Home » » SÀI GÒN TẠP PÍN LÙ-P3

SÀI GÒN TẠP PÍN LÙ-P3

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012 | 00:19

8.: Lo đòi hột xoàn

Mà sướng thật? Bây giờ mới là chinh chông, không nhà không chỗ ở; Thầy cai đưa tôi về khách lầu Nam Việt, đầu đường Sạt-ne (Charner, nay là đường Nguyễn Huệ) tận bờ sông Sài Gòn nên mát mẻ lắm. Ở đặng hai tuần thì thầy cai tính về Trà Vinh, vì đã mãn phép. Thầy mời tôi về theo, bụng tôi cũng muốn như vậy lắm, nhưng Má Tư làm kỳ đà, cản rằng thầy có vợ lớn, có tiếng là dữ, về dưới như “nhục huyền hổ khẩu”. Trong làng vợ thầy cai Phó, không khác trên nầy là bà Nguyên soái, bà Phó soái chớ không chơi, và bộ hạ của chúng, tôi làm sao lại. Nghe vậy hồn vía tôi lên mây nên đòi ở lại, túng thế thầy phải dọn phố cho tôi hẹn đến lễ Chánh chung (chánh trung) cách-to ru-dết (14 juillet) sẽ lên thăm.

Lúc ở khách sạn với thầy cai, bụng tôi đang bấn loạn lo việc anh Hạch dầu sao cũng là mối tình đầu, tôi rầu rĩ cả ngày, bỏ hết mọi việc, việc âu yếm với thầy cai tôi cũng bơ phờ, mặc cho duyên mới mảng sầu tình xưa, tóc biếng chai gương biếng soi, nghĩ mình đoản hậu quá, nhưng giữa cơn cụp lạc, thầy cai khen nét tôi ủ dột bằng mười điếm trang. Trong trí nhớ hai cái hột kia còn gởi Má Tư mà tôi cũng không lo đòi. Thầy cai dỗ tôi cách nầy cách nọ đủ thứ, tôi được trớn lại càng nhõng nhẽo. Giá thử má tôi lên gặp tôi lúc nầy thì xấu hổ cho con biết mấy. Ai tập tành mà tám nghề bảy ngón như vầy? Nay thầy cai về dưới rồi, tôi rảnh tay rảnh chân, sực nhớ hai hột kim cương tôi qua đòi má thì hỡi ôi, má nói đã cầm rồi, chờ vài tháng có tiền sẽ chuộc. Cha chả? Nghe mà tức ói máu! Té ra nào là vàng chuỗi neo kiến gì của tôi, má đã lấy một bận rồi, cái tấm trinh của tôi má cũng bán đứng ăn rồi, nay đến lượt hai hột xoàn nầy, má cũng toan giựt nữa. Của người ta cho tôi bao nhiêu, một mình má ăn hết ráo trọi. Vừa vừa vậy chớ. Công má tôi mang nặng đẻ đau, công tía tôi dạy dỗ nên người, sanh ra tôi nuôi cho lớn khôn nên vai nên vế rồi để cho má một mình lợi dụng. Càng nghĩ càng thấm mật, tức tối vô cùng, nhưng thân phận đàn bà vô thân, nhè đưa cán cho má cầm, lưỡi dao bàn về mình nắm, biết làm sao đây.

Một bữa nọ tôi ngồi chơi trước phố đang rầu buồn, bỗng thấy đàng xa đi lại là thầy thông ở căn bên cạnh. Vừa thấy tôi, thầy đã dở nón cúi đầu chào lễ phép. Mà tôi đã có ý xem, từ hôm tôi dọn về đây cho đến nay, mỗi lần thầy gặp tôi là khúm núm ké né xem tôi như là một bà thần sống. Mà coi bộ người nầy thật là nết na đằm thắm, mặt mày thêm hiền hậu không láo nhao như mấy cậu trai lơ kia. Tôi nghĩ trong bụng để mình làm quen và hỏi thăm thầy nầy xem có thể chi kiện má ra toà đòi hai hột xoàn kia được chăng. Người nầy xem bộ đàng hoàng phúc hậu không ba que xỏ lá, ắt tin cậy được. Chờ cho thầy vừa đi ngang nhà, tôi cung kính mời: “Xin lỗi, em mời thầy vào nhà chơi cho em hỏi chút việc”.

Thầy lật đật bước vào, nỗi mừng hai đứa đứa nào hơn? Thầy tươi cười bắt chuyện: “Có việc chi cần dùng đến tôi, xin cô cứ nói, chớ ngại”. Tôi mới thuật nửa úp nửa mở rằng tôi có gởi hột xoàn cho một người, nay họ muốn giựt vậy mình có thể kiện đòi lại được hay không? Thầy hỏi tôi khi gởi có biên lai gì hay chăng. Tôi trả lời rằng không. Tôi thấy mặt thầy có vẻ buồn lo. Thầy hỏi tiếp: “Lúc gởi có ai ngó thấy hay không?”. Tôi lắc đầu. Thầy cũng lắc đầu theo và chắt lưỡi: “Chà! Vậy lấy chứng cớ đâu mà kiện!”. Rồi thầy hỏi dồn: “Mà người ấy có bà con thân thích chi với cô mà cô tin người ta như vậy?”. Tôi đáp cũng mới quen có ít tháng nảy mà thôi. Thầy ngó tôi và chậm rãi nói: “Thưa cô, chuyện nầy thiệt khó hiểu. Nói thiệt, nếu cô muốn cậy tôi thì tôi rất sẵn lòng vừa giúp cô dầu khó nhọc cách mấy tôi cũng không câu nệ, vì thấy cô coi bộ ít quen biết với ai ở đây. Song cô phải tin tôi, mà đọc lại cho rõ ràng mọi sự, thì hoạ may tôi có thế toan tính gỡ rối cho ra, nếu thưa kiện không xong, thì có thế khác. Chớ cô nói không cặn kẽ thì tôi biết mối đâu mà gỡ”. Thấy tôi do dự, thầy lại tiếp: “Có lẽ cô mới biết tôi lần thứ nhứt mà đem tâm sự giải bày thì cũng ngỡ ngàng cho cô đó chút. Cô cho tôi hỏi: Vậy chớ cái người cô gởi hột xoàn đó, cái thế họ còn ở đây lâu dài, hay họ là người trôi nổi bình bồng, nghĩa là cô có sợ nó bỏ đất Sài Gòn mà đi mất biệt hay không?”. Tôi cười liếc mắt tình tứ mà rằng: “Không, dạ thưa thầy không. Người ấy ở đây hoài hoài, hổng có đi đâu hết. Cái sự người ấy trốn, thiệt tôi không sợ”. Thầy mừng mà rằng: “Như vậy thiệt là may. Việc đâu còn có đó. Cô với tôi nay ở gần nhà, thủng thẳng đây sẽ biết thêm nhiều và quen lớn thêm nhiều. Ngày nào cô đủ sức tin tôi thì cô sẽ nói, cung chẳng muộn chi!”.

