một tốc lực rất mau chóng. Chúng tôi được cho biết rằng là lúc bình thường, vì lòng sông cạn đáy nên người ta có thể đi bộ qua sông dễ dàng. Chúng tôi bèn quyết định cắm trại cho đến sáng ngày hôm sau để chờ xem nước sẽ còn dâng lên hay giựt xuống.
Chúng tôi được biết rằng người ta có thể đi qua một chiếc cầu ở phía thượng lưu giòng nước để vượt qua sông, nhưng phải đi vòng quanh mất bốn ngày trên những con đường mòn rất cheo leo hiểm trở. Chúng tôi nghĩ rằng nếu phải chờ nước giựt xuống, thì tốt hơn nên đợi vài ngày ở tại chỗ. Như đã được đức Tuệ Minh chứng tỏ cho thấy, chúng tôi không cần phải lo ngại về vấn đề tiếp tế. Thật vậy, từ ngày chúng tôi bị cạn lương thực cho đến ngày trở về căn cứ điểm ở Asmah, tức là trong sáu mươi bốn ngày, tất cả đoàn gồm trên ba trăm người hành hươngđều được tiếp tế đầy đủ với những đồ vật thực sự xuất xứ từ "cõi vô hình".
Cho đến khi đó, không một ai trong nhóm chúng tôi đã hiểu ý nghĩa thật sự của những sự việc đã xảy ra. Chúng tôi không thể hiểu rằng tất cả đã được thực hiện do bởi một định luật huyền bí mà mỗi người đều có thể sử dụng.
Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có năm người lạ ở trong trại chúng tôi như là thuộc về một nhóm người cắm trại ở bờ bên kia sông và vừa về đến nơi từ một làng mà chúng tôi định sẽ đến viếng. Chúng tôi không để ý gì đến chi tiết này, vì lẽ tự nhiên chúng tôi nghĩ rằng chắc là họ đã tìm thấy một chiếc đò để vượt qua sông. Khi đó một người trong bọn chúng tôi mới nói:
-Nếu những người này có đò qua sông, thì tại sao chúng ta không mượn dùng để tạm qua sông như họ vậy?
Chúng tôi tưởng là đã thấy có lối thoát cho vấn đề khó khăn này, nhưng người ta nói cho chúng tôi biết rằng không có đò vì chỗ này ít có hành khách qua sông nên không ai nghĩ đến việc đưa đò.
Sau bữa ăn điểm tâm, tất cả chúng tôi đều tựu họp trên bờ sông. Chúng tôi nhận thấy rằng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu và bốn người trong nhóm chúng tôi đang nói chuyện với năm người khách lạ. Dật Sĩ bước đến gần chúng tôi và nói rằng tất cả bọn họ đều muốn qua sông cùng với năm người khách lạ để ở lại chơi giây lát trong trại ở bên kia sông. Họ còn nhiều thời giờ vì họ đã quyết định ở lại đến ngày hôm sau để đợi cho mực nước sông hạ xuống thấp. Lẽ tự nhiên, sự tò mò của chúng tôi bị kích thích. Chúng tôi cho rằng thật là một việc táo bạo mà muốn lội qua sông giữa giòng nước cuốn mau như vậy, chỉ vì mục đích thăm viếng xã giao một trại láng giềng! Chúng tôi không nghĩ rằng chuyến đi qua sông lại có thể thực hiện bằng một cách khác hẳn.
Khi Dật Sĩ đã trở lại nhóm bạn của y, mười hai người trong nhóm có mặc áo quần đầy đủ, liền đi ngay xuống sông, và bước chân lên trên mặt nước (tôi không nói xuống nước). Tôi không bao giờ quên những cảm giác của tôi khi tôi thấy mười hai người ấy nối tiếp nhau đi hàng một từ đất liền xuống sông và đi trên mặt nước một cách tự nhiên! Tôi nín hơi thở, vì tôi lo ngại rằng họ sẽ chìm đắm và bị giòng nước cuốn trôi đi mất. Về sau tôi được biết rằng tất cả các bạn tôi cũng đều cảm nghĩ giống như tôi lúc ấy. Nhưng khi đó, mỗi người trong nhóm chúng tôi đều lặng người nín thở cho đến khi tất cả mười hai người kia đã đi qua khỏi giữa sông, vì chúng tôi ngạc nhiên xiết bao mà thấy họ đi bình yên trên mặt nước, không hề sợ sệt, và nước không ngập quá gót giầy của họ. Khi họ đã qua sông và lên đến bờ bên kia, tôi có cảm giác như trút được một gánh nặng ngàn cân. Tôi tin rằng các bạn tôi cũng có cảm giác như vậy, cứ xét về nụ cười thoải mái của họ khi tất cả mười hai người kia đều đã qua sông. Đó hẳn là một kinh nghiệm chưa từng có đối với chúng tôi.
Bảy người trong nhóm của chúng tôi đã vượt qua sông trở lại để dùng bữa ăn trưa. Tuy rằng bận về của họ không gây nên một sự xúc động mãnh liệt như khi họ ra đi lần đầu tiên, mỗi người chúng tôi đều thở dài nhẹ nhõm khi tất cả đều đã bước chân lên bờ. Không có người nào trong nhóm chúng tôi đã rời khỏi bờ sông sang ngày hôm đó. Chúng tôi không bình phẩm gì nhiều về sự việc nói trên vì chúng tôi đã quá đắm chìm trong những cơn suy tư trầm lặng.
Đến xế trưa, vì thấy mực nước sông không giựt xuống nên chúng tôi đành phải đi theo đường rừng, đánh một vòng lớn trước khi qua cầu để sang sông. Chúng tôi thức dậy sớm vào sáng ngày hôm sau và chuẩn bị lên đường. Trước khi chúng tôi ra đi, năm mươi hai người trong trại chúng tôi lẳng lặng tiến về phía bờ sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông như mười hai người ngày hôm trước. Người ta nói cho chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể cùng đi qua sông với họ, nhưng không một người nào trong nhóm chúng tôi có đủ đức tin để làm thử. Dật Sĩ và Nê Bưu đòi đi vòng lớn theo đường rừng cùng với chúng tôi. Chúng tôi cố gắng thuyết phục họ đừng làm vậy, viện lẽ rằng chúng tôi có thể tìm đường đi, để tránh cho hai vị khỏi phải tốn công nhọc sức. Hai vị không nghe, nhất định đòi đi cùng với chúng tôi, và nói rằng điều ấy không có gì là khó nhọc đối với họ cả.
Trong bốn ngày đi bộ vòng quanh đường núi cheo leo để theo kịp những người đã qua sông bằng cách đi trên mặt nước, chúng tôi không có đề tài nói chuyện hay suy gẫm nào khác hơn là những diễn biến ly kỳ mà chúng tôi đã chứng kiến trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi đã trải qua cùng với những nhân vật lạ lùng này. Qua ngày thứ nhì, chúng tôi đang vất vả khó nhọc để trèo lên một con đường dốc đứng, dưới ánh mặt trời nóng gắt, thì vị trưởng nhóm của chúng tôi, vẫn im lặng từ suốt hai ngày qua không nói một câu nào, thình lình nói lớn:
-Này các bạn, tại sao con người lại bị bắt buộc phải bò lết trên mặt đất?
Chúng tôi đồng thanh đáp lại rằng ông ta đã nói lên đúng cái ý nghĩ của chúng tôi lúc ấy. Vị trưởng nhóm nói tiếp:
-Nếu có những người có thể làm được những gì mà chúng ta vừa thấy, thì tại sao tất cả lại không thể làm được như vậy? Tại sao con người lại bằng lòng chịu bò lết trên đất, và không những bằng lòng thôi, mà bị bắt buộc phải bò và lết? Nếu con người có cái quyền năng chế ngự mọi loài, thì chắc hẳn là y phải có thể bay cao hơn loài chim. Nếu như vậy, tại sao y không chứng tỏ quyền năng của mình từ lâu? Đó chắc hẳn là do tư tưởng của con người. Tất cả đều do cái quan niệm duy vật của con người về bản chất của mình. Trong tư tưởng của y, con người chỉ có nghĩ rằng y đang bò và lết trên mặt đất thôi. Bởi đó nên y chỉ có thể bò và lết!
Dật Sĩ liền chụp ngay lấy cơ hội và nói:
-Ông bạn hoàn toàn có lý, tất cả đều do tâm trạng của con người. Tùy theo sự cảm nghĩ của con người, mà y bị giới hạn hay toàn năng, tự do hay nô lệ. Các bạn tưởng rằng những người mà ngày hôm qua các bạn đã thấy đi trên mặt nước để vượt qua sông và để tránh khỏi con đường đi vòng quanh vất vả này, là những người đặc biệt và có được ân huệ thiêng liêng chăng? Không? họ không khác gì các bạn cả. Họ không có được một mảy may quyền năng nào hơn các bạn cả. Họ không có được một mảy may quyền năng nào hơn các bạn. Họ chỉ có phát triển quyền năng thiêng liêng của họ bằng cách sử dụng đúng đắn cái sức mạnh của tư tưởng. Những gì các bạn đã thấy chúng tôi làm, các bạn cũng có thể làm được một cách tự do và hoàn hảo như vậy, bởi vì tất cả những hành động của chúng tôi đều hòa hợp với một định luật thiên nhiên mà mỗi người đều có thể sử dụng tùy theo ý muốn.
Tới đây câu chuyện chấm dứt. Chúng tôi gặp lại năm mươi hai người đã vượt qua sông, và cùng nhau đi đến nơi thôn ấp, mục tiêu của chuyến hành hương.
III
Ngôi Đền Chữa Bịnh nằm ở trong thôn ấp nói trên. Tục truyền rằng từ ngày dựng lên ngôi đền này, tại đó người ta chỉ có thốt ra những lời nói biểu lộ lòng hiếu sinh, tình bác ái, và sự bằng an. Những làn âm ba rung động tại đây có một mãnh lực phi thường làm cho phần nhiều khách hành hương được khỏi bịnh ngay trong khoảnh khắc. Người ta cũng đồn rằng những lời nói biểu lộ đức hiếu sinh, bác ái và bằng an tại đây được lập đi lập lại nhiều lần và toát ra từ ngôi đền này từ lâu đến nỗi những âm ba rung động có đủ mãnh lực để phá tan ảnh hưởng của mọi lời nói xung khắc và bất hảo mà người ta thốt ra tại đây. Điều này cũng tiêu biểu cho sự tác động trong con người. Nếu người ta lập được thói quen chỉ thốt ra những lời nói có tính cách hiếu sinh, bác ái, điều hòa và chí thiện, thì không bao lâu người ta sẽ không còn có thể thốt ra một lời nói chướng tai nghịch nhĩ nào nữa. Chúng tôi đã thử dùng những danh từ xấu xa và mỗi lần như vậy đều nhận thấy rằng chúng tôi không thể nào thốt ra nên lời.
Ngôi đền này là mục tiêu hành hương của những người muốn được chữa khỏi các chứng bịnh tật. Các vị Chân Sư ở vùng kế cận thường có những cuộc tựu họp định kỳ tại làng này để tiếp xúc với họ và với những người muốn thừa cơ hội đó để học Đạo. Ngôi đền được hoàn toàn cống hiến cho việc chữa bịnh và luôn luôn mở cửa cho công chúng. Vì công chúng không phải lúc nào cũng được gặp các Chân Sư nên các Ngài khuyên họ hãy lại ngôi đền này mỗi khi có dịp thuận tiện vì mục đích chữa bịnh. Bởi đó, các Chân Sư không có chữa bịnh cho những người hành hương này từ lúc đầu. Các Ngài đã cùng đi một lượt với họ để chỉ cho họ thấy rằng các Ngài không khác biệt chi với họ cả, và mỗi người đều có tự nơi mình những quyền năng thiên phú mà Thượng Đế đã ban cho. Khi các Ngài nêu gương vượt qua sông bằng cách đi trên mặt nước, tôi nghĩ rằng các Ngài muốn chứng minh cho những người hành hương và chúng tôi thấy khả năng thắng đoạt mọi chướng ngại khó khăn của các Ngài và khuyến khích chúng tôi hãy bắt chước làm theo các Ngài.
Ở những nơi cheo leo cách trở mà từ đó người ta không thể nào đi tới ngôi đền này, người nào đến cầu xin sự cứu giúp của các Chân Sư đều được những kết quả tốt lành. Luôn luôn cũng có những kẻ tò mò và những kẻ vô tín ngưỡng, nhưng dường như họ không nhận được một sự giúp đỡ nào rõ rệt. Chúng tôi tham dự nhiều cuộc hội họp từ hai trăm đến hai nghìn người, trong đó tất cả những người có bịnh tất nan y đều được khỏi bịnh chỉ bằng cách âm thầm bày tỏ ý muốn được chữa khỏi. Chúng tôi có dịp quan sát một số rất lớn những người được chữa khỏi bịnh như vậy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong chín mươi phần trăm các trường hợp, sự khỏi bịnh được lâu bền, và đối với những người được chữa khỏi bịnh trong ngôi đền thì tỷ lệ đó lên đến một trăm phần trăm. Ngôi đền này luôn luôn mở rộng cửa cho những ai muốn tìm đến. Người ta có thể đến đó bao nhiêu lần và ở lại đó bao lâu tùy ý. Một lý tưởng được hình thành bằng cách đó trong tư tưởng của những khách đến viếng và in sâu trong trí họ.
Đức Tuệ Minh nói:
-Chính ở đây là nơi xuất phát cái mầm móng tư tưởng đưa đến việc tôn sùng thần tượng của thời quá khứ. Con người tìm cách tạc trong gỗ, đá, vàng, bạc hay đồng, hình ảnh cái lý tưởng của họ. Khi cái hình tượng vừa thành hình xong, thì cái lý tưởng đã vượt lên cao hơn cái hình tượng ấy rồi. Bởi vậy, người ta phải nhìn thấy cái diệu ảnh, yêu và lý tưởng hóa những gì đến với ta từ chỗ kín đáo trong linh hồn chứ không phải đưa ra một vật thể làm thần tượng để tiêu biểu cho cái lý tưởng mà chúng ta muốn nêu cao. Một trạng thái gần đây hơn của sự mê tín là suy tôn như một thần tượng người nào phát biểu cái lý tưởng của mình. Trái lại, người ta chỉ nên sùng kính cái lý tưởng được nêu lên, chứ không phải cái cá nhân đã biểu lộ cái lý tưởng đó. Đức Jesus quyết định bỏ ra đi bởi vì Ngài thấy rằng dân chúng bắt đầu suy tôn cá nhân Ngài, thay vì yêu cái lý tưởng mà Ngài là tiêu biểu. Người ta muốn tôn Ngài lên làm vua. Dân chúng chỉ nhìn thấy có một điều, họ chỉ thấy Đức Jesus là người cung cấp đầy đủ mọi thứ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất của họ.
Không ai là người nhìn nhận rằng họ vốn có tự nơi mình cái khả năng thỏa mãn lấy mọi thứ nhu cầu của chính mình. Không ai nhận thấy rằng họ phải sử dụng cái quyền năng đó như Đức Jesus vậy. Vì lẽ đó, Ngài nói:
-Tốt hơn là ta phải ra đi, vì nếu ta không bỏ đi, thì Đấng hằng An Ủi sẽ không bao giờ đến với các ngươi.
Nói cách khác, khi mà người ta ỷ lại vào cá nhân Đức Jesus, người ta sẽ không nhận thức được cái quyền năng mà họ vốn có tự nơi mình. Người ta phải tuyệt đối tự tin ở nơi mình. Nếu người ta trông cậy nơi kẻ khác, họ suy tôn kẻ khác ấy làm thần tượng thay vì tự mình biểu lộ cái lý tưởng của mình.
Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt những trường hợp khỏi bịnh thật lạ lùng. Vài người bịnh chỉ cần đi ngang qua đền cũng được chữa khỏi. Những người khác phải ở lại đó trong một thời gian rất lâu. Không bao giờ có ai đứng ra làm bất cứ một cuộc hành lễ nào. Dường như không cần phải hành lễ bởi vì những âm ba rung động toát ra từ trong đền có hiệu lực đến nỗi bất cứ người nào bước vào trong vòng ảnh hưởng của nó cũng đều cảm nhận được những ảnh hưởng tốt lành. Chúng tôi thấy người ta chở đến một người bị bịnh cứng khớp xương. Những khớp xương đã cứng đơ của y được hoàn toàn chữa khỏi trong vòng một tiếng đồng hồ và y đã có thể đi đứng lại được. Sau đó y đã làm công tác trong bốn tháng để giúp đỡ trong cuộc hành trình của chúng tôi. Một người khác bị cụt mất hết năm ngón tay và được thấy cả năm ngón đều mọc lại. Một đứa trẻ nhỏ bị tàn phế và tứ chi liệt bại được chữa khỏi ngay tức khắc và chạy ra khỏi đền. Những người bị các chứng phong cùi, đui mù, câm điếc, và nhiều chứng bịnh nan y khác cũng được chữa khỏi ngay lập tức. Sự thật, tất cả những người đến hành hương tại đây đều được chữa khỏi bịnh. Chúng tôi có dịp quan sát một số lớn những người được khỏi bịnh hai hay ba năm về sau bịnh tật đã khỏi hẳn không còn tái phát. Người ta nói rằng những trường hợp bịnh tái phát trở lại là bởi vì người bịnh thiếu đức tin và không có một nhãn quang tâm linh thật sự.
IV
Khi chúng tôi về tới căn cứ điểm ở làng Asmah, thì mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua truông núi. Sau một ngày nghỉ ngơi, chúng tôi thay đổi toán phu khuân vác và lừa ngựa, và khởi đầu giai đoạn thứ nhì của cuộc hành trình, tức là vượt qua dãy núi Tuyết Sơn.
Trong hai mươi ngày kế đó, sự việc diễn biến một cách bình thường, không có gì đáng kể. Đức Tuệ Minh nói với chúng tôi về tâm thức Bồ Đề. Ngài nói:
-Chính do bởi sự tác động quyền năng của tư tưởng mà chúng ta có thể biểu lộ tâm thức Bồ Đề hay tâm thức của Đấng Christ. Bằng quyền năng của tư tưởng, chúng ta có thể phát triển thể xác của chúng ta đến mức độ làm cho nó trở thành bất tử, ở mức độ mà chúng ta không còn chịu sự biến đổi gọi là sự chết. Do sự tác động của tư tưởng, do sự tác động của tâm thức Bồ Đề, chúng ta có thể hoán cải những người chung quanh và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt của mình. Tất cả những điều đó đều do cái quyền năng mà Thượng Đế ban cho con người để quan niệm một lý tưởng và thực hiện mục đích. Trước hết, phải biết cảm nhận và tin tưởng bằng đức tin rằng Đấng Christ, tức Bồ Đề tâm, vốn ngự trị bên trong chúng ta. Kế đó, phải hiểu ý nghĩa thật sự của giáo lý Jesus, hợp nhất cái linh thể của mình với Thượng Đế, cái linh thể đó vốn được tạo nên theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài. Phải chan hòa, hỗn hợp nó với cái linh thể toàn vẹn của Thượng Đế, vì chính trong trạng thái chan hòa, hỗn hợp đó mà Thượng Đế nhìn thấy chúng ta...
Nói đến đây, đức Tuệ Minh ngừng lại và cho biết rằng ngài sẽ từ giã chúng tôi trong vài ngày để đến gặp vài người bạn đang hội họp trong một làng cách đó độ bốn trăm cây số. Ngài hứa sẽ gặp lại chúng tôi ở cách đây độ một trăm cây số, trong một làng nhỏ ở biên giới mà chúng tôi sẽ đi đến trong bốn ngày. Kế đó ngài biến mất và vài ngày sau ngài đã đến chỗ hẹn vào đúng lúc, cùng với bốn người bạn.
*
Khi chúng tôi đến làng biên giới nói trên, trời mưa tầm tã không ngớt và tất cả chúng tôi đều bị ướt loi ngoi. Người ta dành cho chúng tôi một quán trọ đầy đủ tiện nghi, gồm có một gian phòng lớn có đủ bàn ghế, có sưởi ấm và trang hoàng lịch sự, dùng làm phòng khách và phòng ăn. Một người trong chúng tôi hỏi nhiệt lực làm sưởi ấm gian phòng này do đâu mà có? Quan sát kỹ, chúng tôi không thấy có lò sưởi hay củi lửa gì cả. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, nhưng không bình phẩm gì vì chúng tôi đã bắt đầu quen với những sự việc lạ lùng và chúng tôi chắc rằng sau này mọi sự sẽ được giải thích rõ.
Chúng tôi vừa ngồi vào bàn ăn để dùng cơm tối thì đức Tuệ Minh và bốn người bạn của ngài bước vào phòng mà chúng tôi không biết các ngài vào bằng cách nào. Tất cả năm vị đều xuất hiện ở một góc phòng, mà gần đó không có cửa nẻo chi cả. Việc ấy xảy ra một cách giản dị, âm thầm và không có một tiếng động. Đức Tuệ Minh giới thiệu với chúng tôi bốn người khách lạ, và các Ngài ngồi vào bàn ăn với chúng tôi một cách tự nhiên như ở nhà. Chúng tôi chưa kịp để ý nhìn thấy gì, thì bàn ăn đã có đầy những thức ăn ngon lành, nhưng không có thịt, vì các vị toàn dùng chay.
Sau bữa ăn, một người trong chúng tôi hỏi gian phòng được sưởi ấm bằng cách nào. Đức Tuệ Minh nói:
-Hơi ấm mà các bạn cảm thấy trong gian phòng này là do một sức mạnh cụ thể mà mỗi người đều có thể sử dụng. Người ta có thể tiếp xúc với mãnh lực ấy, và sử dụng nó dưới hình thức ánh sáng, nhiệt điện, hay tinh lực để vận chuyển máy móc, cơ khí. Đó là điều mà chúng ta gọi là vũ trụ lực, một mãnh lực thiên nhiên mà Thượng Đế ban cho loài người. Sức mạnh ấy có thể vận chuyển mọi loại cơ khí, thực hiện những cuộc chuyên chở mà không tốn nhiên liệu, và cung cấp ánh sáng và nhiệt lực. Mãnh lực ấy có ở khắp nơi để cho con người sử dụng, không bao giờ cạn và không cần phải mua.
Một người trong chúng tôi hỏi phải chăng các món ăn vừa rồi là xuất xứ từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ và đến một cách trực tiếp dưới hình thức các món vật thực mà chúng tôi đã ăn, cũng như bánh mì và các món phẩm vật khác vẫn được cung cấp cho chúng tôi từ trước.
Đức Tuệ Minh mời chúng tôi đi theo ngài đến nhà của một trong bốn người bạn, ở cách đó độ ba trăm năm chục cây số. Chúng tôi cũng gặp thân mẫu ngài tại đó. Ngài nói:
-Thân mẫu tôi là một trong những người đã tinh luyện thể xác đến mức có thể phân thân đi khắp mọi nơi và để học Đạo trên những cõi cao. Bởi đó, bà sống thường xuyên trong cõi vô hình. Điều này là một việc tình nguyện, vì nhờ học Đạo thượng đẳng, bà có thể giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Nói rõ hơn cho các bạn dễ hiểu, bà đã tiến hóa đến mức đạt tới cõi Trời là nơi hiện diện của Đức Jesus, tức là nơi mà đôi khi người ta gọi là cảnh giới thứ bảy của cõi Thiên Đường. Đối với các bạn, cảnh giới đó có lẽ là điều bí mật lớn nhất trong mọi điều bí mật, nhưng thật ra không có gì bí mật cả. Đó là một trạng thái tâm thức mà tất cả mọi điều huyền bí đều được tiết lộ. Người hành giả đạt tới đó rồi, thì sẽ trở nên vô hình vô ảnh đối với kẻ phế nhân phàm tục, nhưng họ có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người thụ cảm và có căn duyên. Họ trở lại trong thể xác của họ, vì thể xác ấy đã được tinh luyện đến mức toàn hảo để có thể được di chuyển khắp nơi tùy ý. Những vị đạo đồ ở cấp đẳng có thể trở lại thế gian mà không cần phải đầu thai chuyển kiếp. Những người nào đã bước qua cửa Tử bị bắt buộc phải đầu thai trở lại để khoác lấy một thể xác mới. Còn thể xác của chúng tôi là những thể xác tâm linh toàn hảo và có thể được gìn giữ rất lâu. Người nào đã từ bỏ thể xác để thăng lên các cõi giới tinh thần sẽ nhận thấy rằng họ phải tái sinh trong một thể xác mới để tiếp tục tiến hóa nữa...
Tối hôm đó, trước khi rời khỏi bàn ăn, chúng tôi quyết định chia cuộc hành trình ra làm năm toán, mỗi toán đặt dưới sự trông nom của một trong những người khách lạ đã thình lình xuất hiện trong phòng để dùng bữa với chúng tôi. Cách sắp đặt này sẽ giúp cho chúng tôi có thể thám hiểm nhiều vùng rộng lớn. Nó sẽ làm cho công việc của chúng tôi được dễ dàng và giúp chúng tôi có thể kiểm chứng những hiện tượng huyền linh như là đi ngao du trong cõi vô hình và giao thông với nhau bằng phép chuyển di, tư tưởng. Mỗi toán sẽ gồm ít nhất hai đoàn viên và do một trong năm vị Chân Sư lãnh đạo. Mỗi toán sẽ ở cách biệt rất xa với những toán khác, nhưng sự liên lạc sẽ được thực hiện bởi các vị Chân Sư, các ngài đã tỏ ra rất nhiều cảm tình ưu ái đối với chúng tôi và không bỏ qua một dịp nào để cho chúng tôi kiểm chứng lại công việc của các ngài.
V
Qua ngày hôm sau, tất cả mọi việc đều được chuẩn bị sẵn sàng từng chi tiết. Toán của tôi gồm có tôi và hai đoàn viên, có đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi dẫn đường. Sáng ngày kế đó, mỗi toán đều sẵn sàng ra đi theo những chiều hướng khác nhau. Chúng tôi đồng ý rằng mỗi toán sẽ quan sát cẩn thận những gì xảy đến và ghi chép làm tài liệu. Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau trở lại trong hai tháng ở quê hương của đức Tuệ Minh, một làng nhỏ cách đó ba trăm năm chục cây số. Sự liên lạc giữa các toán khác nhau sẽ do các vị Chân Sư đảm nhiệm. Thật vậy, các ngài đảm nhiệm việc đó mỗi buổi chiều, nói chuyện với nhau bằng tư tưởng và di chuyển từ toán nọ đến toán kia.
Khi chúng tôi muốn tiếp xúc với vị trưởng toán hay với một đoàn viên, chúng tôi chỉ cần giao bức thông điệp của mình cho các Chân Sư. Sự trả lời đến với chúng tôi trong một thời hạn rất ngắn không thể tưởng tượng. Khi chúng tôi đưa ra những bản thông điệp như thế, chúng tôi viết tay và có ghi ngày giờ cẩn thận. Chúng tôi cũng ghi chép trong bức thơ trả lời ngày giờ mà chúng tôi nhận được. Khi chúng tôi tựu họp với nhau trở lại, chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu đã ghi chép và nhận thấy mọi việc đều ăn khớp với nhau một cách hoàn toàn. Ngoài ra, các Chân Sư di chuyển từ trại này sang trại khác và nói chuyện với các đoàn viên của mỗi toán khác nhau. Chúng tôi ghi chép cẩn thận những địa điểm và ngày giờ khi các ngài xuất hiện và biến mất, cùng những đề tài đã đề cập tới. Về sau, khi chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu ghi nhận, thì mọi sự cũng đều hoàn toàn ăn khớp với nhau.
Những toán của chúng tôi ở cách nhau rất xa, một toán ở Ba Tư, một toán ở Trung Hoa lục địa, toán thứ ba ở Tây Tạng, toán thứ tư ở Mông Cổ và toán thứ năm ở Ấn Độ. Các Chân Sư đã vượt qua những đoạn đường dài đến hai nghìn cây số trong cõi vô hình để thông tin tức cho chúng tôi biết những gì xảy ra ở mỗi trại.
Mục tiêu di chuyển của toán chúng tôi là một làng nhỏ ở trên một vùng cao nguyên trong dãy Tuyết Sơn, cách chỗ khởi điểm của chúng tôi một trăm năm chục cây số. Chúng tôi không có đem theo lương thực cho cuộc hành trình. Tuy nhiên chúng tôi không bao giờ thiếu thốn điều gì, và chúng tôi luôn luôn có thể tìm nơi cư trú có đủ tiện nghi để ngủ đêm. Chúng tôi đến mục tiêu vào lúc xế trưa ngày thứ năm.
Một nhóm dân làng đến chào đón và đưa chúng tôi đến một nhà trọ sạch sẽ tươm tất. Chúng tôi nhận thấy rằng dân làng tỏ ra rất kính trọng đức Tuệ Minh và Dật Sĩ. Đức Tuệ Minh chưa bao giờ đến làng này, còn Dật Sĩ chỉ đến có một lần sau khi có lời kêu gọi cứu giúp trong một trường hợp khẩn cấp. Đó là trong dịp cứu cấp ba người dân làng bị bắt cóc đem đi bởi những "Người Tuyết", một loại sơn nhân rất hung dữ cư ngụ ở vài vùng hoang vu hẻo lánh nhất trên dãy Tuyết Sơn.
Cuộc thăm viếng hiện thời cũng để đáp ứng một lời kêu gọi tương tự và cũng nhằm mục đích cứu giúp những người bịnh không thể di tản ra khỏi làng. Dường như những "Người Tuyết" này là những kẻ ngoài vòng luật pháp đã từng ở những vùng sơn cước đầy tuyết lạnh trong nhiều thế hệ, và sau cùng đã thành lập nên những bộ lạc du mục có thể sống tự túc trong những vùng núi non hoang vắng, hoàn toàn khác biệt với thế giới văn minh của loài người. Tuy dân số của chúng không bao nhiêu, chúng rất hung dữ và hiếu chiến. Đôi khi chúng bắt cóc những người nào không may lọt vào tay chúng và hành hạ những người ấy. Vì có bốn người dân làng đã bị bắt đi trong những hoàn cảnh đó, những người khác không biết phải làm sao, mới gửi một người đi cầu cứu với Dật Sĩ. Dật Sĩ bèn ra đi với đức Tuệ Minh và đem cả chúng tôi theo.
Lẽ tự nhiên là chúng tôi rất mong mỏi được thấy những người sơn nhân đó, mà chúng tôi có nghe nói đến nhưng vẫn chưa tin. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ rằng người ta nên thành lập một đoàn nghĩa binh cấp cứu mà chúng tôi có thể gia nhập. Nhưng hy vọng đó đã tiêu tan khi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chúng tôi biết rằng hai vị sẽ đi một mình và cùng đi ngay tức khắc. Trong chốc lát, hai vị đã biến mất dạng và chỉ trở về vào lúc chiều ngày hôm sau, cùng với bốn người dân làng vừa được giải thoát. Những người này thuật lại nhiều câu chuyện quái đản về cuộc phiêu lưu của mình và về những người sơn nhân đã bắt cóc họ. Dường như những "Người Tuyết" lạ lùng này sống hoàn toàn khỏa thân. Chúng mọc lông khắp mình như những loài thú và chịu đựng nổi thời tiết lạnh kinh khủng trên miền sơn cước. Chúng di chuyển rất mau lẹ. Người ta còn nói rằng chúng có thể rượt bắt những loại thú rừng ở vùng của chúng ở. Chúng gọi các Chân Sư là những "Người của Mặt Trời", và khi các Ngài đến giải thoát cho những kẻ bị bắt, thì chúng không chống cự.
