Nguồn gốc lịch sử được xác nhận của Đạo giáo có lẽ nằm ở thế kỉ thứ 4 trước CN, khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Các tên gọi khác là Đạo Lão, Đạo Hoàng Lão, hay Đạo gia.
Đạo Đức kinh cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử. Trong dạng được truyền ngày nay thì nó bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một thế giới quan, mà chỉ là một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như nó muốn người đọc phải tự lí giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng trăm bản chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ Đạo Đức kinh này.
Trong thời Lão Trang, người ta không thấy dấu tích của một tổ chức hay cơ cấu triết học hoặc tôn giáo nào có thể được gọi là Đạo giáo. Chỉ còn một vài tác phẩm hàm dung tư tưởng Đạo giáo được lưu lại, tôn vinh là Thánh điển khi Đạo giáo dần dần hình thành. Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau là những tác phẩm này đã được phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với những phương pháp tu tập tôn giáo và tín ngưỡng.
Mặc dù vậy, hai khái niệm đối xứng bên trên cũng mang đến một ích lợi nhất định vì chúng hỗ trợ bước đầu phân tích Đạo giáo. Nhưng ta nên nhớ là sự việc phức tạp hơn là sự phân biệt đơn giản trên có thể lột toát được hết.
Đạo là đơn vị tối sơ, nguyên lí của vũ trụ và là cái tuyệt đối. Vạn vật xuất phát từ Đạo, nghĩa là cả vũ trụ và như vậy, trật tự vũ trụ cũng từ Đạo mà ra, tương tự như nguyên tắc tự nhiên, nhưng Đạo lại chẳng phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn gốc và sự dung hoà tất cả những cặp đối lập và như thế, không thể định nghĩa được. Đạo là Vô danh, như câu đầu của bộ kinh này cho thấy:"Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh.Vô danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh vạn vật chi mẫu."
Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật sự.Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật.
Về mặt triết học thì Đạo có thể được xem là siêu việt mọi khái niệm vì nó là cơ sở của tồn tại, là nguyên nhân siêu việt và như vậy, là tất cả, bao gồm tồn tại và phi tồn tại. Trên cơ sở này thì ta không thể luận đàm, định nghĩa được Đạo vì mỗi định nghĩa đều có bản chất hạn chế. Nhưng Đạo lại là cả hai, là sự siêu việt mọi hạn lượng mà cũng là nguyên lí bên trong vũ trụ. Cái Dụng của Đạo tạo ra âm dương, nhị nguyên, những cặp đối lập và từ sự biến hoá, chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
Thời điểm đầu tiên được xác nhận của Đạo giáo như một tôn giáo là năm 215, khi thừa tướng Tào Tháo chính thức công nhận trào lưu Thiên sư đạo như một tổ chức tôn giáo.
Nhiều trường phái Đạo giáo tìm cách tu tập đạt trường sinh bất tử. Chúng có lẽ xuất phát từ các phép tu thuộc Tát-mãn giáo hay pháp thuật (tiếng Anh: shamanism) với sự sùng bái trường sinh bất tử và được hoà nhập với nhánh Đạo giáo triết học sau này.
Tất cả các trường phái Đạo giáo đều nỗ lực tu tập để trở về nguồn, được miêu tả bằng những thuật ngữ Đạo giáo.
Tuy nhiên, Phật giáo được trang bị với một nghịch thuyết (paradox) rất có thể đã gây cảm hứng đến các Đạo gia, đó là sự nghịch lí của lòng tham ái (Phạn: tṛṣṇā). Luân hồi - hay nói cụ thể hơn - sự tái sinh làm người được xem như là kết quả của tham ái và Niết-bàn chỉ có thể được thực hiện khi hành giả đã buông xả tham ái. Nhưng như vậy có nghĩa là, để thành tựu Niết-bàn, hành giả cũng phải lìa bỏ lòng ham muốn thành tựu nó. Cách lập luận này cho thấy ý nghĩa tinh tế của hình tượng tiêu biểu trong Phật giáo Đại thừa là Bồ Tát, một người đã đạt những điều kiện tiên quyết để chứng ngộ Niết-bàn, nhưng vẫn lưu lại Luân hồi để cứu°Chúng sinh. Nhánh Đại thừa của Phật giáo được phổ biến rất thành công tại Trung Hoa vì giáo lí của trường phái này - mặc dù chỉ được thể hiện một cách ám thị - hàm dung một cái nhìn bình đẳng: Tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật, tương tự trường hợp ai cũng có thể thành một Đạo gia hoặc một Nho gia.
Nhánh triết học Phật giáo gây ảnh hưởng lớn nhất tại Trung Hoa là Trung quán tông (Phạn: mādhyamika), giải đáp vấn đề bản chất của Niết-bàn hoặc Phật tính bằng cách không giải đáp. Niết-bàn được thực hiện bằng một loại trí huệ đặc biệt, bất khả thuyết, bất khả tư nghị (Bát-nhã, Bát-nhã-ba-la-mật-đa). Và đây cũng là điểm thúc đẩy sự hoà nhập của khái niệm Đạo và Niết-bàn cũng như sự kết luận "Niết-bàn và Đạo là một".
Hai trường phái Phật giáo quan trọng với vũ trụ quan có điểm tương đồng với Tân Đạo gia là Thiên Thai tông và Hoa Nghiêm tông. Thiên Thai tông chủ trương "một niệm phát sinh tam thiên đại thiên thế giới xuất hiện" và Hoa Nghiêm tông nhấn mạnh đến khía cạnh "Lí sự vô ngại" và "Sự sự vô ngại". Sự tương tác, xuyên suốt của vạn vật chính là sự thể hiện của Phật tính.
Tông phái có nhiều điểm tương đồng nhất với Đạo giáo là Thiền tông. Thành phần Đạo giáo của Thiền có thể được hiểu rõ hơn khi tham chiếu lại nghịch lí "tham ái". Lão tử nói: Ai thường không có ham muốn (dục) thì thấy được cái huyền diệu (của Đạo), ai ham muốn thì chỉ thấy những cái nhỏ nhặt (Đạo Đức kinh I). Nếu hành giả Phật giáo lìa bỏ tham ái để đạt Niết-bàn thì phải quên cả hai, Niết-bàn và Luân hồi. Và sự kiện này lại tương ứng câu giải đáp bí ẩn dành cho bản chất Niết-bàn cũng như nhấn mạnh lần nữa sự đề cao cách thực hành của Thiền tông "ngay lúc này, ngay đây", sự trực nhận "tất cả chúng sinh bản lai là Phật".
Việc từ khước lí thuyết Phật giáo của các Đạo gia được tiếp nối bởi một đặc điểm khác: Nhấn mạnh sự hấp thụ hoàn toàn vào thực hành trên một cấp bậc cao. Thiền tông Trung Hoa lập cơ sở chủ yếu trên quan điểm Đốn ngộ, nghĩa là "giác ngộ ngay lập tức", và như thế, Thiền tông phản bác tất cả những quá trình tu tập: "Bạn không thể đến gần hơn - chính vì Bạn đang ở ngay trong Đạo".
Điểm tương đồng giữa Đạo giáo và Thiền tông được minh hoạ rất hay trong Công án thứ 19 của tác phẩm Vô môn quan và Triệu Châu Chân Tế Thiền sư ngữ lục. Thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm hỏi Nam Tuyền Phổ Nguyện:
Sư hỏi Nam Tuyền: "Thế nào là Đạo?"Nam Tuyền đáp: "Tâm bình thường là Đạo."Sư hỏi: "Có thể hướng đến được không?"Nam Tuyền đáp: "Nghĩ tìm đến là trái."Sư lại hỏi: "Chẳng nghĩ suy thì làm sao biết Đạo?"Nam Tuyền đáp: "Đạo chẳng thuộc về hiểu biết hay không hiểu biết. Biết là vọng giác (khái niệm), không biết là vô kí (vô minh). Nếu thật đạt Đạo thì không còn nghi ngờ, [Đạo] như hư không thênh thang rộng rãi, đâu thể cưỡng nói là phải là quấy."Sư nhân nghe lời này lập tức ngộ được huyền chỉ, tâm sư sáng như trăng tròn.
(theo Wikipedia)
Xuất xứ
Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ thấy được tôn giáo này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ khác. Đạo giáo tiếp thụ và phát triển nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời nhà Chu (1040-256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, thuyết về năng lượng, chân khí, thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có bắt nguồn có lẽ từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Trang Tử Nam Hoa chân kinh, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng đế (nghĩa là "ông vua sắc vàng") và Hoàng thái hậu Tây Vương mẫu, những hình tượng đã có trong thời nhà Thương (thiên niên kỉ thứ hai trước CN).Lão Tử và Đạo Đức kinh
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được rằng đã thật có một triết gia tên Lão Tử hay không. Các Đạo gia cho rằng, chính ông là tác giả của bộ Đạo Đức kinh. Tiểu sử của ông bị huyền thoại vây phủ và vì vậy gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền ông sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước CN, một thời kì được đánh dấu bằng chiến tranh và loạn li. Nhưng thời này cũng được xem là thời vàng son của triết học Trung Quốc vì nhiều nhà tư tưởng đã tìm cách giải hoá vấn đề làm sao để an dân lập quốc. Do đó mà người sau cũng gọi thời kì này là thời của Bách gia chư tử—"hàng trăm trường phái". Đạo Đức kinh hàm dung những tư tưởng này, hướng đến những nhà cầm quyền và chỉ ra cách tạo thái bình.Đạo Đức kinh cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử. Trong dạng được truyền ngày nay thì nó bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một thế giới quan, mà chỉ là một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như nó muốn người đọc phải tự lí giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng trăm bản chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ Đạo Đức kinh này.
Trang Tử và Nam Hoa chân kinh
Bộ Trang Tử Nam Hoa chân kinh thì được viết với một phong cách hoàn toàn khác. Tác phẩm này được biên soạn ở thế kỉ thứ 4 trước CN và tương truyền tác giả là Trang Tử (vì vậy mà tên ngắn của tác phẩm này cũng là Trang Tử, tên tác giả). Trong Nam Hoa kinh, thể tính của Đạo được miêu hoạ qua những ngụ ngôn, những mẩu chuyện hàm dung những cuộc đàm thoại triết học. Trang Tử lấy nhiều điểm được nhắc đến trong Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng lại bài bác những điểm khác một cách rõ ràng. Ví dụ như Trang Tử không hề nhắc đến việc nhắc nhở những nhà cầm quyền an quốc trị dân. Một chân nhân vô sự, lìa thế gian là người lí tưởng trong tác phẩm này. Như trường hợp Đạo Đức kinh, việc xác nhận tác giả của tác phẩm này cũng là một điểm tranh luận lớn. Mặc dù Trang Tử được xem là một nhân vật lịch sử nhưng theo những nhà nghiên cứu thì tác phẩm Nam Hoa chân kinh phần lớn có lẽ được các đệ tử sau này biên tập.Trong thời Lão Trang, người ta không thấy dấu tích của một tổ chức hay cơ cấu triết học hoặc tôn giáo nào có thể được gọi là Đạo giáo. Chỉ còn một vài tác phẩm hàm dung tư tưởng Đạo giáo được lưu lại, tôn vinh là Thánh điển khi Đạo giáo dần dần hình thành. Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau là những tác phẩm này đã được phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với những phương pháp tu tập tôn giáo và tín ngưỡng.
Ngoài đề: triết học Đạo giáo so với tín ngưỡng Đạo giáo
Sự phân biệt triết học Đạo giáo và tín ngưỡng Đạo giáo là một cách nhìn từ phương Tây và về mặt khái niệm thì nó cũng không đủ rõ ràng. Nó có vẻ như là một phương tiện của nền Hán học châu Âu, được áp dụng để có thể nắm bắt và miêu tả được những khía cạnh lịch sử Đạo giáo lâu dài một cách dễ dàng hơn. Nhìn kĩ thì người Trung Quốc cũng đã có sự phân biệt vi tế trong cách gọi tên trào lưu này. Khi dùng từ Lão Trang hoặc Đạo gia người ta liên tưởng đến khía cạnh triết học và từ Đạo giáo hoặc Hoàng Lão được dùng để chỉ đến khía cạnh tín ngưỡng tôn giáo. Tuy vậy, Đạo giáo cũng là một hiện tượng nhiều khía cạnh như những tôn giáo khác. Trong dòng thời gian hơn hai nghìn năm qua, nhiều hệ thống và chi phái rất khác nhau đã được hình thành. Do vậy mà sự phân biệt giữa triết học và tôn giáo ở đây là một sự giản hoá quá mức và trong giới học thuật người ta cũng không nhất trí có nên phân biệt như vậy nữa hay không, bởi vì nó không tương thích với sự phức tạp của đối tượng nghiên cứu.Mặc dù vậy, hai khái niệm đối xứng bên trên cũng mang đến một ích lợi nhất định vì chúng hỗ trợ bước đầu phân tích Đạo giáo. Nhưng ta nên nhớ là sự việc phức tạp hơn là sự phân biệt đơn giản trên có thể lột toát được hết.
Khái niệm Đạo
Tên Đạo giáo xuất phát từ chữ Đạo, một danh từ triết học Trung Hoa đã được dùng rất lâu trước khi bộ Đạo Đức kinh xuất hiện, nhưng chỉ đạt được tầm quan trọng đặc biệt, phổ cập trong văn bản này. Đạo ban đầu có nghĩa là "con đường", nhưng ngay trong tiếng Hán cổ đã có nghĩa "phương tiện", "nguyên lí", "con đường chân chính". Nơi Lão Tử, danh từ này được hiểu như một nguyên lí cơ sở của thế gian, xuyên suốt vạn vật. Theo kinh văn, Đạo là hiện thực tối cao, là sự huyền bí tuyệt đỉnh (chương IV):"Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề, tự vạn vật chi tông."Đạo trống không, nhưng đổ vào mãi mà không đầy. Đạo sâu thẳm, dường như là tổ tông của vạn vật.Đạo là đơn vị tối sơ, nguyên lí của vũ trụ và là cái tuyệt đối. Vạn vật xuất phát từ Đạo, nghĩa là cả vũ trụ và như vậy, trật tự vũ trụ cũng từ Đạo mà ra, tương tự như nguyên tắc tự nhiên, nhưng Đạo lại chẳng phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn gốc và sự dung hoà tất cả những cặp đối lập và như thế, không thể định nghĩa được. Đạo là Vô danh, như câu đầu của bộ kinh này cho thấy:"Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh.Vô danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh vạn vật chi mẫu."
Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là Danh thật sự.Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật.
Về mặt triết học thì Đạo có thể được xem là siêu việt mọi khái niệm vì nó là cơ sở của tồn tại, là nguyên nhân siêu việt và như vậy, là tất cả, bao gồm tồn tại và phi tồn tại. Trên cơ sở này thì ta không thể luận đàm, định nghĩa được Đạo vì mỗi định nghĩa đều có bản chất hạn chế. Nhưng Đạo lại là cả hai, là sự siêu việt mọi hạn lượng mà cũng là nguyên lí bên trong vũ trụ. Cái Dụng của Đạo tạo ra âm dương, nhị nguyên, những cặp đối lập và từ sự biến hoá, chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
Đạo giáo như một tôn giáo
Sự khác biệt giữa Đạo giáo triết học và Đạo giáo tôn giáo - được dùng ở đây vì những lý do thực tiễn - có thể được hiểu như sau: Đạo giáo triết học theo lí tưởng của một Thánh nhân, thực hiện Đạo bằng cách gìn giữ một tâm thức nhất định, trong khi Đạo giáo tôn giáo tìm cách đạt Đạo qua việc ứng dụng những phương pháp như Tĩnh toạ (Khí công, Thái cực quyền), sự tập trung cao độ, thiết tưởng (visualization), hình dung, thuật luyện kim, nghi lễ và huyền học để tạo một thế giới vi quan từ thân tâm - một ánh tượng của đại vũ trụ - và qua đó đạt được sự hợp nhất với vũ trụ.Thời điểm đầu tiên được xác nhận của Đạo giáo như một tôn giáo là năm 215, khi thừa tướng Tào Tháo chính thức công nhận trào lưu Thiên sư đạo như một tổ chức tôn giáo.
Nhiều trường phái Đạo giáo tìm cách tu tập đạt trường sinh bất tử. Chúng có lẽ xuất phát từ các phép tu thuộc Tát-mãn giáo hay pháp thuật (tiếng Anh: shamanism) với sự sùng bái trường sinh bất tử và được hoà nhập với nhánh Đạo giáo triết học sau này.
Tất cả các trường phái Đạo giáo đều nỗ lực tu tập để trở về nguồn, được miêu tả bằng những thuật ngữ Đạo giáo.
Quan hệ với Phật giáo
Phật giáo đến Trung Hoa trong thế kỉ thứ nhất sau CN, trong một giai đoạn mà giới tri thức ở đây khát khao tiếp nhận, nhưng lại mang theo những điểm khó dung hoà. Với tư cách của một tôn giáo đề cao sự giải thoát một cách khắt khe, Phật giáo chủ trương triết học siêu hình và nhận thức học (Phạn: pramāṇa, tiếng Anh: epistemology) với những điểm trung tâm là chân lí (Phạn: satya), kinh nghiệm bản thân, kiến thức cần có trước, một tín tâm được thể hiện rõ ràng, một cơ sở tâm lí học chuyên chú đến niềm tin đặt nền tảng trên lí giải (Phạn: hetu, tiếng Anh: reasoning) như một khả năng tự nhiên của loài người - và dĩ nhiên, một tấm lòng tin tưởng. Những điểm này không thu hút được giới tri thức Trung Hoa và cơ sở luận bàn duy nhất có thể "thuần hoá" hệ thống ngoại lai này là huyền học được các Tân Đạo gia (sau thế kỉ thứ 2) đề xướng. Huyền học chuyên chú vào ý nghĩa siêu hình của tồn tại và phi tồn tại (hữu vô), và hệ thống này lại tương quan mật thiết với khái niệm Niết-bàn trong Phật giáo. Nếu Niết-bàn đối lập Luân hồi thì nó là một trạng thái phi tồn tại hay tồn tại? Niết-bàn là thành tựu tối cao của một vị Phật, là biểu thị của Phật tính.Tuy nhiên, Phật giáo được trang bị với một nghịch thuyết (paradox) rất có thể đã gây cảm hứng đến các Đạo gia, đó là sự nghịch lí của lòng tham ái (Phạn: tṛṣṇā). Luân hồi - hay nói cụ thể hơn - sự tái sinh làm người được xem như là kết quả của tham ái và Niết-bàn chỉ có thể được thực hiện khi hành giả đã buông xả tham ái. Nhưng như vậy có nghĩa là, để thành tựu Niết-bàn, hành giả cũng phải lìa bỏ lòng ham muốn thành tựu nó. Cách lập luận này cho thấy ý nghĩa tinh tế của hình tượng tiêu biểu trong Phật giáo Đại thừa là Bồ Tát, một người đã đạt những điều kiện tiên quyết để chứng ngộ Niết-bàn, nhưng vẫn lưu lại Luân hồi để cứu°Chúng sinh. Nhánh Đại thừa của Phật giáo được phổ biến rất thành công tại Trung Hoa vì giáo lí của trường phái này - mặc dù chỉ được thể hiện một cách ám thị - hàm dung một cái nhìn bình đẳng: Tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật, tương tự trường hợp ai cũng có thể thành một Đạo gia hoặc một Nho gia.
Nhánh triết học Phật giáo gây ảnh hưởng lớn nhất tại Trung Hoa là Trung quán tông (Phạn: mādhyamika), giải đáp vấn đề bản chất của Niết-bàn hoặc Phật tính bằng cách không giải đáp. Niết-bàn được thực hiện bằng một loại trí huệ đặc biệt, bất khả thuyết, bất khả tư nghị (Bát-nhã, Bát-nhã-ba-la-mật-đa). Và đây cũng là điểm thúc đẩy sự hoà nhập của khái niệm Đạo và Niết-bàn cũng như sự kết luận "Niết-bàn và Đạo là một".
Hai trường phái Phật giáo quan trọng với vũ trụ quan có điểm tương đồng với Tân Đạo gia là Thiên Thai tông và Hoa Nghiêm tông. Thiên Thai tông chủ trương "một niệm phát sinh tam thiên đại thiên thế giới xuất hiện" và Hoa Nghiêm tông nhấn mạnh đến khía cạnh "Lí sự vô ngại" và "Sự sự vô ngại". Sự tương tác, xuyên suốt của vạn vật chính là sự thể hiện của Phật tính.
Tông phái có nhiều điểm tương đồng nhất với Đạo giáo là Thiền tông. Thành phần Đạo giáo của Thiền có thể được hiểu rõ hơn khi tham chiếu lại nghịch lí "tham ái". Lão tử nói: Ai thường không có ham muốn (dục) thì thấy được cái huyền diệu (của Đạo), ai ham muốn thì chỉ thấy những cái nhỏ nhặt (Đạo Đức kinh I). Nếu hành giả Phật giáo lìa bỏ tham ái để đạt Niết-bàn thì phải quên cả hai, Niết-bàn và Luân hồi. Và sự kiện này lại tương ứng câu giải đáp bí ẩn dành cho bản chất Niết-bàn cũng như nhấn mạnh lần nữa sự đề cao cách thực hành của Thiền tông "ngay lúc này, ngay đây", sự trực nhận "tất cả chúng sinh bản lai là Phật".
Việc từ khước lí thuyết Phật giáo của các Đạo gia được tiếp nối bởi một đặc điểm khác: Nhấn mạnh sự hấp thụ hoàn toàn vào thực hành trên một cấp bậc cao. Thiền tông Trung Hoa lập cơ sở chủ yếu trên quan điểm Đốn ngộ, nghĩa là "giác ngộ ngay lập tức", và như thế, Thiền tông phản bác tất cả những quá trình tu tập: "Bạn không thể đến gần hơn - chính vì Bạn đang ở ngay trong Đạo".
Điểm tương đồng giữa Đạo giáo và Thiền tông được minh hoạ rất hay trong Công án thứ 19 của tác phẩm Vô môn quan và Triệu Châu Chân Tế Thiền sư ngữ lục. Thiền sư Triệu Châu Tòng Thẩm hỏi Nam Tuyền Phổ Nguyện:
Sư hỏi Nam Tuyền: "Thế nào là Đạo?"Nam Tuyền đáp: "Tâm bình thường là Đạo."Sư hỏi: "Có thể hướng đến được không?"Nam Tuyền đáp: "Nghĩ tìm đến là trái."Sư lại hỏi: "Chẳng nghĩ suy thì làm sao biết Đạo?"Nam Tuyền đáp: "Đạo chẳng thuộc về hiểu biết hay không hiểu biết. Biết là vọng giác (khái niệm), không biết là vô kí (vô minh). Nếu thật đạt Đạo thì không còn nghi ngờ, [Đạo] như hư không thênh thang rộng rãi, đâu thể cưỡng nói là phải là quấy."Sư nhân nghe lời này lập tức ngộ được huyền chỉ, tâm sư sáng như trăng tròn.
Tổ chức Đạo giáo đầu tiên
Trương Đạo Lăng khởi xướng phong trào Thiên sư đạo vào năm 142 (thời cuối triều Tây Hán). Có lẽ ông đã bắt chước theo Phật giáo và thâu nhiếp các thành phần của Toả-la-á-tư-đức giáo (tiếng Anh: Zoroastrianism). Giáo phái này mang tên Ngũ Đẩu Mễ Đạo - gọi theo số 5 đấu gạo mà đồ đệ phải nộp để gia nhập - có thể tìm thấy những yếu tố, tư tưởng cứu thế dân chủ và cách mạng trong thông điệp của Trương Đạo Lăng: trật tự thế giới sẽ bị lật đổ để Thái bình được thiết lập. Vương triều Hán quả thực suy tàn và cháu nội ông đã lập một Đạo quốc tại tỉnh Tứ Xuyên. Phái Hoàng Cân (Khăn Vàng) cũng đã nổi loạn và để lại dấu ấn trong tiểu thuyết Tam Quốc chí với những tư tưởng tương tự.(theo Wikipedia)