Mở đất, mở
văn?
Nhân ba rồi lại chia ba
Nhìn cho kỹ trước khi ba hóa
một
Văn Bắc: những đóa hương đời
Lời tinh
diệu
Ý thực tế
Vì sao?
Văn Trung: chiêm bao
thấy núi
Một ranh giới lạ
Một thứ văn chương
lạ
Của người, của
đất?
Văn Nam: thoải mái như nước
lên
Ý: gần Bắc hơn Trung
Lời: không biết tới
bờ!
Nam hóa Bắc, Trung
Chỉ một loài hoa
Mở
đất, mở văn?
Bàn về quá trình mở
nước, thì
người Tàu đi trước người Việt rất xa. Cách
nay hơn hai nghìn năm, họ đã mở xong Hoa Nam, rồi mở tiếp luôn ba quận Giao Chỉ,
Cửu Chân, Nhật Nam, tức Bắc bộ và một phần Trung bộ
nước ta bây giờ. Từ khi giành lại được độc lập năm 939, người
Việt cũng ráo riết Nam tiến, thôn tính hết Chiêm Thành đến Chân Lạp. Sau
hơn tám trăm năm liên tục bành trướng, đến khoảng giữa thế kỷ 18, nước Việt Nam
chính thức trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau.
Cùng trong một nước, văn hóa
ở mỗi địa phương vẫn hay có sắc thái riêng. Trung Quốc chẳng hạn, giữa thơ văn
Hoa Bắc với thơ văn Hoa Nam có những chỗ khác nhau rất đáng kể, như Lâm Ngữ
Đường đã trình bày trong danh phẩm My country and my
people.(1)
Nước ta, về văn học, giữa
miền nọ với miền kia có sự phân biệt rõ ràng như bên Tàu chăng?
Nhân
ba rồi lại chia ba
Nói đất nước gồm ba miền
Bắc, Trung, Nam, thì bây giờ ai cũng đồng ý, nhưng thực ra cách chia ba như thế
bắt đầu từ lúc nào và cụ thể ranh giới mỗi miền là ở đâu?
Nếu căn cứ vào diễn tiến
hình thành, nước ta quả gồm ba khu vực.
Khu vực thứ nhất (I)
là đất của
người Việt cổ,
tức người Lạc Việt, mà các nhà
nghiên cứu đã chứng minh là chủ nhân của văn minh Đông Sơn, mà
theo truyền
thuyết là thần dân của các vua Hùng, cư dân của nước
Văn Lang. Trong Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh
khẳng định "miền trung lưu và hạ lưu sông Hồng (...) miền trung lưu và hạ lưu
sông Mã và sông Lam cho đến Hoành Sơn, đều là địa bàn sinh tụ của
bộ lạc liên hiệp Lạc Việt"(2). Địa bàn ấy lần lượt mất vào tay Thục
Phán, Triệu Đà, rồi bị nhà Hán nhập hẳn vào Trung Quốc. Đầu thời Bắc
thuộc, năm -111, lưu vực sông Hồng trở thành quận Giao Chỉ, lưu vực
sông Mã sông Lam trở thành quận Cửu Chân. Ranh giới Giao Chỉ - Cửu Chân ở vào
khoảng đèo Tam Điệp, giữa Ninh Bình và Thanh Hóa ngày nay. Quận Cửu Chân về phía
nam chấm dứt ở đèo Ngang (Hoành Sơn), tức đại khái gồm ba tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Suốt một ngàn năm đô hộ, dân tộc Việt vẫn liên tục
định cư tại Khu vực I.
Gần như ngay sau
khi đuổi được quân Tàu, lấy lại được quyền tự chủ, người Việt bắt đầu xung đột
với người
Chàm. Đầu thời Tiền Lê, lúc Lê Hoàn thân chinh phương nam, thì
Chiêm Thành đã bắc tiến tận Hoành Sơn, tức đến sát địa phận nước ta. Trước
đấy, vào thời nhà Đinh, quân Chiêm đã âm mưu đánh úp kinh đô Hoa
Lư của Đại Cồ Việt. Cuộc tử chiến Việt
- Chàm kéo dài hơn bảy trăm năm, kết thúc năm 1697, khi chúa Nguyễn lấy nốt phần
đất cực nam
của Chiêm Thành. Khu vực thứ hai (II) là toàn bộ đất Chàm cũ, kéo dài từ
Quảng Bình đến Phan Rí.
Cuộc Nam tiến của dân
tộc Việt ở khúc giữa vất vả bao nhiêu thì ở đoạn cuối dễ dàng bấy nhiêu. Trước
khi lấy nốt mảnh chót của Chiêm Thành, nhân nội bộ Chân
Lạp chia rẽ chúa Nguyễn đã bắt đầu lấn chiếm vùng Biên Hòa-Gia Định; sau đó, nhờ
hoàng tộc Miên tiếp tục lủng củng nặng nề và nhờ công Mạc Cửu, chỉ thêm sáu mươi
năm nữa nước ta đã mở đến tận Cà Mau, Hà Tiên. Khu vực thứ ba (III) vốn là phần
phía đông
của vương quốc Chân Lạp.
Nước mở xong hơn trăm năm,
thì nước chính thức chia ba miền.
Năm 1884, nhà Nguyễn ký hòa
ước Patenôtre, chấp nhận để Pháp chia cắt lãnh thổ. Trần Trọng Kim ghi lại thất
bại lịch sử: "Nước Việt Nam trước kia, từ Nam chí Bắc là một (...) mà nay thành
ra ba xứ: Nam kỳ, Trung kỳ và Bắc kỳ"(3).
So "kỳ" với Khu vực, thấy
đại khái như sau: Bắc kỳ là Khu vực I trừ Thanh-Nghệ-Tĩnh, Trung kỳ là Khu vực
II cộng Thanh-Nghệ-Tĩnh, Nam kỳ là Khu vực III.
Cửu Chân vốn khắng khít với
Giao Chỉ, đến đây bị tách ra mà ghép vào với Chiêm Thành.
"Sự đã rồi". Hơn nữa, như sẽ
trình bày, xem Thanh-Nghệ-Tĩnh là "Trung", về văn hóa lại không phải hoàn toàn
vô nghĩa lý.
Nhìn
cho kỹ trước khi ba hóa một
Bắc, Trung, Nam là thế. Thế
thì sao?
Từ đầu đến giờ, kể toàn
chuyện lịch sử dằng dặc, xa xôi. Từ giờ, xin tập trung chủ yếu vào một quãng
thời gian từ khi văn quốc ngữ sơ sinh cho đến mười lăm năm sau khi chiến tranh
Việt Nam chấm dứt. Ðại khái, khoảng bảy thập kỷ.
Có ba lý do nên chọn cái
khung ngắn ngủi vừa nêu mà ngắm nghía.
Thứ nhất, đến đầu thế
kỷ 20 thì Khu vực III, tức Nam bộ, đã ra đời gần hai trăm
năm, đã có đủ thời gian để phát triển một sắc thái văn hóa riêng, phân biệt với
Trung với Bắc.
Thứ hai, trong phần
lớn của
bảy mươi năm ấy, nhờ phương tiện mới là chữ quốc ngữ, sinh hoạt văn
học của
dân tộc Việt Nam từ bắc chí nam đã rộn rịp tưng bừng hơn bao giờ hết; đặc
biệt ở Trung bộ, tính chất tự do của nền văn học mới đã làm bộc lộ
một khuynh hướng địa phương bấy lâu tiềm ẩn.
Thứ ba, sau năm 1975,
do chính trị lại thống nhất, do những đợt di cư liên tục từ Bắc vào Trung vào
Nam, do tiến bộ về giao thông, truyền thông, người Việt ba miền đang mỗi ngày
mỗi giống nhau hơn, về mọi phương diện.
Trong khung thời gian chọn
lựa, độ tương phản giữa sắc thái văn hóa ở Bắc, Trung, Nam cao hơn sau đấy.
Riêng về văn học, khối lượng tư liệu có thể dùng để tìm hiểu, so sánh lại đặc
biệt đồ sộ.
Nhưng còn "tình hình" từ
1954 đến 1975 trên đất nước ta, nó không đóng vai trò gì đáng kể sao? Cái Bắc,
cái Nam trong hai mươi năm ấy liệu có ý nghĩa liên hệ gì ở đây
chăng?
Tuy cuộc xung đột vừa
qua là ác liệt nhất trong lịch sử Việt Nam, tình trạng chia đôi tương đối ngắn
hạn, ở một lằn ranh "nhân tạo" như vĩ tuyến 17, khó ảnh hưởng đến những nề nếp
sinh hoạt từ lâu định hình. Mặt khác, việc hai triệu người
sống ở phía bắc sông Bến Hải di cư vào phía nam năm 1954 không khỏi làm
văn hóa phía ấy biến chuyển lớn. Nhìn lại, cuộc xáo trộn vĩ đại đã tình cờ đóng
vai trò khởi đầu diễn tiến xóa mờ ranh giới địa phương, hợp nhất văn hóa dân
tộc.
Văn
Bắc: những đóa hương đời
Như từng phát
biểu (4), vào tiền bán thế kỷ hai mươi, ở nước ta đã xảy ra một hiện tượng văn
hóa kỳ lạ. Chỉ trong trên dưới ba mươi năm, dân tộc Việt Nam đã sáng tạo và hoàn
chỉnh một mô hình thẩm mỹ mới trong ba ngành nghệ thuật căn bản: văn chương, âm nhạc,
và hội họa. Các văn sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ Việt Nam đã dùng phương tiện mới
tiếp thu
từ phương Tây mà sáng tác nên những nghệ phẩm vừa có giá trị cao vừa
không thể nhầm lẫn với cái văn, cái hát, cái vẽ của bất cứ
dân tộc nào khác. Chẳng những chỉ ở Đông Nam Á yếu nghèo mà ngay khắp Đông Á với
những cường quốc như Trung Quốc, Nhật, Hàn, hay ngay cả ở bất cứ khu vực nào
khác trên thế giới, dường như xưa nay nhân loại vẫn hiếm khi được chứng kiến Hia
Bảy Dặm.
Phép lạ thu ngắn
đường, khiến vừa đi đã đến, chỉ xuất hiện khi có sự trùng hợp của một số
yếu tố, mà không thể thiếu là nội lực sung mãn của văn hóa bản
địa.
Giữa nước nọ với nước
kia trên thế giới trình độ văn hóa có chênh lệch, thì giữa miền nọ với miền kia
trong một đất nước cũng xảy ra tình trạng phát triển không đồng đều. Xây dựng
văn hóa cần nhiều thời gian. Tuy cùng người Việt, nhưng mỗi lần
thay đổi chỗ ở lớn, mỗi lần lìa tổ quán đi lập nghiệp nơi vùng đất mới, không
khỏi là mỗi bắt đầu tổ chức lại toàn bộ nề nếp sinh hoạt, vật chất lẫn tinh
thần. Cái nội lực mới so với cái cũ rồi hơn kém thế nào chưa biết, chỉ biết
không thể trong phút chốc mà thành thâm hậu. Vào đầu thế kỷ hai mươi, nhờ ưu thế
thời gian, nội lực văn hóa ở Bắc bộ đã đạt mức thượng thừa trong khi ở Trung
(trừ vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh) và nhất là ở Nam, tình hình sinh hoạt tinh thần đại
khái là vẫn còn thuộc giai đoạn cần ráo riết
bồi đắp. Hoàn toàn không ngẫu nhiên mà Bắc bộ, tức quận Giao Chỉ đời Hán, nơi cư
dân từng nổi tiếng có hai bàn chân không mang được giày, lại xỏ vừa khít vào Hia
bảy dặm mà lãnh đạo dân tộc trong công cuộc đổi mới văn hóa ngoạn mục nhất xưa
nay.
Văn chương ngoài ấy có gì
lạ?
Lời tinh
diệu
Thứ nhất, văn Bắc lưu
loát đến mức e không còn chỗ cải tiến. Đọc văn xuôi của các
tác giả trong Tự Lực văn đoàn, của Nguyễn Tuân, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài v.v. thời tiền chiến, đọc những tác
giả người
Bắc di cư và những tác giả người Bắc không di cư thời
chiến tranh, rồi đọc Nguyễn Ngọc Ngạn ở hải ngoại, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương
ở trong nước sau chiến tranh, ta có cảm tưởng họ viết thật dễ dàng, chữ
nghĩa của họ thật nhuần nhuyễn. Văn xuôi
thế, thơ càng thế: những Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, Phạm
Thiên Thư v.v., thơ của họ khác nào nước chảy mây trôi.
So sánh cụ thể hơn, văn chương Bắc bộ trôi chảy như tiếng Bắc. Có ai để ý, bà cụ
hàng nước, bác phó cạo, anh phu xe kéo, cô gái "trong khung cưởi", dân quê lam
lũ mò cua bắt ốc, thậm chí trẻ chăn trâu, hễ cần đối đáp thì từ già đến trẻ nói
năng rõ ràng, rành rẽ, thao thao...
Đặc điểm thứ hai của văn
Bắc là nó điêu luyện, cũng đến trình độ không biết thế nào cho hơn được. Văn
Nguyễn Tuân thơ Vũ Hoàng Chương, chẳng hạn, tinh tế lạ lùng. Lại không khỏi liên
tưởng đến lời ăn tiếng nói của người
Bắc. Họ "phát biểu" không chỉ "bất tuyệt" thôi đâu, mà còn ý tứ, tài
tình quá thể.
Hai chỗ "lạ" vừa
nêu, dễ thấy mà cũng dễ giải thích. Châu thổ Bắc bộ là đất "người
khôn của khó", nơi đơn vị căn bản là xóm
làng đã được tổ chức hết sức chặt chẽ, tuyệt không còn chỗ cho hành vi bạo động
bừa bãi. Ở làng, muốn sống tốt, muốn ăn trên ngồi trước, phải lo luyện cái ngón
lưỡi cho dẻo cho tinh. "Thiệt chiến" thường xuyên đời nọ qua đời kia, bảo sao
nói năng chẳng nhanh chẳng khéo!
Văn Bắc không phải chỉ khéo,
chỉ nhanh.
Nhớ một ý thơ của Chế
Lan Viên. Nhà thơ từng so sánh thơ ra đời với hoa nở:
"Nở rồi, trông dễ như
không
Một
vùng sáng đọng, một vùng hương bay"
và nhấn mạnh để có hương có
sáng, phải có... rễ: "Bắt đầu từ rễ, em ơi!"
Văn xuôi mà như rất
nhiều tùy bút của Nguyễn Tuân, như
Thương nhớ mười haicủa Vũ Bằng, như Dưới bóng
hoàng lancủa Thạch Lam v.v., thơ mà như thơ
Vũ Hoàng Chương, thơ Hoàng Cầm (giai đoạn Về Kinh
Bắc), thơ Phạm Thiên Thư, thơ Phùng Cung v.v., thì chính là
mỹ
thuật ngôn từ ở cấp cao nhất, là những đóa hoa diễm lệ kết tụ từ cái rễ
văn hóa Bắc bộ vốn đã tỏa rất rộng, đâm rất sâu vào mầu mỡ thời gian. Đẹp đến
mức ấy, lời không chỉ chứng tỏ một năng khiếu đặc biệt về sáng tạo nghệ
thuật của cá nhân, mà còn cùng lúc biểu
hiện cái tinh hoa của một nền văn hóa kỳ cựu và độc
đáo. Tạm gọi thứ lời như thế là mỹ văn - văn đẹp, đẹp cách đầy cá tính, của riêng
từng nghệ sĩ và của chung cả một khu vực văn
hóa.
Thực ra, văn hóa Việt
Nam đã bắt đầu nở hoa từ hàng hai trăm năm trước, qua tài năng của Nguyễn
Du, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Phan Huy
Vịnh, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương, Tản Đà v.v. Những Vang
bóng một thời, Ta đợi em từ ba mươi năm, Về Kinh Bắc, Động
hoa vàng, Xem đêm v.v. chỉ là sự kế tục hợp lý.
Ý thực
tế
Văn Bắc mãn khai rực rỡ về
hình thức. Xét qua nội dung, thấy có tình trạng phát triển thiếu cân
đối.
Suy tưởng, chung quy
chỉ có hai hướng. Hướng nhìn vào cuộc sống dẫn tới triết lý về nhân sinh, về
quan hệ giữa người với người.
Hướng nhìn ra bên ngoài đem lại quan niệm về vũ trụ, về hiện hữu, về liên hệ
giữa "cõi tạm" với những cái lớn lao, bền bỉ hơn.
Không kể vũ trụ
quan của
những tác giả cổ điển, là thứ "quan" cũ kỹ, thiếu hẳn sáng tạo, dường như
suy tưởng
của hầu hết các nhà văn nhà thơ miền Bắc, từ Phạm Duy Tốn, Thế Lữ,
Khái Hưng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính v.v. đến Thanh Tâm Tuyền, Nhật
Tiến, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Hoàng Cầm, Phùng Cung v.v. đến Nguyễn Ngọc
Ngạn, Thế Giang, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Bảo Ninh v.v. đều xoáy
vào cuộc sống, đều thiên vị rõ rệt cái hướng "nghĩ vào". Viết truyện mà kín đáo,
thâm trầm như Nguyễn Huy Thiệp thì hiếm có, "bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu"(5),
nhưng tác phẩm của ông rút cục đâu chứa gì khác
ngoài những nghiền ngẫm rất thú vị về "một cõi nhân gian bé
tí"(6)!
Đã bé, lại "...
lắm người
nhiều ma"(7). Nhắc ma, nhớ Bốn con yêu và hai ông
đồcủa Nguyễn Triệu Luật, nhớ những con
ma mạn ngược
của Tchya, nhớ Yêu ngôn, Chùa đàncủa Nguyễn
Tuân v.v. Truyện đầy ma quỷ yêu tinh có thể biểu dương trí tưởng tượng phong
phú, chứ không nhất thiết chứa băn khoăn triết lý. Nhắc triết, lại hồi tưởng một
số tác phẩm
của Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng v.v., loại sáng tác có phảng
phất mùi khói hương, hoặc có lởn vởn cảnh thần tiên diễm ảo. Tiên Phật dĩ nhiên
xa cõi tục, nhưng cả cảnh lẫn hương đều quen thuộc, ổn định, không liên hệ gì
với những trăn trở mới mẻ, mơ hồ. Dường như văn nhân miền Bắc thỉnh thoảng có
tạm ngừng chú mục vào cuộc nhân sinh tất bật mà xoay hướng ra ngoài thì lại ưa
quanh quẩn trong khuôn sáo hơn là bước ra khỏi nó. Như thể, khi họ hướng ra, là
lúc họ cần thư giãn sau khi đã hướng vào quá lâu. Cùng nhìn ra, mà cái nhìn "vô
tư" ở Bắc bộ tương phản mạnh mẽ với cái nhìn trầm tư nơi một miền đất
khác
của quê hương.
Vì sao?
Vì sao ở Bắc xảy ra tình
trạng triết nhân sinh lấn triết vũ trụ?
Dường như có ba lý
do.
Thứ nhất, châu thổ Bắc
bộ nhìn đâu cũng thấy người, nhìn đâu cũng hừng hực
hơi
người. Sống trên "mảnh đất" mà việc tranh sống rất vất vả vì quanh mình
ai ai cũng tích cực tranh, còn đầu óc bụng dạ nào mà nghĩ đến chuyện gì khác
ngoài cái sống!
Thứ hai, đất ấy đồng
thời là nơi văn hóa phát triển đã lâu đời, chuyện gì cũng đã từng có người
ngẫm nghĩ hoặc đem cái ngẫm nghĩ ở đâu đấy về, kể cả chuyện siêu hình. Ở
Bắc, con
người thi thoảng có điều kiện để miên man ra ngoài cuộc sống thì
lại rất dễ bước ngay vào một trong nhiều "lý thuyết" mà tâm thức cộng đồng đã
tích lũy.
Như đã trình bày, tranh sống
kịch liệt và văn hóa cao cũng chính là nguyên nhân làm văn Bắc có thể đẹp đến
mức kỳ ảo.
Về hiện tượng văn Bắc gần
như bỏ qua hẳn một hướng nghĩ sáng tạo, có phải còn một nguyên nhân nữa, liên
quan đến địa lý?
Một mặt, Bắc bộ có núi
cao nhất nước. Mặt khác, Bắc bộ lại có châu thổ tương đối rộng. Tuyệt đại đa
số người
Kinh sống ở châu thổ, sống xa núi cao. Hoàng Liên Sơn ở xa, mà biển Đông
cũng không hẳn gần... Hà Nội, Bắc Ninh. Khi "tìm tòi và suy ngẫm" về văn hóa
Việt Nam, Trần Quốc Vượng có nhắc "tư duy (...) xa rừng nhạt
biểncủa người
nông dân đồng bằng Bắc Bộ".(8) Núi cao biển lớn là hình ảnh cụ thể
nhất
của tự nhiên hùng vĩ. Mắt đã xa đã nhạt, thì óc cũng thôi bận bịu. Phải
vậy chăng?
Dĩ nhiên, vẫn có ngoại
lệ. Như trường hợp Nhất Linh. Đọc văn Nhất Linh, hầu hết độc giả tập trung chú ý
những trăn trở đầy tính xã hội trong một số tiểu thuyết luận đề như Đoạn
tuyệt, Lạnh lùng. Dường như Võ Phiến là người
đầu tiên chỉ ra những băn khoăn siêu hình nằm rất kín đáo trong
Người quay tơ, Đôi
bạn v.v. Có phải ngẫu nhiên mà tác phẩm Nhất Linh chứa loại băn khoăn ấy, và
tình cờ mà Võ Phiến nhặt được chúng?
Văn
Trung: chiêm bao thấy núi
Thỉnh thoảng sờ lại Chiếc
lư đồng mắt cua, thường táy máy lật tìm cô Tâm. Cô đào nương xứ Bắc từng
chung chăn với nhà tùy bút tài hoa (nguyên quán Hà Nội), khi trên chiếu giường
tử tế lúc dưới ổ rơm gần nhà cầu, cô đào ấy khi chán hát ở nhà ông Thông Phu,
khi nhất định trở ra Bắc có lưu bài thơ từ biệt quan viên tỉnh
Thanh:
"... Châu Thang của
hiếm người càng
hiếm
Chị đỉnh chung chi với lũ Hời".
Gọi người
Thanh Hóa là lũ Hời! "Láo" quá! "Du côn" quá!
Một ranh giới
lạ
Mà cũng lạ quá.
Tỉnh Thanh với đất Bắc bất quá chỉ bên ngoài bên trong cái đèo Ba Dội, mà ngoài
là "ngoài ta", còn trong đã thuộc về giang sơn của
người
Chàm!?
Thanh-Nghệ-Tĩnh (TNT),
hay xứ Trại, hay Ái châu-Hoan châu-Diễn châu thời Đường, hay quận Cửu Chân thời
Hán, chưa bao giờ là một phần lãnh thổ của Chiêm quốc. Trái lại, trước năm
1884, bất chấp đất nước hưng vong TNT luôn gắn bó với Bắc bộ. Trong cuộc xung
đột kéo dài hơn hai trăm rưỡi năm giữa Trịnh và Nguyễn, TNT sát cánh với Bắc bộ
mà cách ly với đất mới mở phía nam. Suốt trường kỳ lịch sử đầy biến cố của dân
tộc, TNT liên tục đóng góp tên tuổi lớn: nào Bà Triệu, Mai Hắc Đế, Hồ Quí Ly, Lê
Lợi, Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm v.v., chưa kể bao nhiêu nhân tài xuất chúng trong
những thời sau. Tha thiết, thậm chí sống chết với nhau như thế, mà sao hai phía
một cái đèo nhỏ dường vẫn phân biệt? Trong Tùy bút, Nguyễn Tuân kể một lần đưa
tiễn Đồ Phồn vào Nam lập nghiệp, ngẫu nhiên đưa đến tận địa giới Bắc-Trung và có
cao hứng làm tặng bạn bài thơ:
"... Đến đây là đỉnh đèo Ba
Dội
Cạn chén
đưa anh một chén đầy."
Ô hay, chỉ từ Ninh Bình qua
Thanh Hóa mà thơ thẩn sao nghe như có ý vị cuộc chia tay nơi biên
ải!
Vẫn trong Tùy
bút, có câu đối mừng bạn khác: "... trọ trẹ châu Thang câu hát
bộ".
Người Việt phía nam đèo Ba Dội nói giọng trọ trẹ từ bao giờ? Có phải do
từng ở gần Chiêm Thành mà trọ trẹ chăng?
Khó xác quyết. Chỉ biết quả
từ TNT trở vào, trong văn học Việt Nam mới nẩy khuynh hướng thiên về cái siêu
hình.
Một thứ văn chương
lạ
Nhắc thứ thơ văn
mà nội dung xa lìa nhân thế, người ta thường nghĩ ngay
đến các tác giả trong Trường Thơ Loạn, đa số cư trú tại Bình Định, như Chế Lan
Viên, Hàn Mặc Tử v.v. Ma Hời và ánh trăng sáng rợn dĩ nhiên thuộc về
cõi văn chương khác. Cõi ấy tuy vậy không nhất thiết phải có ma có trăng chi cả.
Nó trước tiên đầy ắp băn khoăn, trăn trở của những
kẻ sống không quá trăm năm trên một hạt bụi mà cứ đau đáu hướng về Thời Gian Vô
Chung - Không Gian Vô Tận, về Cái Không Thể Biết.
Từ Bắc đi vào, mới đến
Hà Tĩnh, nghĩa là còn cách Bình Định rất xa, đã gặp ngay một kẻ như thế. Huy
Cận, giữa tuổi hoa niên, đã cảm rõ chỗ khác lạ của mình:
"Nhưng cô độc đã thầm ghi
trên trán,
Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh." (Trình
bày)
Hơn nửa thế kỷ đầy dâu bể
sau, ông vẫn chưa thôi thắc mắc:
"Hờn Tạo hóa đã bày chi bóng
tối!
Sao tâm
linh phải mang phận hình hài?" (Người đẹp đến giờ hấp
hối)
Tiếp tục xuôi Nam,
trảy qua Quảng Bình, nơi sinh của Hàn Mặc Tử, rồi Quảng Trị,
nguyên quán
của Chế Lan Viên.
Vào đến Thừa Thiên, giữa
binh lửa một thời, bỗng xuất hiện "thanh niên tóc trắng" Trịnh Công Sơn với
những âu lo về Cát bụi, về "Tóc em rớt xuống đời làm
sóng..."
Người nhạc sĩ lớn nhất của Huế, của cả
miền Trung, thời thống nhất tô đậm thêm nét siêu hình trong lời nhạc của mình
với Một cõi đi về, Biết đâu nguồn cội, Tôi ơi đừng tuyệt
vọng v.v. Bắc, Nam, không miền nào có thứ lời nhạc như thế.
Ngay phía bên kia của
đèo Hải Vân, nói chung không phải nơi con người
ưa triền miên trong suy tưởng xa xôi. Quảng Nam nổi tiếng đất học, với
"ngũ phụng tề phi", nổi tiếng về năng khiếu lý luận, với Phan Khôi, Ðặng Tiến,
Nguyễn Hưng Quốc v.v. Nhưng đất "chưa mưa đã thấm" cũng là quê Bùi Giáng, nhà
thơ phá cách độc đáo, tác giả nhiều thi phẩm không gắn bó chặt chẽ với hiện
thực. Bùi Giáng có lần tâm sự:
"Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở
lại
Tôi sẽ đi
và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui
sầu".
Như trên có nhắc,
những cái "chưa biết" bất thường ấy cũng từng ẩn náu trong tác phẩm của
Nhất Linh. Nhất Linh gốc Quảng. Có phải cái gốc Quảng Nam đã pha
vào văn chương ông những màu sắc vốn không thuộc về chốn ngụ cư là Bắc
bộ?
Rời Quảng để vào Quảng, ngắm
Tranh lõa thểcủa Bích Khê:
"Nàng là tuyết hay da nàng
tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?"
Trừu tượng, đã
đành...
Qua khỏi rừng dừa ngút
ngàn Tam Quan - Bồng Sơn, bước hẳn vào non nước Bình Định, ta gặp hàng ngũ những
kẻ "chuyên" sống ngoài cuộc sống, những thi sĩ mà sáng tác phản ánh một thế giới
tâm linh khác thường. Thời tiền chiến, cái khác thường ấy đậm đặc trong tác
phẩm của
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, loãng hơn nơi Yến Lan, Quách Tấn v.v. Bẵng đi
độ đôi chục năm, nó bỗng tái hiện "nguyên chất" trong những bài thơ rất lạc
loài của
Võ Chân Cửu. Ai chắc mình hiểu thấu những câu như:
"Bỗng nhiên lạnh cả hồn
tôi
Khi trông
thấy dáng núi ngồi co ro".
Nội dung khó hiểu mà
rõ ràng chân thành, không phải lập dị để gây chú ý, nên cũng đã có người
cố hiểu. Bình Định còn ít nhất đôi tác giả nữa có khuynh hướng "tâm
linh", mà dường như chưa mấy ai xem xét. Không phải vì họ vô danh. Chính vì họ
đã có danh.
Người
thứ nhất là Chế Lan Viên "II". Vừa xuất hiện, ông nổi tiếng ngay với
Điêu tàn. Rồi tên tuổi ông gần như gắn liền với chỉ Điêu
tàn. Thực ra, thơ Chế Lan Viên sau này phong phú hơn trước cả về hình
thức lẫn nội dung, lắm bài hay hơn lạ hơn thi phẩm thời trẻ. Cùng một hướng
nghĩ, cái hướng xoay lưng lại với cõi nhân sinh hiển hiện, nhưng trong giai đoạn
sau loại thơ siêu hình của Chế Lan Viên vắng hẳn bóng ma
Hời mà lởn vởn những trăn trở "không biên giới":
"Trút hết tạp âm của vũ trụ
đi, chỉ còn
một dây bản ngã của anh thôi
Cái đàn bầu ấy chẳng bao
giờ có được
Dù một dây - chả bao giờ là một
Khi có Người
đàn thì đàn đã song đôi.
Bản ngã anh chứa những tạp âm
rạn vỡ của
sao trời
Chứa những âm âm u u vũ
trụ
Bản ngã
anh, anh chỉ tìm ra, hiểu rõ
Khi chạm số phận mình cùng một vì sao
lạ đổi ngôi."
Ám ảnh thuần trí
tuệ. Thơ Việt Nam xưa nay đâu có thơ thế này.
Người
thứ hai là Võ Phiến. Về sáng tác của Võ Phiến, đã lắm phát biểu. Có
ai để ý đến khuynh hướng siêu hình nơi ông chưa? Khuynh hướng ấy biểu lộ trong
một số tùy bút như Lúc dừng nghỉ, Mười giờ v.v. Và nó lặp
đi lặp lại cách khắc khoải trong thơ:
"Mải miết ra đi, đâu tính
đến
Đến nơi
nào?
Bảy tám
mươi năm, rồi cũng đến
Đến rồi sao?"
Tùy bút Nguyễn Tuân không
thấy chứa thứ nội dung "kém thực tế" như thế. Nhất Linh có bị băn khoăn rốt ráo
ám ảnh, nhưng ông bị "ám" nhẹ hơn và càng về già càng đỡ, trong khi Võ Phiến vừa
nặng vừa gia trọng.
Rời vùng tháp Chàm này
để vào vùng tháp Chàm khác, bước vào mảnh đất cuối cùng của vương
quốc một thời, ta gặp đôi mảng thơ hoặc "phiêu phiêu":
"tôi về lắng cả buổi
chiều
nghe
chim ăn trái rụng đều như kinh
còn một mình hỏi một
mình
có chăng
hồn với dáng hình là hai
từng trưa nằm nghỉ đất
dài
phiêu
phiêu nhẹ cái hình hài bay lên"
hoặc "láo
lếu":
"Bậc thánh triết là những
tay biếng nhác
Sống khề khà quanh bữa tiệc nhân sinh
Kết bạn bè cùng cây cỏ vô
minh
Rất chán
ghét những trò chơi thế sự
(...)
Và vĩ nhân là những tay láo
lếu
Như ta
đây chờ sung rụng ngoài hiên".
Thơ của
thi sĩ Ninh Thuận Nguyễn Đức Sơn và thi sĩ Phan
Thiết Nguyễn Bắc Sơn đấy. Xuất thế, thoát tục cách khác
thường.
Của
người, của
đất?
Văn thi nhân miền Trung có
khuynh hướng như trên thực ra khá lẻ loi. Ngay chính những nhà văn nhà thơ có
băn khoăn siêu hình đa số cũng dành phần lớn thì giờ để viết về chuyện xảy ra
quanh họ. Vậy mà số lượng khiêm tốn thơ văn "hướng ngoại" vẫn có giá trị tăng
thêm cho nội dung văn chương Việt Nam hẳn một kích thước. Cái kích thước mới,
tạm gọi là "chiều thứ hai", gốc nó vốn ở đâu?
Lại Nguyên Ân từng có
ý kiến: "tố chất vùng (...) chất người ở một vùng lãnh thổ cũng
có thể (...) thêm đường nét cụ thể trên diện mạo một nhân cách sáng tạo"(9). Ông
đưa ra một số nhận xét về người Việt miền Trung, về tiếng
Việt miền Trung. Nhưng không thấy ông nói gì về cái xu hướng nội dung đang bàn ở
đây.
"Chất người"
làm nghĩ đến... máu người. Trong huyết quản người
Việt miền Trung có một lượng máu Chàm đáng kể nào chăng? Nếu có, liệu nó
có "thêm đường nét cụ thể" trên diện mạo văn chương Trung hay
không?
Nghiên cứu lịch sử
chưa trả lời dứt khoát về tình hình lai giống ở Trung bộ. Trong khi cố tìm một
cách giải thích dễ dàng hơn, sực nhớ mấy đoạn văn sau đây của Võ
Phiến:
"Ở Bình Định quê nhà, chiều
chiều dạo với đứa em trên đường ruộng nhỏ. Em bé chợt ngắt đứt một tiếng cười
giữa khoảng đồng vắng. Giật mình, nhìn lên trời cao, rồi ngó xuống: thấy đứa em
bé quá. Và bốn bề núi xa lặng lẽ..."(10)
Không phải chỉ đứa em
bé đâu, mà cả xóm làng đều bé. Người bé, đất to. Ðất Trung bộ
tuy hẹp nhưng người ở nói chung thưa thớt. Ở
nơi người
ít núi nhiều, xoay hướng nào cũng đụng núi non sừng sững, dễ đâm nghĩ
ngợi lung tung, đi lạc khỏi kiếp người. Phải vậy
chăng?
"Những kỷ niệm hồi thơ
ấu thức dậy. Tôi nhớ làng cũ, nhớ gò khô, cỏ cháy, đất cằn (...) Những tiếng kêu
bò của
đứa trẻ kéo dài giữa mênh mông gò rộng vang lên có vẻ như chính đó là
tiếng kêu
của con nghé lạc đàn (...) lại như là tiếng kêu dị thường của cuộc
sống côi cút..."(11)
Cuộc sống côi cút vì vũ trụ
bao la?
"Xóm tôi xóm núi. Có
những chiều hè, mây phiêu lãng già nua kéo về đầy xóm. Cây dưới mây trên, chật
ních xóm làng, trầm tư, im lặng. Người và vật lánh cả vào nhà vào
chuồng. Duy một con chó rài sủa mãi ăng ẳng, từ xóm cao hướng về phía cánh đồng
dưới xa."(12)
Nhớ Huy Cận. Trong Hồi ký
song đôi, ông kể chuyện ngày nhỏ ở quê: "Buổi chiều về, gió sông thổi mát,
bóng núi Mồng Ga lan dài trên cánh đồng như một cái chăn mỏng đắp lên làng xóm.
Chính cái buổi chiều về sớm ấy ở làng sơn cước đã gợi lên một nỗi buồn man mác.
Ngày bị rút ngắn lại, sông núi ở ngay bên cạnh nhà mà đượm màu xa
vắng."(13)
Hà Tĩnh - Bình Định, xa mà
gần. Trong Nhìn chung về lãnh thổ nước ta(14), Đào Duy Anh nhận xét
do những nhánh ngang của Trường Sơn, nước Việt Nam có
nhiều "khu vực địa lý hoàn chỉnh nhỏ", mỗi khu vực gồm chủ yếu là núi, một ít
trung du, một ít đồng bằng. Cái chuỗi "tiểu hình thể" kéo dài từ Thanh Hóa xuống
tận Phan Rí ấy, thế mà dường như mang hẳn một màu sắc văn hóa riêng, khác hẳn
hai "đại hình thể" ở hai đầu. Ngẫu nhiên, cái hiệp ước quỷ quái ký với thực dân
Pháp hơn trăm năm trước đã chia nước ta theo một công thức liên hệ văn hóa với
địa lý tế nhị bất ngờ!
Tất nhiên, dù có
thường xuyên "chiêm bao thấy núi"(15), mà lúc nào cũng bận tâm về sinh kế, mà
trình độ văn hóa quá kém cỏi, thì sẽ chẳng nghĩ được đến... hành tinh nào cả.
Một số địa phương thuộc miền Trung dường như hội đủ
ba điều kiện
thuận lợi cho hướng nghĩ ra ngoài cuộc sống: một, là thiên nhiên hùng vĩ;
hai, là tranh sống không căng lắm (nhờ dân cư thưa thớt); ba, là văn hóa tương
đối cao (tuy đã mất đi một số nếp sau khi lìa gốc).
Mất nếp có gây
hại. Do nội lực văn hóa giảm sút mà văn Trung thua văn Bắc về hình thức. Cho đến
cuối thập kỷ 1950, văn thi phẩm của những tác giả miền Trung vẫn
chưa bảo được là lưu loát, điêu luyện, là mỹ văn độc đáo. Cái văn tùy bút của
Võ Phiến mà Nguyễn Hiến Lê từng so với văn Nguyễn Tuân: "nghệ thuật
không kém mà lại dí dỏm hơn, nhẹ nhàng hơn"(16), văn ấy không phải Võ Phiến viết
được ngay từ đầu, khi ông còn ở ngoài Trung, chưa vào Sài
Gòn...
Văn
Nam: thoải mái như nước lên
Sơn Nam là nhà văn Nam bộ
xuất sắc, cũng là nhà Nam bộ học có danh với Tìm hiểu đất Hậu Giang,
Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Cá tính của miền
Nam, Văn minh miệt Vườn, Người
Sài Gònv.v. Nói chung, ai cũng thiết tha với quê hương
mình, nhưng nhớ thương đau đáu như Sơn Nam thì ít. Nội dung của văn
ông không cần phải tìm, nó ngụ ngay đầu tập truyện Hương rừng Cà
Mau nổi tiếng:
"Ray rứt mãi đời
ta
Nắng mưa
miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố,
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất
quê..."
Hạt bụi biết nghiêng
mình, đứa con hiếu thảo của miền đất hai mùa mưa
nắng, có lần phát biểu về tình hình văn học ở Nam bộ: "Về mặt văn chương, lý
luận,
người miền Nam ít chú trọng xây dựng tác phẩm lớn khả dĩ thỏa mãn giới
trí thức."(17) Không rõ thời kỳ văn học mà Sơn Nam xem xét chấm dứt năm nào,
nhưng với Đò dọccủa Bình Nguyên Lộc được giải thưởng
văn chương năm 1960, với Hương rừng Cà Mauxuất bản năm 1962,
chắc chắn đầu thập kỷ sáu mươi là thời điểm cái viết nơi địa bàn sinh tụ mới
nhất của
dân tộc chuyển mình bước vào giai đoạn mới, bắt đầu chú trọng đến nhu
cầu của
giới trí thức.
Ý: gần Bắc hơn
Trung
Kiểm điểm tác
phẩm của
một số người viết miền Nam trong khoảng
thời gian từ 1960 đến 1990, thấy dường như hầu hết đều lấy cuộc sống làm đối
tượng sáng tác gần như duy nhất. Ưa trầm tư theo "chiều thứ hai", về văn chương
chỉ có Tô Thùy Yên, về lý luận có Hồ Hữu Tường.
Trường hợp Tô Thùy
Yên, Võ Phiến bảo "không phải chỉ bắc có cái giọng. Hình như ông còn gần gũi
miền Bắc tận trong tâm hồn. Dù sao, đây là lần đầu tiên chúng ta gặp những thắc
mắc siêu hình trong thi ca một người sinh trưởng trong
Nam."(18) Nhận xét có chỗ chắc chắn đúng, có chỗ cần xem
lại.
Như đã bàn, nội
dung siêu hình có hai loại. Thơ Tô Thùy Yên thuộc loại ngoài khuôn
sáo,
tức tâm hồn ông gần Trung, không phải gần Bắc. Thơ Tô gần với thơ Hàn,
thơ Chế, thơ Huy, thơ Võ v.v. hơn là với thơ Vũ Hoàng Chương, thơ Phạm Thiên Thư
chứ. Tô Thùy Yên ít giống Ba Vì, mà giống Trường Sơn đi lạc xuống đồng bằng sông
Cửu (dĩ nhiên tuy lạc nhưng không hề thấp). Đây là trường hợp
"người Nam, lời Bắc, ý
Trung"!
Tại sao ở Nam sống nói
chung "vô tư", sống không phải tranh giành dữ dội, mà khi sáng tác người
Nam cũng xoáy vào cuộc sống như người Bắc?
Vừa bắt đầu nghĩ đến
"chất
người", đến quan hệ với dân bản xứ trước kia, đụng ngay phải... bí mật
lịch sử.
Lại nghĩ quẩn quanh về
vai trò của
núi. Nam bộ dĩ nhiên ít núi, càng không có núi
cao.(19)
Phải chăng địa lý, một lần
nữa, đã quyết định hướng nhìn?
Lời: không biết tới
bờ!
Cùng đối phó với
tình trạng nước sông hàng năm dâng cao, có thể gây lụt lội lớn, mà cư dân lưu
vực sông Hồng và cư dân lưu vực sông Cửu Long giải quyết vấn đề theo hai hướng
ngược nhau. Người Việt miền Bắc xây đê, cố
ngăn không cho nước tràn bờ. Hệ thống đê điều ở Bắc bộ là kiến trúc lớn
nhất
của dân tộc ta. Không ai biết đê đầu tiên xây năm nào, nhưng có lẽ
không lâu sau phát minh nông nghiệp nước, tức cách nay hàng mấy nghìn năm.
Trong khi đó, theo Sơn Nam, đồng bằng Cửu Long từ thời đế quốc Phù Nam đến giờ
tuyệt chưa từng xảy ra chuyện đắp cao bờ sông để cản nước. Mùa nước lớn, sông
Tiền sông Hậu cứ tha hồ tràn lênh láng, làm ngập lụt diện tích mênh mông hàng
mấy tháng trời. So sánh công sức, phương án Bắc tích cực tối đa, phương án Nam
tiêu cực cũng... tối đa!
Đê hay không đê là chuyện
thủy lợi. Nhắc lưu thủy, ở đây chẳng qua do đang lấy làm thú vị về hai lối hành
văn!
Khởi đầu, trầm trồ lối
viết mây trôi nước chảy của các nhà văn nhà thơ miền Bắc.
Vào miền Trung, bị cái nội dung hướng ra "ngoài" của thứ văn chương nơi xứ trọ trẹ,
xứ nẫu ám ảnh, suýt quên mất khái niệm động. Tiếp tục Nam tiến, qua đất Ðồng
Nai của
nhà văn Nai Đồng (tức Bình Nguyên Lộc), qua
Sài Gòn tạp pín lùcủa "nhà... chơi" Vương Hồng Sển, về
"miệt Vườn văn minh" bờ sông Tiền, xuống "Cần Thơ gạo trắng nước trong" bờ sông
Hậu, xuống tận cõi U Minh, đâu đâu lời ăn tiếng nói nghe cũng mượt mà trôi chảy
quá chừng, cũng lưu thủy hành vân "tới bến", "sức mấy" mà nhịn "cha nội" ở bất
kỳ miệt nào! Mà nói làm sao thì viết y làm vậy: tác giả Nam bộ nổi tiếng viết
nhanh viết nhiều tới mức... vô địch. Cùng lưu khỏe hành mạnh, nhưng văn Nam
"chảy" khác xa văn Bắc. Ở Bắc, văn chảy như nước dưới sông, chảy giữa hai bờ
(đê), dù cao hứng mà phăng phăng như sông Hồng mùa lũ thì cũng vẫn ép mình theo
khuôn khổ nhất định (trừ khi đê vỡ!). Ở Nam, văn "mùa nước lên" chảy tràn lan,
không còn biết tới bờ cõi nào hết. Đất là sông, ruộng là sông, cơ hồ cả đồng
bằng sông Cửu biến thành sông!
Nam hóa Bắc,
Trung
Do tình hình chính
trị, từ 1954 đến 1975 ở Sài Gòn đã diễn ra một cuộc giao lưu văn hóa ba miền qui
mô và đậm nét nhất trong lịch sử dân tộc. Ðã lắm phát biểu về ảnh hưởng tốt
đẹp của
văn hóa Bắc đối với văn nghệ sĩ Nam bộ và Trung bộ. Tương đối ít được chú
ý hơn là tác động của văn hóa Nam, đặc biệt là tiếng
Nam, đối với một số văn nghệ sĩ hàng đầu của Trung của Bắc.
Nổi bật là trường hợp Võ Phiến và Thanh Tâm Tuyền. Càng về sau, hai nhà văn này
càng thiên về giọng Nam khi viết truyện. Riêng Võ Phiến, vốn đặc biệt đa dạng,
ảnh hưởng tiếng Nam dường như không dừng lại ở lời nói của
nhân vật tiểu thuyết mà nhiễm sâu vào đến tận văn
phong
của tác giả, bất kể ông đang bút, truyện, luận, khảo về đề tài gì. Như
thể, nhờ hoàn cảnh đưa đẩy ông vào Sài Gòn sinh sống mà Võ Phiến tiếp nhận thêm
được một nét độc đáo nữa của văn hóa dân tộc. Nơi ông,
có phải văn Bắc hấp thu thời tiền chiến đã có tác dụng
gợi hứng khơi nguồn và truyền nội lực, chất Trung luôn giữ vai trò nội dung nòng
cốt, còn tiếng Việt miền Nam góp phần tạo ra đặc điểm "nhẹ nhàng" mà Nguyễn Hiến
Lê để ý?
Nhắc Nguyễn Hiến Lê,
dĩ nhiên học giả họ Nguyễn chính là một ví dụ khác về ảnh hưởng của
tiếng Nam nơi người cầm bút sinh trưởng ngoài
Nam bộ.
Chỉ
một loài hoa
Đất nước một thời ba
miền, văn học cũng một thời ba miền. Nhưng tuy ba mà vẫn một. Nhắc chính sách
chia để trị
của Pháp, Trần Trọng Kim khẳng định: "Nước Việt Nam trước kia, từ Nam chí
Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn cả các nước khác."(20) Biểu tượng hùng
hồn nhất của
"tính cách duy nhất" là ngôn ngữ Việt. "Tiếng nước tôi"(21), nó như thể
một sợi dây cực kỳ bền chắc xuyên suốt từng vùng lãnh thổ mà kết lại thành tổ
quốc Việt Nam.
Văn chương là hoa của tiếng
nói. Bảo đất nào văn nấy, bảo văn Bắc văn Trung văn Nam không giống nhau là bảo
một cây mà nở ra ba thứ hoa chăng?
Không. Đất béo đất gầy, đất
sông đất núi, sông có đê sông không đê, nước chảy tăm tắp nước chảy tèm lem, tư
duy hướng ra hướng vào, hướng xuôi hướng ngược v.v., bất quá chỉ quy thành
hương, sắc, chứ không định nổi hẳn một dáng hoa.
Ba mùi, ba màu, nhưng vẫn
đúng một dáng, độc đáo cái văn học Việt Nam một thời!
9 - 2003
(Trong
Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ,
2005)
______________________
(1) Lâm Ngữ Đường, My
country and my people, nxb. John Day, Mỹ, in lần thứ bảy, 1935, tr.
20-23.
(2) Đào Duy Anh, Đất
nước Việt Nam qua các đời, nxb. Thuận Hóa, Huế, 1994, tr.
27.
(3) Trần Trọng Kim,
Việt Nam sử lược, Tân Việt, SG, 1964, tr. 541.
(4) Xem bài Hia bảy dặm
trong sách Tìm tòi và suy nghĩ, TT, 2005.
(5) Tên tác
phẩm của
Nguyễn Xuân Hoàng.
(6) Tên tác
phẩm của
Nguyễn Khải.
(7) Nguyễn Khắc Trường có
truyện dài tên Mảnh đất lắm người nhiều
ma.
(8) Trần Quốc Vượng,
Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, nxb. Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội,
2000, tr. 972.
(9) Lại Nguyên
Ân,Đọc lại người trước đọc lại người
xưa, nxb. Hội Nhà Văn, Việt Nam, 1998, tr.
199-203.
(10) Võ Phiến, Tùy
bút II, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1987, tr. 128.
(11) VP, sđd., tr.
39.
(12) VP, Thơ thẩn,
nxb. An Tiêm, Paris, 1997, tr. 98.
(13) Huy Cận, Hồi ký
song đôi - Tuổi nhỏ Huy Cận, Xuân Diệu, nxb. Hội Nhà Văn, Việt Nam, 2002, tr.
8-9.
(14) ĐDA, sđd., tr.
240-242.
(15) Tên một tác
phẩm của
Lý Lan.
(16) Nguyễn Hiến Lê,
Để tôi đọc lại, nxb. Văn Học, VN, 2001, tr. 201.
(17) Sơn Nam,Cá
tính của
miền Nam, Xuân Thu, Mỹ, tr.
130.
(18) VP, Văn học Miền
Nam - Thơ, Văn Nghệ, Mỹ, 1999, tr. 3080.
(19) Sơn Nam, Dạo
chơi tuổi già, nxb. Trẻ, VN, 2002, tr. 281: "tôi, người
phía đồng bằng Nam bộ, ít thấy núi, chưa bao giờ qua đèo cao, chỉ thấy
sông to". (Đây là cảm tưởng của SN khi qua đèo Hải Vân -
TT.)
(20) TTK, xem chú thích
3.
(21) Lời ca của Phạm
Duy.