Chẳng biết sao nghe lời thầy nói một cách hiền từ thành thiệt quá, làm cho tôi hết e lệ hổ ngươi, lúc ấy tôi coi thầy thư là người anh ruột hay là một người thân thích đã quen biết từ chín mười năm rồi vậy, nên tôi bèn thuật lại đâu đuôi gốc ngọn, các sự việc ra sao, không sót một điều, một mảy may. Tôi lại ráng đem hết cái tài văn hoa ăn nói của cái xứ Kim sơn, Xoài hột ra mà dùng, không câu người nầy bang bằng sắc nàng Thuyền, mà phải câu bằng đầu môi chót lưỡi của nàng Điêu trong Tam quốc chí. Duy khi nghe tôi dùng chữ “diếm” thay vì nói “dám”, thầy cười mà hỏi tôi có phải người gốc gác Sầm giang Rạch ông Hổ chăng. Tôi hỏi tại sao thầy biết. Thầy cười nói tiếp: “Thưa cô, vì cô không dám phạm huý chữ “dám” trùng âm với “giám, thái giám” đụng chạm đến cái tiêu tật hay ấn tật của ngài Tả quan Lê. Tôi cũng là người Chợ Giữa, vì sinh nhai trôi nổi lên đây, như đã nói, càng biết càng thân ấy mà!”. Thầy cười lỏn lẻn nói: “Chuyện nghe đã rõ, thôi cô cứ yên tâm, để tôi về tôi lo kế”.

Cách ba bữa sau, thấy trở lại, dặn tôi: “Con mẹ Tư Hớn đó không phải vừa. Nếu chẳng làm cho nó trúng kế thì dẫu trời đánh nó cung không nhả hai cái hột xoàn kia ra đâu.”. Chừng, thầy kê sát tai tôi nói nhỏ rằng phải làm như vầy, như vầy, và căn dặn tôi đây tới đó phải giấu nhẹm, người khác biết được thì hư chè hư xôi hết.

9.: Má Tư trúng kế

Hai ngày kế đó, thầy dắt lại tôi một ông già trông đạo mạo ra phết, và nói: “Ông lão nầy sẽ giả làm ông thân của cô. Vậy khi cô thấy mặt ông tại nhà con mẹ Tư Hớn đó, cô phải làm bộ như cô gặp ông già ruột của cô vậy, nên cô sợ mà chạy trốn vào trong. Còn ổng, ổng làm bộ giận dữ, mắng cô ít tiếng, thì công việc sẽ xong”. Tôi nghe theo lời thầy dặn, nên nói với Má Tư, tôi ở một mình buồn, muốn về ở chung với má cho vui. Má nghe tôi nói thì mừng lắm, biểu tôi bán bớt những gì không cần dùng, rồi dọn về.

Tôi kêu lối xóm bán đồ, mà kỳ thật mấy người nầy vâng lời thầy thông dặn trước nên họ giả đò mua rồi chở đi hết, chờ xong việc sẽ trả lại cho tôi. Xong xuôi, tôi xách hoa ly áo quần, về nhà Má Tư.

Ở chưa đặng bốn năm ngày chi đó, kế thấy thầy thông nọ đi với ông già, xăm xúi bước vô nhà Má Tư mà hỏi lớn: “Phải nhà bà Tư Hớn đây không?”. Chưa ai kịp nói gì, kế ông già ngó trực thấy tôi thì a lại hét rằng: “Con chó chết!”. Tôi la hoảng: “Uý! Trời? Tía tôi!” Vừa la tôi vừa chạy vô buồng để trốn, nhưng ông già nầy còn khoẻ quá áp chạy theo toan đánh. Má Tư đứng cản nơi cửa buồng, ổng vụt la lớn tỏ ra giận dữ: “Còn con mẹ nầy nữa! Bộ muốn chết hay sao? Diếm cản cửa tao? Tao có giấy Biện lý cho tao đi bắt con tao, chớ phải không sao? Nè! Giấy Biện lý đây nè, thấy không?”.

Đưa ra thấy một miếng giấy có con dấu đóng đỏ lòm, rồi ông điểm mặt Má Tư mà rằng: “Tội mấy đụ dỗ con gái tao chưa đúng tuổi thành nhơn, bắt về rước khách, ở tù không sợ; mà mấy còn cả gan diếm cản trở tao à? Nè thầy Sáu Hãy để đó, chạy lại bót ông Cò, kêu lính lại đây tức thì, coi con mẹ nầy còn diếm cứng đầu cứng cổ hay không?”. Thầy Sáu vội vã đứng dậy... nhưng Má Tư sợ đã khiếp vía, nên cầm tay xin thầy khoan đi, để cho má đọc rõ đầu đuôi, oan má lắm!”. Thầy Sáu nạt: “Oan ức gì? Tang tích đã rõ ràng, dụ dỗ gái tơ hành nghề mãi dâm, tội đại hình chạy trời không khỏi?”. Má xuống nước, năn nỉ khẩn cầu, xin tía tôi với thầy nọ ngồi nghe má đọc công chuyện tôi, không phải má dỗ dành, vì tại thấy tôi bơ vơ nên làm phước nuôi tôi vậy thôi.

Tía tôi không tin, biểu má kêu tôi ra giáp mặt cho ổng hỏi. Đó rồi, tôi bước ra, ổng bắt tôi thuật lại rõ ràng tự sự, từ hồi ở nhà bước ra, vân vân. Tôi giả bộ run sợ, đọc lại hết mà không quên chuyện má mượn vàng chuỗi, lại với chuyện tôi gởi má hai hột xoàn mà má chưa trả.

Nghe tôi thuật ra đến đó, má thất kinh: lật đật nói hớt rằng: “Vàng chuỗi với hột xoàn còn đủ đây, tôi có cầm bán gì đâu! Chẳng qua tôi sợ nó khờ, đeo trong mình, chúng gạt lấy hết, nên tôi lập thế cất giùm cho nó, chớ có mất mát món nào đâu!”. Nói rồi vô mở tủ lấy đủ vàng và hột xoàn ra để trước mặt tía tôi và nói rằng: “Đó! Ông coi. Có phải tôi lo lắng yêu thương nó tư chút hay không”. Tía tôi thấy vậy, làm bộ kéo tôi ra đàng trước mà tra gạn tôi song nói nho nhỏ, tuồng như hỏi riêng không cho má biết. Lúc nầy, còn một mình thầy Sáu trong nhà. Má mới lại òn ỉ, lòi cho thầy năm chục đồng bạc uống trà, xin thầy can gián giùm. Thầy chộp năm chục đồng bạc bỏ túi, rồi giả bộ bước ra to nhỏ gì đó với tía tôi. Tía tôi dùng dằng hồi lâu, mới bước vào hốt đống đồ của má đem ra để trên bàn, đưa hết cho tôi mà rằng: “Nè! Đồ đạc của mầy, thì mấy lấy đi. Rồi vô lấy áo quần cho mau, đi theo tao lập tức còn chần chờ thì chết với tao bây giờ!”. Rồi day lại nói với má Tư: “Thím phải biết, con tôi nó hư cũng vì thím. Làm cho tôi tốn hao tìm kiếm nó mấy tháng nay. Vậy thím phải tính sao, chớ việc này khó nín”. Má Tư chẳng biết làm sao, phải đem ra hai trăm đồng, nài nỉ xin bồi thường sở tổn cho tía và xin tía tôi đừng thưa kiện lòng dòng tội nghiệp. Vì trót thương tôi mà má mang hoạ, chớ má nào có dụ dỗ chi tôi. Má thề thôi bán mạng, chửng tía tôi mới nguôi cơn giận, bỏ túi hai trăm bạc và dắt tôi ra cửa. Xong việc tôi dọn nhà lại y như cũ, chừng ấy Má Tư hay đặng mới biết trúng kế, má oán tôi khắc cốt và nghiến răng nghe trèo trẹo. Nhớ lại thầy Sáu nghĩ công khó của thầy, tôi lấy hai trăm bạc của ông già đem về, tôi đền ơn thầy nhưng thầy một hai không chịu lấy. “Tôi lấy năm chục đồng của Má Tư lo cũng đủ. Nhưng tôi đã cho hết ông già kia, thế là vẹn toàn rồi. Còn phần riêng của thầy, miễn đặng giúp ích cho tôi là đủ mừng lòng. Lối xóm với nhau, chút công ty tiểu, nào đáng kể chi”. Tôi ép thế nào, thầy cũng không chịu lấy phải đành cất đó, oan gia hay duyên nghiệp gì đây?

10.: Bị đánh ghen

Cách đâu mấy ngày thì thầy cai lên. Nghe nói kỳ nầy, thầy ở lối một tuần nhựt mà thôi, chớ không ở lâu đặng vì tới mùa thúc thuế. Lại biểu tôi sửa soạn để theo về dưới ở cho gần, chớ một kiểng hai quê như vầy đã tốn hao thêm rất là bất tiện. Nhưng ngày trước Má Tư có nói vợ thầy dữ lắm, có lẽ ấy là lời Má nói để mình ở lại Sài Gòn cho Má khai thác. Chớ thiếu chi người vợ một vợ hai, nếu mình ở nhỏ nhoi chiều lòn, thì ai đâu nỡ làm hung, - chèo xuôi mát mái đó mà! Lại nữa từ ngày Má Tư trúng kế đến giờ Má oán mình thâm xương, ở đây có ngày không khỏi bị tay Má trả thù, chi bằng để cái đất Sài Gòn nầy cho Má ở mới xong. Vì nghĩ vậy nên tôi bằng lòng ưng theo thầy cai xuống Trà Vinh.

Mãi còn đang sắp đặt trong nhà, bữa kia lối năm giờ chiều, còn sớm bửng, tôi đang ngồi nơi bộ ván trò chuyện với thầy cai, thình lình có lũ đàn bà năm đứa, ào vô kéo tôi vừa đánh đập vừa chửa nhiều lời thô tục tôi không dám viết lại đây. Thêm có mặt mụ chúa đàn đi sau, bước vào xỉ mặt thầy cai, kêu bằng thằng, và vả mắng thậm tệ không còn thể diện gì hết. Cơ khổ! Như vậy mà thầy cai cứ ngồi chịu trận, không nẻ tránh cũng không một lời tranh biện, tôi mới thấy lần thứ nhứt một thằng cha uý phụ không ai hơn.

Trong lúc ấy năm con quỉ sống nó kéo đầu, xé áo, giựt gãy lọi cây kiềng vàng chạm, và đánh tôi thất quốc tha bang. May thay, đang cơn nguy cấp, bỗng đâu thầy Sáu chạy qua, xách roi mây quất bổ mấy con đó bất kể đầu cổ, hét lớn biểu phải buông tôi ra, bằng chẳng vậy, thầy sẽ kêu lính phú-lít (police) đến còng đầu bắt cả phồn, vì chúng bây có phép nào xâm nhập gia cư người lương thiện mà hành hạ người ta như vầy. Thấy thầy bộ quyết liệt quá, mấy con chằng tinh mới chịu buông tôi ra, thầy xách roi rượt chúng ra tới đường, chúng nó tuy chạy mà còn chửi rán. Thầy Sáu biểu tôi nơi ngả sau bước qua nhà thầy ngồi đỡ, còn đám nầy để đó cho thầy. Tôi đi rồi, thầy day lại cay đắng với thầy cai, bảo đã sợ bà như vậy thì đừng có vợ một vợ hai, lại còn khéo dụ dỗ người ta đem về xứ cho bị hại. May mà tôi chưa đi. chứ phải tôi xuống dưới rồi thì ba mạng của tôi cũng chẳng còn. Hú hồn? Ấy cũng nhờ có thầy Sáu hết lòng che chở, cho nên vợ thầy cai không dám đập phá đồ đạc nhà tôi, vì thầy Sáu hăm kêu lính bắt. Nói chí đáng, mụ nầy tuy dữ, nhưng cũng gốc ở vườn mới lên, nên không dám ỷ thị cho lắm. Con mẽ bắt thầy cai lập tức lấy áo quần đi theo mụ ta vô Chợ lớn rồi sáng ngày về dưới mất dạng.

11.: Có chồng khác

Xong cuộc rồi, thầy Sáu mới nói tôi rằng: “Cô có biết làm sao vợ thầy hay mà lên làm hùm hổ như vậy không? Ấu là mưu độc của má Tư Hớn. Thầy biết chắc như vậy, vì lúc hai đàng ấu đả, có Má Tư đứng ngoài xa thị thiềng nhưng không lọt qua mắt thầy.

Còn năm con chết bằm vào ăn xía đánh tôi là năm con ở lậu em út của Má, chớ không ai xa lạ. Đây chắc là Má dò biết thày cai lên với tôi lại sẵn biết thầy có tánh thờ bà sợ vợ nên Má tuốt xuống Trà Vinh trục vợ thầy cai lên đánh tôi bỏ ghét, và trả thù luôn thể. Thầy Sáu tiếp:

- Chẳng phải tôi dám xúi cô chia uyên rẽ thuý, thôi lấy thầy cai, song cô suy nghĩ lại coi, cô chọn người như vậy mà trao thân gởi phận, thì sao yên? Phận cô thì mảnh mai bồ liễu, thêm tứ cố vô thân. Chuyến nầy con mẹ cai giữ chặt thì trông mong gì thẩy thoát được mà lên trên nầy, vả lại chàng va bị bắt tại trận, phen nầy ắt thề bán mạng không tới lui với cô nữa, thì không bỏ mà cũng như bỏ, thêm nữa ở đây con yêu già kia còn, không biết nó sẽ bày mưu thiết kế gì nữa để hại cô. Đã biết cái sự binh vực cô, thì tôi đây sẵn lòng luôn luôn, dầu cho sẽ bị hại khốn khổ cách mấy, tôi cũng chẳng từ nan, ngặt một điều, tôi với cô bất quá là người hàng xóm, anh em với nhau mà thôi, nhưng ở đởi có nhiều khi gặp cơn hoạn nạn, anh em cũng phải cua tay không phép gì cứu đặng. Vậy cô nên suy nghĩ kỹ mà sớm liệu chọn đôi bạn khác thì mới tiện cho.

Thầy nói cũng có lý, mà hiện nay tôi biết ai đâu mà chọn lựa bây giờ? Lại nữa ơn thầy hổm rày che chở, tôi biết lấy chi mà trả? Xem chửng coi bộ thầy ta thương tôi lắm, song thầy lấy lòng quân tử ngay thẳng, chẳng muốn thừa cái sự tôi mang ơn mà ép tôi vầy duyên nhưng tôi coi bộ không có cái chi làm cho thầy có phước và vui lòng bằng được lấy tôi làm vợ.

Suy xét kỹ càng rồi, tôi mới vừa cười vừa nói với thầy như vầy:

- Thầy nói nghe rất phải, nhưng tôi có thấy ai thương tôi thiệt tình đâu mà hòng trao tơ kết tóc. Ngay bây giờ tôi thấy có một mình thầy hết lòng giúp đỡ tôi. Vậy nếu thầy không chê, tôi xin gá nghĩa cùng thầy, trước đền ơn che chở, sau có chỗ dựa nương.

Tôi nói chưa dứt lời, thầy mừng thôi quýnh quýn, chạy a lại hôn tôi và ôm tôi vào lòng, mà nước mắt chảy đầy má không hay.

Từ đó vợ chồng tôi ở với nhau hết sức thuận hoà vui vẻ. Thầy Sáu đối xử theo cách Tây, nên dịu ngọt với tôi lắm. Đi chơi chỗ nào, hai đứa nắm tay nhau không rời. Nhờ vậy tôi mới biết mấy cuộc vui nhã thú ở Sài Gòn nầy, chớ từ lên trên nầy hết cô chủ sự thì lọt vào tay Má Tư, tôi chỉ biết ăn chơi đàn đúm, vày vò xác thịt cũng chỉ vì ba đồng tiền hôi hám. Nhờ thầy Sáu tôi mới làm quen được với các tay văn vật phong lưu, mà toàn là các tay viết báo hay chủ bút đang thời, như: các ông Nguyên Tử Thức, chủ bút tờ Nam Trung tuần báo, Lê Sum tự là Trường Mậu, bỉnh bút Công luận báo, Lão Ngạc Nguyễn viên Kiều, cựu hội đồng địa hạt ở Trà Vinh, Dủ Thúc Lương Khắc Ninh, cựu hội quản hạt, chủ bút tờ Nông cổ Mín đàm, dịch giả Tam Quốc Chí, từ 1904, trước Phan Kế Bính những bốn năm (bản Phan Kế Bính Hà nội xuất bản năm 1909), thêm làm chủ bầu gánh hát bội ở Cầu Muối (chỗ rạp Rex đường Hồ Văn Ngà cũ) (nhờ xem hát và đọc truyện Tàu mà tôi biết quẹt quẹt ba chữ quốc ngữ và viết lách chút đỉnh như hôm nay). Thầy Sáu lại dắt tôi đến khách sạn nào Nam Đồng Hương, Lục tỉnh khách lầu, Đỗ văn Bính Hôtel Confortable ở đường Carabelli của thầy Bảy Phương vừa yến ẩm nhậu nhẹt, vừa nghe ca lúc hát cải lương còn chập chúm “ca ra bộ” bản Tứ đại (Bùi Kiệm ngộ Nguyệt Nga), bản Bình bán (Bùi Kiệm thi rớt). Tôi cũng quen gần đủ mặt các kỳ cựu như Nguyễn Chánh Sắt (Tân Châu) bố vợ ông Trọng Bổn, Trần Thái Nguyên, làm bút toán cho nhà sách Nguyễn văn Của, tuổi nay trên chín chục mà còn mạnh khoẻ và hiện ngụ gần nhà ông, ở Gia Định, đường Bạch Đằng, từng xuất bản bộ truyện “Càn Long hạ Giang nam” từ 1900; ông Hội đồng kiêm Phó tổng Nguyễn Thành Phương, cha chị Nguyệt Hồng, tức ông ngoại tướng Nguyễn Khánh râu Charlot, chụp giựt một lúc rồi chạy qua bên nầy nhưng tôi không gặp; báo Đông Pháp thời báo, tôi biết ông Diệp văn Kỳ, báo Nữ giới chung, khi tôi biết thì bà Sương Nguyệt Anh (con gái ông Đồ Chiểu), đã nhường bút cho ông Thiệu Huy (Nguyễn Thành Út), tính lý lắt, viết bài xã luận thì không ra gì, nhưng làm thơ có hạng lắm. Quên nói, thầy Sáu làm nơi phòng luật sư Jacquemart (chết xin đốt xác, lấy tro chôn sông Sài Gòn, vì ông nói sự nghiệp ở đây và xin chôn ở đây để nhớ đất đai thuỷ thổ): Cái nghề làm việc thầy kiện, mà lương bổng có là bao, không đủ cho tôi mua son phấn, nhưng tôi trọng là tình nồng nghĩa mặn, cách đối đãi cư xử của anh Sáu tôi, nay nhớ tới còn sa nước mắt. Vợ chồng thương nhau hết tình, lúc ươn yếu lòng lo lắng cho nhau, đến quên ăn quên ngủ. Thầy Sáu dắt tôi về lạy cha mẹ thầy ở Rạch ông Hổ, thì ổng bả cũng bằng lòng. Tôi cũng đưa thầy về Rạch Gầm lạy tía má tôi, mở tiệc vật bò vật heo đãi đằng bà con làng xóm, rồi hai đứa tôi làm hôn thơ tử tế.

Thiệt thầy Sáu vẽ mặt vẽ mày cho tôi và làm rỡ ràng cho tía má tôi quá đỗi. Nay nhắc lại khôn cầm giọt luỵ, và thầy Sáu ôi, biết ngày nào đôi ta lại gặp nhau?

Lúc đó tôi lấy làm có phước quá chừng, tưởng đâu kiếp đoạ đày của mình đến đây là mãn hạn. Nào ngờ đâu số Đạm Tiên chưa hết. Qua năm sau, tía tôi mất vì rầu buồn mấy năm khía thất mùa, ruộng tuy không bao nhiêu nhưng đủ nuôi gia đình bỗng về tay người khác, tía thất tình mà chết. Vợ chồng tôi khi ấy, đem má tôi về ở chung chưa đầy bốn tháng má tôi đụng giặc trời mà chết theo tía tôi. Vừa chôn má chưa kịp mở cửa mả, chồng tôi bị truyền nhiễm ỉa mửa tưng bừng. Thôi. Một ngày đó, tôi chạy khắp phương, nào rước thầy, nào vái ông làng ông Địa, nhưng tôi còn tức buổi ấy nghề y dược chưa giỏi, hay là để an ủi, tôi cho người ta vẫn có số mạng, và kiếp phong trần khó tránh. Qua bữa sau, anh Sáu tôi khuất. Trời ôi! Lúc đó tôi không còn muốn sống trong giây phút nào, ngặt số chưa phải chết, thì chết cũng không rồi!

Tống táng xong xuôi, tôi mới về dưới nhà ông già bà già chồng tôi mà ở. Tội nghiệp! Thấy hai ông bà thiếu trước hụt sau, tôi cầm lòng không đậu bèn bán phứt hai cái hột xoàn, lấy tiền sửa nhà cửa lại chắc chắn, lại mua được một miếng đất đem cốt chồng tôi về nằm đó, chừa chỗ nữa hai ông bà về nằm chung với con, làm mồ mả xong thì trong mình còn được ít trăm. Tôi tính cho tiền lúa rồi lấy lời đó mà xài, ngờ đâu vận kiến thời quai, cho đâu mất đó, mấy năm ấy thất mùa, mấy ông tá điền ở “nhà đá” (là đá một cái mạnh, nhà sập tuốt họ hỏi bạc lúa rồi trốn mất, khiến vốn tôi thâm thủng hao mòn còn hơn nước đá để trong mùa nóng. Vừa đúng một năm, làm tuần cho chồng rồi trong túi chỉ còn độ trăm ngoài. Không đợi xả tang, trong lưng còn có hai mươi tám đồng bạc, nhắm ở nữa không tiện, phần yếu đuối, phần khung vốn, tính làm ruộng làm nương gì cũng không đủ sức, tôi bèn lạy cha mẹ chồng xin để lại phân nửa, còn bao nhiêu tôi lên xe một mất một còn với Sài Gòn cho biết mặt.

12.: Mắc mưu lọt nhà số

Vi kiếng không bao lăm, tánh kiêu không bỏ, không muốn nương dựa vào ai cho phải mang ơn, vả lại giới ăn chơi khách yên hùng rất hiếm, hồ dễ gì gặp người hảo tâm hào hiệp, tôi bèn cầm hai tay chuỗi vàng, nhưng năm thất mùa vàng còn hai mươi ngoài một lượng, cầm được năm mươi lăm đồng bạc cũng đã khá khủm, lấy đó sắm ít món cần thiết, mà cũng may, tôi kiếm được một căn phố rất gần chợ, tuy trong hẻm, đó là phố của họ Huỳnh tay giàu lớn ở Gò công, ở ném về khu Trưởng tiền, đường Pellerin, giao cho ông Huỳnh Đình Điển làm quản lý. Mấy người ở lầu trên Sài Gòn đều biết ông già kỳ khôi nầy, dám chứa làm ma chay cho Phan Chu Trinh, và ông chuyên môn nghề thuộc da nhồi thú rừng, nơi sa long ông trải một chiếc chiếu để cho bốn con khỉ ngồi đánh tứ sắc có hai con mèo ngồi ngay rổ lấy xâu, con mang kiếng cận thị, con liếc coi bài con kia, trong giống hệt ngoài đời không sai một mảy. Định bụng chim bằng nghỉ cánh, mình tạm như vầy một đôi tháng cho nguôi cơn buồn mất chồng đang yêu đương rồi sẽ kiến cơ nhi tác!

Ngày chí tối, tôi thơ thẩn ra vào, không lo đánh áo đánh quần, cũng không cần phấn son trang điểm, một mình một bóng, thậm chí mỗi chiều thứ tư cữ nhạc Tây đến thổi ở Bồn kèn, trước hãng Sạt ne (Charner), hơi kèn lồng lộng bên tai mà tôi cũng không màng đến và không bước ra khỏi nhà. Ba hột cơm dằn bụng, ăn quấy quá cho xong, rồi thì leo võng đánh đòng đưa, hồi tưởng từ lúc trốn tía má cất bước ra đi, cuộc an nhàn sung sướng nào có mấy phút, còn bể lận đận lao đao nó ê chề làm sao, đắng cay chua xót đã từng, vui với anh Sáu chưa dập bã trầu thì đã keo tan hồ rã. Ông cao xanh ở trên kia, bởi sao có người kêu là “con Tạo”, cũng vừa! Tôi nghĩ tới anh Sáu của tôi mà cầm lòng không đậu, nước mắt từ đâu tới chan hoà trên đôi má, mà mềm lòng như vậy làm sao cự lại bọn đàn ông.

Một bữa nọ, mắc chứng gì lại thèm ăn sò huyết quá, nên tôi xách rổ đi chợ. Tôi rảo khắp trong ngoài mà gặp toàn sò huyết lớn con là sò ở Ô cấp đem về, tuy lớn mà thịt dai và không ngon. Đến một chỗ nọ tôi gặp thứ sò nhỏ con mà đó là sò biển Bạc Liêu, thịt ngọt, nếu nấu cháo thì là tuyệt. Tôi mừng quá mua cho một rổ đầy xong rồi tôi bưng rổ trở về nhà, nhưng vừa đến đầu đường, ngã tư Mặc Má Hồng - Đỗ Hữu Vị, bỗng có một người trai lối ngoài ba mươi, mình mặc áo Tây bố Shanghai sáu nút, vận quần nhiểu trắng, chắn đi giày escarpin da láng đen, thứ giày nầy người Pháp chỉ dùng đi Ban (bai) yến tiệc hay đại lễ, và nếu ngày nay thì tôi biết người nầy ăn vận nữa xạc làm vầy, nếu không phải dọn bàn hay nấu bếp cho quan thì ắt lính mật thám hay lính kiểm tục, nôm na là lính bắt con gái, thì tôi nào dám động tới, đàng nầy nhơn ướt nhơn ráo vừa lên Sài Gòn còn quê trân mà bụng lại muốn làm tàng, tôi liếc thấy người ấy đi theo sau lưng tôi mỗi lúc mỗi gần, trong bụng tôi tưởng có khi cậu nầy lầm tôi là tình nhân của va cho nên mới dong ruổi theo tôi như sam làm vầy, khi ấy tôi mới giả đò ngó ngoái lại cho cậu ta nhìn mặt và biết mình lầm, kẻo thất công theo mãi, có ngờ đâu tôi vừa đay lại, thì người ấy cũng vừa đi chờm tới lại cả gan nắm cánh tay tôi, làm cho tôi hồn bất phụ thể, tôi hoảng kinh buông rổ, đồ ăn đổ hết, nào sò nào rau văng tứ tung đầy đất. Cậu ta thấy vậy, không tỏ dấu gì ăn năn, chịu lỗi, lại nhả nhớn và trây trưa cười lớn lên mà rằng: “Cô bỏ đi, bao nhiêu tôi thưởng cho”. Vừa nói vừa lắm tay biểu tôi lên xe kéo cùng đi với va. Tôi thấy người gì mà mất dạy quá, vừa lỗ mãng võ phu vừa ngang tàng thiếu lễ độ với đàn bà, tôi nhịn không được và quên rằng mình đang hồi vận thời đen tối, sẵn vừa lượm cái rổ, tôi bèn vụt đại lên đầu chú chàng, làm cho cái nón Fléchet mới tinh hảo văng xuống lề đường lấm lem. Thiên hạ lối đó cười rộ, trẻ nít bu lại càng đông. Con người khiếm nhã ấy, chăng lành mà chớ, lật đật lượm nón, nhảy lên xe kéo, xe vừa cất bước, va day đầu lại ngó mặt tôi nói cho đỡ mất cỡ: “Để rồi sẽ biết! Tao biết ổ mầy rồi!”

Tôi về nhà, ăn không biết mùi vị chi cả, suy tới xét lui, có lẽ người nầy biết mình cô thế nên mới hành động như vậy, lại càng quyết tâm tìm một người nào biết thương tưởng đến phần lạc loài của tôi mà ra tay đùm bọc chớ che, thì tôi ưng liền, dầu cực nhọc thế mấy cũng chẳng phiền, miễn sao tránh khỏi gặp chuyện trở trêu tức tưới như ngày hôm nay làm vầy. Đây là một ngày xui xẻo, nghĩ tới đó rồi ngủ một giấc thẳng ống, không dè chuyện chẳng phải đến đó rồi thôi.

Ngày lụn tháng qua, đến bữa chủ phố lại thâu tiền, tôi xin hẹn hôm sau. Ngồi than dài thở vắn, đây phải đem một chiếc vàng cho vô tiệm cầm đồ mới có tiền trả cho người ta. Đương buồn nghiến, bỗng cố một đứa nhỏ bước vào tay cầm một phong thơ và hỏi tôi trước có phải vợ thầy Sáu không, tôi gật đầu, nó liền trao thơ cho tôi rồi bước ra cửa thoát chạy mất. Lạ quá, tôi cầm cái thơ mà ngẫm nghĩ không ra, làm sao người nầy biết tôi ở đây và rõ cặn kẽ việc nhà tôi làm vầy? Trong thơ thì lời nói thân mật lắm, xưng rằng trước có thọ ơn của tôi, ngặt vì nghèo nên không báo đáp được nay có chồng sang và giàu, duy ghen lắm không đi đâu được, nên yêu cầu tôi nội tôi nay, lối mười một giờ chịu khó lại ngồi nơi băng cây gần nhà hát Tây đường Catinat, phía bên hông nhà hàng Continental, hễ vãng nơi rạp chớp bóng Eden thì người nầy đi với chồng sẽ đón tôi về nhà, sẽ cùng biết nhau thêm và cho y được thoả tình hoài vọng. Dưới thơ, ký tên ngoằn ngoèo: Cô Năm ký.

Đọc thơ rồi, trọn buổi tối tôi ngồi suy nghĩ, đầu óc không biết Cô Năm nào kỳ lạ làm vậy, bí mật quá, và có lòng tốt với tôi như vậy? Xưa nay tôi có quen nhiều, hay là vì lâu ngày tôi quên cô nầy chăng? Trông cho mau tới giờ hẹn đặng coi thử là ai cho hắn. Đồng hồ vừa gõ mười giờ, tôi lật đật khoá cửa, đi bộ từ nhà lại tìm băng xanh bên hông nhà hát Tây mà ngồi đợi. Thấy xe hơi xe song mã còn đậu đông đầy trước nhà hát, đèn đuốc ngoài đường sáng trưng, thì tôi biết chắc hát chưa vãn. Ngồi đợi hơi lâu lâu, vì mình nóng biết nên đi sớm quá, gió hiu hiu thổi, nó bắt buồn ngủ quá chừng.

Tôi mơ màng hồi tưởng thân phận hôm nay sao mà linh chinh quá và hối tiếc cảnh an nhàn lúc ở nhà tía má và lúc hạnh phúc không bao lâu. Tới thầy Sáu mà cho đến nay tôi vẫn chưa quên.

Rồi xét qua mấy lời trong thơ, lại có ý mừng thầm: Có lẽ trời đạt đoái thương đến chút phận nổi trôi dày dạn, nay xui khiến quái nhân nào đây muốn độ mình khỏi bước lạc loài? Lại nhớ lời thầy số Vi Kỉnh Trang năm trước rằng mình số có kẻ hầu người hạ, không nghèo khổ như vầy mãi đâu mảng suy nghĩ dông dài bỗng giựt mình như từ trên mây rớt xuống và rùng mình rởn ốc, vì có một người đàn ông lạ mặt ngồi sát bên tôi, lại lấy tay choàng qua cổ tôi. Tôi đứng phắt dậy, muốn mắng người nầy một trận cho bỏ thói sỗ sàng, song tôi ngó thấy tư bề vắng hoe, sự mình xỉ mạ, gặp đứa không biết điều, nó hành hung lại thì mình mang khổ, vì nghĩ vầy nên tôi bèn dằn lòng bỏ đi một nước và không thốt một lời.

Ông ta vẫn theo kế bên tôi òn ỉ nào ông tơ xui khiến, nào tri âm tri kỷ gì đủ thứ... Tôi vội bước hăng nhắm hẻm Trưởng tiền lầm lủi phăng phăng mà trống ngực đổi ra trống chiến, tim nhảy thình thịch gần lọt ra ngoài. Lúc nầy trời đã khuya, đường phố vắng teo, không có một cái xe lên xuống. Thời may nơi đàng trước thấy một chị đàn bà sồn sồn đàng kia đi tới và khi đi ngang tôi thì dừng lại hỏi tôi có phải ở hẻm Trường tiền? Tôi gật đầu đáp phải, còn cái anh Bùi Kiệm nãy giờ thì đã cút từ hồi nào mất dạng.

Đêm khuya thân gái dặm trưởng, tôi gặp chị nầy như thằng chết trôi vở được bặp chuối thúi, tôi mừng quá, mạnh dạn thêm lên và quên hết chuyện nãy giờ, tôi vội hỏi lẹ “Sao chị biết tôi?”, thì người ấy nói tỉnh bơ: “Dạ, cô Năm nhờ tôi đón mời cô tới trước kia, không xa, để cùng nhau nói chuyện”. Vừa nói vừa nắm tay tôi hối đi cho mau. Tôi lúc ấy như xác không hồn, hay là có cái gì ám ảnh, không kịp suy nghĩ, tôi vội bước theo bén gót người nầy.

Quí vị đọc lần tới sẽ biết đây là ma dắt lối hay quỉ đem đường, chớ thuở nay tôi không ngu dại gì đến nghe lời một người lạ mặt như vầy, hai là làm ác gặp ác, ông trời cảnh cáo tôi đây. Người đàn bà nầy dắt tôi đi vòng vo Tam quốc gần hai mươi phút đồng hồ mới dừng lại lối đầu đường Bồ-rệt (Boresse) là đường xóm điếm, có mấy nhà số công khai mà nào tôi có biết. Người ấy bỗng nói:

- Lạ dữ chưa? Cô Năm dặn đến chốn nầy mà nay cổ biến đâu mất?

Tôi thấy chuyện trớ trêu như vậy cũng đố quạu, quảy quả trở về nhà, không cần hỏi và biết đến con mẹ nầy nữa. Nhưng trời đất ôi! Đất bằng song dậy! Tôi bước chưa được hai mươi bước, thì trong bóng tối có một ông Tây cao lớn và một người An-nam mặc đồ lính kaki, gọi mụ đó và tôi dừng bước lại. Hai người nầy hỏi giấy tờ chi không biết mà mụ ấy móc túi đưa ra trình, xong xả rồi te te đi mất. Đến phiên tôi đang đứng sửng sốt không hiểu chuyện chi, tôi vừa bước đi, kế hai người nầy biểu tôi đi theo về bót. Tía má ôi? Nghe hai chữ “về bót” mà hồn vía lên mây, chừng ấy tôi mới hiểu đây là ai vu oan giá hoạ cho mình! Tôi khóc lớn và năn nỉ xin tha, quả quyết mình vô tội. Ông Tây xem tuồng giận dữ, giơ tay giơ chân, trăm bốp bốp tiếng tây bốp bốp, tôi không hiểu ất giáp là gì nhưng người mặc đồ kaki thông ngôn lại tôi mới ro: “Mầy làm ở lậu, đã bị xên (signaler) ba lần rồi. Mấy có nhà riêng, rước mối lậu, lại không có giấy tờ cho phép thì bị bắt như vầy, tại trận như vầy, là đành rồi, còn oan ức nỗi gì mà la và khóc”. Tôi nghe bao nhiêu ấy mà nghẹn ngào, bây giờ hiểu lại cũng vì rổ sò đánh lên đầu tên nọ mà ra cớ đỗi. Nó là lính kiểm tục, chọc mình không được bèn lập kế gài bầy, toa rập một phe với nhau mà buộc tội mình hành nghề mãi dâm vi pháp, lại dựng chứng cớ mình đã bà phen rước khách, thêm tội đi khuya cùng một con điếm có giấy, tang tích ràng ràng, dẫu ông Bao Công tái sanh cũng không cứu gỡ được. Lối 1925, cò bót làm việc tắc trách như vậy đó, gái quê lở quơ đều ở trong tay bọn lính vô lương tâm, muốn khỏi bị quở trách bèn khuấy bột nên hồ, bày điều bịa chuyện, chuyện không có nói có chuyện có nói không, thông dịch nói bừa mà cò cẩm vẫn tin bằng lời, vì chúng cũng là quân hung tợn mới chọn nghề nầy, chuyên đánh đập cho nạn nhơn khai bửa rồi làm vi bằng dối trá mà qua mặt kẻ bề trên, nay mình đã lọt vào vòng, thì dẫu có ba đầu sáu tay, cũng không thoát khỏi. Tới bót, họ tống tôi vô phòng giam sau khi hỏi danh tánh qua loa lấy lệ sáng ngày sẽ hay. Phòng giam lúc ấy vắng hoe, chỉ có tôi là tân chủ với một chiếc chiếu dơ và rách trải trên nền gạch chưa từng lau rửa lần nào. Trọn một đêm đó, tôi mới biết đêm là dài, khi một mình với một lương tâm, nhớ lại tuy mình không làm ác nhưng đã giúp người khác làm điều không thiện, trong tay mụ chủ sự, mình bị bán đứng cho Má Tư Hớn, gạt mới anh Hạch Ả-rập cướp ngon vòng vàng chuỗi hột, ăn trên đầu thầy Cai hai hột xoàn, lấy thầy Sáu chưa nát một chiếc chiếu, v.v... nay sa vào cảnh ngộ éo le này, nhục nhã thật - một địa ngục giữa trần gian không khác, nhưng cũng may, trời sanh ra tôi phú cho một can đảm phi thường, đêm ấy tôi khóc hết nước mắt mà bao nhiêu nỗi buồn cũng theo nước mắt trôi đi đâu mất. Tôi suy nghĩ nếu nay tôi cắn lưỡi chết lại càng thêm nhục, khi bằng đạp gai bất công nầy thì mới phải là người. Trông mau sáng để mình bày tỏ trần tình, may nhớ lượng trên minh xét tha về bằng không đi nữa, nói ví dầu có xảy ra chuyện gì oan ức cách mấy cũng rán chịu, và làm cho lại gan mới nghe, chớ chết lúc này là dại dột.

Trời sáng trắng, mặt trời đã chói vào lỗ cửa có song trên cao, lính mới vào phòng giam đưa tôi ra. Cha chả là xấu hổ! Xấu hổ biết chừng nào và biết rửa mấy sông mới sạch? Tuy không phải nhành vàng lá ngọc, nhưng dầu sao cũng con nhà lương thiện, đến nước nầy nhớ đến nhà ở Rạch Gầm, đến tía má tôi mà ê chề ngổn ngang trăm mối. Những người có mặt nơi bót ra, vô cửa nầy, thấy tôi đều xầm xì, tôi không nghe được nhưng đoán cũng biết họ nói gì về mình, nhục ôi là nhục!

Lính dẫn tôi đến ông cò chánh, sau nầy rõ lại, ông tên chi không biết duy biết bọn du đãng lọt vào đây, khi bị hành hạ đau quá, gọi ông là Tử Hải, thì ông nới tay cho liền, Từ Hải là gì, đố ông ấy biết, duy khi nghe thây thông ngôn cắt nghĩa Từ Hải là bậc anh hùng, tế khốn phò nguy, hay làm việc nghĩa hiệp, thì cò ta khoái mà nhận mình là Từ Hải tái sanh và nới tay với du côn du đảng cũng nhờ danh Từ Hải. Tôi ngó ngay mặt ông tỏ sự oan khúc, nhưng mặt ông lạnh như đồng tiền Vạn Lịch. Thầy thông ngôn, một phán già hút á phiện, nói gì với ông nho nhỏ, ông nạt tôi:

- Đừng có già hàm nói láo! Theo rap-bo (tờ phúc trình) mấy mướn phố riêng, không làm nghề gì cả, ở một mình... Lính xên đã bắt gặp đàn ông ra vô nhà mầy ba lần, đêm rồi mầy cặp kè với gái có giấy, nếu mầy là con nhà tử tế sao lại đi khuya?

Tôi tức nghẹn, té ra Tử Hải nầy chỉ biết đọc theo giấy tờ bọn bộ hạ rồi chúng muốn gì, làm theo nấy như cái máy không khác, vì chúng đã xỏ mũi cho ăn ngập mặt rồi. Lính kéo tay tôi ra, dạy bắt cặp với mấy cô bị bắt cũ, đặng đi “lục-xì” (khám bịnh). Lục-xì, nghe chữa “lục xì” tuy chưa biết là gì, nhưng mình mẩy mọc ốc, nổi da gà, ước đất nẻ ra hai cho mình trốn cho đỡ xấu. Đương lúc khốn đốn như vậy, bỗng thấy bên lề có tiếng cười lớn, coi lại, đó là thằng ăn rổ sò hôm trước, nó hư cái nón Fiéchet mới, mình hự cả một đời mình. Thiệt là ghê gớm cho cái mưu sâu chước quỉ của thằng nầy, xã hội có bao nhiêu thằng như nó, thì càng mau sụp đổ bấy nhiêu.

Đất Sài Gòn có bao nhiêu bót, trọn Đông dương có bao nhiêu gái hàm oan như mình? Khổ hải, bất công, oan tình, lầm than, cũng vì bày ra có thám tử, lính rờ-sẹt (agent de recherche), lính bắt con gái, lính kiểm tục (agent de moeurs) và bao nhiêu cò chánh ưa xưng mình là Từ Hải! Từ Hải ngày xưa hiên ngang một cõi biên thuỳ, có đâu làm việc chiếu lệ, không kiểm tra. Tôi bắt cặp với một ả ăn sương chưa đầy hai mươi tuổi nhưng trơ trẽn lì lợm không ai bằng. Chị ta thản nhiên vì bị như vầy đã nhiều lần nên quen. Chị dạy tôi trước lát nữa phải làm sao và làm sao, nghe mà mất cỡ lên tận chưn tóc và mỏ ác. Chị ra mặt thành thạo, cho biết trước đây khám bịnh là một bác sĩ Pháp, nhưng từ ngày hết trận đệ nhứt chiến tranh bên Pháp, có một ông An-nam con nhà thế tộc sang Pháp học nghề y, nhờ đánh giặc có công, được vô Pháp tịch, cho đậu bác sĩ, và bổ về đây, nhưng tuy lên đến thiếu tá bác sĩ bốn lon, tên là ông L.Q.T., nhưng nghề còn non nớt. Thầy thuốc gì mà giác hơi làm phỏng cháy lưng bịnh nhơn không biết đã mấy lần, chỉ giỏi tài thức khuya đánh phè và đào mỏ, vợ là Cô Bảy Trà Ôn, con nhà giàu gộc xứ ấy, về đây Sở Y tế giao trọng trách đều làm hư, nên nay bổ qua Sở khám bịnh gái điếm. Đến phiên tôi, bác sĩ cho tôi nếm mỏ vịt, chàng hãng dang bẹt ra, nhưng ông nói tôi không có bịnh. Tôi ngỡ như vậy là vô tội, được phép ra về. Nào ngờ tôi còn trăm nỗi đắng cay nhuốc hổ. Chị Kiều ngày xưa có sông Tiền Đường, ấy tôi ngày nay có Tiền giang, sông Tiền, quả là số kiếp, không hẹn mà nên Nhà thương Chợ Mới Bến Thành vừa mở hoạt cửa, cho phép thân nhơn vào thăm kẻ có bịnh, tôi thấy một tốp đàn bà phấn son lòe loẹt bưng xách đồ ăn vô, người nào người nấy chen lấn nói chuyện ồn ào, mắt kiếm người quen để gặp. Tôi nào có ai đoái tưởng lúc nầy? Bỗng có một cô xem bộ người cũng phải thế đến, bước lại ngồi gần bên tôi, ôn tồn hỏi thăm duyên cớ vì sao phải chuyện rủi làm vậy? Tôi bèn thuật hết tự sự, thổ lộ hết tâm tình. Cô ấy vừa nghe vua chắt lưỡi, kêu trời, nguyền rủa quân độc ác, quân khốn nạn, nhẫn tâm hại người hiền lương tâm tốt. Đoạn cô lấy khăn sạch nhúng nước lau mặt cho tôi, lấy cái lạp xường cho tôi ăn lót dạ, ép tôi ăn hết một ổ bánh ngon và rót trà nóng cho tôi uống, đối xử thật là trọng hậu. Trong cơn hoạn nạn, gặp người như vầy, cũng an ủi phần nào. Lúc ấy tôi thấy bọn bị bắt như tôi lần lượt ra về, thì tôi đứng dậy cám ơn cô đã đãi đằng tôi nãy giờ, và tôi tỏ ý muốn về ngay nhà mình kẻo bỏ hoang đã mấy bữa nay không biết ra sao. Nhưng cô ấy nghe vậy chúm chím ngó tôi cười mà rằng: “Bộ em chưa biết sao? Hễ lọt vào vòng khốn nạn nầy rồi, muốn về trơn sao đặng”. Nghe vậy tôi cũng chưa hiểu chi cho lắm, khi ấy cô mới cắt nghĩa, phải có người bảo lãnh nhận làm vợ thì cho về, lấy giấy riêng, bằng không ai bảo lãnh, thì chỉ còn nước lãnh giấy ở nhà số, tùng quyền tàu kê, má nuôi, má cho ăn mặc, nhưng mình phải trải thân rước khách, nếu đắt hàng, má trọng đãi, cho ăn tiền đầu, và đối xử tử tế, bằng hết thời lâm bịnh hay vắng khách thì xuống hàng làm đày tớ, “sớm khuya quét tước con hầu, phận làm đày tớ con hầu dám sai” (nhại K.). Nghe vậy tôi nhào lăn khóc than chẳng ngớt. Cô ấy lấy khăn lau nước mắt cho tôi và dỗ dành tôi đủ mọi lẽ. Rằng chớ nên buồn rầu mà sanh bịnh, vì may phước lắm tôi mới gặp cô đây là người từng chung cảnh ngộ và biết phải chăng lắm. Cô hay thương người hoạn nạn như tôi, nếu chịu về với cô, cô sẽ trọng đãi lừa dịp kiếm thế xé giấy sớm cho tôi nhờ. Song việc xé giấy ấy cũng phải đợi một ít lâu cho hết hạn, chớ không lý lãnh giấy nay rồi mai xé giấy thì đâu còn là trả nợ với luật lệ xưa nay.

Vả chăng đức Phật còn mang tám nạn, người đời sao khỏi ba tai, ấy mà? Nay thời vận bất tề, biết đâu ngày mai lại sáng? Phải cắn răng mà chịu chớ! Can đảm lên em? Đừng ngã lòng. Phải sắt đá chanh chua thêm lên, mới làm lại với bọn đã hại em, bọn đàn ông chó má cỡ thằng lính kiểm tục. Thiệt cô này có tài, nhè gãi ngay chỗ ngứa của mình, cô đờn bản gì nghe hay quá, trúng phong phóc vào những gì mình suy nghĩ đêm hôm, và giọng kèn tiếng quyển của cô làm cho tôi nguôi ngoai đôi phần, chí quyết ẩn nhẫn để sau nầy trả thù càng mạnh lên. Chừng tôi vui lòng chịu làm thủ tục và bước lên xe tay cùng cô nọ về nhà của cổ. Nói cho phải, cổ cũng chịu khó với tôi đủ điều. Mấy ngày đầu, tôi bỏ cơm bỏ cháo, năm khóc mãi, khóc thét đến sưng vù hai mắt, nhưng tôi có cái tật đã nói, hễ khóc được thì nỗi buồn cũng theo nước mắt trôi đi mau lắm. Cổ dụ ngon tôi, ép tôi ăn món nầy món nọ gánh nào gánh ngang cổ cũng mới tôi không sót, lại khéo đưa tiền biểu tôi đánh bài cho giải khuây. Như vậy mới biết trong nghề nầy, ngón dụ dỗ thì họ là số một. Họ làm sao không rõ, mà nay một chút, mai một chút, cái gọi là “thành sầu” chỉ sáu bảy ngày mà đã tiêu tan mất tích! Và sáu bảy ngày gì đó, tôi đã hết nói đến chuyện huỷ mình liều mạng. Nhưng vậy, con người chớ phải chó trâu gì mà không biết rầu buồn. Thỉnh thoảng, đôi ba bữa tôi khóc cho một trận, và làm cho cổ thất công dỗ mãi.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved