Nhớ Về Nhà Văn, Nhà Báo Nguyễn Hữu Đang
Người Chủ Xướng Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm
Cách đây 5 năm (vào ngày 8 tháng 2 năm 2007), nhà văn Nguyễn Hữu Đang, sáng lập viên phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, thủ lãnh tinh thần của nhóm Nhân Văn đã lặng lẽ ra đi mà chẳng hề bao giờ biết rằng, người đời đã và đang xót thương về một nhà văn hóa uyên thâm, trung thực. Một con người trong sáng, quả cảm, một sĩ phu đất Bắc chẳng hề khuất phục trước bạo quyền.
Ngược dòng thời gian vào những năm 50 năm trước, nhà văn Nguyễn Hữu Đang đã cùng với một số văn nghệ sỹ tại miền Bắc khởi xướng phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đòi quyền tự do sáng tác, tự do trong tư tưởng. Thế nhưng chẳng được bao lâu phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã bị những người cộng sản Bắc Việt vùi dập, cá nhân ông phải chịu án 15 năm tù khổ sai. Sau Hiệp định Paris 1972, ông được trả tự do, nhưng bị quản chế nhiều chục năm trời tại vùng quê Thái Bình trong cảnh cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Ông phải đi lượm vỏ bao thuốc lá để đổi cho đám con trẻ lấy con cóc, con nhái ăn có chất đạm qua ngày.
Tưởng cũng cần nhắc lại, nhà văn Nguyễn Hữu Đang cùng với nhà thơ Lê Đạt, nhà thơ Phan Khôi, nhà thơ Hoàng Cầm, Phùng Quán, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, nhạc sỹ Văn Cao và bao văn nghệ sỹ trong phong trào Nhân Văn bị đàn áp và dù cho đến nay đã hơn 50 năm nhưng những tên tuổi đó không hẳn đã được minh oan. Chưa một lời xin lỗi chính thức đến từ những người lãnh đạo tại Hà Nội.
Nhớ về ông, 5 năm sau ngày mất (08 Feb, 2007 – 8 Feb, 2012), mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi của Việt Hùng với nhà thơ Hoàng Cầm (lúc đó còn sống tại Hà Nội, nay thì nhà thơ đã mất) một người bạn cùng trong nhóm Nhân Văn với cụ Nguyễn Hữu Đang. Cũng phải xin thưa cùng quý vị thính giả, cuộc phỏng vấn này được thực hiện ngay sau khi hay tin cụ Nguyễn Hữu Đang ra đi.
Nhà thơ Hoàng Cầm: Tôi lúc đầu mới chỉ cộng tác với ông Nguyễn Hữu Đang thôi chứ chưa phải là bạn thân gì. Vì cùng ý nghĩ cộng tác ra một tờ báo, gọi là cộng tác thế thôi, chứ lúc đầu cũng chưa thân, chưa phải là người bạn. Sau khi Nhân Văn đóng cửa tôi với ông ấy cũng xa nhau luôn, xa lâu lắm, xa cũng đến gần 20 năm.
Sau đó có một thời gian ông ấy lên Hà Nội ở, cách đây độ mươi mười lăm năm ông ấy lên ở hẳn trên Hà Nội, cái năm đó ông khao lão (80 tuổi) thì tôi có đến dự thì vẫn thấy ông ấy rất yêu đời và vui lắm. Ông ấy thường đạp xe đạp đi chơi với các bạn ở dưới phố. Anh em bạn bè có ý định giới thiệu cho ông ấy một người để lấy làm vợ, để ông ấy hỏi làm vợ, lúc đấy ông ấy đã 80 tuổi rồi. Lúc đầu ông ấy có vẻ đồng ý, nhưng đúng hôm khai lão 80 tuổi của ông ấy thì bà (…), 58 tuổi (góa chồng) mà bạn bè định giới thiệu để mong cho ông ấy có một gia đình vì từ bé, lớn lên chưa bao giờ lập gia đình. Cho nên anh em bạn bè lúc đó muốn cho ông ấy lập gia đình cho vui tuổi già. Đầu tiên thì có vẻ ông ấy đồng ý thì hôm khao lão 80 tuổi ông có ngồi ăn chung một mâm cơm với bà (…) và cùng một vài người bạn. Lúc ấy, anh em bạn bè tưởng là ông ấy sẽ lập gia đình. Nhưng cuối cùng sau bữa cơm, hôm đó tổ chức ở nhà ông Phùng Quán, anh em bạn bè đến cũng khá đông, đến buổi chiều ông ấy lại tuyên bố với Phùng Quán là thôi, già rồi. Già rồi lập gia đình chỉ làm khổ nhau thôi. Thành ra ông ấy sống độc thân trong suốt cuộc đời.
Gần 15 năm cuối đời, ông ấy lên ở hẳn Hà Nội, ở trên chợ Bưởi, ngày nào ông ấy cũng đạp xe xuống Hà Nội. 15 năm nay thì tôi lại gần ông ấy nhiều hơn và luôn thấy ông ấy yêu đời, lạc quan, không thấy ông ấy nghĩ nhiều về thời sự chính trị, không thấy ông ấy nói bao giờ, thậm chí có gợi ra đi nữa thì ông ấy chỉ nói qua qua chút rồi lảng sang chuyện khác, thì đấy là cái mà tôi nhận xét rõ ràng trong thời ký cuối đời trong khoảng 15 năm trước khi ông ấy mất.
Việt Hùng: Thưa nhà thơ Hoàng Cầm, lần cuối cùng nhà thơ gặp cụ Nguyễn Hữu Đang là vào thời gian nào? Và kỷ niệm nào là kỷ niệm mà mỗi khi nhắc tới tên cụ Nguyễn Hữu Đang là nhà thơ nhớ tới?
Nhà thơ Hoàng Cầm: Tôi gặp ông ấy không phải là gặp ở chỗ làm việc. Tôi gặp ông ấy lúc trước cách mạng, một thời gian ngắn trước cách mạng năm 1944. Lúc đó tôi có vở kịch thơ Kiều Loan. Lúc bấy giờ vở kịch này cũng chưa có giấy phép diễn của chính quyền. Lúc đó tôi có mời một số bạn đến để tập diễn thử. Chúng tôi có đến chơi nhà một người bạn là họa sĩ Hoàng Tích Trù, vì chỗ đó là chỗ nơi chúng tôi gặp nhau để tập diễn vở kịch.
Sang đến năm 1946 tôi chính thức xin phép chính quyền và đã được cấp giấy phép rồi. Lúc đó cùng anh em bạn hữu chuẩn bị để diễn ở Hà Nội vở Kiều Loan thì ông Nguyễn Hữu Đang đến thăm chúng tôi. Ông ấy đến có mục đích rõ là nghe tin các anh sắp diễn vở Kiều Loan nên hôm nay tôi đến để nói với các anh là tôi sẽ giúp đỡ các anh. Coi như tôi là người giúp đỡ các anh phần nào về tài chính, nhưng phần chính là về chính quyền, tức là tôi sẽ giúp các anh xin phép hoặc là liên hệ với các cơ quan hữu trách, các cơ quan chức năng…
Ông ấy nhận sẽ giúp đỡ xin phép cho và có thể sẽ giúp đỡ một số tiền bởi vì lúc đó ông ấy là Chủ tịch Ủy Ban Vận Động Văn Hóa Toàn Quốc lúc đó chuẩn bị họp tại Hà Nội nên ông ấy muốn đưa vở Kiều Loan ra diễn trong dịp này. Đây là lần thứ hai gặp nhau nên quan hệ giữa tôi với ông ấy trở nên mật thiết hơn. Ông Nguyễn Hữu Đang có giúp một số tiền (không nhiều) để chi phí cho những công việc của vở kịch Kiều Loan. Từ đó thân quen đó, ông ấy thường hay lui tới chỗ chúng tôi diễn tập vở kịch để gặp chúng tôi trao đổi hay thảo luận một vài công việc.
Cho đến khi vở Kiều Loan lần đầu tiên được diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội vào tháng 11 năm 1946. Lúc bấy giờ ở ngoài phố, đã bắt đầu “dục dịch” người ta đi tản cư, thế rồi thỉnh thoảng lại có những vụ người Pháp khiêu khích… cho nên vở kịch Kiều Loan diễn chỉ đúng được một lần vào ngày 27 hay 28 tháng 11 năm 1946, tức là chỉ cách độ hơn 20 ngày là nổ ra kháng chiến toàn quốc (19-12-1946) thế là chúng tôi phải hoãn lại để đem về vùng thôn quê diễn vì ở nông thôn lúc đó còn yên. Lúc đó chiến tranh chưa lan tới nông thôn, mới chỉ bùng nổ ở Hà Nội và Hải Phòng thôi. Đến khi đem vở diễn về nông thôn thì ông Nguyễn Hữu Đang thôi không đi lại với chúng tôi nữa và từ đó trong suốt cuộc kháng chiến (1946 – 1954) tôi không gặp lại ông ấy nữa vì ông ấy ở mãi khu 4 còn tôi thì lên Việt Bắc thành ra cũng không có tin tức gì của nhau nữa.
Đến lúc hòa bình lập lại 1954 thì cả nước cũng đã biết rồi, ông Nguyễn Hữu Đang và chúng tôi có ra một tờ báo gọi là báo Nhân Văn. Sau vụ Nhân Văn bị trừng phạt thì chúng tôi cũng không gặp nhau nữa, cuộc chia tay ấy cũng kéo dài khoảng gần 20 năm. Và phải chờ mãi cho tới khi ông ấy được phép về Hà Nội sống 9 (cách đây khoảng 20 năm) thì ông ấy ở nhờ nhà một người bạn và lúc đó lại gặp nhau, thỉnh thoảng lại gặp nhau chỉ nói chuyện vui bình thường thôi, không có bàn bạc gì về công tác, mà có người nào nói về chuyện “chính trị, thời cuộc…” thì ông ấy cũng lờ đi hoặc là không trả lời…
Cho đến khi ông ấy mệt, ốm nằm liệt giường cách đây độ hơn 2 năm, ông ấy mệt lắm, nằm liệt giường không đi lại được nữa.
Cách đây độ 1 tháng, trước khi ông mất có người cháu gọi ông Nguyễn Hữu Đang bằng bác ruột (nuôi ông ấy từ ngày ông ấy lên Hà Nội sống) có đến gặp tôi và mời tôi lên gặp ông Đang, anh cháu nói cũng rất cảm động “thôi thì biết là các bác là bạn cũ với nhau, bây giờ bác cháu sắp sửa đi rồi, già yếu lắm rồi, nên bây giờ chúng tôi tổ chức để mời bác lên chơi gặp bác cháu để nhìn nhau, hay để nói với nhau điều gì, hay làm điều gì đó cho nhau lần cuối cùng… thế thì tôi và anh Lê Đạt (nhà thơ) cũng lên thăm, gặp ông ấy.
Khi chúng tôi lên, thực sự ông Nguyễn Hữu Đang chỉ nằm không nói được điều gì, ông Nguyễn Hữu Đang có mở mắt ra và có biết là chúng tôi đến, có biết là chỉ hơi gật gật thôi, chúng tôi cũng ở chơi một lúc rồi chúng tôi về và đấy là lần gặp cuối cùng với ông ấy cách đây độ 1 tháng.
Việt Hùng: Trong cuốn Hồi ký của nhà thơ Phùng Quán khi nói về ông Nguyễn Hữu Đang nhà thơ Phùng Quán có viết “trên thế gian này không biết có còn ai cô đơn như ông Nguyễn Hữu Đang”, phải chăng điều nhà thơ Phùng Quán thốt lên như vậy có thể hiểu như thế nào?
Nhà thơ Hoàng Cầm: Anh Phùng Quán viết như thế rất thực tế và rất đúng đấy! Anh Đang không có gia đình trong khi bạn bè cũng muốn giúp cho anh ấy lập gia đình nhưng anh ấy không nghe, có người rồi, người ta cũng đã đồng ý rồi nhưng anh ấy không nghe và rồi sau thôi. Ông Phùng Quán ông ấy muốn nói là như vậy, cả đời sống cô đơn, tức là ông Nguyễn Hữu Đang sống cô đơn cả đời không vợ con gì cả.
Việt Hùng: Một khoảng thời gian dài cụ Nguyễn Hữu Đang sống ẩn dật tại miền quê Thái Bình, thậm chí phải trải qua những thời kỳ “thăng trầm” và trong một lần ghé thăm nhà thơ Phùng Quán có viết, điều băn khoăn nhất của cụ Nguyễn Hữu Đang là đến lúc nhắm mắt xuôi tay không biết sẽ chết ở đâu…
Nhà thơ Hoàng Cầm: Vâng, có, lúc bấy giờ ông ấy về Thái Bình ở ẩn, ở đến gần 20 năm, trong thời gia trước trong số những anh em Nhân Văn còn lại thì có ông Phùng Quán đã về đến tận Thái Bình thăm ông Nguyễn Hữu Đang. Ông Phùng Quán có viết và đã được in rồi, cuốn đó đầu đề là: 3 phút sự thật, trong đó Phùng Quán có viết những chuyện chung quanh ông Nguyễn Hữu Đang. Nếu ở bên đấy các bạn tìm được cuốn đó đọc thì cũng biết được nhiều.
Trong đó nhà thơ Phùng Quán đặc biệt tả về hoàn cảnh của ông Đang rất yêu đời, đời sống rất khổ cực, tằn tiện nhưng rất chu đáo với bạn khi về thăm có cái gì ăn cái đó. Ông Phùng Quán tả ra thì thấy đó là những cái ông Đang ông ấy tiết kiệm được, thí dụ như con tép, con tôm hay nồi cá kho.
Ông ấy rất cẩn thận và chu đáo những chuyện đó, nhà văn Phùng Quán có tả những cái đó, thế nhưng mà cuối cùng Phùng Quán cũng phải nói “ở trên đời này tìm được một nhà văn bình thường thì quá dễ, nhưng ở đây ông Nguyễn Hữu Đang không phải là nhà văn, anh em văn nghệ ở Hà Nội thường coi ông ấy là nhà báo, hoặc là một người hoạt động chính trị.
Trước Cách mạng tháng 8 ông Nguyễn Hữu Đang là người làm việc truyền bá Quốc ngữ. Lúc bấy giời ông Nguyễn Hữu Đang tìm ra được một người rất có uy tín đứng đầu Phong Trào Truyền Bá Quốc Ngữ đó là cụ Nguyễn Văn Tố, một nhân sĩ, trí thức có uy tín, danh tiếng trong quần chúng.
Chính ông Đang đã đưa cụ Nguyễn Văn Tố ra làm Chủ Tịch Hội Truyền Bá Quốc Ngữ thế cho nên cảm tưởng của mọi anh em đều nghĩ rằng, sao ông Đang ông ấy giỏi đến như thế mà sao cuộc đời nghiệt ngã, cô độc đến như thế mà rồi ông ấy vẫn rất “vui vẻ”, đấy là điều mà anh em rất quí ông ấy.
Anh em quí về ý chí của ông ấy trong khi đời sống thì cô đơn như thế. Đến bây giờ khi ông ấy vừa qua đời rồi nhưng anh em luôn vẫn rất kính phục một con người như thế mà vẫn say sưa, đàng hoàng, được lòng mọi người, anh em.
Việt Hùng: Cụ Nguyễn Hữu Đang trong cuộc đời dù là không để lại cho hậu thế những tác phẩm, phải chăng nhà thơ có biết được những tác phẩm, những áng văn, hay những bài thơ, hay những bài phân tích lý luận của cụ Nguyễn Hữu Đang?
Nhà thơ Hoàng Cầm: Cái thời truyền bá Quốc Ngữ và giai đoạn đầu cuộc cách mạng ông Nguyễn Hữu Đang được cử làm Bộ Trưởng Không Bộ của Chính Phủ Lâm Thời, lúc bấy giờ thì tôi cũng chưa thân gì, biết là ông ấy có tác phẩm đấy nhưng mà cũng không chú ý, thành ra bây giờ cũng tiếc là không được đọc cái gì của ông ấy, tôi chỉ được đọc mấy bài báo của ông ấy thôi.
Việt Hùng: Một lời trước khi chia tay, để nói về sự ra đi của cụ Nguyễn Hữu Đang, thưa nhà thơ Hoàng Cầm, nhà thơ sẽ chia sẻ điều gì?
Nhà thơ Hoàng Cầm: Tôi với ông ấy cũng có cộng tác với nhau trong một khoảng thời gian đấy, thế nhưng tình cảm cũng chưa thể gọi là bạn hữu đâu, chỉ là như một người quen biết và cũng có lúc thân mật.
Vì cũng xa cách nhiều nhưng cuối cùng ông ấy cũng để lại cho bạn hữu và con cháu một cái đức tính rất tốt đó là ý chí bất cứ làm một việc gì dù lớn hay nhỏ thì ông ấy đều có một ý chí mạnh mẽ và say sưa làm việc thì đấy là cảm tưởng chung của rất nhiều người và cái đó là rất đáng quí mặc dù sống cô đơn như thế nhưng ông ấy vẫn bình tĩnh, làm việc gì cũng rất say sưa và cho đến lúc già cũng thế…
Tôi tin là ông ấy có thể là có Hồi ký hay một cái gì đó, có thể là có nhưng tôi cũng không được biết cái đó.
Việt Hùng: Kỷ niệm một thời với nhà văn Nguyễn Hữu Đang qua lời kể của nhà thơ Hoàng Cầm từ Hà Nội đã đóng lại chương trình phát thanh hôm nay.
Trong buổi phát thanh tới, Việt Hùng và Hoàng Linh sẽ trở lại để giới thiệu về những đóng góp của cụ để lại cho đời và cho nền thi ca Việt Nam cũng như những thăng trầm mà cụ phải chịu trong cảnh “thế thời – thời thế” ngoảnh mặt làm ngơ để rồi bị biệt giam 15 năm trong lao tù trước bạo quyền, mời quý vị nhớ đón nghe.