Chúng tôi được biết rằng các Chân Sư đã nhiều lần thử mở một cuộc tiếp xúc với những "Người Tuyết", nhưng vô hiệu, vì chúng rất sợ sệt các Ngài. Khi các Chân Sư đến gần những "Người Tuyết", thì chúng bỏ ăn, bỏ ngủ, và chạy trốn trong những chỗ núi rừng hoang vu vì quá sợ sệt. Chúng đã mất mọi sự liên lạc với đời sống văn minh và thậm chí cũng quên rằng trước kia chúng đã có những mối tương quan với những chủng tộc loài người và tổ tiên của chúng đã xuất xứ từ đó mà ra. Quả thật là chúng đã hoàn toàn biệt lập với xã hội loài người.
Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ không muốn nói nhiều với chúng tôi về những "Người Tuyết". Chúng tôi cũng không thể xin hai vị cho chúng tôi đi theo tận nơi để nhìn xem chúng. Đáp lại những câu hỏi của chúng tôi, hai vị chỉ nói như sau:
-Chúng cũng là con của Thượng Đế như chúng ta, nhưng từ lâu chúng đã nuôi lòng sợ hãi và thù ghét kẻ đồng loại, và những tật đố này càng ngày càng tăng trưởng. Như vậy, chúng đã tự ly khai với xã hội loài người đến mức quên mất đi sự liên hệ của mình trong đại gia đình nhân loại và tưởng rằng chúng là những loại thú rừng. Đi lần đến chỗ cực đoan, thậm chí chúng cũng mất cả bản năng của loại thú rừng, vì loại thú rừng do bản năng dìu dắt còn nhận biết được những người thương yêu chúng và đáp lại cái tình thương đó. Khi con người tự ly khai với Thượng Đế và với nhân loại đến mức đó, y có thể rớt xuống thấp hơn loài vật. Không có ích gì mà đưa các bạn đến gặp những "Người Tuyết", vả lại điều ấy còn làm hại cho chúng. Chúng tôi hy vọng rằng một đứa trong chúng nó có ngày sẽ trở nên thụ cảm đối với sự dạy dỗ của chúng tôi, và do người tuyết ấy làm trung gian, chúng tôi sẽ độ cho tất cả chúng nó...
Chúng tôi được cho biết rằng chúng tôi được tự do tìm cách nào tùy sáng kiến riêng của mình để nhìn thấy những "Người Tuyết" lạ lùng đó; các Chân Sư chắc chắn sẽ che chở chúng tôi khỏi mọi tai nạn và có thể ra tay giải cứu nếu chúng tôi bị bắt. Theo chương trình được thiết lập cho ngày hôm sau, chúng tôi phải đi viếng một ngôi đền rất cổ xưa, ở cách làng này độ sáu chục cây số. Hai người đoàn viên trong toán của tôi quyết định không tham dự cuộc viếng thăm này để đi thu thập tài liệu về những "Người Tuyết". Họ khẩn khoản yêu cầu hai người dân làng cùng đi theo họ, nhưng hai người này quyết liệt từ chối. Không một người nào chịu rời khỏi làng, khi mà có nguy cơ gặp phải "Người Tuyết" ở vùng chung quanh. Hai đoàn viên này bèn ra đi một mình. Họ được đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chỉ thị về lộ trình và những gì phải làm. Họ giắt súng ngắn vào lưng và chuẩn bị lên đường. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đã bắt họ phải hứa rằng chỉ bắn chết người trong trường hợp chẳng đặng đừng. Họ có thể bắn súng trơn, không lắp đạn, hay bắn chỉ thiên tùy ý muốn để thị oai với bọn sơn nhân, nhưng họ phải hứa trên danh dự rằng họ chỉ bắn chết trong trường hợp không thể nào làm khác hơn.
Tôi ngạc nhiên mà thấy có một khẩu súng ngắn trong hành lý của chúng tôi, vì chúng tôi không bao giờ cần phải sử dụng khí giới. Tôi đã bỏ những khẩu súng của tôi từ lâu, thậm chí cũng không nhớ rõ là bỏ ở đâu. Nhưng sau mới biết là một trong những người lao công giúp chúng tôi sửa soạn hành lý, đã xếp vào đó hai khẩu súng ngắn mà không ai hay biết.
CHƯƠNG BA
Một ngôi đền cổ một trăm hai mươi thế kỷ _ Vượt qua khu rừng cháy _ Những di tích của Thánh Jean Baptiste _ Những cuộc chữa bịnh nhiệm mầu _ Tuổi tác và hình dáng của các Chân Sư _ Ngôi đền trên chóp núi.
I
Trưa hôm đó, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và tôi cùng đi đến ngôi đền, và đến nơi vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Tại đây, chúng tôi được hai người coi đền tiếp rước và dọn chỗ cho chúng tôi nghỉ lại ban đêm. Đền này được xây cất bằng đá trên một ngọn núi cao, tục truyền rằng đã có từ mười hai ngàn năm. Đền vẫn còn trong trạng thái nguyên vẹn, toàn hảo. Có lẽ đó là một trong những ngôi đền đầu tiên được dựng lên bởi các vị Đại Sư của môn phái tu luyện trường sinh hồi thời cổ. Các vị xây đền này với mục đích tạo dựng nên một nơi tu tịnh hoàn toàn yên tĩnh, và có lẽ không có một cuộc đất nào khéo chọn hơn là chỗ này. Đó là một đỉnh núi cao nhất trong vùng, chiều cao ba ngàn năm trăm thước. Con đường núi đưa lên tới đây hầu như dốc đứng trong đoạn cuối cùng dài mười hai cây số. Có chỗ nó vượt qua những chiếc cầu treo bằng dây thừng. Một đầu những dây thừng này buộc chặt với những tảng đá lớn ở tận trên cao, và đầu kia buông thòng xuống trong khoảng không, cột những thân cây ghép lại làm cầu treo lủng lẳng ở một chiều cao hai trăm thước. Ở những chỗ khác, chúng tôi bắt buộc phải trèo lên những nấc thang buộc vào những sợi dây thừng từ trên cao thòng xuống. Đoạn đường dài một trăm thước cuối cùng là một đường hoàn toàn dốc đứng. Chúng tôi trèo lên con đường này toàn là bằng những cái thang dây thuộc loại kể trên. Khi đến nơi, tôi có cảm giác như ở trên tột đỉnh của thế giới.
Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy vào lúc mặt trời mọc. Sau một đêm ngủ ngon giấc, tôi hoàn toàn quên mất sự leo núi vất vả nhọc mệt của ngày hôm trước. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống dưới, người ta không nhìn thấy gì trong khoảng một ngàn thước, thành thử nơi này có vẻ như treo lủng lẳng trên không trung. Thật là khó mà xóa bỏ cái cảm giác đó. Ba ngọn núi khác nhô lên ở tận đằng xa. Người ta nói rằng trên đỉnh mỗi ngọn núi ấy đều có một ngôi đền giống như ngôi đền này, nhưng các ngọn núi ấyở cách xa đến nỗi tôi nhìn qua ống dòm cũng không trông thấy gì.
Đức Tuệ Minh cho tôi biết rằng nhóm đoàn viên của Tô Mặc, vị trưởng nhóm của chúng tôi, có lẽ đã đến ngôi đền ở trên đỉnh ngọn núi xa nhất cùng một lượt với chúng tôi tại đây. Ngài nói rằng nếu tôi muốn tiếp xúc với Tô Mặc, tôi có thể nói chuyện được, vì y cùng với các đoàn viên cũng đang đứng trên nóc đền như chúng tôi vậy. Tôi lấy bút ra viết một bức thông điệp gởi cho Tô Mặc:
“Tôi đang đứng ở trên nóc đền, ba ngàn năm trăm thước cao hơn mặt biển. Đền cho tôi cái cảm giác bị treo lủng lẳng trên không gian. Đồng hồ tôi chỉ đúng 4:55 sáng ngày thứ bảy 2 tháng 8”.
Đức Tuệ Minh đọc bức thông điệp và đắm chìm một lúc trong im lặng. Kế đó, tôi được sự trả lời của Tô Mặc: “Đồng hồ tôi chỉ 5:01 sáng ngày thứ bảy 2 tháng 8. Chỗ này hai ngàn tám trăm thước cao hơn mặt biển. Cảnh rất đẹp, vị trí này thật là độc đáo”.
Đức Tuệ Minh nói:
-Nếu các bạn muốn nói gì thêm, tôi sẽ đem đi bức thông điệp và đem về câu trả lời. Nếu các bạn không thấy gì trở ngại, tôi sẽ đi nói chuyện với những người đang ở ngôi đền đằng ấy.
Tôi bèn đưa thông điệp cho Ngài và Ngài liền biến mất. Một giờ ba khắc sau đó, Ngài trở về với một thông điệp của Tô Mặc nói rằng đức Tuệ Minh đã đến 5:16 giờ và nhóm của y đang sung sướng nghĩ đến những gì sắp thực hiện trong cuộc hành trình của chúng tôi. Sự sai biệt về giờ khắc trên đồng hồ của chúng tôi là do sự khác biệt của đường kinh tuyến trên Trái Đất.
Chúng tôi ở lại đền này trong ba ngày, trong khi đó đức Tuệ Minh đi viếng thăm tất cả những toán đoàn viên trong cuộc hành trình, có đem đi những thông điệp của tôi và đem về những thông điệp của tất cả những toán khác. Sáng ngày thứ tư, chúng tôi sửa soạn trở về làng, nơi mà chúng tôi đã để lại những người bạn đi tìm những “Người Tuyết”.Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ còn muốn đến một làng nhỏ ở trong thung lũng, cách chỗ lộ tẻ trên con đường mòn của chúng tôi độ năm chục cây số. Tôi tán đồng việc đó và đề nghị để cho tôi đi theo hai vị. Đêm đó chúng tôi nghỉ trong một túp lều tranh của bọn mục đồng, và ra đi từ lúc sáng sớm để kịp đến nơi vào sáng ngày hôm sau, vì chúng tôi đi bộ. Vì không thể đến ngôi đền bằng ngựa, nên chúng tôi đã để ngựa ở lại với các bạn tôi trong làng nhỏ nói trên.
Sáng ngày hôm đó, khoảng mười giờ, đột nhiên có một cơn giông bão dữ dội sấm chớp không ngừng, hăm dọa sẽ có cơn mưa lũ tầm tã đêm ngày. Nhưng trời vẫn tạnh ráo không rơi một giọt mưa. Chúng tôi đi qua một khu rừng cây rất rậm rạp. Mặt đất bao phủ bằng một loại cỏ rất khô và cứng. Trọn vùng chung quanh dường như khí hậu khô ráo một cách đặc biệt khác thường. Sét đánh làm cho cỏ khô bắt lửa cháy lan tràn ở nhiều nơi, và trước khi chúng tôi nhận biết được việc gì xảy ra, chúng tôi đã bị vây phủ chung quanh bởi một đám cháy rừng. Không bao lâu, cơn hỏa hoạn đã bộc phát dữ dội và đồng loạt tiến đến gần chúng tôi từ ba phía với một tốc lực nhanh chóng kinh khủng. Khói bốc lên từng đám dày đặc làm cho tôi hoang mang kinh sợ. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ có vẻ bình tĩnh ung dung, điều này cũng làm cho tôi trấn tĩnh được ít nhiều. Hai vị nói:
-Có hai cách đi thoát khỏi nơi đây. Cách thứ nhất là đi đến một giòng suối chảy dưới đáy một vực sâu ở gần đây. Muốn vậy, chúng ta phải vượt qua tám cây số đường rừng. Đến đó chúng ta có thể trú ẩn an toàn cho đến khi đám cháy tự nó tàn lụi dần vì không có chỗ bắt cháy thêm được nữa. Cách thứ nhì là vượt qua đám cháy, nhưng bạn phải tin tưởng nơi khả năng của chúng tôi là có thể độ cho bạn đi an toàn qua vùng khói lửa.
Tôi nhận thấy rằng các vị luôn luôn tỏ ra có đủ bản lĩnh tháo vát trong tất cả mọi trường hợp, và tôi liền hết sợ ngay lập tức. Tôi bèn đặt cả thể xác lẫn linh hồn tôi dưới sự che chở của hai vị, tôi đi giữa, hai vị quàng vai tôi đi kèm hai bên. Chúng tôi thẳng tiến về hướng mà đám cháy đang hoành hành với một cường độ mãnh liệt nhất. Ngay lúc đó dường như có một cái vòm mở rộng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi đi xuyên qua đám cháy mà không một mảy may bị khó chịu vì khói, hơi nóng hay những đống lửa cháy đỏ rực trên đường đi của chúng tôi. Chúng tôi đi như vậy trên mười cây số một cách yên ổn và an toàn dường như không có hỏa hoạn ở chung quanh. Sau cùng chúng tôi vượt qua một con rạch nhỏ, và sau đó chúng tôi đã ra khỏi vùng hỏa hoạn. Bận về, tôi đã có nhiều thời giờ để quan sát con đường mà chúng tôi đi qua trong lúc đó. Trong khi chúng tôi vượt qua khỏi đám cháy, đức Tuệ Minh nói với tôi:
-Bạn có thấy chăng, trong trường hợp tuyệt đối khẩn cấp, thật rất dễ mà kêu gọi đến những định luật thượng đẳng huyền bí của Trời để thay thế vào những định luật hạ đẳng của trần gian? Vừa rồi, chúng tôi đã nâng những rung động của thể xác chúng tôi lên một nhịp độ cao hơn nhịp độ của lửa, và bởi đó, lửa không còn làm hại chúng tôi được nữa. Nếu một người thường có thể nhìn thấy chúng tôi lúc đó, họ sẽ tưởng rằng chúng tôi biến mất, nhưng sự thật chúng tôi vẫn có mặt tại chỗ. Thật ra chúng tôi không thấy có sự khác biệt. Trong trạng thái đó, chúng tôi không còn ý thức về những giác quan của thể xác. Một người thường có lẽ cho rằng chúng tôi đã dùng thuật thăng thiên, và điều đó có lẽ cũng đúng như vậy. Chúng tôi đã vượt lên một trình độ tâm thức siêu đẳng mà người thường không với lên tới được. Mỗi người có thể bắt chước chúng tôi. Chúng tôi đã sử dụng một định luật mà Thượng Đế ban cho để cho chúng ta sử dụng. Chúng tôi có thể sử dụng định luật ấy để di chuyển thể xác của mình đến tận bất cứ nơi nào dù xa đến đâu trong không gian. Chính đó là cái định luật mà chúng tôi đã sử dụng để xuất hiện và biến mất trước mắt người đời, để thắng đoạt không gian, như người ta thường nói. Chúng tôi chỉ thắng đoạt mọi khó khăn chướng ngại bằng cách nâng cao tâm thức của mình cho nó vượt lên trên những khó khăn đó. Điều đó giúp chúng tôi thắng đoạt tất cả những giới hạn mà con người thường tự đặt ra cho mình trong cái tâm thức phàm trần của họ…
Tôi có cảm giác dường như chúng tôi chỉ đi lướt trên mặt đất. Khi chúng tôi ra khỏi vùng hỏa hoạn và được an toàn ở bên kia bờ rạch, trước hết tôi có cảm giác như vừa thức dậy sau một cơn ngủ mê và đó chỉ là một giấc mộng. Nhưng sự hiểu biết những gì đã xảy ra lần lần tăng trưởng ở nơi tôi, và ý nghĩa thật sự của những diễn biến đó bắt đầu hiện rõ từ từ và soi sáng tâm hồn tôi. Chúng tôi tìm một nơi có bóng mát trên bờ rạch, và ăn một bữa lót dạ, kế đó chúng tôi nghỉ ngơi trong một vài giờ và trở về làng.
II
Làng này tỏ ra là một nơi đầy thú vị, vì ở tại đây có những tài liệu lịch sử được giữ gìn rất kỹ lưỡng. Những tài liệu này khi được phiên dịch ra, đã đem đến một bằng chứng không thể chối cãi rằng Thánh Jean Baptiste đã từng sống ở tại đây năm năm. Sau đó, chúng tôi đã có dịp xem và dịch những tài liệu khác nữa chứng tỏ rằng Ngài đã ở lại trong vùng này độ mười hai năm. Mãi về sau, người ta đã đưa cho chúng tôi xem những tài liệu dường như chứng tỏ rằng Ngài đã cùng với người địa phương đi du lịch trong hai mươi năm xuyên qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Ba Tư và Ấn Độ. Chúng tôi có cảm tưởng rằng có thể theo dõi bước chân của Ngài trên lộ trình mà các tài liệu đã ghi rõ. Những văn kiện này làm chúng tôi thích thú đến nỗi chúng tôi đã trở lại một vài làng để sưu tầm sâu rộng thêm. Bằng cách soạn lại những dữ kiện thâu thập được, chúng tôi có thể vẽ ra một bản đồ ghi rõ lộ trình và những sự di chuyển của Thánh Jean Baptiste. Vài sự việc được diễn tả cho chúng tôi trong những câu chuyện tường thuật hấp dẫn và linh động đến nỗi chúng tôi tưởng tượng rằng mình đang đi cùng một con đường với Thánh Jean Baptiste và theo những đường mòn mà Ngài đã đi qua trong quá khứ xa xăm đó.
Chúng tôi ở lại làng này trong ba ngày, sau đó chúng tôi sẵn sàng trở về làng mà nơi đó chúng tôi đã bỏ lại vài người bạn. Sứ mạng của đức Tuệ Minh và Dật Sĩ ở làng này chỉ là để chữa bịnh cho những người đau yếu. Hai vị có thể trở về làng trong một thời gian ngắn hơn tôi rất nhiều, nhưng vì tôi không thể đi mau như hai vị, nên hai vị đã dùng cách di chuyển của tôi.
Các bạn tôi đợi chúng tôi tại làng. Họ đã hoàn toàn thất bại trong việc đi tìm những “Người Tuyết”. Sau năm ngày đi tìm, họ đã mệt mỏi và bỏ cuộc. trên đường về, họ chú ý đến cái bóng đen của một người in rõ trên nền trời xanh trên một đỉnh núi cách đó chừng hai ngàn thước. Trước khi họ có thể sử dụng ống dòm, thì người ấy đã biến mất. Họ chỉ nhìn thấy cái bóng ấy trong một thời gian rất ngắn, và chỉ có ấn tượng rằng người ấy có hình thù giống như khỉ có lông dài. Họ hối hả đi đến nơi mà cái bóng đen đã xuất hiện, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Họ dùng thì giờ còn lại trong ngày để thám hiểm vùng chung quanh nhưng không kết quả, và sau cùng đành phải bỏ qua việc ấy.
Sau khi nghe lời tường thuật của tôi, các bạn tôi muốn trở lại viếng ngôi đền, nhưng đức Tuệ Minh cho họ biết rằng chúng tôi sắp đến viếng một ngôi đền tương tự nên họ bèn bỏ qua ý định trên. Một số lớn dân các vùng lân cận đã tụ họp tại làng này để xin chữa bịnh, vì những người biết chuyện đã đồn đãi tin tức khắp nơi, và thuật chuyện bốn dân làng bị bọn “Người Tuyết” bắt đi đã được cứu thoát. Ngày hôm sau, chúng tôi tham dự các cuộc hội họp và đã chứng kiến vài trường hợp chữa bịnh thật lạ kỳ. Một thiếu phụ độ chừng hai mươi tuổi bị cóng lạnh và tê liệt hai bàn chân trong mùa đông năm trước, nay đã bình phục. Chúng tôi được nhìn thấy chỗ thịt bị hư nát đã liền lại trước mắt chúng tôi cho đến khi hai bàn chân trở lại bình thường và cô ấy có thể đi đứng một cách hoàn toàn tự nhiên. Hai người mù đã thấy lại được ánh sáng trong số đó hình như có một người bị mù từ thuở mới sinh ra. Nhiều chứng bịnh khác cũng được chữa khỏi. Tất cả những người bịnh đều có vẻ rất xúc động bởi những lời nói của các Chân Sư.
Sau buổi hội họp, chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng việc chữa khỏi bịnh này có lôi cuốn được nhiều người hay chăng? Ngài đáp:
-Nhiều người thật sự đã được giúp đỡ nên điều ấy đã khêu gợi sự chú ý của họ. Vài người bắt đầu làm việc công quả trong một thời gian. Nhưng phần nhiều thì không bao lâu sẽ quay về đường cũ với những thói quen cố hữu của họ. Họ đo lường sự cố gắng mà họ phải làm và thấy nó quá lớn. Hầu hết đều sống một cuộc đời dễ dãi và không lo lắng. Trong số những người tự cho mình là có đức tin, chỉ có độ một phần trăm là bắt tay vào việc một cách nghiêm chỉnh. Kỳ dư đều hoàn toàn sở cậy nơi kẻ khác để được giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Đó là cái nguyên nhân chính của những phiền lụy của họ. Họ cả quyết có thể giúp đỡ bất cứ ai muốn họ giúp đỡ nhưng tỏ ra bất lực không giúp đỡ được ai. Họ có thể nói về cái kho ân huệ thiêng liêng mà họ sử dụng để giúp đỡ những người bịnh của họ. Nhưng muốn thật sự tắm gội trong cái kho ân huệ đó, người ta phải chấp nhận nó và chứng minh sự hiện hữu của nó bắng cách thật sự lập công bồi đức và làm những công quả của một đời sống thánh thiện.
III
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng cùng với hai người dân làng dường như đã có làm việc công quả tâm linh. Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một làng ở cách làng của Thánh Jean Baptiste hai mươi cây số. Tôi rất mong ước các bạn tôi có thể được xem những tài liệu mà tôi đã thấy. Chúng tôi bèn quyết định ở lại làng thứ hai này và Dật Sĩ cùng đi với chúng tôi. Những bản văn kiện làm cho các bạn tôi vô cùng thích thú và giúp chúng tôi vẽ một bản đồ với những lộ trình di chuyển của Thánh Jean Baptiste.
Chiều hôm đó, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư đến và nghỉ lại đêm với chúng tôi. Ngài đem đến cho chúng tôi những thông điệp của toán thứ nhất và toán thứ ba. Ngài sinh ra ở làng này và đã sống ở đó từ nhỏ đến lớn. Chính những vị tổ tiên của ngài đã soạn thảo những văn kiện này và những tài liệu đã được gia tộc luôn luôn giữ gìn cẩn thận. Ngài thuộc giòng dõi nhiều đời của vị tác giả các văn kiện trên, và không có người nào trong gia tộc đã từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đã từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đều có khả năng di chuyển thể xác đi ngao du trong cõi vô hình và trở về tùy ý muốn. Chúng tôi hỏi rằng có điều chi trở ngại chăng, nếu chúng tôi mời vị tác giả các văn kiện vui lòng đến nói chuyện với chúng tôi. Vị Chân Sư đáp rằng không có gì trở ngại và định rằng cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra vào ngay tối hôm đó.
Chúng tôi đang ngồi đợi trong ít lâu, thì một người trạc độ ba mươi lăm tuổi thình lình xuất hiện trong gian phòng. Người ấy được giới thiệu cho chúng tôi, và chúng tôi bắt tay nhau. Diện mạo người ấy làm cho chúng tôi ngạc nhiên đến mức câm lặng, vì chúng tôi tưởng rằng sẽ gặp một người rất cao tuổi. Người ấy có vóc dạc trung bình với những nét vạm vỡ, nhưng gương mặt người đượm một vẻ hiền lành nhân hậu rõ rệt mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mỗi cử chỉ của người biểu lộ một tâm hồn cương nghị và dũng mãnh. Một vầng hào quang lạ lùng toát ra từ toàn thân người.
Trước khi an tọa, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, vị Chân Sư, và người khách lạ cùng nắm tay nhau một lúc trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó, tất cả chúng tôi đều ngồi xuống, và người lạ mặt vừa xuất hiện trong gian phòng bèn cất tiếng nói:
-Các bạn yêu cầu sự gặp gỡ tối nay để hiểu rõ hơn những bản văn kiện đã được đọc và diễn đạt cho các bạn. Chính tôi là người đã soạn thảo và giữ gìn những văn kiện đó. Những tài liệu nói về Thánh Jean Baptiste và đã làm cho các bạn ngạc nhiên, tường thuật lại những sự việc có thật về thời gian lưu trú của ngài ở tại đây với chúng tôi. Như người ta được biết, ngài là một người có kiến thức sâu rộng, và một trí óc tuyệt vời. Ngài nhận thức cái chân lý của giáo phái chúng tôi, nhưng dường như ngài không bao giờ có thể đồng hóa nó một cách trọn vẹn, vì nếu như vậy, thì ngài đã không bao giờ chết. Tôi vẫn thường hay ngồi trong gian phòng này, và nghe Thánh Jean cùng cha tôi đàm luận. Chính tại đây mà Thánh Jean đã được thụ huấn một phần lớn giáo lý của cha tôi truyền lại. Chính là tại đây mà cha tôi qua đời và đem cả thể xác của người đi luôn, điều này Thánh Jean đã chứng kiến tận mắt. Tất cả những người trong gia đình bên nội cũng như bên ngoại tôi đều đã đem thể xác đi luôn khi họ qua đời. Sự qua đời đó, tức là một giai đoạn chuyển tiếp, có nghĩa là thể xác của họ là một vật toàn hảo về mặt tâm linh. Người ta trở nên ý thức được cái ý nghĩa tâm linh của cuộc đời, ý nghĩa của Thượng Đế, đến mức độ nhìn cuộc đời bằng cái tầm nhãn quang của Thượng Đế. Khi đó, người ta thụ hưởng cái đặc ân tiếp nhận được những giáo lý cao siêu nhất và người ta có thể giúp đỡ tất cả mọi người.
Chúng tôi không bao giờ đi xuống từ cái trạng thái tâm thức đó, vì những người nào đã đạt tới đó không có ý muốn rớt xuống thấp hơn. Họ biết rằng đời người là một sự tiến hóa không ngừng. Không có thoái bộ hay thoái hóa, và không ai muốn đi thụt lùi trở lại. Tất cả đều đưa tay ra để giúp đỡ những người đi tìm ánh sáng. Họ gửi thường xuyên những thông điệp trong vũ trụ càn khôn. Trong tất cả các vùng trên thế giới ngày nay đều có những người thụ cảm đã diễn đạt những thông điệp đó. Chính là để làm cái việc phụng sự đó mà chúng tôi muốn đạt tới cái cõi giới, hay cái trạng thái tâm thức kể trên. Tất cả chúng ta đều có thể và đều muốn giúp đỡ, phụng sự, bằng cách này hay cách khác. Chúng tôi có thể nói chuyện với những tâm hồn thụ cảm, giáo dục họ, và nâng cao tâm thức họ hoặc trực tiếp, hoặc do một người trung gian. Chúng tôi làm tất cả những việc đó. Nhưng một người trung gian không thể làm công việc giùm cho kẻ khác hoặc huấn luyện họ mãi mãi. Người ta phải quyết định tự mình làm công việc đó và bắt tay vào việc. Chừng đó người ta được tự do và chỉ trông cậy vào sức mình.
Đức Jesus ý thức được rằng thể xác là một vật tâm linh và bất diệt. Khi tất cả mọi người đều đạt tới trạng thái tâm thức đó, chúng ta có thể cảm thông với tất cả và phổ biến trong quần chúng cái giáo lý mà chúng ta đã nhận được. Chúng tôi hưởng thụ cái đặc ân được biết rằng mỗi người đều có thể thực hiện những công trình giống như của chúng tôi và giải quyết tất cả mọi vấn đề khó khăn của cuộc đời. Tất cả những khó khăn và phiền toái sẽ trở nên giản dị. Dung mạo bề ngoài của tôi không khác gì các bạn hay những người mà các bạn vẫn gặp thường ngày. Và tôi không thấy một sự khác biệt nào giữa các bạn với tôi.
Chúng tôi nói rằng chúng tôi nhận thấy nơi người một cái gì tốt đẹp hơn chúng tôi vô cùng. Người đáp:
-Đó chỉ là sự so sánh giữa cái hữu diệt và cái bất tử. Các bạn hãy nhìn thấy tính chất thiêng liêng của mỗi người mà không cần so sánh người ấy với những người khác, rồi các bạn sẽ thấy họ cũng giống như tôi. Các bạn hãy tìm kiếm Phật tánh trên gương mặt của mỗi người rồi các bạn sẽ thấy ngay Phật tánh hiện trên mặt họ. Chúng tôi tránh mọi sự so sánh. Chúng tôi chỉ nhìn thấy Phật tánh ở tất cả mọi người và bất cứ lúc nào. Làm như thế, chúng tôi trở nên vô hình vô ảnh đối với các bạn. Nhờ có tầm nhãn quang toàn vẹn, bao quát nên chúng tôi nhìn thấy sự toàn thiện toàn mỹ, trái lại, với một nhãn quang thiếu sót, các bạn chỉ nhìn thấy có sự bất toàn. Các bạn có thể cho rằng giáo lý của chúng tôi xuất xứ từ nguồn cảm hứng thiêng liêng cho đến khi mà các bạn được thụ huấn với một vị Chân Sư và có thể nâng cao tâm thức của mình đến mức nhìn thấy và nói chuyện với chúng tôi như bây giờ. Không có sự cảm hứng nào trong việc nói chuyện hay thử nói chuyện với một người. Giáo lý của chúng tôi đưa người hành giả đến mức độ mà họ có thể nhận được nguồn cảm hứng thiêng liêng thật sự. Nhưng nguồn cảm hứng đó chỉ có thể đến trực tiếp từ Thượng Đế mà thôi. Bằng cách để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua các bạn, các bạn sẽ sống với chúng tôi…
IV
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sẵn sàng dùng điểm tâm vào lúc sáu giờ rưỡi. Khi chúng tôi đi từ quán trọ ngang qua đường lộ để đến tiệm ăn, chúng tôi gặp các Chân Sư cùng đi một đường. Các Ngài vừa đi vừa nói chuyện với nhau như mọi người thường. Các Ngài lên tiếng chào chúng tôi và chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà thấy các Ngài sống bình dị như vậy. Các Ngài đáp:
-Chúng tôi cũng chỉ là người như các bạn vậy. tại sao các bạn lại cứ một mực coi chúng tôi là khác thường? Chúng tôi không khác các bạn ở một điểm nào cả. Chúng tôi chỉ có phát triển nhiều hơn những quyền năng mà Thượng Đế ban cho tất cả chúng ta.
Chúng tôi bèn hỏi:
-Vậy tại sao chúng tôi không thể thực hiện những công trình giống như của các Ngài?
-Tất cả những người mà chúng tôi tiếp xúc, tại sao họ không theo chúng tôi và không bắt tay vào việc làm của chúng tôi? Chúng tôi không thể và cũng không muốn bắt buộc ai theo chúng tôi. Mỗi người có quyền tự do sinh hoạt và đi theo con đường mà họ chọn lựa tùy sở thích. Chúng tôi chỉ muốn vạch cho họ thấy con đường dễ dàng và giản dị mà chúng tôi đã đi thử và nhận thấy là rất mỹ mãn.
Chúng tôi ngồi vào bàn ăn và câu chuyện xoay về những diễn biến của đời sống hằng ngày. Tôi lấy làm say mê thích thú và vô cùng thán phục. Bốn vị siêu nhân ngồi trước mặt chúng tôi. Một vị đã hoàn thành từ hai nghìn năm nay phép tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển thể xác đi bất cứ nơi nào tùy ý muốn. Ngài đã sống một nghìn năm trên địa cầu và vẫn duy trì sự hoạt động trẻ trung của một người ba mươi lăm tuổi.
Ngồi kế bên Ngài là một người trong thân quyến, nhưng trẻ hơn đến năm thế hệ. Vị này tuy đã sống trên bảy trăm năm trên Trái Đất, nhưng bề ngoài xem có vẻ chưa đến bốn mươi tuổi. Ngài và vị tổ tiên năm đời của Ngài có thể nói chuyện với nhau một cách rất tự nhiên như hai người thường.
Kế đó là đức Tuệ Minh, ngài đã sống trên năm trăm năm và bề ngoài xem như một người sáu mươi tuổi. Sau cùng là Dật Sĩ, bốn mươi tuổi và có cái dung mạo tương đương với người ở tuổi ấy. Bốn vị nói chuyện với nhau như anh em, không một mảy may lộ vẻ tự tôn. Tuy câu chuyện thật giản dị khả ái, mỗi lời nói của các Ngài đều biểu lộ một sự hợp lý hoàn toàn và chỉ rằng các Ngài biết rõ tận tường đề tài thảo luận. Các Ngài không có lộ vẻ gì là huyền thoại hay bí mật. Các Ngài xử sự như những người thường trong công việc hằng ngày. Tuy vậy, đôi khi tôi cũng cảm thấy khó tin rằng đó không phải là chuyện xảy ra trong giấc mơ.
Sau bữa ăn sáng, một trong những người bạn tôi đứng dậy để trả tiền. Đức Tuệ Minh nói:
-Ở đây các bạn là khách của tôi.
Nói xong, Ngài đưa tay về phía bà chủ quán, mà chúng tôi còn tưởng rằng đó là một bàn tay không. Chừng xem lại, chúng tôi thấy bàn tay Ngài cầm đúng số tiền ghi trên tờ hóa đơn tính tiền bữa ăn. Các vị Chân Sư không đem tiền bạc theo trong mình và không cần ai cung cấp tiền bạc. Khi cần dùng, tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tầm tay, mà các Ngài lấy trực tiếp từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ.
Khi bước chân ra khỏi quán, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư bắt tay chúng tôi và nói rằng người phải trở về toán của Ngài, rồi biến mất dạng. Chúng tôi ghi nhận giờ phút mà Ngài biến mất và về sau chúng tôi có kiểm điểm lại thì thấy Ngài đã trở về toán của Ngài không đầy mười phút sau khi từ giã chúng tôi.
Suốt ngày hôm đó, chúng tôi cùng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, đi dạo chơi trong làng và các vùng phụ cận. Vị Sư Tổ thuật lại cho chúng tôi nghe với rất nhiều chi tiết, vài sự việc xảy ra trong khoảng mười hai năm mà Thánh Jean Baptiste đã lưu trú trong làng này. Những chuyện đó được kể lại một thời dĩ vãng xa xăm bên cạnh Thánh Jean. Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn coi Ngài như một nhân vật huyền thoại do thiên hạ bày đặt ra để lòe đời. Kể từ ngày đó, đối với tôi Ngài đã trở nên một nhân vật lịch sử và có thật. Tôi tưởng tượng lúc đương thời Ngài cũng đã từng đi dạo như chúng tôi trong làng này và ở các vùng chung quanh, và được các Chân Sư cao cả truyền dạy những pháp môn mà Ngài không hoàn toàn hấp thụ được những chân lý căn bản.
Trong ngày hôm đó, chúng tôi đi đó đi đây, vừa nghe kể lại những câu chuyện lịch sử thú vị, vừa nghe giảng dạy và phiên dịch những văn kiện lịch sử ở ngay tại chỗ mà những câu chuyện tường thuật ấy đã xảy ra hằng bao nhiêu ngàn năm trở về trước. Kế đó, chúng tôi trở về làng trước khi trời tối, ai nấy đều mệt mỏi.
Ba vị siêu nhân cũng đi bộ như chúng tôi, nhưng không lộ vẻ mệt mỏi chút nào. Trong khi chúng tôi mình mẩy lấm bùn lầy, cát bụi và mồ hôi, thì các Ngài đều có vẻ tươi tỉnh, thư thái, và y phục của các Ngài mặc đều trắng tinh như lúc mới bắt đầu ra đi. Chúng tôi đã nhận thấy, trong những chuyến xuất hành đã qua, rằng y phục của các Chân Sư không hề bị hoen ố, và chúng ta vẫn thường nói lên sự nhận xét đó, nhưng không được trả lời.
Chiều hôm đó, chúng tôi lại nêu câu hỏi về vấn đề ấy thì vị Sư Tổ đáp:
-Điều ấy làm các bạn ngạc nhiên, nhưng chúng tôi còn ngạc nhiên hơn nhiều mà thấy rằng một mảy may bụi bậm vật chất của Thượng Đế tạo ra lại có thể dính vào một nhân vật cũng do Thượng Đế sáng tạo mà nó không tùy thuộc quyền sở hữu, ở một nơi mà người ta không muốn cho nó dính vào. Với một quan niệm đúng đắn, điều ấy sẽ không thể xảy ra, vì không một mảy may bụi bặm vật chất nào của Thượng Đế có thể được đặt vào một chỗ mà người ta không muốn.
Một lát sau đó, chúng tôi nhận thấy rằng y phục và thân thể của chúng tôi cũng sạch sẽ trơn tru như các Chân Sư, sự biến đổi này diễn ra trong nháy mắt trên thân mình tôi và các bạn của tôi. Mọi dấu vết của sự mệt nhọc đều đã biến mất và chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng cũng như mình vừa mới ngủ thức dậy và đã tắm rửa xong. Đó là cách trả lời cho những sự thắc mắc của chúng tôi. Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ với một niềm yên tĩnh thâm trầm sâu xa nhất trong tâm hồn mà chúng tôi chưa hề cảm thấy bao giờ kể từ khi chúng tôi bắt đầu sống chung với các vị Chân Sư. Sự kính sợ của chúng tôi đã biến đổi nhanh chóng thành một tình thương sâu xa đối với những tấm lòng cao quý hồn nhiên của các Ngài, là những đấng Cao Cả đã làm biết bao nhiêu việc tốt lành cho nhân loại. Các Ngài gọi tất cả mọi người là bằng hữu, anh em, và chúng tôi cũng bắt đầu coi các Ngài như những bậc Anh Cả. Các Ngài không tự gán cho mình một giá trị nào cả, và luôn luôn nói rằng chính Thượng Đế đã biểu lộ xuyên qua các Ngài. Các Ngài nói:
-Riêng tôi, tôi không thể làm gì được. Chính Thượng Đế ngự nơi tôi, Ngài đã làm tất cả mọi việc.
Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có người báo tin cho biết rằng ngày ấy chúng tôi sẽ đi đến một làng ở tận trên cao trong vùng núi. Từ đó chúng tôi sẽ đi đến ngôi đền trên đỉnh của một ngọn núi mà tôi đã nhìn thấy ở đằng xa từ trên một đỉnh núi cao hơn mà tôi đã diễn tả trước đây. Vì đường núi cheo leo, chúng tôi không thể đi ngựa trên một quãng đường dài hơn hai mươi lăm cây số. Chúng tôi đem hai người dân làng đi theo trên quãng đường này, rồi giao ngựa cho họ dắt đi đến một thôn ấp nhỏ ở gần bên và giữ ngựa tại đó để chờ chúng tôi đi bận về. Mọi việc xảy ra như đã dự định. Chúng tôi giao ngựa cho hai người dân làng và bắt đầu đi theo con đường núi nhỏ hẹp đưa đến làng trên núi. Vài đoạn đường núi này là những nấc thang tam cấp đục trong vách đá.
Chúng tôi đến nơi vào lúc bốn giờ chiều. Ngôi đền dựng trên một đỉnh núi nhìn thẳng xuống xóm làng. Vách núi dốc đứng cheo leo đến nỗi muốn lên tới đỉnh, người ta phải thòng xuống một cái thúng đương bằng mây để du khách ngồi vào đó và dùng dây kéo lên. Cái thúng dùng để đưa khách lên tới đỉnh núi và cũng dùng để đưa khách từ trên đỉnh đi xuống phía dưới.
Khi chúng tôi đã sẵn sàng, người ta thòng cái thúng xuống và chúng tôi được kéo lên từng người một cho đến nơi có một mõm đá nhô ra ngoài, chỗ này bề cao đến một trăm ba chục thước khỏi mặt đất. Đến đây, chúng tôi bước ra khỏi thúng và theo đường nhỏ lên tận ngôi đền ở trên đỉnh núi cách đó độ một trăm bảy mươi lăm thước bề cao, vách của ngôi đền liền với vách của núi đá. Chúng tôi được cho biết rằng còn phải lên một chuyến thứ nhì cũng giống y như chuyến thứ nhất. Thật vậy, chúng tôi thấy từ ngôi đền nhô ra một cây đà bằng gỗ rất lớn giống như cây đà gie ra từ mõm đá lúc nãy. Từ cái trục ở phía trên người ta thòng xuống một sợi dây cói để cột vào cái thúng bằng mây lúc nãy, và chúng tôi lại được kéo lên từng người một đến tận nóc bằng của ngôi đền.
Lại một lần nữa, tôi có cảm tưởng như đang ở trên nóc tột đỉnh của thế giới. Đỉnh núi này nhô lên ba trăm thước cao hơn các ngọn núi ở vùng chung quanh. Làng mà từ đó chúng tôi bắt đầu ra đi, còn ở trên cao hơn nữa, trên đỉnh một truông núi mà người ta dùng để vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn. Đền này còn ở ba trăm năm chục thước thấp hơn ngôi đền mà trước đây chúng tôi đã cùng viếng chung với đức Tuệ Minh và Dật Sĩ, nhưng ở đây tầm nhãn quang có thể nhìn bao quát hơn nhiều. Dường như chúng tôi có thể nhìn vào chỗ không gian vô tận.
Người ta dọn cho chúng tôi một chỗ nghỉ đêm thật thoải mái tiện nghi. Ba vị siêu nhân cho chúng tôi biết rằng các vị sắp đi viếng vài nhóm đoàn viên ở rải rác khắp nơi và các vị sẵn lòng chuyển thông điệp của chúng tôi cho họ. Chúng tôi bèn viết thơ cho các bạn hữu và có ghi cẩn thận ngày giờ và địa điểm. Chúng tôi giữ lại một bổn sao của những thông điệp, về sau chúng tôi kiểm điểm lại thì được biết rằng tất cả các thông điệp đều được giao tận nơi không đầy hai mươi phút sau khi gởi đi. Khi chúng tôi đưa những thông điệp cho các vị siêu nhân, các vị bắt tay từ giã chúng tôi và hẹn gặp nhau lại vào sáng ngày hôm sau, rồi các vị biến mất.
Sau bữa ăn chiều ngon lành do những người coi đền dọn ra, chúng tôi lui về phòng yên nghỉ nhưng không ngủ được, vì những kinh nghiệm vừa qua bắt đầu gây cho chúng tôi những ấn tượng sâu xa. Chúng tôi đang ở trên một chiều cao ba ngàn thước khỏi mặt đất, không một người nào ở kế cận trừ ra những người coi đền, và không một tiếng động nào khác hơn là giọng nói của chúng tôi. Bầu không khí chung quanh thật hoàn toàn yên lặng.
Chúng tôi có dặn một người coi đền hãy đánh thức chúng tôi dậy khi trời vừa rạng sáng. Y gõ cửa trong khi tôi vừa chợp mắt ngủ chưa được bao lâu. Chúng tôi sửa soạn mặc quần áo xong, hối hả chạy mau ra sân thượng để ngắm nhìn mặt trời mọc ở vùng núi. Trong cơn vội vàng chúng tôi gây nhiều tiếng động ầm ĩ đến nỗi những người gác đền hoảng kinh chạy ra xem có phải là chúng tôi đã loạn trí chăng! Tôi nghĩ rằng chắc là không bao giờ ngôi đền này đã trải qua một cơn náo động như thế từ ngày nó được dựng lên, nghĩa là từ trên mười nghìn năm nay. Thật vậy, ngôi đền này cổ xưa đến nỗi nó đồng hóa làm một với cái đỉnh núi.
Khi ra đến sân thượng, không ai cần bảo ai nên giữ im lặng nữa, vì mọi sự dặn dò đều là thừa. Vừa nhìn ra ngoài, hai bạn tôi đã đứng lặng người, miệng há hốc, hai mắt dương lên thật lớn. Tôi tưởng chứng chắc là tôi cũng đã làm như vậy. Tôi còn đợi xem họ nói gì, thì họ đã đồng thanh la lớn:
-Chúng ta hẳn là bị treo lơ lửng trên không gian!
Sự xúc động và ngạc nhiên của họ thật giống y như của tôi khi tôi vừa lên tới nóc đền ở đỉnh núi bên kia trước đây không lâu. Họ đã quên trong một lúc rằng hai chân họ vẫn chấm đất và họ có cảm giác như đứng phất phơ trong không gian. Một bạn tôi nói:
-Tôi không ngạc nhiên nếu các vị Chân Sư có thể bay nhẹ trên không gian sau khi đã có cái cảm giác như chúng ta vừa rồi.
Một chuỗi cười ngắn kéo chúng tôi trở về thực tế. Chúng tôi quay lại nhìn thì thấy ngay sau lưng chúng tôi có đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện. Một bạn tôi cao hứng muốn chạy lại bắt tay hết thảy các vị cùng một lúc, và nói:
-Thật là kỳ diệu. Không ai lấy làm ngạc nhiên nếu các vị có thể bay bổng lên trên không, sau khi đã lưu trú tại đây.
Các vị mỉm cười, và một vị nói:
Các bạn cũng có thể bay bổng như chúng tôi. Các bạn chỉ cần biết từ trong nội tâm rắng các bạn có cái quyền năng đó rồi các bạn hãy sử dụng nó.
Chúng tôi ngắm nhìn phong cảnh. Sương mù đã hạ thấp xuống và bay từng đợt phất phơ theo chiều gió, nhưng cũng hãy còn khá cao nên người ta không thể nhìn thấy dưới đất. Những đợt sương mù di chuyển làm cho chúng tôi có cái cảm giác như được chở đi trên đôi cánh im lặng của một con chim khổng lồ. Nhìn về phía xa, người ta mất cả ý thức về trọng lượng của mình, và thật là khó mà tưởng tượng rằng mình đang bay lướt trong không gian. Riêng phần tôi, tôi đã mất ý thức về trọng lượng của mình đến nỗi tôi đã nhẹ mình bay lơ lửng trên nóc đền. Thình lình một tiếng động làm cho tôi té nặng đến nỗi tôi cảm thấy một sự xúc động mà hậu quả hãy còn tồn tại nhiều ngày mới hết.
Sáng hôm ấy, chúng tôi quyết định ở lại ngôi đền này trong ba ngày, vì chỉ còn một nơi thú vị để đi thăm viếng trước khi gặp lại những toán khác. Đức Tuệ Minh đã đem tới những thông điệp. Một thông điệp cho biết rằng toán của vị trưởng nhóm chúng tôi đã đến viếng ngôi đền này chỉ mới cách đây ba ngày. Sau bữa ăn điểm tâm, chúng tôi bước ra ngoài để nhìn xem sa mù tan dần. Chúng tôi ngắm nhìn cho đến khi sa mù biến tan đi mất và mặt trời ló dạng. Người ta nhìn thấy thôn ấp nhỏ ẩn dưới triền núi và thung lũng diễn ra tận đằng xa. Vì các vị siêu nhân đã quyết định đến viếng thôn ấp này, nên chúng tôi xin phép đi theo các vị. Các vị vừa nhận lời vừa cười, và khuyên chúng tôi nên sử dụng cái thúng bằng mây để thòng xuống đất. Các vị nói rằng đi bằng cách đó thì khi đến nơi, chúng tôi sẽ có cái hình dáng bề ngoài dễ coi hơn là nếu chúng tôi sử dụng phương pháp di chuyển của các vị. Người ta bèn dùng cái thúng thòng chúng tôi từng người một xuống tận chỗ mõm đá nhô ra ở giữa chừng, và từ đó, xuống vùng cao nguyên nhìn xuống dưới làng, và ở lại đây suốt ngày hôm đó.
Đó là một làng cổ có những nét dị kỳ, đặc biệt của vùng sơn cước này. Nó gồm có độ hai mươi nhà đục trong triền núi, và cửa nẻo đều đóng kín bằng những phiến đá lớn. Người ta xây cất nhà kiểu này để tránh cho nhà khỏi bị đè bẹp dưới trọng lượng của tuyết mùa đông. Chúng tôi được cho biết rằng Thánh Jean Baptiste và được thụ huấn về Đạo Lý trong đền. Đền này vẫn còn nguyên vẹn như hồi xưa. Làng này và ngôi đền đã được lập nên ít nhất sáu nghìn năm trước khi Thánh Jean đến viếng nơi này. Vào lúc năm giờ chiều, vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện bắt tay từ giã chúng tôi và nói Ngài phải vắng mặt nhưng sẽ trở lại trong giây lát. Kế đó Ngài biến mất dạng.
Chiều hôm đó, từ trên nóc đền chúng tôi ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn lạ lùng nhất chưa từng thấy, tuy rằng tôi đã có dịp may nhìn thấy cảnh trời chiều ở hầu hết khắp nơi trên thế giới.
Chúng tôi ngồi trên sân thượng đến nửa đêm, vừa nói chuyện vừa hỏi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ về nhiều vấn đề, nhất là về địa hình, địa vật và lịch sử của vùng này. Đức Tuệ Minh đưa ra nhiều chú thích trong các văn kiện mà các Chân Sư từng biết rõ. Những văn kiện ấy chứng tỏ rằng xứ này đã từng có người ở từ nhiều ngàn năm trước thời kỳ có lịch sử của thế giới.
Chúng tôi đang ngắm vầng trăng rằm trong sáng xuất hiện trên dãy núi đằng xa ở tận chân trời. Thình lình, chúng tôi nghe có tiếng động ở phía sau lưng. Chúng tôi quay lại nhìn thì thấy một bà mệnh phụ trạc độ ngũ tuần đang đứng đó và vừa mỉm cười vừa hỏi rằng sự xuất hiện thình lình của bà có làm cho chúng tôi sợ hãi không? Trước hết chúng tôi có cảm tưởng rằng bà ấy đã nhảy từ trên bờ tường xuống sân thượng, nhưng sự thật thì bà ấy chỉ có dậm chân để làm cho chúng tôi chú ý, và sự im lặng thâm trầm của miền núi lúc ban đêm đã làm vang dội âm thanh ấy lên gấp bội phần. Đức Tuệ Minh mau bước tới chào mệnh phụ và giới thiệu chị ngài với chúng tôi. Bà mỉm cười và hỏi bà có làm rộn chúng tôi không?
Chúng tôi an tọa, và câu chuyện xoay chung quanh những kỷ niệm cùng những kinh nghiệm về công việc phụng sự trong cuộc đời tu hành của bà. Bà có ba người con trai và một người con gái, tất cả đều được giáo dục trong cùng một tinh thần như của bà. Chúng tôi hỏi có các con bà cùng đi không? Bà đáp rằng hai người con nhỏ nhất không bao giờ rời bà. Chúng tôi yêu cầu được gặp các con bà. Bà đáp rằng họ cũng đang rảnh việc, và ngay lúc đó xuất hiện hai người, một người nam và một người nữ. Hai người này chào cậu và mẹ, rồi tiến tới để được giới thiệu với tôi và hai bạn tôi. Người con trai cao lớn vạm vỡ, có dáng hào hùng, đầy nam tính, trạc độ chừng ba mươi tuổi. Người con gái vóc dạc hơi nhỏ, dáng điệu thanh tân, với những nét diễm kiều. Đó là một thiếu nữ đẹp và trạc độ hai mươi tuổi. Về sau chúng tôi được biết rằng người nam có đến một trăm mười lăm tuổi và người nữ đã một trăm hai mươi tám tuổi. Chúng tôi còn ngồi đàm đạo đến quá nửa đêm mới chia tay nhau.
Qua ngày hôm sau, các vị siêu nhân tỏ ý muốn từ giã chúng tôi để ra đi. Chỉ còn có Dật Sĩ ở lại với chúng tôi, và ngày kế đó đến lượt chúng tôi cũng sửa soạn lên đường. Mặc dầu trời hãy còn chưa sáng, hầu hết tất cả dân làng đều thức dậy rất sớm để tiễn đưa chúng tôi.