Home » » KHÓA HƯ LỤC (P2)

KHÓA HƯ LỤC (P2)

Written By kinhtehoc on Thứ Hai, 26 tháng 9, 2011 | 23:01

THÁI TÔNG HOÀNG ĐẾ NGỰ CHẾ

KHÓA HƯ LỤC
[Phần 2]
--- o0o ---

QUYỂN THƯỢNG
(tiếp theo)
--- o0o ---


VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

    Ôi! Vật quý nhất đời chỉ là vàng ngọc vậy. Song xét tới chỗ quan trọng, chỗ luyến tiếc, lại không thể sánh bằng thân mạng. Ví như có nhà giầu sang, được người vời làm đại tướng, dùng vàng làm áo giáp hộ thân, đến lúc lâm chiến, khi gươm đao tiếp nhau, có lúc phải bỏ áo giáp kéo gươm mà chạy, chỉ mong bảo toàn tính mạng, áo giáp bằng vàng kia, đâu còn đoái hoài đến. Liền biết, cái quý trong của vàng cũng không đủ so sánh với thân mạng chính là nghĩa đó. Người đời nay không thế, lại quý vật mà khinh thân. Họ không biết thân này có 3 điều khó gặp. Những gì là ba. 1.- Trong vòng lục đạo, duy con người là quý. Đến khi nhắm mắt qua đời, tối tăm mờ mịt, chẳng biết chỗ đi về đâu. Hoặc vào đường địa ngục, A-tu-la hay ngạ quỷ, súc sinh, chẳng được làm người, đó là điều khó gặp thứ nhất. 2.- Đã được làm người, hoặc lại sinh vào chốn man di, tắm cùng khúc sông, ngủ cùng giường niệm, tôn ty lẫn lộn, trai gái sống chung, chẳng đượm gió nhân, không nhuần Thánh hóa, đó là điều khó gặp thứ hai. 3.- Tuy được sinh nơi văn hóa nhưng sáu căn chẳng đủ, bốn thể không toàn, mù điếc ngọng câm, gù khom khập khiễng, miệng mũi hôi thối, thân hình nhớp nhơ, thấy chẳng cùng gần, chúng không thích tới. Tuy ở chỗ văn minh cao độ, nhưng khác gì ngoài chốn hoang vu, đó là điều khó gặp thứ ba. Nay đã được làm người, được sinh nơi trung tâm văn hóa, lại sáu căn đầy đủ, thật đáng quý thay. Phàm người ở đời, chỉ bon chen đường danh lợi, thương tổn tinh thần, mệt nhọc thể xác, bỏ phần cao quý nơi thân mạng mình, theo cái đáng khinh nơi của cải nọ, chẳng khác gì như kẻ ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên mép [1]. Tuy nói thân này là quan trọng, nhưng vẫn chưa quan trọng bằng chí đạo. Nên Khổng Tử nói: "Buổi sớm được nghe đạo, chiều có chết cũng vui" [2]. Lão Tử nói: "Ta sở dĩ có cái lo lớn, vì ta có thân" [3]. Đức Thế Tôn khi cầu đạo thì bỏ thân cứu hổ. Há chẳng phải đều là chỗ khinh thân trọng đạo của ba bậc Thánh nhân đó sao? Than ôi! Cái quan trọng của thân mạng còn nên bỏ để cầu đạo vô thượng bồ đề, nữa là phần đáng khinh nơi vàng bạc của báu mà lại luyến tiếc ư! Ôi! Trong ấp mười nóc nhà, còn có người trung tín [4], lẽ nào tất cả ở đời, há lại không có người thông minh sáng suốt hay sao? Hãy nghe theo lời ấy, nên chăm lo tu học, chớ có nghi ngờ. Trong kinh nói: "Một khi mất thêm người, muôn kiếp khó trở lại. Thật đau đớn xiết bao! Thế nên Khổng Tử nói: "Người mà không chịu làm, ta chẳng biết làm sao được".

    Ôi! xét cho rõ: Trăm năm ánh sáng, trong một sát na; bốn đại huyễn thân, đâu hay lâu đặng. Trọn ngày ruổi rong nghiệp thức [5], quanh năm đắm đuối trần lao [6]. Không biết một tính viên minh, chỉ theo sáu căn tham dục. Giàu sang nhất mực, khó tránh 2 chữ vô thường; công danh nhất đời, chẳng thoát một trường đại mộng. Tranh nhân tranh ngã, rốt cuộc thành không. Khoe giỏi khoe hay, đều là chẳng thật. Gió lửa tiêu tan bao già trẻ, núi khe rủa nát mấy anh hùng. Mái xanh chưa mấy, tóc bạc vội lấn dần; kẻ mừng vừa đi, người viếng len chân tới. Một bao máu mủ, chuỗi năm luyến tiếc ân tình; bảy thước xương khô; rông rỡ tham lam của báu. Thở ra khôn bề thở lại, ngày nay khó đợi ngày mai. Sông yêu chìm nổi chẳng lúc ngơi, nhà cháy nấu nung ngày nào hết. Chẳng nguyện xa lìa lưới nghiệp, chỉ vì chưa có công phu. Diêm La Vương bỗng chốc lại đòi. Thôi Tướng công [7] nào cho thêm hạn. Ngoảnh lại người thân đều chẳng thấy, cuối cùng nghiệp báo tự mình mang. Quỷ vương ngục tốt, mặc sức khảo tra; rừng kiếm núi đao, vô phương chống đỡ. Hoặc giam trong vòng vây sắt, hoặc ở dưới núi ốc tiêu [8]. Chịu vạc dầu thời muôn chết ngàn sinh, phải chém chặt thời một dao hai khúc. Đói nuốt sắt nóng, khát uống đồng sôi. Mười hai giờ cam chịu đắng cay, năm trăm kiếp chẳng thấy hình dạng. Chịu hết tội nghiệp, lại vào luân hồi. Mất hẳn dáng người thuở xưa, đổi ra thân hình hiện tại. Đội yên ngậm sắt, mang lông đeo sừng. Lấy thịt nuôi người, đem thân trả nợ. Sinh bị khổ đau dao thớt, sống gặp tai vạ lửa sôi. Chồng chất oán thù, cùng nhau rỉa thịt. Khi đó mới hối, học đạo không nền. Chi bằng gấp rút đảm đương, chớ để đời này lỡ dở.

    Thích Ca văn phật, bỏ hoàng cung đến thẳng tuyết sơn; Cư sĩ Bàng Công [9] đem gia tài hết dìm biển cả. Chân Võ [10] chẳng lên ngôi báu, chi lo tu hành; Lã Công [11] đã chuộng thần tiên, còn siêng tham vấn. Tô học sĩ [12] thường thân Phật Ấn, Hàn Văn Công [13] còn lễ Đại Điên. Bùi Công [14] đoạt hốt ở Thạch Sương, Phòng Tướng [15] hỏi pháp nơi Quốc Nhất. Diệu Thiện [16] chẳng kén phò mã, thành Phật không ngờ; Lục Tổ [17] vừa gặp khách hiền, nghe kinh đốn ngộ. Đạo Thiền nếu không thú vị, Thánh hiền sao chịu quy y. Hoa Lâm [18] cảm 2 cọp theo hầu, Đầu Tử có 3 chim báo sáng. Lý trưởng giả [19] giải kinh mà thiên trù dâng cỗ, Tu Bồ Đề [20] tĩnh tọa mà Đế Thích tung hoa. Đạt Ma [21] một dép về Tây, Phổ Hóa [22] rung chuông bay bổng. La Hán [23] tham thiền ở Ngưỡng Sơn hòa thượng. Nhạc Đế [24] thọ giới ở Tư Đại thiền sư. Kính Sơn [25] đến nay vẫn được Long Vương dâng cúng; Tuyết Phong [26] từ trước, hay khiến người gỗ mở rừng. Đó là những thể nghiệm nhân do, chớ tự sinh nghi ngờ lùi bước. Cáo đồng [27] còn nghe pháp Bách Trượng, ốc văn hay hộ kinh Kim Cương [28]. Mười ngàn cá bơi [29] nghe hiệu Phật hóa làm Thiên Tử năm trăm dơi lượn [30], nghe tiếng pháp đều đặng Thánh hiền. Trăn nghe sám [31] được sinh thiên, rồng nghe kinh mà ngộ đạo [32]. Vật kia còn hay lãnh ngộ, nữa người sao chẳng hồi tâm. Hoặc có kẻ vùi đầu ăn uống mà uổng một đời, hoặc có kẻ lầm lối tu hành mà không xét lại. Hay đâu, bồ đề tính giác, ai nấy viên thành; sao biết, bát nhã căn lành, người người đầy đủ. Hỏi chi đại ẩn, tiểu ẩn [33], chẳng kể tại gia xuất gia. Không nề tăng tục, chỉ cốt biện tâm. Vốn không gái trai, chẳng nên trước tướng. Người chưa tường còn chia tam giáo [34], Liễu được thấu đều ngộ nhất tâm. Nếu hay chiếu sáng rọi về, đều được thấy tánh thành Phật. Lại nữa, thân người dễ mất, Phật pháp khó nghe. Muốn vượt sáu ngả mãi xoay tròn, chỉ có nhất thừa là đường tắt. Nên tìm chính kiến, chớ tin ta sư. Ngộ được chính là chỗ vào, làm xong mới hay thoát tục. Bước bước xéo đạp thật địa, đầu đầu mang đội hư không. Khi dùng thời muôn cảnh đều phô, thu lại thời mảy may hết sạch. Vượt lên chỗ chẳng tương quan sinh tử, thấu tới cơ khó thấu hiểu quỷ thần. Là phàm là thánh, cùng vào một đường; hoặc oán hoặc thân, cùng chung hổng mũi. Thật ngộ như thế, con trệ nửa đường. Ngưng nói hướng thượng tam huyền [35], cần rõ một bước sau chót [36]. Hãy nói, tức là hiện nay gọi cái gì là một bước sau chót.

    Non xanh thoai thoải nhìn trời rộng, Sen biếc ngạt ngào đượm nước hương [37].


VĂN RĂN SÁT SINH

    Ôi! Noãn, thai, thấp, hóa [1] tính cùng, thấy, nghe, hiểu, biết điều khác. Chỉ nhân tạo nghiệp chứa oan, nên chịu khác tên riêng hiệu. Trước kia vốn nhân luân cùng loại, đời nay chia đàn, giống khác nhau. Hoặc bạn bè, là huynh là đệ. Thay đổi áo xiêm đai mũ, biến làm vẩy giáp lông sừng. Chồng quên vợ, vợ quên chồng, bố trái con, con trái bố. Đã thấy đổi đầu thay mặt, dẫn tới khoét ruột chặt chân. Luống mong sợ chết tham sinh, không lời kêu đau nói khổ. Nó giết hắn, hắn giết nó, người ăn họ, họ ăn người, oan trái lâu dài, chẳng bao giờ hết. Đời đời báo oán, kiếp kiếp thù nhau. Kẻ quay đầu được đến quê hương, người phóng tâm chìm sâu địa ngục. Sách Nho thi nhân bố đức, kính Đạo yêu vật hiếu sinh. Phật duy giới sát phải trì. Người nên tuân làm chớ phàm.

KỆ RẰNG :

Cánh, lông, vẩy, giáp mọi hàm linh,
Chết sợ, sống ham, há khác tình.
Từ trước Thánh hiền lòng chẳng nỡ,
Đoái nhìn chết chóc với tham sinh.

(Vũ mao lân giáp tận hàm linh,
Úy tử tham sinh khởi dị tình.
Tự cổ Thánh hiền hoài bất nhẫn,
Yên năng kiến tử dữ tham sinh).


VĂN RĂN TRỘM CẮP

    Ôi! Người làm nhân nghĩa là quân tử, kẻ chuyên trộm cướp ấy tiểu nhân. Quân tử lòng thương giúp côi cùng, tiểu nhân ý tham lam tiền của. Chiếm của kẻ khác, làm của riêng mình. Lờ cả tình người, chuyên lo ích kỷ. Nào biết giầu sang do trời định; chẳng hay tham cầu bở ý ham. Ăn gan [1] đục nhà, đào tường khoét vách, Sơn Dương tướng-quân [2] nối gót, Lương Thượng quân tử [3] tập làm; ngược trời trái đất, dối pháp khinh hình. Còn sống gặp công lý thi hành, chết rồi bị Minh Vương tra khảo. Đâu chỉ chứa vàng chất ngọc, ngay đến một bụi mẩy lông. Ngửi sen ao địa thần còn la [4], lấy tiền lời Diêm Vương cũng phạt. Lưới trời lồng lộng, làm thiện thoát làm ác tội mang; Phép nước thênh thang, làm công khỏi làm riêng phạm pháp.

KỆ RẰNG :

Khoét vách đào tường ý hiển sâu,
Trăm phương ngàn kế khổ tìm cầu.
Của người ví được thời nay đó,
Rồi phải muôn đời kiếp ngựa trâu.

(Tạc bích xuyên tường ý bất hưu
Thiên ban bách kế khổ doanh cầu.
Kim sinh cẩu đắc tha nhân vật,
Bất giác chung thiên thụ mã ngưu).


VĂN RĂN GIỚI SẮC

    Ôi! Lưng ong tóc mượt, hay khiến tính hoặc tâm mê. Sắc én mày ngài, đưa đến hồn phiêu phách lạc. Mắt đưa đẩy con dao không liếc ai chẳng nát lòng, lưỡi rung rinh một ống sáo diều, hết đều ngây ngất. Kẻ mê say đoạn nghĩa thày bạn; người tham đắm đức mất đạo tan. Trên mà phong giáo chẳng còn, dướt tất khuê môn rối loạn. Chẳng kể học lưu thế tục, hay hàng Tăng lữ xuất gia. Phép nước sụp đổ ở Tô đài [1], giới thể [2] chôn vùi nơi dâm thất. Chỉ giương mắt nhìn ngoại cảnh, chẳng quay đầu chiếu nội tâm. Cởi bỏ lụa là quanh mình, vẫn lộ da bì bọc thịt. Độc giác [3] gần nữ am hoàn tục, Chân quân xa thán phụ thăng thiên. Người chẳng đắm được năm thần thông [5], kẻ đam trước mất phần giới hạnh.

KỆ RẰNG :

Má trắng môi son điểm phấn hồng,
Nhìn rồi đưa mắt ý mơ mòng.
Chẳng qua một túi da nhơ bẩn,
Cắt đứt ruột người chẳng tốn công.

(Tai nhược mai hương kiểm nhị đào,
Kiến chỉ mục tống ý đao đao.
Đô lô nhất đại cơ bì xú,
Ám đoạn nhân trường bất dụng đao).


VĂN RĂN VỌNG NGỮ

    Ôi! Thiện ác ở tâm làm gốc, hoạ phúc do miệnh gây ra. Nghĩ một câu vang ứng không sai, nói một lời bóng theo chẳng chệch, quân tử trọng lời như biện [1], cổ nhân giữ tiếng tựa bình. Nói ra lấy thẳng làm công, phát ngôn không thiên không lệch. Không nói đây kia tốt xấu, chẳng bàn phải trái người mình. Đâu đám khua lưỡi máy môi, chỉ hay gìn lời giữ miệng. Mang cái nghiệp trong thân đã nặng, song lỗi lầm vạ miệng đứng đầu. Chẳng những người nói vọng ngôn, còn khiến kẻ nghe làm bậy. Lúc sống người đời khinh miệt, chết rồi bị nghiệp kéo lôi. Hoặc kềm sắt kéo lưỡi, cam chịu chua cay; hoặc nước đồng rót miệng, mang dài khổ não.

KỆ RẰNG :
So vai siểm nịnh [2] Lưỡi đầu môi.
Vọng ngữ người đời mãi thế thôi.
Nhặt ý cầu vui màng chút lợi,
Sau cùng khó tránh nghiệp luân hồi.

(Hiếp kiên siểm tiếu thiệt dao thần,
Vĩnh tác trần hoàn vọng ngữ nhân,
Tứ ý cầu Hoan xu thế lợi,
Đáo đầu tranh miễn nghiệp triền thân).


VĂN GIỚI RƯỢU

     Ôi! Người ham rượu đức hạnh chẳng còn, kẻ uống rượu nói năng lầm lẫn. Hơi xông nát ruột, mùi thấu dạ dày. Bại hoại tinh thần, hôn mê tâm tính. Hai thân chẳng đoái, năm nghịch [1] chuyên làm. Hoặc huyên náo nơi quán ăn, hoặc say sưa trên đường phố. Chửi trời mắng đất, hủy Phật báng Tăng. Thả môi miệng hát ca, trần thân mình nhảy múa. Chẳng biết đến Phật cúng dường, theo phường mũ đen áo lệch [2]. Bỏ thân mạng từ đó mà sinh, mất nước, nhà do đây mà có. Ngừa đi thì ngàn lành đều họp, uống vào thời trăm vạ cùng mang. Đại Vũ [3] bỏ rượu mà trăm họ theo mừng. Thái Khang đắm rượu nên năm em oán trách. Đâu chỉ bậc phong lưu phải giữ, ngay cả người đạt ngộ cũng phòng. Bao nhiêu rực rỡ trên đời đều bị lu mờ trong rượu.

KỆ RẰNG :
Men bã một vò rượu nấu thành,
Bao nhiêu người trí mất thông minh.
Chẳng riêng phá giới người tu đạo,
Mất nước tan nhà tự đó sinh.

(Nhất ủng tao khang cúc nhưỡng thành,
Kỷ đa trí giả một thông minh.
Phi duy độc phá chuy lưu giới,
Bại quốc vong gia tự thử sinh).

(còn tiếp)


    Nguồn: Trần Thái Tông Hoàng đế. Khóa hư lục. Thích Thanh Kiểm dịch. Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh ấn hành. Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997. Bản điện tử: http://www.quangduc.com. Biên tập lại: triethoc.edu.vn.


  
    CHÚ THÍCH :

    Văn Khuyên phát tâm Bồ Đề :

    [1] Ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên mép : - đều là những tỷ dụ, ám chỉ cho kẻ ngu, chỉ ham cái lợi nhỏ trước mắt, mà bỏ mất cái lợi ích quan trọng.

    [2] Buổi sớm được nghe đạo : Sách Luận ngữ, thiên Lý nhân, Đức Khổng Tử nói: "Chiêu văn đạo tịch tử khả hỷ".

    [3] Ta sở dĩ có cái lo lớn, vì ta có thân : sách Đạo Đức Kinh, ngài Lão Tử nói: "Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân".

    [4] Trong ấp mười nóc nhà còn có người trung tín : Lấy câu trong sách Luận ngữ: "Thập thất chi ấp, thượng hữu trung tín.

    [5] Nghiệp thức : Nghiệp thức là hoặc của căn bản vô minh. Tâm nguyên của bản giác vốn không có tướng động từ lúc đầu, nhưng thình lình bị lay động bởi bất giác, đó là nghiệp thức.

    [6] Trần lao : Phiền não của 5 dục, sáu trần làm ô nhiễm nơi thân tâm thanh tịnh mà phải khổ, nên gọi là trần lao. 5 dục: Tài, sắc, danh, thực, thụy; 6 trần tức là 6 cảnh: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

    [7] Thôi tướng công : Chỉ quỷ sứ canh ngục.

    [8] Dưới núi ốc tiêu : Ở đáy biển có núi rất lớn gọi là ốc tiêu. Dưới núi ốc tiêu có địa ngục A tỳ, lửa thường nung đốt, núi thường nóng chảy.

    [9] Bàng Công cư sĩ : Tức là Bàng Uẩn, hiệu là Đạo Huyền, người huyện Hành Dương, Trung Quốc, vốn theo nho nghiệp, tư chất thông minh, sau tham thiền ở Thạch Đầu Hy Vận, hoát nhiên liễu ngộ, và đắc pháp ở ngài Mã Tổ Đạo Nhất.

    [10] Chân Võ : Đời nhà Hán, Thái tử vua nước Trịnh Lạc, khi sinh ra có nhiều điểm lạ, lớn lên có chí trừ khử ta ma, vượt biển Đông gặp thiên thần trao cho bảo kiếm. Chân Vũ tu luyện ở núi Đông Hải 42 năm thành công, ngay ban ngày bay lên không, được vâng mệnh Thượng đế trấn thủ phương Bắc. Vốn tên là Huyền Võ sau đổi là Chân Võ.

    [11] Lã Công : Tức là Lã Đồng Tân, người Kinh Triệu đời Đường. Chính tên là Nham, tên chữ là Đồng Tân, lại gọi là Lã Tổ, hiệu là Thuần Dương Tử, một người trong bát tiên của Đạo Giáo.

     [12] Tô học sĩ : Tức Tô Thức, tên chữ là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha cư sĩ, người Mi Sơn, đời Tống. Viếng chùa Kim Sơn ở Tô Châu, gặp Phật Ấn Liễu Nguyên thiền sư, vấn đáp về thiền đạo, phục tài cao của Phật Ấn , liền cỡi đai ngọc để tại chùa Phật Ấn kỷ niệm.

    [13] Hàn Văn Công : Tức Hàn Dũ, người Xương Lê đời Đường, đậu Tiến sĩ. Vì dâng biểu can vua Hiến Tông rước Xá Lợi Phật vào cung, nên bị đày đi Trào Châu. Ở đây, Hàn Dũ có viết thư mời Đại Điên Thiền sư chùa Linh Sơn ở phía tây Trào Châu để tranh luận về đạo cùng nhau đi lại nhiều lần, sau quy y Đại Điên.

    [14] Bùi Công : Tức Bùi Hưu, một người học Phật đời Đường, họ Bùi, tên Hưu, tên chữ là Công Mỹ, đậu Tiến sĩ, giao du cùng ngài Khuê Phong Tông Một, thông đạt kinh Hoa Nghiêm, sau đắc Pháp ở Ngài Hoàng Nghiệt Hy Vận thiền sư. Đoạt hốt. – các quan đại thần xưa, khi triều vua tay thường cầm cái hốt ở tay đế tâu bạch, hay thụ mệnh, ngoài ra dùng để ghi chép những sự kiện cho nhớ. Vậy đoạt hốt có nghĩa là, Bùi Hưu bị đoạt mất chí khí ở ngài Thạch Sương. Thạch Sương: Tức Thạch Sương Khánh Chư, cao tăng đời Đường, thuộc họ Thanh Nguyên, tham thiền ngài Qui Sơn, thấu được áo chỉ, trụ ở núi Thạch Sương, châu Đàm, được vua Đường Hy Tông ban áo cà sa gấm.

    [15] Phòng Tướng : Tức Phòng Huyền Linh, tên hèm là Văn Chiêu, 18 tuổi đậu Tiến sĩ, giúp Đường Thái Tông dấy nghiệp, làm chức Tể Tướng, được phong tước Lương Quốc Công. Quốc Nhất : Tức Đạo Khâm thiền sư, người huyện Côn Sơn thuộc Tô Châu, được Đường Đại Tông vời vào cung hỏi đạo, ban cho hiệu Quốc Nhất thiền sư.

   [16] Diệu Thiện : Tức Diệu Thiện công chúa, tiền thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nam Sơn Tuyên Luật sư thường hỏi Thiên Thần về duyên khởi của Đức Quán Âm. Thiên Thần thưa: Về kiếp quá khứ xưa kia có vua Trang Vương, phu nhân tên là Bảo Ứng sinh được 3 gải. Con lớn là Diệu Dục, con thứ là Diệu Ân, con út là Diệu Thiện. Diệu Thiện chỉ chuyên việc tu hành, không lập phò mã (cũng tương tự như sự tích chùa Hương Tích Việt Nam).

    [17] Lục Tổ : Tức Tổ Huệ Năng, Tổ thứ 6 của Thiền tông đời Đường, cũng gọi là Đại Giám Tuệ Năng. Ngài họ Lư, mồ côi cha từ lúc 3 tuổi, nhà nghèo, phải đi kiếm củi nuôi mẹ. Một ngày mang củi vào chợ bán, nghe người đọc kinh Kim Cương, liền nẩy ý chí xuất trần nhập đạo.

    [18] Hoa Lâm : tức Hoa Lâm thiền sư. Đầu-Tử : tức Đầu Tử Nghĩa Thanh thiền sư.

    [19] Lý trưởng giả: Trưởng giả họ Lý hay trưởng giả họ Trần, ám chỉ người giải kinh hay mà được chư Thiên cúng dường thức ăn.

    [20] Tu Bồ Đề : Một vị trong thập đại đệ tử của Phật, giải không bậc nhất. Một hôm Tôn giả Tu Bồ Đề ngồi thiền định, chư Thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏi: "Trong không mưa hoa tán thán đó là người nào?" Chư Thiên nói: "Tôi là Trời Đế Thích". Tôn giả nói: "Ngươi cớ chi tán thán?" Đáp: "Tôi trọng Tôn giả khéo nói Kinh Bát Nhã". Hỏi: Ta chưa từng nói một chữ trong kinh Bát Nhã, tại sao ngươi tán thán?" Đế Thích thưa: "Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nói không nghe, là chân Bát Nhã".

    [21] Đạt Ma : tức Bồ Đề Đạt Ma. Tổ thứ 28 Thiền tông ở Ấn Độ, đệ nhất Tổ ở Trung Quốc. Ngài sang Trung Quốc thời đại Nam-Bắc triều, ở chùa Thiếu Lâm. Khi mất táng ở núi Hùng Nhĩ. Theo truyền thuyết nói. "Có sứ giả Trung Quốc đi sứ Ấn Độ, trên đường về, gặp Đạt Ma chỉ đeo một chiếc dép, đang trở về Ấn Độ. Khi về báo với vua Lương, vua sai đào mộ Đạt Ma xem, thấy trong mộ chỉ có một chiếc dép".

    [22] Phổ Hóa : tức Phổ Hóa hòa thượng ở Trấn Châu, đời Đường, đệ tử của Bàn Sơn Bảo Tích thiền sư, thường giúp Lâm Tế Nghĩa Huyền thiền sư hoằng hóa. Bình thường khi vào chợ, ngài rung chuông và nói: "Đầu sáng lại xua đầu sáng, đầu tối lại xua đầu tối, xua gió xoáy bốn phương tám hướng lại, xua cả hư không lại".

    [23] La Hán : Tức La Hán Quế Thâm, người Thương Sơn, đời Đường, phái Thanh Nguyên. Ngưỡng Sơn : tức Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch, đắc pháp ở Qui Sơn Linh Hựu thiền sư.

    [24] Nhạc Đế : tức thần chúa tể núi Đông Nhạc Thái Sơn. Tư Đại thiền sư: tức Tuệ Tư đại sư, hiệu là Tư Đại hòa thượng. Tư thiền sư còn gọi là Nam Nhạc Tư Đại thiền sư.

    [25] Kính Sơn : tức Vô Chuẩn sư phạm, tông Lâm Tế, tham vấn Tú Phong thiền sư, vâng chiếu chỉ ở chùa Kính Sơn, được ban hiệu: "Phật Giám Thiền Sư".

    [26] Tuyết Phong : Tức Tuyết Phong Nghĩa Tồn, hệ Thanh Nguyên đời Đường, pháp tư của Đức Sơn Tuyên Giám. Người gỗ mở rừng: Dụ xa lìa được suy nghĩ phân biệt.

    [27] Cáo đồng : Theo công án Bách Trượng Dã hồ - "Mỗi khi ngài Bách Trượng thượng đường, thường có một lão tăng đến nghe pháp, rồi theo chúng giải tán. Một hôm không đi, Bách Thượng hỏi: Đứng đó là ai? Lão tăng thưa: Tôi từ thời Phật Ca Diếp đời quá khứ, thường trụ ở núi này, có một học nhân hỏi: "Người đại tu hành, lại phải rơi vào nhân quả chăng?" Tôi đáp: "Chẳng rơi vào nhân quả". Do đó tôi bị đọa làm thân cáo đã 500 kiếp. Nay xin hòa thượng thay cho một chuyển ngữ". Bách Trượng nói: "Chẳng mờ nhân quả" (bất muội nhân quả). "Lão tăng nghe nói xong đại ngộ".

    [28] Ốc vặn hộ kinh Kim Cương : Theo điển, kinh Kim Cương bị rơi xuống nước, cả bầy ốc xúm lại mà đỡ bộ kinh lên cạn.

    [29]Mười ngàn cá : Theo điển, mười ngàn con cá do nghe kinh, mà kiếp sau thác sinh làm vua.

    [30] Năm trăm dơi : Tây Vực Ký chép: Bờ Nam Hải có một cây khô, có 500 con dơi ở trong hốc cây, vì ham nghe người đọc kinh, bị lửa đốt nóng mà không hay, nên bị cháy cả, được hóa kiếp thành người, bỏ nhà học đạo, đều thành Bồ Tát.

    [31] Trăn nghe sám : Vợ vua Lương Võ Đế, vì ác nghiệt, chết phải đọa làm kiếp trăn, báo mộng cho vua tụng kinh sám hối, được thác sinh lên trời.

    [32] Rồng nghe kinh : Theo điển, Bồ Tát Văn Thù giảng kinh cho bầy rồng nghe, mà đều giác ngộ.

    [33] Đại ẩn, tiểu ẩn: Đại ẩn, ẩn dật nơi chợ búa. Tiểu ẩn, ẩn dật nơi núi rừng.

    [34] Tam giáo : Phật Giáo, Nho Giáo, Lão Giáo.

    [35] Ngưng nói hướng thượng tam huyền : tức hãy ngưng nói con đường hướng thượng, nghĩa là hướng thượng tới chỗ cùng cực, thời cần phải một bước nữa hướng hạ để hóa độ, nên phải cần rõ một bước sau chót (yếu liễu mạt hậu nhất trước). Tam huyền : tức tam cú, tam huyền, tam yếu. Tam cú (ba câu) :

Tăng hỏi Lâm Tế thiền sư: Thế nào là câu thứ 1? Sư đáp:
Tam yến ấn khai chu điểm trắc,
Vị dung nghĩ nghị chủ tân phân.
(Nói về mặt thật tướng của vô vị chân nhân).

Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ 2? - Sư đáp:
Diệu giải khởi dung vô trước vấn,
Au hòa tranh phụ tiệt lưu cơ.
(Nói về mặt biểu hiện của vô vị chân nhân).

Tăng hỏi: Thế nào là câu thứ 3? - Sư đáp:
 Khán thủ băng đầu lộng ổi lỗi,
Trừu khiên đô lai lý hữu nhân.
(Nói về phương diện hành vi của vô vị chân nhân).

    Tam huyền, tam yếu: trong một câu có đủ tam huyền môn. Trong một huyền môn có đủ tam yếu. Có quyền, có thật. Vậy danh từ tam huyền, tam yếu không chỉ rõ số mục nhất định là gì? Có thể số 1 là "có", số 2 là "không", số 3 là chẳng phải "có, không".

    Đó là một quá trình tư duy rất thiết yếu và huyền diệu.

    [36] Một bước sau chót - (Mạt hậu nhất trước) : Mạt hậu có nghĩa là cuối cùng, chí cực, nghĩa cùng cực của chí đạo. Nhất trước nghĩa là một bước đi, một nước cờ, hay một câu. Vậy một bước sau chót có nghĩa là một bước, một câu cùng cực của Phật đạo.

    [37] Hay câu này diễn tả về diệu thú hiện thành của chân như pháp tánh. Cũng như câu: "Sơn thị sơn, thủy thị thủy".

    Văn răn sát sinh :

    [1] Noãn, thai, thấp, hóa tức là tứ sinh, bốn loài sinh:
1 - Noãn sinh, loài từ trứng mà sinh ra.
2 - Thai sinh, loài từ bào thai mà sinh ra.
3 - Thấp sinh, loài từ nơi ẩm ướt mà sinh ra.
4 - Hóa sinh, loài từ tự nhiên mà hóa sinh ra.

    Văn răn trộm cắp :

    [1] Ăn gan : Dịch chữ "bộ can", Thiên “Đạo Chích” sách Trang Tử có câu: "Khoái nhân can nhi bộ chi", cắt gan người mà ăn đấy. Đạo Chích, tên là Chích làm nghề ăn Trộm, nên có tên là Đạo Chích. Ngày nay ví kẻ ăn trộm là Đạo Chích.

    [2] Sơn Dương tướng quân: Tức tướng quân đất Sơn Dương. Theo quẻ bói của Chu Công, kẻ lập ấp ở đất Sơn Dương, người hiền thì được phồn thịnh, kẻ bất lương thì bị lụn bại; lấy ý này để ám chỉ cho kẻ tướng cướp, nên gọi là Sơn Dương tướng quân.

    [3] Lương Thượng quân tử : Tức kẻ trộm trên xà nhà. Tên riêng chỉ cho kẻ trộm. Đời Hậu Hán, Trần Thực biết trên xà nhà có kẻ trộm, liền gọi con cháu lại dạy rằng: "Con người bản tính thiện". Nghĩa là con người bất thiện vị tất vốn ác, vì tập nên thành thói xấu, thành kẻ Lương thượng quân tử. Kẻ trộm nghe biết rất kinh sợ, liền nhẩy xuống đất tạ tội. Trần Thực khuyên bảo cải thiện, sau cả huyện không có một kẻ trộm.

    [4] Ngửi sen ao Địa thần mắng: Theo điển, xưa có vị Tỷ kheo đi qua ao sen dừng lại ngửi, Thần đất mắng vị Tỷ kheo là ngửi trộm mùi hoa.

    Văn răn giới sắc :

    [1] Tô đài : Vua Ngô Phù Sai đời Xuân Thu vì mê Tây Thi trên đài núi Cô Tô mà mất nước.

    [2] Giới thể : Thật thể của giới. Do nơi biểu hiện của tác lễ, khất giới, bạch tứ yết ma phát được giới thể. Tức tánh của Tỷ Kheo.

    [3] Độc giác : Tiếng Phạn gọi là BíchChi Phật (Pratycka-Buddha) một bậc Thánh hiện thân tự tu tự ngộ, tức vô sự độc ngộ.

    [4] Chân quân : Tức chân tiên, chỉ cho các đạo sĩ tu tiên. Thán phụ hay Thán phụ tu: Người đàn bà bằng than. Theo truyền thuyết, Trương Đạo Lăng, tu pháp thuật, luyện đan phù chú, người theo học rất đông. Một hôm Đạo Lăng đẽo than làm thành một người đàn bà rất đẹp để thử môn đồ. Trong số môn đồ nếu người nào đạo tâm chưa kiên cố mà đụng vào thì tay đều bị nhuộm đen. Nên có câu: "Đạo sĩ do hoài Thán phụ tu" (Đạo sĩ còn màng Thán phụ tu - Tu là xấu hổ).

    [5] Ngũ thần thông : Gọi tắt là ngũ thông:
1 - Thiên nhĩ thông : tai nghe khắp mọi cảnh giới.
2 - Thiên nhãn thông : mắt thấy khắp mọi cảnh giới.
3 - Túc mệnh thông : biết được các kiếp về trước.
4 - Tha tâm thông : thấu suốt được tâm niệm của mọi người.
5 - Thần túc thông : đầy đủ thần thông biến hóa, bay đi tự tại.

    Văn răn vọng ngữ :

    [1] Như biện : Như thành cái giường, ý nói lời nói ra phải chắc như đinh đóng cột.

    [2] So vai siểm nịnh : Dịch ở câu "Hiếp kiên siểm tiếu". Trong thiên “Đằng Văn Công” sách Mạnh Tử có câu: "Hiếp kiên siểm tiếu". Hiếp kiên là so vai, trạng thái kinh sợ. Siểm tiếu: Cười nịnh, nét mặt hớn hở nịnh bợ.

    Văn giới rượu :

    [1] Năm nghịch: Dịch ở chữ "ngũ nghịch":
(i) Giết cha,
(ii) Giết mẹ,
(iii) Giết A La Hán,
(iv) Phá hòa hợp Tăng,
(v) Làm chảy máu thân Phật.

    [2] Mũ đen áo lệch : tức vua Đại Vũ nhà Hạ. Thái Khang : Cháu vua Vũ nhà Hạ. Thái Khang có 5 người em, nên chữ ngũ tử đây dịch là 5 em.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved