Chương 7.
1.
1.
Năm thứ 26 triều Quang Tự đời Thanh, tức năm 1900. Một buổi sáng mùa thu sương mù dày đặc, quân Đức được viên tri huyện Cao Mật Lý Quế Phong dẫn đường, bao vây thôn Sa Oa tận cùng phía tây nam. Hôm ấy mẹ anh vừa tròn sáu tháng tuổi, chưa biết đi nhưng đã biết bò, tên cúng cơm là Toàn Nhi.
Ông ngoại anh Lỗ Ngũ, có biệt hiệu là Lỗ Quậy, tinh thông võ nghệ, đi lại nhanh nhẹn như thanh niên. Ông dậy rất sớm, luyện dăm đường quyền cước trong mảnh sân còn đẫm sương đêm, rồi quảy đôi thùng sắt tây, của hiếm lúc bấy giờ, đi lấy nước ăn ở giếng nước ngọt phía nam thôn. Móc sắt trên đầu đòn gánh cọ vào quai thùng, phát ra những tiếng lanh canh vui tai. Trên đường đã có nhiều người đi lại, người thì nhặt phân chó, người guồng nước tưới rau cải, cũng có những người quảy thùng gỗ, đội lọ đi lấy nước ăn. Từ lò luyện võ của Đỗ Giải Nguyên vang lên những tiếng hự hự của từng cặp đối công. Đỗ Giải Nguyên là cử nhân võ, cao to trắng trẻo, nhưng bà vợ thì lại đen nhẻm, rỗ chằng rỗ chịt. Đồn rằng, sau khi trúng tuyển, ông từng có ý định bỏ vợ, nhưng một đêm ông mơ thấy một con chim đại bàng lông đốm phủ một bên cánh lên người ông. Tỉnh dậy, ông thấy cánh tay của bà vợ mặt rỗ vắt trên ngực mình. Đỗ Giải Nguyên hiểu ra đó là lời mách của thần linh. Vợ mình tuy mặt mũi xấu xí nhưng đó là phượng hoàng đầu thai vào bà, vậy là ông thôi ý nghĩ bỏ vợ. Đỗ Giải Nguyên võ nghệ siêu quần, có thể gánh hai thùng nước đầy đứng trên mông ngựa phi như bay mà không sánh ra ngoài một giọt. Đến điểm dừng, ông vẫn gánh nguyên hai thùng nước mà nhảy xuống không một tiếng động, thân thế còn nhẹ hơn cục bông, mặt không đỏi sắc, tim không đập mạnh, hai thùng nước vẫn đầy nguyên, không mất một giọt, khiến những tên vô lại định khiêu khích ông bỏ chạy tán loạn.
Ông ngoại đến bên giếng liền ngửi thấy một mùi thơm ngát từ dưới giếng bốc lên. Cái giếng này thông với biển Đông trời cạn đến mấy cũng không hết nước, thường có cá lớn xuất hiện, được gọi là cá thần. Có nhiều truyền thuyết về giếng này, nước giếng ngọt lạ lùng. Cả thôn đều dùng nước ở giếng này và bảo vệ giống như bảo vệ con ngươi của mắt. Ông ngoại nhìn xuống giếng, thấy một bông sen trắng to bằng miệng bát, những cánh hoa trong suốt như bằng mã não, chính giữa là nhụy đỏ như lửa. Ông ngoại vô cùng ngạc nhiên, vội rút lui, sợ làm kinh động bông hoa kỳ lạ. Ông quảy đôi thùng không đi về bắt gặp Đỗ Lê, người ở của nhà Đỗ Giải Nguyên. Đỗ Lê vẫn còn ngái ngủ, ngáp dài hỏi:
- Ông Ngũ Quậy, ông dậy sớm thế!
Ông ngoại ngăn Đỗ Lê:
- Người anh em, đừng đến chỗ giếng nước nữa!
Đỗ Lê hỏi: - Sao vậy?
Ông ngoại nói:
- Trong giếng có một bông sen trắng!
Đỗ Lê nói:
- Sen trắng chứ sen đỏ thì tôi cũng phải lấy nước đem về. Bây giờ về tay không, ông chủ đâu có chịu!
Đỗ Lê gánh đôi thùng gỗ nặng, chệnh choạng đi tới giếng nước.
Ông ngoại chạy dón đầu anh ta, bảo:
- Có hoa sen trắng thật mà!
- Ngũ Quậy, mới bảnh mắt mà đã bị ma ám rồi hả?
- Chính mắt tôi trông thấy mà lại, to bằng miệng bát ấy!
Đỗ Lê đi tới bên giếng cúi xuống nhìn, rồi quay lại bảo ông ngoại:
- Có mẹ anh trong giếng thì có!...
Nói chưa dứt, anh ta đã ngã gục bên thành giếng. Ông ngoại nghe thấy một tiếng súng trầm **c, máu vọt ra từ ngực Đỗ Lê. Một tốp lính Đức đội mũ chóp bằng, người cao, hai chân dài và mảnh, từ phía cầu treo chạy tới dẫn đầu là một người Trung Quốc đuôi sam quấn quanh cổ, tay cầm khẩu súng lục.
Giặc Đức!
Người Đức xây dụng đường Sắt Giao-tế đã phá hoại phong thủy vùng đông bắc Cao Mật. Vì chuyện này mà Thượng Quan Đẩu và Tư Mã Răng-to đánh chúng một trận bằng phân và nước tiểu, kết thúc bằng sự thất bại thảm hại của dân đông bắc Cao Mật. Ông ngoại và mọi người không bao giờ quên tiếng thét thê thảm của Thượng Quan Đẩu khi ông phải đi chân trần trên lưỡi cày nung đỏ và cái mùi thịt người cháy khét lẹt khiến người ta buồn nôn. Qua thất bại, mọi người hiểu ra rằng, người Đức không phải tượng gỗ chân một gióng không có xương bánh chè? Cũng không phải là thứ người sạch sẽ đến nỗi trông thấy cút đái là nôn mửa cho đến chết. Dân Cao Mật căm thù người Đức. Một công trình sư đường sắt bóp vú chị Vu Bảo trên chợ Sa Oa, bị quần chúng căm phẫn đánh chết tươi! Họ biết rằng người Đức sẽ không bỏ qua chuyện này? Trong trận đánh bằng phân và nước tiểu, hội dáo dài của thôn Sa Oa cũng từng chi viện. Ông ngoại là ngũ trưởng đội dáo dài. Đỗ Giải Nguyên là đội trưởng. Họ luyện tập quân sự, đúc súng đúc pháo, xây tường vây, đào chiến hào, sẵn sàng đợi địch. Qua mấy tháng không thấy động tĩnh, mọi người dần dần lơ là. Nhưng giờ đây họ sốt ruột chờ đợi nhưng lại sợ chuyện đó xảy ra. Quân Đức trèo qua tường vây, mở toang cổng, thả cầu trèo rồi ồ ạt xông vào. Đỗ Lê không tin dưới giếng có bông sen trắng, là người đầu tiên bị chúng bắn chết. Sau đó, dân Sa Oa bị giết chết tổng cộng là 494 người.
Ông Ngũ Quậy ngẩng đầu lên liền trông thấy lính Đức cao lênh khênh xông tới, súng khai hậu trong tay chúng nổ chát chúa, đạn bay chíu chíu. Khói tỏa dày đặc, bóng lính Đức khi ẩn khi hiện, không rõ chúng có bao nhiêu thằng. Ông ngoại gào lên thật to, báo động cho dân làng. Tiếng súng của bọn Đức cũng coi như báo động rồi. Ông ngoại tiếc đôi thùng tôn hoa đổi bằng bốn đấu lúa mạch, nên vẫn gánh trên vai mà chạy. Thùng lắc dữ dội, phát ra tiếng kêu loảng xoảng. Bọn Đức bắn đuổi theo, chiếc thùng bị thủng một lỗ. Trên đường, mọi người chạy nháo nhác. Ông Trần Mù tay cầm cây gậy dò đường, lọt ngay vào giữa đám lính Đức, hỏi to:
- Bọn giặc ở đâu? Bọn giặc đến đâu rồi?
Bọn Đức kề súng vào sau gáy ông bóp cò. Ông ngã gục, nửa đầu bay đi đâu mất.
Dân chúng đóng cửa lại, gói ghém đồ đạc. Đội trưởng đội dáo dài Đỗ Giải Nguyên không kịp triệu tập các đội viên, chỉ gom được hơn chục gia đình và người làm thuê, chống cửa thật chắc bằng những đoạn gỗ táo. Bà vợ mặt rỗ của ông cũng tỏ ra năng nổ. Bà cởi trần, cặp vú mướp lủng lẳng, tay cầm quả chùy sắt, chạy lên chạy xuống cùng chồng. Ông ngoại chạy về nhà, chốt cửa chặt. Bà ngoại bế Toàn Nhi ngồi trên giường người run bắn. Bà ngoại họ Diêu, là thiếu phụ đẹp nhất thôn Sa Oa. Đôi bàn chân nhỏ nhọn như cánh điều, quá lắm cũng chỉ dài ba tấc.
Đỗ Giải Nguyên từng nói với Ngũ Quậy:
- Ta đường đường là một cử nhân võ mà lấy phải người vợ mặt rỗ chân to. Còn chú mày chẳng ra hồn người, vậy mà đêm đêm nằm cạnh một thiếu phụ yêu kiều, bàn chân dài ba tấc!
Bà Diêu vú to mông nẩy, vì bàn chân nhỏ đi lại khó khăn, suốt ngày ở trong nhà không ra nắng, da mặt trắng như trứng gà bóc. Giờ đây bà sợ đến nỗi mặt vàng ệch.
- Bố con Toàn này... - Bà lo lắng hỏi - Làm thế nào bây giờ?
Ông Ngũ Quậy quệt nhọ ở đít nồi xoa khắp mặt bà Diêu. Nhà nông ăn ở đơn giản, không nấp vào đâu được. Ông Lỗ Ngũ Quậy là một trang hảo hán. Ông thắt lưng to bản, tu một hơi hết bình ruọu để cho hăng lên, rồi vớ ngọn dáo có ngù đỏ chạy ra sân, phục sau cánh cổng lớn. Ông Đỗ Giải Nguyên trèo lên nóc bằng của kho thóc bằng chiếc thang gỗ. Sau lưng ông, hai ngươi làm thuê ì ạch kéo khẩu pháo tự tạo lên theo, thở hồng hộc. Ông trông thấy trên đường khói súng chưa tan hết, dân chúng nháo nhác như dê vỡ đàn. Một đội lính Đức hàng ngũ vuông vức, đứng lên quì xuống nhịp nhàng nổ súng, dân chúng ngã gục từng đợt, có người chết ngay không kịp giẫy có người lại vừa khóc vừa lăn lộn trong vũng máu. Ông trông thấy trên tường vây khói súng đã tan hết, từng xó xỉnh đều có lính Đức thân thể cao to, còn có những kỵ binh của Mãn Thanh mà trước ngực và sau lưng áo đều có chữa Dũng. Phía cửa nam, một tốp lính Đức đang xúm xít vây quanh hai khẩu pháo đen bóng do hai con lừa kéo, lộc cộc qua cầu treo. Thôn Sa Oa đã bị bao vây. Hai người làm công kéo khẩu pháo lên, rồi chạy xuống lấy hồ lô đựng thuốc súng. Trên nóc kho thóc, sương đã tan hết, nắng vàng rực rỡ. Bà vợ mặt rỗ cũng trèo lên nóc kho quan sát tình hình.
- Bình Giai - Bà gọi tên tự của chồng, nói - hôm nay e rằng dữ nhiều lành ít.
Đỗ Giải Nguyên nhìn vợ một thoáng, nói:
- Bà đưa bọn trẻ xuống hầm đi. Hôm nay đánh cũng chết mà không đánh cũng chết? Thư gửi Hoàng thượng tôi để dưới chiếu đầu giường, sau khi tôi chết, bà đi phủ Thanh Châu gặp Mộ Dung đại nhân để Ngài tâu lên!
Bà vợ rỗ cười:
- Bình Giai, ông mê rồi?
Một tràng đạn của lính Đức giết chết một phụ nữ bồng con ngay ở bậc lên xuống ngoài cổng nhà ông. Trong sân chó sủa dữ dội.
- Nạp đạn? - Đỗ Giải Nguyên quát. Hai người làm công đổ thuốc vào nòng pháo, dùng cây thông nòng lèn chặt, rồi nạp những viên sát tròn to bằng củ lạc.
- Thưa ông, đổ thuốc dày mấy phân? Anh làm công hỏi.
Đỗ Giải Nguyên nói:
- Đổ nhiều vào, không vỡ nòng là được!
Đỗ Giải Nguyên đích thân chỉnh pháo, nhám thẳng vào đám quân Đức thấp thoáng trong sương mù. Ông đón nén hương đang cháy từ tay bà vợ, thổi cho đỏ lên rồi châm ngòi. Một tia khói trắng phụt ra từ lỗ nhĩ. Khẩu pháo đúc bằng gang im lặng, im lặng, oai vệ như con thú dữ, rồi đột nhiên nó rùng mình một cái, lưỡi lửa phụt ra đầu nòng, quét rụng một mảng quân Đức. Chúng kêu la ầm ĩ. Khói trắng lởn vởn quanh nòng pháo.
- Nạp đạn - Đỗ Giải Nguyên lại ra lệnh. Sương mù trên đường đã bị pháo đánh tan, bọn lính Đức hoảng loạn, chạy vào nấp trong ngõ, trên đường chỉ còn mấy cái xác và mấy tên bị thương ôm mặt gào khóc, máu rỉ ra từ các kẽ ngón tay. Những người làm công vội vã nạp đạn. Những tên Đức còn tỉnh táo nã súng lên nóc nhà kho. Một viên đạn sượt qua tai Đỗ Giải Nguyên, ông cảm thấy vành tai nóng như chém lửa, sờ lên tay đầy máu. Ông vội nằm xuống. Anh làm công bị thương ở bụng dùng tay chặn khúc ruột cứ muốn lòi ra ngoài, mặt trắng nhợt, anh vừa khóc vừa nói:
- Ông ơi, nhà con năm đời độc đinh, con chết thì họ Tôn nhà con tuyệt tự mất!
Đỗ Giải Nguyên nói:
- Xéo, đừng nói nhà anh tuyệt tự, mà hôm nay cả cái thôn Sa Oa này đều tuyệt tự?
Ông dằn giọng nói:
- Nạp đạn!
Vợ ông nói:
- Bình Giai, xuống đi ông?
Ông kéo hồ lô thuốc dính đầy máu, nói:
- Cho chúng một phát nữa là hòa vốn!
Bà vợ nói:
- Chúng chết một loạt rồi, hòa vốn rồi! Bà rướn người lên để kéo ông nên bị một phát đạn vào cổ, người giật lên một cái rồi gục xuống, máu miệng chảy ra. Hỏng rồi, phượng hoàng bị bắn chết rồi, ông nghĩ. Khuôn mặt rỗ của bà vợ giật giật, đôi mắt lá dăm lóe lên một tia sáng lạnh. Đỗ Giải Nguyên dốc toàn bộ thuốc súng vào nòng pháo. Ông nằm thẳng để tránh đạn vì cái gờ mái nhà quá thấp, dùng cây thông nòng lèn chặt thuốc. Một anh làm công khác đưa cho ông hồ lô **ng đạn. Ông trút đạn vào nòng kêu lạo xạo, lại lèn chặt. Anh làm công đã lắp xong ngòi dẫn, đưa nén hương cho ông, nói:
- Thưa ông, ông điểm hỏa đi!
- Oàng!
Chùm đạn nã thẳng vào bức tường chắn phía trước, tiếng rào rào như có luồng gió thổi qua. Bọn Đức nấp trong ngõ hẻm, không tên nào bị thương, nhưng bị uy lực của khẩu pháo tự tạo làm chúng kinh hồn táng đỏm. Bức tường bị bắn nát một vùng rộng bằng cái thớt cối xay bột, đạn găm rất sâu trong tường. Phát dạn này mà bắn trúng người thì chắc chắn là không còn một mảnh. Đỗ Giải Nguyên loạng choạng đứng dậy, một loạt đạn hất ông xuống phía dưới nhà kho. Lúc này, hai khẩu pháo của quân Đức cũng nhằm vào ngôi nhà của Đỗ Giải Nguyên liên tiếp nhả đạn. Pháo của bọn Đức bắn đạn có cát tút đồng, tiếng nổ đanh, sắc, ù cả tai. Đạn rơi trên nóc nhà nổ ùng oàng, gạch ngói bay tứ tung, khói dựng lên từng cột.
Bọn Đức đã phá được cổng nhà ông Ngũ Quậy. Trước tiên, chúng bắn bừa vào trong mấy phát, không động tĩnh. Ông Ngũ Quậy nấp sau cánh cổng, im lặng chờ đợi. Một tên Đức cầm khẩu khai hậu đã lắp lê, ló đầu vào trong như con gà trống. ống quần của nó rất chật, hai đầu gối lồi lên như hai chiếc màn thầu. Vạt áo trước, hai hàng cúc đồng sáng loáng. Ông Ngũ Quậy vẫn ngồi yên. Tên lính Đức ngoảnh lại vẫy bọn lính, cặp mắt xanh, cái mũi đỏ và mái tóc bạch kim ló ra dưới vành mũ, hiện rõ mồn một dưới mắt ông. Tên lính Đức cũng đã trông thấy người nấp sau cánh cổng, đen nhẻm như cây tháp bằng sắt. Hắn định giương súng lên nhưng đã muộn. Ngũ Quậy nhảy vọt ra, người chưa tới nhưng mũi dáo nhọn hoắt đã đâm ngập bụng tên lính. Nửa người trên của tên lính đè lên cán dáo. Khi Ngũ Quậy rút mũi dáo ra, ông cảm thấy một luồng gió lạnh từ phía sau xuyên thẳng vào lưng. Hai tay tê dại, ông buông ngọn dáo, khó nhọc quay người lại thì hai tên lính Đức đã chĩa súng vào ngực ông. Ông giang tay định xông tới thì từ nơi sâu thăm trong đầu vang lên một tiếng bốp như có cái gì đó bị gãy mắt tối sầm và mơ hồ cảm thấy một chất dính như hồ chảy xuống mặt. Ông gục xuống.
Bọn Đức vừa bắn vừa xông vào trong nhà, nhìn thấy người đàn bà trắng trẻo đã treo cổ tự vẫn dưới xà nhà, hai bàn chân nhọn chỉ có ngón cái là có móng sáng bóng, khiến chúng hết sức kinh ngạc.
Ngày hôm sau, cô và dượng Vu Bàn Vả nghe tin chạy tới, cứu được mẹ trong chum bột. Người mẹ bột bám đầy chỉ còn thoi thóp. Bà cô móc bột trong miệng mẹ ra, phát vào mông hồi lâu mẹ mới bật khóc, tiếng khóc khản đặc.
2.
Khi Lỗ Toàn Nhi lên năm tuổi, thì bà cô lấy các thứ như nẹp tre, dùi **c bằng gỗ, những dải vải thô dài ra, bảo: - Toàn Nhi, cháu đã lên năm, đến lúc phải bó chân rồi! Toàn Nhi: - Sao lại phải bó chân hả cô? Bà cô: - Đàn bà không bó chân không lấy được chồng? Toàn Nhi: - Sao lại phải lấy chồng hả cô? Bà cô: - không đi lấy chồng thì chẳng lẽ ta nuôi cháu suốt đời à? Chú dượng Vu Bàn Vả, một con bạc đôn hậu, ra ngoài là người đàn ông gang thép nhưng khi về nhà thì lại là một con mèo ngoan ngoãn. Ông đang ngồi nướng cá diệp liễu ở bếp. Hai bàn tay to như bàn vả của ông trông có vẻ thô kệch nhưng thực tế rất nhanh nhẹn. Những con cá chảy mỡ xèo xèo trên ngọn lửa, mùi thơm điếc mũi. Cô bé rất có cảm tình với ông chú dượng, vì khi bà cô đi làm đồng, ông dượng lười nhác này ăn vụng tất cả các thứ, lúc thì dùng muôi sắt xào trúng gà, khi thì xẻo thịt ướp đem nướng. Mỗi khi ăn vụng, ông thường chia cho cô bé một ít với điều kiện không được mách bà cô. Ông Vu Bàn Vả dùng móng tay cạo sạch vẩy cá, rồi vẫn dùng móng tay tước từng tí thịt đưa lên đầu lưỡi, chép miệng ngon lành sau khi tợp một ngụm rượu. Ông nói: - Toàn Nhi, cô cháu nói đứng đấy. Phụ nữ không bó chân thì sẽ thành chân bàn cuốc, không ai thèm lấy? Bà cô nói: - Cháu thấy chưa, dượng cháu cũng nói như vậy? Vu Bàn Vả: - Cháu có biết vì sao dượng lấy cô cháu không? Toàn Nhi: - Vì cô cháu tốt mà! Vu Bàn Vả: - Không hẳn, vì cô cháu có bàn chân nhỏ! Toàn Nhi nhìn hai bàn chân nhỏ thó của bà cô rồi nhìn lại hai bàn chân tự nhiên của mình, hỏi: - Chân cháu rồi cũng như thế này à? Bà cô nói: - Cái đó còn phải xem cháu có nghe lời hay không đã. Nếu nghe lời chúng còn nhỏ hơn. Mỗi khi kể lại lịch sử cái chân bó, giọng mẹ có vẻ như tố khổ, lại có vẻ như khoe khoang về mình. Tính cách cứng rắn cùng bàn tay khéo léo của bà cô nổi tiếng khắp vùng Cao Mật. Ai cũng biết gia đình Vu Bàn Vả do phụ nữ làm chủ: Ông chú dượng chỉ biết đánh bạc, múa thương, bắn chim, ngoài ra không làm gì cả. Năm mươi mẫu ruộng tốt, hai con la, toàn bộ công việc đồng áng, nội trợ, đều do bà cô đảm đang. Bà chưa cao đến mét rưỡi, nặng chưa đến bốn mươi cân, cơ thể chỉ có vậy mà năng lượng sản ra thì cực lớn. Thật kỳ lạ! Một bà cô như vậy mà thề rằng sẽ bồi dưỡng cháu gái thành một thục nữ thì trong việc bó chân sẽ không cẩu thả chút nào! Bà dùng nẹp tre cố định chân mẹ lại, khiến mẹ gào lên như lợn bị chọc tiết, phải kẹp chặt vì tạo hình cho bàn chân nhỏ là rất quan trọng. Sau đó quấn thật chặt hết lớp này đến lớp khác những đoạn vải đã tẩm nước muối phơi khô, rồi lấy dùi gỗ vỗ một lượt. Mẹ kể rằng, buốt đến tận óc, van xin: - Cô nới cho cháu một tí? Bà trợn mắt, nói: - Xiết chặt là thương yêu cháu, nới lỏng ra là làm hại cháu, khi nào cháu có đôi gót sen vàng, cháu sẽ cảm ơn cô? Mẹ nói: - Cô ơi, cháu không lấy chồng nữa, có được không? - Bậy nào, không ai lấy chồng thì thế giới này tuyệt diệt à! Chú dượng động lòng thương, nói xen vào: - Nhẹ tay một tí, nhẹ tay một tí nào!... Bà vớ cái chổi ném ông, quát: - Xéo ngay, đồ lười chảy thây? Ông chú dượng thuận tay quơ xâu tiền trên chiếu, chạy mất. Ông chú dượng nghiện cờ bạc, phiên chợ nào cũng nghe thấy tiếng hò sấp ba ngửa bốn của ông. Bàn tay ông xanh lè những gỉ đồng. Khi xảy ra đánh lộn thì trời ông cũng hạ xuống đất. Ông đã từng đấm rụng hai chiếc răng cửa của thằng Chổi Sắt? Chổi Sắt là ai? Là tên thổ phỉ nổi tiếng nhất ở vùng Cao Mật. Hắn nhổ hai chiếc răng ra, cười: - Khỏe đấy, làm ăn với chúng tớ đi! Chú dượng Vu Bàn Vả nói: - Để tôi về hỏi vợ đã! Những người trên chợ Đại Lan thường chứng kiến một cảnh tức cười như sau: Bà Vu bó chân, người nhỏ thó kéo tai ông chồng hộ pháp lôi về nhà, điệu bộ như một bà tướng, ai cũng cười nôn ruột, kháo nhau: Đúng là mát nước thối đá, vỏ quít dày có móng tay nhọn! Mới đó mà đã sang thời Dân Quốc, Toàn Nhi đã mười sáu tuổi xinh tươi rực rỡ, báu vật loại một vùng Cao Mật. Muốn ngắm chân nhỏ, xuống ngó đầm sen. Nhà của bà cô nằm ngay bên bờ đầm sen. Ông chú dượng nửa văn nửa võ cho treo cái biển trước cổng, đề ba chữ: Liên hương trai, ông cũng tự hào vì đôi bàn chân nhỏ của Toàn Nhi và coi cô cháu gái dung nhan kiều diễm này là một báu vật sáng giá. Con Toàn nhà tôi nhất định phải gả cho một trạng nguyên? Mọi người bảo: - Ông Bàn Vả ơi nhà Thanh mất rồi, làm gì còn trạng nguyên nữa. Ông chú dượng nói: - Vậy phải gả cho một đốc quân, không lấy được đốc quân thì cũng phải huyện trưởng. Mùa hè năm 1917, huyện trưởng mới của vùng Cao Mật Ngưu Đằng Tiêu vừa chân ướt chân ráo đến nhậm chức đã triển khai bốn việc lớn: một là cấm thuốc phiện, hai là cấm cờ bạc, ba là tiễu phỉ, bốn là bỏ bó chân. Cấm thuốc phiện thì cắt đứt nguồn lợi, thành ra bên ngoài thì cấm nhưng bên trong không cấm? Cờ bạc cấm không nổi, đành mặc kệ ra sao thì ra! Tiễu phỉ tiễu không nổi thôi đành bỏ đấy! Chỉ còn bỏ bó chân thì chẳng có gì quan ngại. Huyện trưởng Ngưu đích thân xuống các xã tuyên truyền vận động, thanh thế rầm rộ. Vào một ngày tạnh ráo hiếm thấy của tháng Bảy, một chiếc ô tô mui trần về thành phố Đại Lan. Thuộc cấp của huyện trưởng cho gọi trưởng trấn tới, trưởng trấn cho gọi trưởng phường, trưởng phường cho gọi trưởng cụm, trưởng cụm thông báo cho dân chúng đến sân phơi thóc, già trẻ lớn bé đều phải có mặt, ai không đến phải phạt một đấu lương thực. Trong khi đợi mọi người đến đông đủ, huyện trưởng Ngưu ngồi ngắm hoa sen trong đầm. Hoa đỏ hoa trắng đan xen mùi hương sực nức. Huyện trưởng Ngưu trông thấy chiếc biển gỗ trên cổng nhà bà cô, nói: - Không ngờ nơi quê mùa này lại thanh tao như vậy! Trưởng trấn xun xoe lấy lòng huyện trưởng nói: - Thưa huyện trưởng, trong nhà này có gót sen vàng. Ngưu huyện trưởng nói: - Thích nốt ruồi là tật của người đời, hương sen vốn là mùi của chân bó! Mọi người lục tục đến đủ, tất cả tập trung ở sân phơi để nghe huyện trưởng hiểu dụ. Mẹ kể, Ngưu huyện trưởng mặc bộ Trung Sặm màu đen, đội mũ màu cà phê, để ria mép đen nhánh, đeo kính gọng vàng, dây đồng hồ lủng lăng bên ngoài miệng túi, tay cầm can, giọng khàn khàn như vịt đực. Ông ta nói năng trôi chảy, mép sùi bọt trắng, cũng không hiểu ông ta nói những gì. Mẹ cảm thấy hơi sợ, túm chặt vạt áo bà cô. Từ khi bó chân, mẹ không ra khỏi cổng, không đan võng thì lại thêu hoa. Lần đầu tiên trong dời, mẹ trông thấy nhiều người đến thế, hơn nữa đều là người lạ. Mẹ cảm thấy người nào cũng nhìn bàn chân của mẹ. Mẹ kể, hôm ấy mẹ mặc chiếc áo sa tanh màu xanh lá mạ, cổ tay và gấu áo đều viền dăng ten hình chữ vạn chạy đuổi. Gấu áo chấm đầu gối, chiếc đuôi sam to nặng, chấm thắt lưng. Quần lụa hồng chấm gót, gấu quần cũng viền đăng ten. Chân đi giày cao gót, thêu hoa, thấp thoáng trong ống quần chùng Đứng một mình thì không vững, mẹ phải vịn vai bà cô. Trong khi huấn thị, ông huyện trưởng nhắc đến Liên hương trai. Ông ta nói: - Đây là tàn dư độc hại của phong kiến, là một thứ bệnh hoạn trong cuộc sống. Mọi con mắt đều đổ dồn vào chân mẹ, khiến mẹ không dám ngửng đầu lên. Tiếp đó, huyện trưởng đích thân đọc cáo thị, toàn văn như sau: Giải phóng bàn chân phụ nữ Thông tư, cáo thị đã ban. Chính phủ nhiều lần nghiêm lệnh, Hiến pháp đã ghi thành văn. Ba tháng phải giải quyết gọn, Pháp luật phải thật nghiêm minh! Nay nghe, phố phường thôn xóm, Dân chúng cùng các hào thân Chần chừ không ai thực hiện Coi lệnh có cũng như không! Lần nữa, Chính phủ ra lệnh Lập tức giải phóng đôi chân! Trên năm mươi tuổi tạm hoãn, Dưới năm mươi tuổi phải tuân! 30 tháng 6 hạn chót, Phái viên đồng loạt ra quân. Kiếm tra một lần mỗi tháng, Ai phạm sẽ bị phạt tiền! Lần đầu phạt hai trăm tệ, Tái phạm còn phạt nặng hơn! Vợ phạm thì chồng nộp phạt, Con phạm thì phạt cha, anh Cáo thị lần này nói rõ, Ngu dân không được hiểu lầm. Niêm yết những nơi đông đúc, Người người quán triệt mà làm! Giải thích cho đến từng hộ, Thôn xóm ba ngày một lần. Mục tiêu giải phóng nhất loạt, Quốc dân khoẻ mạnh cương cường! Nếu vẫn lơ là như trước, Phạt tiền, tội quyết không dung! Đọc xong, ông lệnh cho sáu nữ thanh niên mà ông đem theo, nhảy múa với những đôi chân không bó. Họ ríu rít xuống xe. Quả nhiên, chân họ cực kỳ nhanh nhẹn, thân thể cường tráng. Các tùy tùng của huyện trưởng gào to: - Bà con hãy mở to mắt ra mà xem! Mọi người chăm chú nhìn sáu cô gái. Các cô để tóc ngắn, áo sơ mi cổ lật màu xanh lam, quần trắng dài chấm gối, để hở hai bắp chân trắng nõn, tất ngắn màu trắng, giày thể thao cũng màu trắng. Bầu không khí mới mẻ, một luồng gió tươi mát tràn đầy ***g ngực dân chúng vùng đông bắc Cao Mật. Các cô gái xếp hàng, cúi chào mọi người rồi ngước mắt lên trời mà hát rằng: Chúng tôi không bó chân, chúng tôi không bó chân, da thịt trên người cha mẹ sinh. Họ giơ cao chân để khoe với mọi người bàn chân dài. Thoải mái vô cùng ta chạy nhảy, không như chân bó khổ trăm đường! Họ lại vừa nhảy vừa hát Phong kiến coi ta như đồ chơi, đã hại biết bao người Giải phóng đôi chân, ta giải phóng, quăng đi vải bó, đi lên tiên. Các cô gái lui vào bên trong. Một bác sĩ khoa xương bê ra mô hình một cái chân bị bó, chỉ cho mọi người thấy chỗ nào xương chân bị gãy, chỗ nào xương chân biến dạng. Cuối cùng, ông huyện trưởng nảy ra một ý, lệnh cho người có gót sen vàng được coi là đẹp nhất vùng Cao Mật lên trình diện, để mọi người thấy rõ đôi bàn chân ấy khó coi đến múc nào. Mẹ tái mặt, nấp sau lưng bà cô. Ông trưởng trấn nói: - Đây là mệnh lệnh của huyện trưởng, không ai được cưỡng lại! Mẹ ôm chặt eo lưng bà cô, nói: - Cô ơi, cô cứu cháu! Cháu không lên đâu! Bà cô nói: - Cháu cứ lên cho người ta xem? Chỉ sợ người ta không biết đó là hàng đẹp, không sợ hàng mình không đẹp! Cô không tin rằng đôi bàn chân do cô tạo nên lại xấu hơn chân của sáu con lừa đó. Bà cô dắt mẹ ra phía trước rồi lánh sang một bên. Mẹ một bước đi ba lần nhún nhảy như cành liễu trước gió. Trong con mắt những người thủ cựu vùng Cao Mật, như thế mới là người đẹp? Họ tròn mắt ra nhìn, chỉ tiếc nỗi không thể nhìn xuyên quần xiên áo để ngắm trộm toàn bộ dung nhan người đẹp. ánh mắt của huyện trưởng như con thiêu thân, chui tụt trong ống quần Toàn Nhi, miệng há hốc ngẩn ra hồi lâu rồi lớn tiếng nói: - Hãy trông đây, người đẹp như thế này, vì cái chân bó, mà trở thành một quái vật vai không thể gánh, chân không thể giơ lên! Bà cô không sợ gì cả, gạt lời huyện trưởng: - Thiên kim tiểu thư chỉ để nuôi làm cảnh, công việc nặng nhọc đã có đầy tớ. Huyện trưởng vằn mắt nhìn bà cô, hỏi: - Bà là mẹ của cô ấy hả? Bà cô nói: - Là mẹ thì sao? Huyên trưởng nói: - Chân cô ấy là kiệt tác của bà phải không Bà cô: - Nếu đúng như vậy thì đã sao? Huyện trưởng nói: - Bắt trói mụ già độc ác này lại cho ta! Ngày nào con gái mụ chưa tháo vải bó chân thì vẫn cứ giam mụ lại! - Để xem các ngươi dám bắt người không - Vu Bàn Vả gầm lên như sét đánh giữa trưa, vung hai quả đấm nhảy ra đứng chắn trước mặt vợ. Huyện trưởng nói: - Anh là ai? Vu Bàn Vả ngang nước trả lời: - Tao là bố mày! Huyện trưởng cả giận, quát: - Bắt lấy nó! Mấy tên sai nha rụt rè tiến lên. Chỉ một cái gạt, ông Vu Bàn Vảđã hất chúng sang một bên. Dân chúng bàn tán xôn xao. Có người lượm đất cục ném sáu cô gái. Dân Cao Mật vốn tính hung hãn, điều này có thể Ngưu huyện trưởng đã nghe nói. Ông ta nói: - Hôm nay bản huyện có việc quan trọng, nên tạm tha cho nhà ngươi! Bỏ bó chân là nghiêm lệnh của nhà nước, kẻ nào vi phạm tất bị trừng phạt! Huyện trưởng chui vào ca bin, quát to: - Cho xe chạy! Lái xe chạy vòng lên đầu xe, cắm ma-ni-ven vào lỗ rồi giật mạnh. Các cô gái chân to và bọn tùy tùng vội vã trèo lên thùng xe. Xe phành phạch nổ máy. Tài xế trèo lên ca bin, quay đầu xe. Chiếc xe chạy đi, kéo theo một đám bụi mù. Một bé trai vỗ tay: - Ông Bàn Vả can đảm ghê, ông đuổi Huyện trưởng chạy té re. Đêm hôm ấy, bà Lã - vợ của ông thợ rèn Thượng Quan Phúc Lộc tìm bà mối Viên, biệt hiệu Viên Lắm Điều, tặng bà ta một súc nhỏ vải trắng, nhờ bà ta đánh tiếng hỏi Toàn Nhi cho con trai độc nhất của bà. Bà Viên đập quạt lá đánh bốp một cái vào đùi mình, nói với bà cô: - Bà chị, nếu nhà Mãn Thanh không đổ, thì có chọc dùi vào mông, em cũng không dám bước qua ngưỡng cửa nhà chị! Nhưng bây giờ là Trung Hoa Dân Quốc, con gái bó chân không được chuộng nữa! Các công tử con nhà đại gia đều tiếp thu tư tưởng mới, mặc com lê, hút thuốc thơm, kết thân với những cô đầm chân to, chạy nhảy nói cười thoải mái, ôm ấp nhau mà hôn mà hít. Cô cháu gái của bà chị như phượng hoàng lỡ bước thua xa đàn gà, nhưng nhà Thượng Quan không vì thế mà chê, bà chị ơi, vậy là phúc đức cho nhà mình! Cậu Phúc Hỉ mặt mũi dễ coi, tính nết hòa nhã. Nhà có một con lừa, một con la, lại có một lò rèn, tuy không giàu nứt đố đổ vách, cũng không phải thiếu ăn thiếu mặc? Cô Toàn Nhi mà vào nhà ấy thì cũng chẳng có gì ân hận? Bà cô nói: - Tôi dạy dỗ nó để trở thành một nương nương, lại đem gả cho con trai ông thợ rèn?! Viên Lắm Điều nói: - Bà chị không nghe người ta kể sao? Chính cung nương nương của vua Tuyên Thống là dân đánh giày ở Cáp Nhĩ Tân đấy. Con người ta nay thế này mai thế khác chứ! Bà cô nói: - Chị bảo nhà Thượng Quan trực tiếp nói chuyện với tôi! Sáng hôm sau, từ kẽ liếp nhìn ra, mẹ trông thấy bà Lã, mẹ chồng tương lai cao to lùng lững. Mẹ còn trông thấy cô mình và bà Lã đỏ mặt tía tai về chuyện đồ dẫn cưới nhiều ít. Bà cô nói: - Bà cứ về bàn bạc cho kỹ, hoặc là một con la, hoặc là hai mẫu ruộng, tôi nuôi nó mười bảy năm, không thể trắng tay. Bà Lã nói: - Cũng được, coi như nhà tôi chịu thiệt, con la đen nộp cho nhà bà. Còn của hồi môn của nó là chiếc xe cút kít. Hai người đập tay vào nhau, coi như đã thỏa thuận. Bà cô gọi to: - Con Toàn đâu, ra chào mẹ chồng đi! |
3.
Lỗ Toàn Nhi và Thượng Quan Thọ Hỉ lấy nhau đã ba năm mà vẫn chưa có con. Mẹ chồng cô chửi mèo mắng chó:
- Chỉ biết ăn mà không biết đẻ nuôi cái đồ vô tích sự ấy làm gì!
Bà Lã ném mẩu sắt nung đỏ vào giữa đám gà mái. Một con tưởng ăn được, thò cổ mổ, mỏ bốc khói. Lỗ Toàn Nhi đang đập vỡ những khúc xương còn dính thịt, những mảnh vụn bắn lên người, trắng có, đỏ có. Bà Lã vốn keo kiệt, không mua thịt mà chỉ mua vài cân xương chưa lọc sạch, đập vụn rồi nhét vào làm nhân bánh bao, chào mừng ngày khao liềm hái, ngày mồng tám tháng Tư âm lịch. Đại mạch đã chín, tiểu mạch đã đỏ đuôi nông dân chuẩn bị liềm hái ngựa nghẽo, chuẩn bị thu hoạch.
Mùa xuân năm ấy mưa thuận gió hòa, lúa mạch rất tốt. Lò rèn nhà Thượng Quan làm ăn khấm khá, nông dân từng đoàn từng lũ đến mua liềm hái mới, đem liềm cũ đến cắt trấu hoặc cạp thép. Bễ lò đặt giữa sân, phía trên che bằng vải dầu. Lửa rừng rực trong lò, mùi than hoa thơm thơm, ngọn lửa đỏ hồng dưới nắng. Thượng Quan Phúc Lộc giữ kìm. Thượng Quan Thọ Lộc kéo bễ. Thượng Quan Lã thị mặc chiếc áo cộc đen cài khuy giữa, lưng thắt tạp để bằng vải bạt thủng lấm tấm do tàn lửa văng ra từ gỉ sắt, đầu quấn chiếc khăn rách, giữ búa tạ. Mồ hôi trên mặt chảy từng vệt trộn lẫn với bụi than. Nếu như không có cặp vú bằng hai cái vò trước ngực thì không ai nhận ra bà là phụ nữ. Tiếng búa chan chát từ sáng đến đêm. Đã thành lệ, nhà thợ rèn cơm ngày hai bữa. Lỗ Toàn Nhi phụ trách cơm nước, cho gia súc ăn, chăn lợn. Cô cũng bận tối mắt tối mũi, vậy mà vẫn bị mẹ chồng chì chiết. Bà vừa quai búa vừa giám sát con dâu, miệng cằn nhằn không lúc nào ngơi, chửi con dâu chán lại chửi con trai, chửi con trai chán lại chửi chồng. Cả nhà đã quen với những câu chửi của bà. Bà thật sự là người chủ của gia đình, và cũng thật trên tài về kỹ thuật rèn. Lỗ Toàn Nhi vừa hận vừa sợ mẹ chồng, nhưng không thể không bái phục mẹ chồng.
Lúc trời chiều, xem Thượng Quan Lã thị rèn sắt là tiết mục không bao giờ nhàm của người trong thôn. Trước và sau mùa gặt, cổng nhà Thượng Quan lúc nào cũng rộng mở. Chiều chiều, người ta đến lấy liềm hái, lấy rồi nhưng không vội về. Ráng chiều như lửa, hoa hòe nở đầy cây trắng như tuyết. Lửa trong lò màu vàng kim, thép đủ nhiệt độ, sáng trắng. Thượng Quan Phúc Lộc dùng kìm lôi thỏi sắt đặt lên đe, tay kia cầm búa nhỏ khệnh khạng đập những nhát chỉ chỗ. Thượng Quan Lã thị trông thấy sắt đã nung chín, lập tức như người vừa đã cơn nghiện, tinh thần phấn chấn, mặt đỏ bừng, mắt sáng rục, nhổ bãi nước bọt vào lòng bàn tay, vung búa tạ nện từng nhát lên thỏi sắt đo, tiếng búa trầm **c như nện vào miếng cao su sơ chế. Tinh tang, bụp, tinh tang, bụp! Người bà nhổm lên cúi xuống, khí tráng sơn hà, cuộc đọ sức giữa con người và sắt thép, cuộc thi tài giữa đàn ông và đàn bà, thỏi sắt biến dạng dần sau những nhát búa. Khi bà quai búa, mọi cặp mắt đều đổ dồn vào ngực bà, cặp vú nhảy tung tung không lúc nào dừng. Thằng cha có tên là Thầy Dùi bật cười một mình. Bà Lã hỏi:
- Thảy Dùi, ngươi cười gì thế!
Thầy Dùi nói:
- Ngày mai cháu đem hai cái lục lạc đến cho bác.
Bà Lã hỏi:
- Cho ta lục lạc để làm gì?
Thầy Dùi nói:
- Để treo dưới vú của bác, như vậy chúng sẽ rung lên mỗi khi bác quai búa!
Bà Lã nói:
- Thế thì có gì đáng cười? Cái thằng vắt mũi chưa sạch kia, ngày mai mà mày không đem hai cái lục lạc đến đây, ta sẽ lột da mày ra!
Rèn cho đến lúc trăng non mọc, sao nhấp nháy đầy trời, rồi đóng con dấu của nhà Thượng Quan lên thân liềm. Đó là nhãn hiệu, là tiêu chí của sự tín nhiệm, nếu liềm hái bị mẻ, bị quắn hoặc gãy thì cứ đem đến sửa không lấy tiền hoặc đổi cái khác. Hàng nhà Thượng Quan làm ra đều đóng dấu riêng. Liềm hái của nhà Thượng Quan trông có vẻ cục mịch, sống dao thô, nhưng những chỗ cần làm kỹ thì không bao giờ qua loa chiếu lệ. Lưỡi hái từ chỗ rộng hai ngón tay trở đi, ánh thép xanh biếc, cắt cả buổi sáng không cùn, nước thép như vậy mới tốt. Nước thép không tốt thì chỉ mài vài nhát đã quằn, lởm chởm như răng của, cắt những nhát đầu thì sắc, nhưng chẳng mấy chốc đã nhụt, trơ ra. Liềm hái nhà Thượng Quan rất khó mài, phải kiên nhẫn, ngậm một ngụm nước trong miệng rồi ngậm một cọng rơm, kẹp lưỡi hái giữa hai bàn chân rồi áp đá mài mà mài chầm chậm, vừa mài vừa phun nước lên lưỡi hái qua cọng rơm. Lưỡi hái nhà Thượng Quan sau khi mài trông hơi tù như cạnh lá he, thoạt đầu thì chưa sắc, nhưng càng cắt càng thấy tuyệt diệu. Do vậy mà hàng nhà Thượng Quan nổi tiếng gần xa. Lúa tốt thì nhà Thượng Quan cũng tiền nhiều. Đương nhiên kiếm được đồng tiền không phải dễ dàng, suốt ngày đánh bạn với lửa, đổ mồ hôi, sôi nước mắt? Cặp vú bà mẹ chồng quăng lên quật xuống như thép dẻo. Về nước tôi của bà thì không thể không nhắc đến. Hình dáng có đẹp đến mấy, nhưng nước tôi không tốt thì cũng là đồ bỏ đi. Công việc này phải dựa vào kinh nghiệm nhờ vào cảm giác. Bà Lã nói rằng, nhúng thép vào nước tôi phát ra tiếng xèo xèo, khó mà nói đó là tiếng của sắt hay của nước. Cái mùi tanh tanh ngòn ngọt khiến người ta mê mẩn. Đang buồn mà rèn xong một quả liền cảm thấy sung sướng trong mỏi mệt, mỏi mệt trong sung sướng. Hơi nước màu hồng cuồn cuộn bay lên, che khuất khuôn mặt bà thợ rèn. Cha con ông thợ rèn cứ đứng ngây ra mà nhìn người nữ thống soái của mình.
Cuộc sống của nhà Thượng Quan là cuộc sống của phụ nữ, không sai chút nào. Cuộc sống của Vu Bàn Vả cũng là cuộc sống của phụ nữ, điều này ai cũng rõ. Nhưng Thượng Quan Lã thị và Vu Lỗ thị lại là hai người đàn bà khác nhau hoàn toàn, một người thì cao to lừng lũng, sức mạnh tràn trề, người kia gầy gò nhỏ thó, chân tay nhanh nhẹn. Thượng Quan Lã thị giọng ồm ồm như chiếc chuông đại trong nhà thờ. Bà Vu thì nhát gừng, như dao sắc thái củ cải. Lửa trong lò thiếu gió vật vờ như những mảnh lụa vàng, ngọn lửa lay động chùm khói đen khét lẹt Thượng Quan Thọ Hỉ ngáp dài, mũi nhỏ mắt nhỏ đầu nhỏ, bàn tay nhỏ cánh tay nhỏ, khó có thể tin anh ta lại do bà Lã đẻ ra. Giống không tốt thì đất đai màu mỡ đến mấy cũng chẳng ích gì. Ngửi mùi nước và mùi sắt, bà thợ rèn liền biết được nước thép. Bà kẹp lưỡi hái giơ lên mũi ngồi rồi quẳng sang một bên, bảo:
- Ăn cơm thôi!
Lỗ Toàn Nhi chạy nháo từ nhà ra sân, từ sân vào nhà, y hệt binh sĩ khi nhận lệnh chủ tướng. Bữa tối được dọn dưới gốc cây lê, trên cành treo chiếc đèn bão sáng rực, dụ dỗ rất nhiều thiêu thân bay tới. Trên bàn bày bánh bao nhân xương băm trộn củ cải, canh đậu xanh, những cây hành rửa sạch và một bát tương ớt. Không hiểu mẹ chồng có bằng lòng hay không? Nhiều món quá, mẹ chồng sợ lãng phí, mặt dài ra tỏ vẻ không bàng lòng! Cơm canh đạm bạc quá, mẹ chồng không thấy ngon, mặt dài ra không bằng lòng! Thời buổi này làm dâu quả không dễ. Làm dâu bà Lã - người đàn bà thép - lại càng không dễ? Sân nhà thợ rèn suốt ngày choang choang, giờ đây có vẻ im ắng đặc biệt. Bà Lã ngồi chính giữa, chồng và con trai chia nhau ngồi hai bên. Toàn Nhi không dám ngồi, đứng đợi mẹ chồng sai bảo.
- Cho lừa ăn chưa?
- Cho ăn rồi ạ!
- Đóng cửa chuồng gà chưa?
- Đóng rồi ạ!
Bà Lã lầu bầu điều gì đó, húp một ngụm canh to tướng. Thượng Quan Thọ Hỉ cắn một miếng xương băm, than thở:
- Người ta thì bánh bao nhân thịt, nhà mình thì nhân xương, chẳng khác con chó?
Bà Lã dằn mạnh đôi đũa xuống bàn, chửi:
- Mày còn kén cá chọn canh kia à?
Thọ Hỉ nói:
- Trong nhà kho còn bao nhiêu là lúa mạch, trong hòm còn bao nhiêu là tiền, để làm gì?
Phúc Lộc nói:
- Con nó nói đúng đấy, nên khao chúng tôi một bữa
Bà Lã nói: - Thóc đấy, tiền đấy chẳng để cho các người thì để cho ai? Tôi có đem theo chúng xuống mồ được đâu?
Lỗ Toàn Nhi im lặng cúi đầu, không dám thở mạnh. Bà đã giận dữ đứng lên đi vào nhà, quát với ra:
- Ngày mai mua quẩy, thịt quay, rán trứng, giết gà! Không sống nữa, sống mà làm gì? Nhà Thượng Quan tiền oan nghiệp chướng làm sao cưới phải quả mít đực, tuyệt tự đến nơi rồi! Còn vun vén làm gì? Ăn sạch đi, cho hết một thể!
Lỗ Toàn Nhi bưng mặt khóc.
Bà mẹ chồng chửi càng to:
- Lại còn khóc hả? Cô là cái thứ gì? Ba năm rồi, đực thì không dám mong, cái thì cũng không nốt! Ngày mai trở về nhà bà cô đi, nhà Thượng Quan không thể vì cô mà tuyệt tự!
Đêm ấy Lỗ Toàn Nhi khóc đến sáng. Thượng Quan Thọ Hỉ quấy rầy cô. Cô không thích cũng đành chịu, vừa khóc vừa nói:
- Tôi chẳng trục trặc chỗ nào cả, hay là anh có chuyện?
Thọ Hỉ cưỡi lên người Toàn Nhi, xoắn đầu vú cô, chửi:
- Gà mái không đẻ được trứng, lại quay ra trách gà trống rồi?
4.
Xong vụ gặt, các nàng dâu đều về nhà mẹ đẻ tránh những ngày oi bức. Lấy chồng ba năm rồi, lẽ ra đã tay bế tay bồng, bầu vú căng mọng, vai khoác một bao mẫu giày, mặt mày tươi tinh mà về thăm mẹ. Lỗ Toàn Nhi thì thảm thương quá, người đầy vết tím bầm do chồng tặng, đầu đội những lời chửi rủa tục tằn của mẹ chồng, tay khoác cái gói nhỏ, mắt sung húp, trở về nhà bà cô. Thân đến mấy thì cô cũng không bằng mẹ, vì vậy bao nhiêu nỗi khổ mà không dám nói ra, bước vào cổng phải cố rặn ra một nụ cười. Bà cô mới tinh mắt làm sao, nhìn cái đã thấy hết chuyện, nói: - Vẫn chưa à? Lỗ Toàn Nhi bị chạm vào nỗi đau, nước mắt lã chã ướt đầm ngực áo. Bà cô trầm ngâm: - Cũng lạ, hơn ba năm rồi, lẽ ra phải có rồi chứ? Lúc ăn cơm, Vu Bàn Vả trông thấy cánh tay Toàn Nhi tím xanh tím đỏ thì chửi: - Dân Quốc rồi mà còn dám ngược đãi con dâu, tôi mà điên lên, tôi cho nhà Thượng Quan một mồi lửa. Bà cô trừng mắt, mắng: - Cơm canh vẫn chưa bịt được miệng ông hả? Bữa cơm rất thịnh soạn, màn thầu trắng, cá chép om. Bà cô gắp miếng trứng cá bỏ vào bát Toàn Nhi. Ngày tam phục - những ngày nóng nhất - cực kỳ sảng khoái đối với ông Vu Bàn Vả. Ông vác một tay lưới đi, cá đem về gần như là tai họa: ăn không hết, bán thì chăng được mấy tiền. Bà cô bèn mổ bỏ ruột, ướp tương rồi đem phơi khô. Bà cô nói: - Cũng không nên chỉ trách mẹ chồng cháu, người ta lấy về làm dâu là mong có người nối dõi, đó là mục tiêu hàng đầu! Chú dượng nói: - Bà có cho tôi người nối dõi đâu, mà sao tôi vẫn đối xử tốt với bà? Bà cô nói: - Ông dùng có chõ miệng vào! Thế này nhé, ông chuẩn bị lừa, đưa con Nhi lên huyện khám phụ khoa, mình gả chồng thì mình phải lo cho nó. Toàn Nhi cưỡi trên lưng lừa đi trên cánh đồng mênh mông chằng chịt những kênh mương của vùng đông bắc Cao Mật. Mây trắng từng đám lớn bay trên trời, giữa những kẽ mây, bầu trời xanh trong đến lạ lùng. Hoa màu xanh biếc và cỏ dại chớp thời cơ sinh sôi nẩy nở, con đường nhỏ chật hẹp hầu như bị che lấp. Con lừa lắc lư cặp mông buộc chậm rãi, chốc chốc lại bứt một bông hoa nhỏ màu tím trong đám cỏ ven đương. Đó là hoa mi-mô-sa. Mi-mô-sa thả trong rượu nồng, cô em xinh đẹp bước theo chồng? Bước tiếp bước, khi hoàng hôn xuống mới dùng chân. Cỏ khô trải ổ cùng qua đêm. Hôn và hôn, ôm và ôm, sang năm sinh một thăng chó con. Bài dân ca thuở nhỏ từng hát, lại từ xa vẳng tới, rồi lại theo gió bay đi. Toàn Nhi cảm thấy lòng đau như cắt. Đầm hồ nối với nhau bằng những con kênh, những con kênh chui tụt vào đầm hồ. Từng đàn cá to ung dung bơi lội trong làn nước trong vắt. Chim bói cá đậu bất động trên ngọn cây, cổ rụt lại đột nhiên rơi xuống nước như một hòn đá, khi bay lên khỏi mặt nước đã ngậm một con cá trắng ở mỏ. Nắng rát, mặt đất bốc hơi hầm hập, khắp nơi đều có tiếng cựa của sự sinh trưởng. Một cặp chuồn chuồn cắn đuôi nhau bay qua. Hai con vân tước đuổi nhau trên bầu trời, chốc chốc lại chạm người vào nhau. Những con nhái nhảy loạn xạ trên đường, những con châu chấu gặm lá non trên đầu ngọn cỏ. Những con thỏ con lông trắng như bông, len lỏi giữa những thân cây, chạy theo thỏ mẹ. Những con vịt trời mới nở bơi theo vịt mẹ, bàn chân có mạng màu hồng quạt nước, để lại phía sau những gợn sóng... Ngay cả gà vịt, chồn thỏ cũng biết sinh đẻ, vì sao mình lại không? Toàn Nhi thấy lòng bồn chồn và một cảm giác trống trải. Chị như nhìn thấy những người đàn bà trong truyền thuyết thấp thoáng đâu đây, trước bụng đeo túi dựng con, trong túi rỗng tuếch, không có gì cả. Trời ơi, Bà Mụ ơi, xin Bà cho con một đứa con trai... Chị mơ hồ nhìn thấy Bà Mụ mặt trắng như mâm bột, cặp mắt phượng dài. Bà bế trong tay một đứa trẻ bụ bẫm cưỡi trên con kỳ lân lông màu xanh, chòm râu dài dưới cằm, cổ đeo lục lạc, đầu đội đám mây hồng, chân đạp vầng mây trắng, bay lên trên cánh đồng. Bà Mụ ơi, Bà cho con xin thằng nhỏ, con xin lạy thánh mớ bái! Uớc nguyện chân thành khiến chị ứa nước mắt. Chong coong coong coong, Bà Mụ cưỡi kỳ lân bay đi, thằng bé bụ bẫm vẫy tay chào lại. Chú dượng tuổi đã bốn mươi nhưng vẫn rất hiếu động. Ông thả dây cương, mặc cho con lừa đi thế nào thì đi. Ông hái một ôm hoa dại, tết thành một vòng hoa dội lên đầu cho Toàn Nhi. Ông đuổi chim con trên bãi cỏ, mệt thở phì phò. Ông chui vào vạt cao lương, tìm thấy một dây đưa dại, ngắt một quả còn đầy lông, to bằng nắm tay, bảo Toàn Nhi ăn, bảo đó là dưa ngọt. Đắng chát lưỡi ông xắn quần nhảy xuống lòng mương, nhổ một đọt cây bồ nhung đang có đòng, bóc ra, ông ăn một nửa, đưa cho Toàn Nhi một nửa. Đọt này có vị ngọt, đặc quánh, ăn rất ngon. Ông nhảy xuống đầm lác, tách vỏ lấy ruột mảnh như to, ông ăn một ít còn lại đưa cho Toàn Nhi, thứ này dinh dính, ăn cũng ngon. Trong kho kiến thức của ông, tích lũy bao nhiêu thứ ăn được ông bắt ở mép nước một con bọ đầy lông xanh, to bằng hạt dưa hấu, giữ nó trong hai lòng bàn tay úp lại hô biến rồi bảo Toàn Nhi ngửi, mùi gì đây, Toàn Nhi lắc đầu, không nói được là mùi gì. Ông bảo: - Mùi dưa hấu, đây là con bọ dưa hấu, từ hạt dưa hấu mà thành bọ. Toàn Nhi thấy ông chú dượng ham chơi và chịu chơi như một thanh niên. Kết quả khám phụ khoa là Toàn Nhi không có bệnh gì cả. Bà cô nổi giận nói: - Để ta đi tính sổ với nhà Thượng Quan! Con trai nó là con la* (*Lừa và ngựa phối giống đẻ ra la. Con la không có khả năng sinh đẻ), thế mà nó lại đổ tội cho con Toàn nhà mình! Nhưng ra đến cổng, cô lại quay vào. Mười mấy ngày sau, một đêm trời mưa như trút. Bà cô làm một bữa thịnh soạn, lấy bình rượu bằng thiếc của ông chú dượng hâm đầy một bình rượu. Hai cô cháu ngồi đối diện với nhau. Bà cô lấy ra hai chén sứ men xanh, đặt một chiếc trước mặt Toàn Nhi, một chiếc trước mặt bà. Ngọn nến chập chờn, hắt bóng bà lên tường. Khi rót rượu vào chén, tay bà run bần bật. - Cô ơi, sao hôm nay lại uống rượu - Toàn Nhi linh cảm sắp có chuyện quan trọng, hồi hộp hỏi. Bà cô nói: - Có gì đâu, trời mưa buồn quá, cô cháu mình chuyện gẫu cho vui! Bà giơ chén rượu lên, nói: - Uống đi, con! Toàn Nhi cũng cầm chén rượu lên, sợ sệt nhìn bà cô. Chị trông thấy chén của mình rung lên một cái khi chén của bà cô **ng vào. Bà cô ngửa cổ uống cạn. Toàn Nhi cũng ngửa cổ uống cạn. - Con định thế nào bây giờ - Bà cô hỏi. Toàn Nhi đau khổ lắc đầu. Bà cô rót rượu cho mình và cho Toàn Nhi. - Cơn ơi! - Bà cô nói - Âu cũng là cái số! Thằng con trai nhà Thượng Quan không ra gì, nó đã có lỗi với mình! Nhớ lấy, chính là nhà nó nợ mình về tình cảm, chứ không phải mình nợ nó! Con ơi, trên đời này có bao chuyện đàng hoàng lại ra đời từ trong mờ ám, con hiểu cô nói gì không? Toàn Nhi lắc đầu tỏ vẻ không hiểu, hai chén rượu vào bụng, đầu chị đã quay cuồng. Chính trong đêm đó, Vu Bàn Vả trèo lên giường Toàn Nhi. Sáng ra, khi tỉnh dậy, Toàn Nhi thấy đầu nhức như búa bổ. Chị nghe thấy có tiếng ngáy rất to bên cạnh. Chị khó nhọc mở mắt ra, trông thấy ông chú mình trần nằm bên cạnh, bàn tay to như tay gấu của ông đang đặt lên vú chị. Chị hét lên một tiếng, kéo chăn che kín thân thể rồi khóc hu hu. Ông Vu Bàn Vả tỉnh dậy, ôm quần áo nhảy xuống giường, lắp bắp: - Đó là cô cháu... bảo chú đến! Mùa xuân năm sau, vừa qua tiết thanh minh, con dâu nhà Thượng Quan Lỗ Toàn Nhi sinh một đứa con gái gầy gò, hai mắt đen láy. Thượng Quan Lã thị quì trước bàn thờ Bồ tát lạy ba lạy, giọng hả hê: - Tạ ơn trời đất, cuối cùng thì nẻ ít ra rồi! Xin Bồ tát phù hộ, sang năm cho gia đình con xin đứa cháu trai! Bà hào phóng luộc đầy một bát trứng gà bưng đến trước mặt con dâu, nói: - Ăn đi! Lỗ Toàn Nhi nhìn khuôn mặt to bè của mẹ chồng với ánh mắt cảm kích, nước mắt dàn dụa. Bà mẹ chồng nhìn con bé nằm trong đống tã rách, nói: - Đặt tên nó là Lai Đệ! |
5.
Chị Hai Thượng Quan Chiêu Đệ cũng là giống của ông Vu Bàn Vả. Liên tiếp sinh hai con gái, sắc mặt bà Lã càng khó coi.
Mẹ nhận ra một chân lý nghiệt ngã: Là đàn bà, không lấy chồng không được, lấy chồng mà không sinh con không được, sinh con toàn con gái cũng không được. Muốn có địa vị trong gia đình, dứt khoát phải sinh con trai.
Đứa con thứ ba, mẹ thụ thai trong bãi sậy.
Đó là một buổi trưa, khi Chiêu Đệ được hơn một tháng tuổi, theo lệnh bà Lã, mẹ đến đầm lau ở tây nam thôn, bắt ốc vặn về nuôi vịt. Mùa xuân năm ấy có người bán vịt con. Đó là một người ở vùng khác đến, to cao khỏe mạnh, vai khoác vuông vải xanh, chân đi giày cỏ, gánh hai ***g vịt con lông màu vàng tuổi. Anh ta bày hai chiếc ***g ngay trước cửa nhà thờ, rao bằng một giọng du dương:
- Ai mua vịt con đây! Ai mua vịt con nào?
Những mùa xuân trước, người ta bán gà con, ngỗng con, nhưng chưa ai bán vịt con. Mọi người vây quanh ***g vịt, ngắm nghía những con vật bé tí như một cục bông, mỏ màu phấn hồng. Chúng kêu áp áp, màng chân trong suốt, đi lại một cách vụng về.
- Mua đi mua đi, mùa xuân mua về, sang thu thu tiền, nếu lẫn vịt đực không lấy tiền! Đây là vịt Bắc Kinh, mắn đẻ, cho trứng ngay trong năm, mỗi ngày một quả, chỉ cần cho ăn những thứ như cua ốc, mỗi ngày có thể cho hai trúng, sáng một, chiều một.
Bà Lã là người đầu tiên mua 10 con, có người mở đầu, những người khác cũng mua theo, chỉ một loáng, hai ***g vịt con đã bán sạch.
Anh chàng bán vịt chỉ đi dạo một vòng quanh thôn rồi bỏ đi. Đêm hôm đó, con trai lớn nhà Phúc Sinh Đường bị thổ phỉ bắt cóc, mất mấy nghìn mới chuộc được về. Người ta đồn rằng, anh chàng bán vịt đi tiền trạm, mượn cớ bán vịt để thám thính tình hình nhà Phúc Sinh Đường.
Nhưng những con vịt thì quả là vịt tốt, mới nuôi được 5 tháng mà đã lớn như chiếc thuyền tí hon. Bà Lã yêu đàn vịt như sinh mạng của mình, ngày ngày sai con dâu đi bắt ốc, hy vọng mỗi ngày chúng đẻ hai trứng: Mẹ xách một cái hũ sành, tay cầm sào trên đầu có buộc cái gầu xúc đan bằng dây thép, đi về hướng bà mẹ chồng đã chỉ. Những mương rãnh gần thôn, ngoài đầm đã bị những người nuôi vịt vét không còn một con ốc. Mẹ chồng đi chợ Liêu Lan, khi qua bãi sậy trông thấy rất nhiều ốc ở chỗ nước nông.
Hàng đàn vịt trời xanh biếc bơi lội trong bãi sậy. Mỏ chúng như những cái xẻng, ăn sạch những con ốc mà mẹ chồng đã trông thấy. Mẹ vô cùng thất vọng tiếc mình đến muộn bây giờ về tay không, chắc bị chửi tối mắt tối mũi. Men theo con đường nhỏ khúc khuỷu lầy lội, mẹ tiến sâu hơn nữa, hi vọng bắt gặp một chỗ chưa bị lũ vịt trời sục sạo để hoàn thành nhiệm vụ mẹ chồng giao. Mẹ cảm thấy bầu vú căng sữa, lại nhớ hai đứa con gái ở nhà. Lai Đệ chập chững biết đi, Chiêu Đệ thì chưa được hai tháng tuổi. Mẹ chồng coi mấy con vịt hơn cả hai đứa bé. Chúng có khóc hết hơi cũng đừng mong được bà nội bế một lúc. Thọ Hỉ thì khó nói đó là một con người, ra ngoài thì là một thằng **t, trước mặt mẹ thì nhũn như con chi chi, nhưng đối với vợ con thì hung hãn hết chỗ nói. Anh ta hoàn toàn không thích hai đứa trẻ. Sau mỗi lần bị chồng ngược đãi, mẹ cảm thấy như trút được mối hận:
- Đồ con la! Đánh đi, đánh nữa đi, hai đứa nhỏ này không phải giống nhà anh! Toàn Nhi này có đẻ thêm một nghìn đứa nữa, cũng không phải giống nhà Thượng Quan.
Từ sau khi có chuyện ấy với chú dượng, mẹ cảm thấy không còn mặt mũi nào gặp lại bà cô, nên ngày tam phục năm nay, mẹ không về thăm nhà. Mẹ chồng giục mẹ về mẹ bảo:
- Nhà con chết cả rồi, mẹ bảo con về đâu bây giờ?
Xem ra giống của ông chú dượng Vu Bàn Vả cũng không được việc! Mẹ nghĩ, phải xin giống ở người đàn ông nào tốt hơn. Này mẹ chổng, này chồng, các người cứ đánh tôi đi, cứ mong đi, tôi sẽ đẻ con trai nhưng nó không phải giống nhà Thượng Quan, các người thiệt to rồi? Mẹ nghĩ ngợi miên man, tay rẽ những cây lau gần như bịt kín lối đi. Bãi lau xào xạc, mùa tanh tanh của những cây thủy sinh khiến mẹ sờ sợ. Tiếng chim kiếm ăn trong nước kêu quác quác từ nơi rất sâu, từng làn gió nhẹ lách qua kẽ lá. Một con lợn rừng mõm dài nghêu đứng chắn đường, chỉ cách vài bước chân, hai chiếc răng nanh nhọn hoắt chìa ra hai bên mép. Nó giương cặp mắt ti hí phủ đầy lông mi dày nhìn mẹ với vẻ thù địch, khịt khịt mũi hăm dọa. Mẹ như sực tỉnh sau khi uống một ngụm dấm, bất giác sợ run lên, nghĩ rằng sao mình lại lọt vào nơi này? Có ai ở Cao Mật biết mình vào đây? Bãi sậy mênh mông là sào huyệt của bọn thổ phỉ, ngay cả Vương Tam, Tư lệnh du kích vùng Tề-Lỗ trong tay cả đại đội nhân mã mà cũng không dám thọc sâu. Lần tiễu phỉ năm xưa, ông ta chỉ dám đặt súng cối ngoài đường lớn, nã vào bãi sậy hơn chục phát rồi rút.
Khì tìm đường để ra, mẹ mới phát hiện có rất nhiều con đường nhỏ chạy ngang chạy dọc trong ánh sáng lờ mờ, không rõ đó là lối đi của người hay của thú. Mẹ không thể nhận ra mình đã đến chỗ này bằng con đường nào. Mẹ chạy nháo nhào một lúc rồi đứng lại khóc. ánh sáng xuyên qua kẽ lá có hình lưỡi kiếm, mùi thối rữa từ mặt đất bốc lên. Chân mẹ dẫm phải một bãi phân lỏng, tuy thối nhúc mũi nhưng mẹ lại cảm thấy yên tâm, có phân là có người. Mẹ gọi to:
- Có ai đấy không? Có ai đấy không?
Tiếng gọi như bị nghẹt rồi tan biến trong bãi sậy dày đặc. Mẹ cúi nhìn mới thấy bãi phân lổn nhổn những rễ và đọt cây thì hiểu rằng không phải phân người mà là phân lợn rừng hoặc của loài thú nào đó. Lại chạy thực mạng một đoạn nữa rồi tuyệt vọng ngời xuống mà gào khóc. Mẹ cảm thấy sống lưng lạnh toát như có hàng trăm con mắt dữ dằn đang nhìn trộm mình. Quay lại không thấy gì cả, chỉ có những cây lau ken dày, lá nhọn chĩa thẳng lên trời. Một làn gió nhẹ từ bãi lau nổi lên rồi tan đi trong bãi lau, chỉ còn lại những tiếng xào xạc. Tiếng chim hót từ một nơi xa thăm, nghe quái dị, hình như đó là người nhại tiếng chim. Mẹ không dám nán lại lâu hơn nữa, ba bề bốn bên nguy hiển đang rình rập, bao nhiêu cặp mắt xanh lè nhìn qua kẽ lá. Những đốm lân tinh nhảy nhót trên lá sậy. Tim mẹ như muốn vỡ ra, khắp người nổi da gà, vú đanh lại như một thỏi sắt. Mẹ mất dần lý trí nhắm mắt xông bừa làm kinh động đàn muỗi đông như một đám mây đen. Chúng xông vào đốt mẹ. Mồ hôi đầm đìa khiến chúng kéo đến càng đông. Cái hũ sành đã rơi mất, cây sào cũng mất nốt, mẹ vừa kêu gào vừa chạy thực mạng. Khổ thân mẹ! Giữa lúc hoàn toàn tuyệt vọng đó, Thượng đế sai cứu tinh đến: chính là anh chàng bán vịt con!
Anh mặc áo tơi, đội nón lá, dẫn mẹ đến một khoảnh đất cao trong bãi sậy. Chỗ này sậy mọc thưa. Chính giữa là túp lều trước cửa lều có một bếp lửa cháy rừng rục, phía trên treo một nồi cháo kê thoàn phức.
Anh ta dẫn mẹ vào trong lều. Mẹ quì xuống nói:
- Xin quí anh cho em về, em là con dâu nhà thợ rèn Thượng Quan.
Anh ta cười:
- Vội gì? Đã mấy khi có khách, phải thết dãi chút gì chứ!
Trong lều kê tấm phản gỗ làm giường, trên phủ tấm da hổ để chống ẩm. Anh ta đốt lá ngải xông muỗi, hỏi mẹ:
- Đau lắm hả? Muỗi vùng này cắn chết trâu, huống hồ da thịt thơm tho của chị Hai!
Lá ngải bốc khói trắng, tỏa mùi thơm dễ chịu. Anh ta hạ chiếc làn treo trên xà ngang xuống, lấy ra chiếc hộp con màu đỏ, mở nắp quệt một ít cao màu vàng chanh bôi lên những chỗ bị muỗi cắn trên mặt trên tay mẹ. Mẹ cảm thấy một mùi thơm thấm tận trong tim. Anh lại lấy ra một viên đường, ép mẹ ăn bằng được. Mẹ hiểu rằng, một nam một nữ ở nơi mênh mông sâu thẳm này, chuyện ấy sớm muộn sẽ diễn ra. Mẹ vừa nói vừa chảy nước mắt:
- Quí anh ơi, anh làm gì em cũng được, chỉ xin anh cho em về sớm một chút, cháu bé đang khát sữa ở nhà...
Mẹ tiếp nhận người đàn ông với thái dộ vâng chịu, không xót xa cũng chẳng mừng vui, chỉ cầu mong anh ta cho mẹ một thằng con trai.
6.
Bố đẻ chị Tư, chị Tưởng Đệ, là một thầy lang bán thuốc rong. Đó là một thanh niên mảnh khảnh, mũi diều mắt chim cắt. Anh ta rung chiếc chuông đồng đi khắp hang cùng ngõ hẻm, miệng rao:
- Ông làm quan ngự y, bố mở hiệu bào chế, đến đời tôi cơ khổ lênh đênh, giang hồ kiếm sống đây!
Mẹ địu sọt cỏ tươi từ ngoài đồng trở về, bắt gặp thầy lang đang lấy sâu răng trong miệng một ông già. Anh ta cầm cái nhíp màu đen gắp ra những con sâu nhỏ tí màu trắng. Về đến nhà, mẹ kể lại chuyện thầy lang cho mẹ chồng đang đau răng.
Thầy lang bảo mẹ cầm đèn soi miệng bà Lã. Anh ta lấy nhíp lay thử hàm răng, nói: - Bác ơi, răng bác là răng hỏa, không phải răng sâu! Rồi lấy ra mấy chiếc kìm bạc châm vào tay, vào má bà Lã, rồi lấy trong túi thuốc một ít thuốc bột, thổi vào miệng bà. Lát sau, răng bà Lã không đau nữa. Thầy lang ngủ nhờ một đêm ở chái đông nhà Thượng Quan. Ngày hôm sau, anh ta lấy ra một đồng bạc trắng xin thuê chái đông để xem bệnh bốc thuốc. Bà nội thấy thầy lang đã chữa khỏi đau răng cho bà, hai là thấy đồng bạc trắng lóa mắt, bèn vui vẻ chấp thuận.
Thầy lang quả là bậc cao thủ.
Trong thôn có ông Tư Dư chuyên chăn trâu. ở cổ ông bị cái nhọt bọc nhiều năm không lành, hễ **ng phải là máu mủ lại rỉ ra, ngứa ngáy không chịu nổi. Thầy lang vừa trông thấy đã cười, bảo:
- Mạch lươn, chữa dễ ợt! Lấy phân trâu mới ỉa đắp lên miệng là khỏi!
Mọi người tưởng thầy nói đùa.
Lão Tư Dư nói:
- Thầy trêu chọc người bệnh là trái với lẽ trời và đạo làm người đấy!
Thầy lang nói:
- Nếu ông không tin tôi thì đi tìm phân trâu tươi mà làm đi. Nếu không tin thì tìm thầy khác mà chữa!
Ngày hôm sau, Tư Dư xách một con cá to tướng đến tạ thầy. Lão nói sau khi đắp phân trâu vào, ngứa không chịu nổi, lát sau, một số con bọ màu đen chui ra, ngứa cũng đỡ. Liên tục đắp hơn chục lượt, miệng nhọt đã thu lại!
- Đúng là thần y! - Lão Tư Dư nói.
Thầy lang giảng giải: - Cái nhọt của ông thuộc loại nhọt bọ hung. Bọ hung thấy phân trâu, không chui ra sao được?
Từ đó, tiếng tăm thầy lang nổi như cồn. Thầy trọ ở nhà Thượng Quan ba tháng, tháng nào cũng tiền phòng tiền cơm trả sòng phẳng, quan hệ với gia đình Thượng Quan vui vẻ dễ chịu. Bà Lã hỏi ý kiến thầy về vấn đề đẻ con trai. Thầy lang cho kê một đơn thuốc: Trứng gà 10 quả, trộn mật ong, dầu thơm.
Thọ Hỉ nói:
- Thuốc này thì tôi cũng muốn được chữa. Mẹ rất có cảm tình với ông thầy ma giáo này. Mẹ lẻn vào nơi thầy ở, nói hết sự thực về chồng không có khả năng sinh con.
Thầy lang nói:
- Những con sâu răng là tôi để sẵn trong hộp.
Khi biết chắc là mẹ đã mang thai, ông thầy chuyển đi nơi khác. Lúc sắp lên đường, ông biếu bà Lã toàn bộ số tiền kiếm được trong mấy tháng và nhận bà làm mẹ nuôi.
7.
Trong bữa cơm chiều, mẹ lỡ tay đánh vỡ một cái bát. Nghe thấy một tiếng choang trong đầu, mẹ hiểu rằng giờ phút khốn nạn sắp đến rồi!
Từ khi sinh đứa con gái thứ tư, bầu trời nhà Thượng Quan lúc nào cũng mây đen vần vũ, mặt bà nội như lưỡi hái vừa lấy ra khỏi nước tôi, sẵn sàng đâm chém ai đó bất cứ lúc nào.
Hoàn toàn không có chuyện nằm nơi sau khi đẻ. Vừa lau chùi cho đứa bé xong, giữa hai chân vẫn còn máu me đầm đìa, đã nghe thấy tiếng mẹ chồng cùng tiếng kìm thợ rèn gõ cành cạch vào cửa sổ:
- Lên mặt công thần phải không? - Bà Lã chửi té tát - Thối l. đẻ ra một lũ thị mẹt lại còn lên mặt công thần! Định bắt ta bốn mâm tám bát hầu hạ mi chắc? Con gái nhà Vu Bàn Vả thật đẹp mặt! Sao lại có đồ con dâu như mi?! Làm như mi là mẹ chồng không bằng! Kiếp trước làm nghề mổ trâu, nên trời báo ứng đây! Tôi quả thật lú lẫn, có mắt như mù, ma dẫn lối quỉ dưa đường mới cưới loại con dâu ấy cho con mình? - Bà gõ kìm vào cửa sổ, gầm lên - Tao nói mi đấy, còn giả vờ câm diếc không nghe thấy hay sao?
Mẹ trả lời ấp úng:
- Nghe thấy rồi ạ!
- Nghe thấy rồi thì còn dùng dằng ở đó làm gì? - Mẹ chồng nói - Bố chồng và chồng mi đang trục lúa ngoài bãi ấy, đặt chổi xuống thì cầm chàng nạng lên, bận đến nỗi thân xẻ làm tư cũng không hết việc. Còn mi thì cứ như mệnh phụ ấy, chăn bông đệm gấm, không thèm bước chân xuống giường nữa! Mi cứ sinh ra một thằng cu thì ta bê chậu vàng cho mi rửa chân!
Mẹ thay quần, quấn lên đầu chiếc khăn mặt bẩn, nhìn một thoáng đứa con gái còn dính đầy máu mẹ, dùng óng tay áo lau sạch nước mắt, lê đôi chân rã rời gắng chịu những cơn co thắt ở bụng dưới, nhích từng buộc ra sân.
Nắng tháng Năm âm lịch chói chang, mẹ không mở được mắt ra. Mẹ cầm gáo múc một gáo đầy nước lã trong chum, uống ừng ực. Chết đi, mẹ nghĩ thầm, sống là sống tội, hãy tự giày vò cho mình chết là rảnh nợ! Trong sân, mẹ chồng đang véo đùi non Lai Đệ bằng chiếc kìm thợ rèn đen sì. Chiêu Đệ và Lãnh Đệ đứng nhìn bằng cặp mắt khiếp đảm. Chúng nép bên đống cỏ, không dám hé răng kêu một tiếng, chỉ tiếc nỗi không thể chui tụt vào trong đống cỏ cho khuất mắt. Lai Đệ lăn lộn dưới đất gào lên như con lợn bị chọc tiết.
- Mày kêu này! Mày gào này? Bà Lã quát tháo, hai tay cầm kìm, kẹp từng nhát trên người Hai Đệ, chính xác và mạnh của người lâu năm trong nghề rèn.
Mẹ nhào tới ôm chặt cánh tay bà Lã, vừa khóc vừa van xin:
- Mẹ ơi, trẻ nhỏ không biết gì, xin mẹ tha cho cháu muốn kẹp thì hãy kẹp con đây này! Mẹ quì móp trước mặt bà Lã. Bà Lã giận dữ quẳng chiếc kìm xuống đất thần người ra, rồi hai tay đấm ngực gào khóc:
- Trời ơi là trời, tôi tức chết mất thôi!...
Mẹ lần ra đến sân trục lúa thì Thọ Hỉ phóng một chàng nạng vào giữa hai chân mẹ, chửi: - Đồ con lừa, sao bây giờ mới ra? Định để ông chết vì mệt phải không? Mẹ vốn chân đứng chưa vững, bất ngờ bị một chàng nạng, liền ngã phệt xuống sân. Mẹ trông thấy chồng phơi nắng đỏ như tôm luộc, gào lên bằng cái giọng khàn khàn:
- Giả vờ chết hả? Đứng ngay dậy lật rơm đi.
Anh chồng quẳng chiếc chàng nạng bằng gỗ dâu trước mặt mẹ, rồi lảo đảo ra chỗ gốc cây hòe hóng mát. Mẹ trông thấy bố chồng cũng quẳng cái chàng nạng xuống đất, chửi con trai:
- Đ. mẹ mày! Mày không làm, ông cũng không làm nữa, cả sân lúa này là của riêng tao đấy chắc?
Bố chồng cũng đến chỗ bóng râm. Hai bố con đối đáp chan chát, cá mè một lứa, chẳng có vẻ gì là bố còn nữa. Ông con nói:
- Tôi **** làm nữa? Bao nhiêu là lúa mạch mà bữa nào cũng ăn bột thô!
Ông bố nói:
- Mày ăn bột thô thì tao ăn bột mịn hả?
Nghe hai cha con cãi vã mà mẹ thấy trong lòng chua xót. Nhà Thượng Quan năm nay được mùa lúa mạch, sân trục lúa phương viên hai mẫu đất chất đầy lúa mạch. Mùi lúa chín thơm thơm. Đuốc mùa vốn là niềm vui của phụ nữ làm ruộng dù họ đang trong hoàn cảnh đắng như hoàng liên.
Mẹ chống tay khó nhọc đứng lên. Khi cúi nhặt chiếc chàng nạng, mắt mẹ nảy đom đóm, phải tựa vào chàng nạng một lúc mới đứng vững mà vẫn còn cảm thấy trời đất như hai bánh xe khổng lồ quay tít, nghiêng ngả, người mẹ cũng lắc lư theo. Bụng đau quặn, dạ con vừa trút được gánh nặng co bóp dữ dội, mồ hôi lạnh chảy cùng mình, từng dòng âm ấm từ cửa mình chảy ra ướt đẫm hai đùi.
Nắng như luồng lửa màu trắng đốt cháy mặt đất. Thủy phần trong rơm rạ ngùn ngụt bốc hơi. Mẹ cố nhịn đau, dùng chàng nạng trở rơm để chúng khô nhanh hơn. Trên lưỡi cuốc có nước, trên chàng nạng có lửa. Mẹ nhớ tới lời mẹ chồng, bà có bao nhiêu điều không tốt, nhưng vẫn là người phụ nữ đáng kính nhất ở thôn này. Bà làm việc theo lẽ phải, có đảm lượng, trượng nghĩa, tuy trong nhà thì tiết kiệm tới mức keo kiệt, nhưng lại rộng rãi với hàng xóm láng giềng. Bà là bậc cao thủ trong nghề rèn, sản phẩm của bà làm ra được ưa chuộng trong công việc đồng áng. Mẹ cảm thấy, so với bà, mẹ chỉ như con thỏ đứng trước con sư tử, vừa sợ vừa hận vừa kính nể. Mẹ chồng đúng là hai bàn tay vàng! Những cọng rơm vàng óng, kêu sột soạt khi lọt qua kẽ chàng nạng, những hạt lúa mạch rời khỏi bông rơi lả tả. Một con luồm luỗm đầu nhọn râu dài, xòe đôi cánh trong màu phấn hồng bay tới đậu trên tay mẹ. Con côn trùng xinh xắn có cặp mắt kép trong như ngọc thạch này đã bị lưỡi hái xén đứt một nửa bụng. Đứt nửa bụng mà vẫn sống, mà vẫn bay! Cái sinh vật nhỏ nhoi đầy sức sống này khiến mẹ cảm động. Mẹ phẩy tay cho nó bay đi nhưng nó không đi. Mẹ cảm nhận được sức mạnh của chân nó bấu chặt vào da mẹ, bất giác thở dài, nhớ lại cái hôm thụ thai Chiêu Đệ trong túp lều canh dưa của nhà bà cô, gió mát từ phía sông Mực tràn vào trong lều. Trên ruộng đưa, những trái dưa tròn xoay, da xanh sẫm nằm lăn lóc bên cạnh những lá dưa màu xám bạc. Khi ấy Lai Đệ còn đang bú. Từng đàn luồm luỗm cũng giong đôi cánh màu phấn hồng bay rào rào xung quanh lều. Ông chú Vu Bàn Vả quì trước mặt mẹ, hai tay đấm vào đầu một cách đau khổ, nói:
- Dượng bị cô của cháu đánh lừa! Trong lòng dượng không lúc nào thanh thản, dượng không còn là còn người nữa, Toàn Nhi, dao đây, cháu hãy giết dượng đi!
Dượng chỉ vào con dao bổ đưa gác trên tấm liếp, vừa chảy nước mắt vừa nói. Lòng mẹ rối như tơ vò. Mẹ lưỡng lự rồi giơ tay sờ cái đầu nhẵn bóng của chú dượng, nói:
- Chú ơi, cháu không oán chú, chính là họ đã đẩy cháu đến bước ấy!
Đột nhiên, mẹ rít lên, ngoảnh ra nói với những quả dưa tròn xoay - làm như chúng là khán giả vậy:
- Các người nghe thấy rồi chứ Các người cứ cười đi! Chú ơi, đời là thế, cháu muốn làm chính chuyên liệt nữ thì bị đánh, bị mắng, bị trả về nhà mẹ đẻ. Cháu đi xin trộm giống của người khác thì lại trở thành chính nhân quân tử! Chú ơi, con thuyền của cháu sớm muộn cũng chìm, không chìm ở rãnh nước nhà chú Kèo thì cũng chìm trong rãnh nước của nhà chú Cột, chú ơi? - Mẹ cười nhạt Chẳng phải đã có câu miếng ngon chẳng đến người ngoài đấy ư?
Ông chú dượng bàng hoàng đứng lên, còn mẹ thì như một ngươi đàn bà từng trải, tụt luôn quần ra...
Trên sân trục lúa của nhà Phúc Sinh Đường, bốn con la kéo trục đá chạy vòng quanh. Những người làm công đánh roi bôm bốp, giục giã. Bên họ thì như thế, hò reo phấn khỏi, tiếng trục đá lăn rào rạo hòa trộn với tiếng chân lừa dẫm trên rơm rạ, những bông lúa vàng óng lượn sóng dời chân lừa. Còn trên sân phơi nhà Thượng Quan chỉ mỗi mình mẹ bận túi bụi, mồ hôi đầm đìa, lưng áo ướt đẫm. Rơm được nắng khô cong, ném que diêm là bốc cháy không còn một cọng. Đây là lúc tốt nhất để phơi lúa. Bầu trời sáng như lòng lò. Những cây hòe ở rìa sân héo rũ lá. Bố con Thượng Quan há miệng ngồi thở dưới bóng râm. Con chó nhà Triệu thò đầu ra chỗ tường vỡ, thè lưỡi thở hồng hộc. Mẹ cảm thấy khắp người nhơm nhớp mồ hôi, cổ họng khô cháy. Nhức đầu, buồn nôn, mạch máu trên đầu chạy giần giật như muốn vỡ ra. Nửa người dưới nặng chịch như chiếc áo bông rách nhúng vào chum tương. Mẹ cố sức cưỡng lại, trở rơm như điên với quyết tâm chết luôn trên sân phơi. Trên sân một màu vàng rực, những bông lúa như sống dậy, từng đàn từng lũ, chen vai thích cánh, hàng triệu triệu hạt mạch như những con cá vàng, như triệu triệu những con rắn uốn khúc. Mẹ phơi lúa mà trong lòng đau xót quá đỗi. Trời ơi, ông trời hãy mở mắt mà xem con dâu nhà Thượng Quan vừa đẻ xong, người bê bết máu đã phải lết ra sân phơi dưới cái nắng chói chang như lửa. Còn bố chồng và chồng, hai người-lớn-không-phải-đàn-ông, thì ngồi đấu khẩu dưới bóng râm! Hãy mở ba nghìn năm hoàng lịch ra xem, chưa có ai khổ như thân tôi! Mẹ xúc động bởi những suy nghĩ của chính mình, nước mắt lã chã rồi bật lên thành tiếng khóc thảm thiết. Nước mắt rơi xuống rơm bốc ngay thành hơi, năm sắc cầu vồng lung linh thuốc mắt. Trời cao đến nỗi không nhìn thấy nền, bỗng vang lên tiếng lục lạc. Xa giá của Trời đã chuyển động, đàn sáo nổi lên, rồng vàng kéo xe, phượng hoàng bay lượn. Bà Mụ cưỡi kỳ lân, bế hài đồng bụ bẫm. Trong một thoáng, trước khi ngất đi, mẹ trông thấy Bà Mụ ném hài đồng cho mẹ. Hài đồng trắng như cục bột, cái chim xinh xinh, kêu lên một tiếng Mẹ, rồi chui luôn vào bụng mẹ. Mẹ cảm thấy mình phủ phục trên mặt đất. Cảm ơn Bà Mụ, cảm ơn!
Khi tỉnh dậy, mẹ thấy mình nằm trong bóng râm của bức tường đổ, đất cát bê bết trên người y hệt con chó đang thoi thóp, nhặng xanh bu đầy đặc. Con la đen đứng im trên sân phơi, mẹ chồng đang vung roi quật bố con Thượng Quan lười nhác. Cặp bố con quí hóa này ôm đầu kêu ăng ăng như chó bị đánh, nháo nhác chạy quanh để tránh đòn.
- Đừng đánh nữa, đừng đánh nữa! - Bố chồng ôm đầu khẩn khoản - Bà nó ơi, bố con tôi xin làm ngay bây giờ!
- Còn mày nữa, đồ vô lại! - Bà Lã vụt Thọ Hỉ một roi - Tao biết mày là thằng đầu têu mỗi khi bố con mày trốn việc?
Thọ Hỉ vươn cái cổ cò ra, van xin:
- Mẹ ơi, mẹ yêu quí, đừng đánh con nữa, con mà chết thì lấy ai phụng dưỡng và làm ma cho mẹ?
Bà Lã xót xa:
- Mong gì mày phụng dưỡng, làm ma cho tao! Xì, chỉ sợ khi người ta nhặt xương tao làm củi đun vẫn không tìm được người tống táng?
Hai bố con lóng ngóng mắc lừa vào trục, một người cầm trang, một người cầm chàng nạng, bắt đầu trở rơm, trang lúa.
Bà Lã tay cầm roi đi tới chỗ bức tường đổ, giọng ai oán:
- Về nhà đi, cô con dâu quí hóa của tôi, còn nằm đây làm gì? Ăn vạ tôi đấy phỏng? Để người ta cho tôi là mụ mẹ chồng cay nghiệt phỏng? Coi con dâu không phải là người phỏng? Sao vẫn chưa về? Đợi kiệu bát cống đến dón mới về chắc? Hừ, thời buổi này con dâu to hơn mẹ chồng? Mong cho cô đẻ thằng con trai để sau này nếm mùi làm mẹ chồng, xem nó như thế nào!
Mẹ vịn thẳng đứng lên.
Mẹ chồng hạ nón trên đầu đội cho mẹ, nói:
- Về đi! Qua vườn rau hái mấy quả đưa chuột, bữa chiều rán mấy quả trứng cho bố con nó ăn. Chưa mệt thì gánh mấy gánh nước tưới cho chỗ rau cải cúc. Thế này mà cũng gọi là sống? Nói cho cùng, tôi cũng vì các người cả thôi?
Mẹ chồng vừa lảm nhảm một mình vừa quay trở lại sân phơi.
Đêm hôm ấy sấm chớp ầm ầm. Một sân đầy lúa là một năm mồ hôi nước mắt! Mẹ cắn răng chịu đau, lết ra sân phơi chạy mưa cùng với mọi người. Mẹ ướt như chuột lột, lạnh cóng. Nửa đêm trở về giường, mẹ cảm thấy đã xuống đến cửa Diêm vương, quỉ đầu trâu rung xích sắt loảng xoảng, xích cổ mẹ lại!...
Mẹ cúi nhặt viên gạch vỡ với một quyết tâm hẳn hoi, liền nghe thấy mẹ chồng xì một cái như tiếng xì của con trâu khi ló mũi lên mặt nước. Một cú đánh trúng đầu rất mạnh, mẹ gục xuống. Mẹ chồng quẳng chiếc chày giã tỏi bằng đá, nói như liên thanh: Đập đi, đập đi, đập nát cả đi, không ai còn muốn sống cho nghiêm chỉnh nữa?. Mẹ vật vã rồi nhổm dậy, bà Lã đập mẹ một chày vào sau ót. Dòng máu âm ấm chảy xuống gáy. Mẹ vừa khóc vừa nói:
- Mẹ, con có định thế đâu!...
Mẹ chồng nói:
- Mi còn cãi?
Mẹ nói:
- Con đâu dám cãi?
Mẹ chồng liếc xéo con trai, nói:
- Thôi, ta không trị nổi mi! Thọ Hỉ, thằng bị thịt kia, mày rước vợ mày lên bàn thờ mà thờ!
Thọ Hỉ hiểu ý mẹ. Anh ta nhặt cây gậy ở xó tường nhằm ngang lưng vợ vụt một gậy. Mẹ ngã lăn quay. Tiếp đó, cây gậy giơ lên hạ xuống nhịp nhàng, mẹ lăn lộn dưới đất. Bà Lã đưa mắt khích lệ con trai. Ông Phúc Lộc thì khuyên:
- Thọ Hỉ, đừng đánh nữa, nó mà chết thì ra tòa!
Bà Lã nói:
- Phận đàn bà là phận hèn, không đánh không được! Phải đánh thì nó mới biết điều!
Ông Phúc Lộc nói:
- Vậy mà bà cứ đánh tôi miết!
Đánh đã mệt, Thọ Hỉ quẳng gậy đi, tới chỗ cây lê thở hổn hển.
Lưng và mông mẹ dính nhơm nhớp. Mẹ chồng bịt mũi chửi:
- Đúng là đồ cặn bã, mới có mấy gậy mà đã vãi cứt ra!
Mẹ chống tay nhổm dậy, kiêu hãnh ngẩng đầu lên, lần đầu tiên chửi lại:
- Thọ Hỉ, mày đánh chết tao đi! Không đánh chết được tao, mày chỉ là đồ chó!
Nói đoạn, mẹ ngất đi. Nửa đêm, mẹ tỉnh lại nhìn thấy trời đầy sao, bên dòng sông Ngân vắt ngang chân trời, ngôi sao chổi kéo chiếc đuôi dài thượt, báo trước cho mọi người những năm tháng loạn lạc. Đó là ngôi sao chổi xuất hiện năm 1924. Xúm xít xung quanh mẹ là ba sinh vật bé bỏng, đó là Lai Đệ, Chiêu Đệ Và Lãnh Đệ của mẹ, còn Tưởng Đệ thì đang khóc khản cả tiếng trong giường. Những còn giòi màu trắng bò lúc nhúc ở hốc mặt và trong lỗ tai, do lũ nhặng xanh đẻ trứng lúc ban ngày.
8.
Vì căm thù đến tận xương tủy nhà Thượng Quan, mẹ hiến thân ba ngày liền cho lão Béo độc thân, làm nghề bán thịt chó ở thôn Sa Khẩu. Lão Béo mắt như mắt trâu, đôi môi dày, bất kể xuân hạ thu đông, lúc nào cũng khoác trên người chiếc áo bông dính mỡ chó dày cộp như áo giáp. Chó dữ đến mấy trông thấy lão cũng không dám dàn mặt, đứng xa một khoảng nhất định mà sủa. Mẹ nhân dịp đi đào cây thuốc ở bờ bắc sông Thuồng Luồng, tìm đến với lão. Lão đang luộc thịt chó thì mẹ bước thẳng vào trong nhà. Lão nói cộc lốc:
- Đã chín đâu mà mua!
Mẹ nói:
- Ông Béo, tôi đem thịt đến cho ông đây! Năm xưa đi xem hát ở xã, ông đã sờ soạng tôi trong bóng tối, ông còn nhớ không?
Lão Béo đỏ mặt. Mẹ nói:
- Hôm nay tôi tự đến cho ông ăn thịt!
Sau khi thụ thai, mẹ đến thắp hương, khấn vái, cầu nguyên ở miếu Bà Cô, cúng vào miếu mấy đồng tiền vốn khi lấy chồng. Nhưng năm sau vẫn đẻ còn gái, đó chính là chị Phán Đệ.
Niệm Đệ là con gái thứ sáu của mẹ. Bố đẻ của chị là lão Béo hay nhà sư tuấn tú ở chùa Thiên Tề, thì ngay bản thân mẹ sau này mới biết chính xác. Đó là lúc Niệm Đệ lên bảy, tám tuổi, khuôn mặt trái xoan, mũi thẳng, lông mày dài, mới biết chính xác bố đẻ của chị là ai.
Mùa xuân năm ấy, bà Lã bị một thứ bệnh kỳ quặc, khắp người, từ cổ trở xuống mọc đầy vẩy màu xám bạc, ngứa ngáy không chịu nổi. Để ngăn ngừa bà tự cào chết mình, bố con nhà Thượng Quan đành phải trói quặt hai tay bà ra phía sau. Người đàn bà gang thép này bị chúng bệnh hành hạ ngày đêm gào khóc. Trên tường, trên vỏ cây lê đều dính đầy máu mủ
- Bà ra gãi ngứa ở đấy.
- Ngứa quá, ngứa chết mất! Bà Lã kêu khóc - Trời hại tôi rồi, cứu tôi mấy!
Bố con Thượng Quan đểu là loại chẳng làm nên trò trống gì, việc mời thầy thuốc đến chữa cho bà Lã lại rơi lên đầu mẹ. Mẹ cưỡi la đi khắp vùng đông bắc Cao Mật, mời hơn chục thầy, đông y có, tây y có. Họ khám cho bà Lã, người thì để lại đơn thuốc rồi đi, có người đơn cũng không, quay đầu dông thẳng. Mẹ lại mời bà đồng, thầy cúng, tìm tiên đan, nước thánh, đủ mọi phép mà bệnh của bà Lã không thuyên giảm, trái lại, ngày càng nặng thêm.
Một hôm, bà Lã gọi mẹ đến bên giường, nói:
- Mẹ đĩ Thọ Hỉ này, không ơn không kết thành cha con, không thù không kết thành nàng dâu mẹ chồng, sau khi mẹ chết, con hãy chèo chống cho cái gia đình này. Bố con nhà nó suốt đời chỉ là những con lừa không trưởng thành. Mẹ nói:
- Mẹ ơi, mẹ đừng nói gở, con vừa nghe bác ba Phàn nói là hòa thượng Trí Thông ở chùa Thiên Tề trấn Mã Điếm chữa bệnh rất giỏi, để con đi mời?
Mẹ chồng nói:
- Đừng phí tiền, mẹ biết bệnh của mẹ. Hồi mẹ mới về làm dâu đã dội nước sôi chết một con mèo. Nó ăn vụng gà con, mẹ giận quá định cho nó một bài học, không ngờ nó chết, đây là nó trả thù mẹ!
Mẹ cưỡi la vượt ba mươi dặm đến chùa Thiên Tề gặp hòa thượng Trí Thông.
Hòa thượng trắng trẻo tao nhã, mi thanh mục tú, khắp người tỏa ra mùi thơm của gỗ đàn hương. Ông vừa nghe mẹ trình bày, vừa lần tràng hạt. Mẹ nói xong, ông bảo:
- Thưa thí chủ, bần tăng chữa bệnh tại chùa, xưa nay không đi chữa ngoài bao giờ, thí chủ về đưa bà mẹ chồng đến đây? Mẹ đành quay trở về, đặt bà Lã lên xe ba gác, kéo đến chùa Thiên Tề. Hòa thượng Trí Thông kê cho bà Lã hai đơn thuốc, một sắc uống, một để tắm. Lại dặn:
- Nếu bệnh không chuyển thì đừng đến nữa. Nếu thấy công hiệu thì đến thay đơn khác!
Mẹ ra hiệu bốc thuốc, tự tay sắc và cho bà Lã uống. Ba lần uống, hai lần tắm rửa, quả nhiên khỏi hẳn ngứa. Mẹ chồng mừng quá, mở hòm lấy tiền để mẹ đi tạ thầy và thay đơn thuốc.
Khi ông thầy thay đơn, mẹ nhân tiện nhờ thầy chạy chữa sao cho đẻ con trai. Người nói đi, kẻ hỏi lại, càng nói càng sâu. Hòa thượng vốn đa tình, mẹ lại rất mong có con trai, và thế là hai người kết thân với nhau. Lão Béo thôn Sa Tử đã được nếm mùi trên cơ thể mẹ, theo dõi mẹ chặt chẽ.
Một hôm, trời gần tối, mặt trời đã khuất núi, mặt trăng tròn vạnh vừa ló lên, mẹ cưỡi la từ chùa Thiên Tề trở về qua ruộng cao lương bờ nam sông Mục thì lão Béo nhảy ra chặn đầu con la.
- Lỗ Toàn Nhi, sao cô bạc tình thế! - Lão Béo nói.
Mẹ nói: - Anh Béo này, tôi thấy anh đáng thương nên nhắm mắt khuất thân với anh mấy lần, anh đừng có được đằng chân lân đằng đầu!
Lão Béo nói: - Không được có mới nới cũ!
Mẹ nói:
- Đừng nói bậy!
Lão Béo nói:
- Cô không giấu nổi tôi đâu. Tử tế thì thôi, không tử tế thì tôi sẽ đi rêu rao khắp vùng đông bắc Cao Mật, rằng cô mượn cớ chữa bệnh cho mẹ chồng để tằng tịu với thầy tiểu chùa Thiên Tề!
Mẹ bị lão Béo bế xốc vào trong ruộng cao lương. Mẹ chồng khỏi bệnh, nhưng tiếng đồn về quan hệ giữa mẹ với hòa thượng Trí Thông đã đến tai bà.
Niệm Đệ vừa lọt lòng oe oe khóc, mẹ chồng thấy vẫn là con gái, liền chẳng nói chẳng rằng túm lấy hai chân định đem dìm chết trong chum nước.
Mẹ nhào xuống đất ôm chặt hai chân mẹ chồng, van xin:
- Mẹ ơi mẹ, xin mẹ mở lượng từ bi, thương con hầu hạ mẹ nửa năm nay mà tha cho cháu bé!
Mẹ chồng tay vẫn xách chân đứa bé, dằn giọng hỏi:
- Mi hãy nói thật, chuyện nhà sư có thật không?
Mẹ do dự.
Mẹ chồng nói:
- Nói! Có phải con hoang không?
Mẹ lắc đầu, dứt khoát không nhận.
Mẹ chồng thả con bé xuống giường.
9.
Mùa thu năm 1935, trong khi cắt cỏ ở bờ bắc sông Thuồng Luồng, mẹ bị bốn tên lính thất trận luân phiên hãm hiếp.
Đứng trước dòng nước trong xanh, mẹ nảy ra ý định nhảy xuống sông tự vẫn. Nhưng khi vén áo chuẩn bị nhảy, mẹ bỗng trông thấy bầu trời xanh biếc của vùng đông bắc Cao Mật in bóng dưới lòng sông. Mấy cụm mây trắng như bông bay ngang trời, những con chim sơn ca cất tiếng hót véo von dưới cụm mây trắng. Những con cá nhỏ, trong suốt bơi trong bóng mây in dưới lòng sông. Hình như chẳng có chuyện gì xảy ra, trời vẫn trong xanh, mây vẫn nhởn nhơ, lười nhác và trắng muốt như thế. Chim chóc không vì có điều hâu mà ngừng ca hát, những con cá nhỏ không vì có chim bói cá mà ngừng bơi lội. Mẹ cảm thấy một làn gió tươi mát xua tan mọi uất ức trong lòng. Mẹ khoát nước, rửa sạch nước mắt và mồ hôi trên mặt, sửa sang lại quần áo rồi trở về nhà. Đầu mùa hè năm sau, Thượng Quan Lỗ thị sau tám năm không sinh nở, lại sinh đứa con gái thứ bảy: Cầu Đệ.
Vốn dĩ gửi gắm biết bao hy vọng vào lần có thai này, nên bà Lã tuyệt vọng đến cục điểm. Bà loạng choạng đi vào phòng riêng, mở hòm lấy bình rượu quí cất giữ đã lâu, ngửa cổ uống ứng ục và mượn hơi men, bà khóc hu hu. Thượng Quan Lỗ Thị cũng rất ngán ngẩm nhìn khuôn mặt bé tí của đứa con sơ sinh, than thấm:
- Trời ơi, sao mà ông keo kiệt đến như vậy, ông chỉ cho thêm một tí đất sét là cho con được một thằng cu!...
Thọ Hỉ xông vào trong buồng lật tã lên xem rồi ngã ngửa. Công việc đầu tiên sau khi hết bàng hoàng là vớ lấy cái chày đập giặt quần áo, nhắm thẳng đầu vợ phang một chày. Người đàn-ông-không-bao-giờ-lớn này giận đến phát điên, anh ta dùng kìm kẹp lấy một miếng sắt trong lò ấn vào giữa hai chân của vợ.
Làn khói màu vàng bay lên, mùi lông và thịt cháy khét lẹt tỏa khắp phòng. Mẹ rú lên thê thảm, lăn từ trên giường xuống đất, người cong như cánh cung, co giật từng cơn.
Ông Vu Bàn Vả nghe tin liền vác khẩu súng săn đến nhà Thượng Quan. Bước vào cổng, ông chẳng nói chẳng rằng, giương súng nhằm bộ ngực đồ sộ của bà Lã, lẩy cò. Cũng là số bà Lã chưa đến lúc hết, súng không nổ. Trong lúc ông Vu thay kíp nổ khác, bà Lã chạy vụt vào buồng chốt cửa lại. Cơn giận vẫn chưa nguôi, ông Vu nhằm cánh cửa nã một phát. Hàng trăm viên đạn ghém phá tung cánh cửa một lỗ bằng miệng bát. Trong buồng, bà Lã rú lên một tiếng kinh hoàng.
Vu Bàn Vả dùng báng súng động cửa. Ông vẫn không nói nửa câu, chỉ thở nặng nhọc. Thân hình cao to lừng lũng của ông lắc lư như một con gấu. Đám con gái nhà Thượng Quan trốn hết vào trong chái đông, hốt hoảng nhìn ra sân.
Cha con nhà Thượng Quan, một ngươi cầm chùy sắt, một người cầm kìm, nghiêng ngó trong sân, tìm cách tiếp cận Vu Bàn Vả. Thọ Hỉ như con chim chích lướt tới chọc một nhát kìm trúng lưng ông Vu. Ông Vu quay lại gầm lên một tiếng. Thọ Hỉ vứt kìm định bỏ chạy nhưng chân đã nhũn ra, anh ta vội cười nịnh mong thoát hiểm.
- Ông thì giết cái đồ giòi bọ này - Ông Vu chửi, giơ báng súng tống Thọ Hỉ ngã lăn ra.
Ông dùng sức quá mạnh, báng súng gãy đôi. Ông Phúc Lộc vung chùy xông tới nhưng đánh hụt, mất đà loạng choạng suýt ngã. Ông Vu chặt một nhát cạnh bàn tai vào vai, Phúc Lộc ngã lăn ra cùng với con trai.
Vu Bàn Vả dùng cả hai chân luân phiên đá cha con nhà Thượng Quan. Để đá cho mạnh hơn, người ông liên tục rướn lên. Chị em nhà Thượng Quan nhìn ông dượng mà có cảm tưởng đang xem diễn trò. Cha con Thượng Quan co quắp dưới đất, lăn như quả bóng. Lúc đầu, cha con thi nhau gào thật to, nhưng chỉ lát sau đã câm bặt. Thọ Hỉ như con cóc bị đánh gãy lưng, chổng mông lên mà bò, ông Vu bồi cho một đá, anh ta lại ngã lăn ra. Ông Vu vớ lấy cặp chùy sắt nặng chịch của nhà Thượng Quan nhằm đầu Thọ Hỉ, miệng chửi:
- Đồ chó chết, ông đập nát đầu mày như quả đưa!
Giữa lúc nguy cấp, mẹ đẩy cửa loạng choạng bước ra. Mẹ nói:
- Chú ơi, việc nhà cháu xin chú đừng nhúng vào!
Ông Vu quẳng đôi chùy, đau xót nhìn Lỗ Toàn Nhi gầy như que củi, buồn bã:
- Cháu ơi, cháu khổ quá!
Mẹ nói:
- Cháu ra khỏi nhà họ Vu là người của nhà Thượng Quan rồi, sống hay chết, chú dùng can thiệp vào!
Trận đại náo của Vu Bàn Vả khiến uy thế của nhà Thượng Quan giảm sút. Bà Lã biết mình đuối lý, thái độ đối với con dâu khá hơn. Thọ Hỉ sống sót, trong lòng thầm cảm ơn vợ, hành vi ngược đãi cũng bớt. Chỗ bỏng bị nhiễm trùng, sưng tấy lên, đầy mủ, mùi hôi thối nồng nặc. Mẹ cảm thấy không còn sống được bao lâu nữa, bèn dọn đến ở chái tây. Một buổi sáng tinh mơ, tiếng chuông nhà thờ đánh thức mẹ dậy trong giấc ngủ chập chờn. Chuông nhà thờ ngày nào cũng đánh, nhưng hôm nay sao mà thân thiết đến thế. Tiếng chuông vang vang, âm thanh đẹp đẽ của đồng thau đã làm rung chuyển linh hồn mẹ. Trong lòng mẹ gợn lên từng vòng sóng nhỏ. Sao ta chưa bao giờ nghe thấy âm thanh này nhỉ? Có cái gì đã bịt kín tai mình? Mẹ suy nghĩ rất lung, những nỗi đau trong người dần quên sạch. Mãi khi mấy con chuột bò ra gặm chân mẹ, mