Trích luận văn tiến sĩ của Karl Marx “Sự khác biệt giữa Triết Học Tự Nhiên của Demokritos và Epikouros,“ phụ lục, viết năm 1841.

Bringe Papiergeld in ein Land , wo man diesen Gebrauch des Papiers nicht kennt, und jeder wird lachen über deine subjektive Vorstellung. Komme mit deinen Göttern in ein Land, wo andere Götter gelten, und man wird dir beweisen, daß du an Einbildungen und Abstraktionen leidest. Mit Recht. Wer einen Wendengott den alten Griechen gebracht, hätte den Beweis von der Nichtexistenz dieses Gottes gefunden. Denn für die Griechen existierte er nicht. Was ein bestimmtes Land für bestimmte Götter aus der Fremde, das ist das Land der Vernunft für Gott überhaupt, eine Gegend, in der seine Existenz aufhört.

Oder die Beweise für das Dasein Gottes sind nichts als Beweise für das Dasein des wesentlichen menschlichen Selbstbewußtseins, logische Explikationen desselben. Z.B. der ontologische Beweis. Welches Sein ist unmittelbar, indem es gedacht wird? Das Selbstbewußtsein.

In diesem Sinne sind alle Beweise für das Dasein Gottes Beweise für sein Nichtdasein, Widerlegungen aller Vorstellungen von einem Gott. Die wirklichen Beweise müßten umgekehrt lauten: »Weil die Natur schlecht eingerichtet ist, ist Gott.« »Weil eine unvernünftige Welt ist, ist Gott.« »Weil der Gedanke nicht ist, ist Gott.« Was besagte dies aber, als, wem die Welt unvernünftig, wer daher selbst unvernünftig ist, dem ist Gott? Oder die Unvernunft ist das Dasein Gottes.

Cứ mang tiền giấy tới một xứ sở nơi đó công dụng này của giấy không hề được biết tới và người ta sẽ cười vào tưởng tượng chủ quan của bạn. Cứ mang thần của bạn đến một vùng đất mà các thần khác ngự trị bạn sẽ bị chứng tỏ là bị bệnh hoang tưởng và trừu tượng. Thật thế. Bất cứ ai mang một vị thần Tư Lạp Phu-Nhật Nhĩ Man đến với người Hy Lạp cổ đại sẽ được chứng minh về sự không hiện hữu của thần đó. Bởi vì đối với người Hy Lạp thần đó không hiện hữu. Một xứ sở cụ thể thế nào với một vị thần cụ thể, xứ sở lý trí cũng thế với Thần nói chung – nơi xứ sở ấy sự hiện hữu của Thần chấm dứt.

Nói cách khác, những bằng chứng như thế chỉ là những bằng chứng của sự tồn tại của sự tự ý thức chủ yếu, những giải thích hợp lý về sự tự ý thức ấy, ví dụ, bằng chứng bản thể học. Thực thể nào thì trực tiếp khi mà trở thành chủ điểm của tư tưởng? Sự tự ý thức.

Theo ý nghĩa này, tất cả mọi bằng chứng về sự hiện hữu của thần là bằng chứng của sự không hiện hữu của thần. Tất cả đều bác bỏ mọi khái niệm về Thần. Bằng chứng thật sự phải có một đặc tính đối nghịch. “Bởi vì tự nhiên được tạo dựng quá tồi tệ, Thần y như thế.” “Vì thế gian thật là phi lý. Thần y như thế.” “Vì tư tưởng không tồn tại. Thần tồn tại.” Tuy nhiên thế có nghĩa là gì ngoại trừ rằng đối với ai mà thế giới thật là phi lý, nghĩa là chính mình cũng phi lý, đối với người đó thì Thần tồn tại? Hoặc là sự phi lý chính là sự hiện hữu của Thần.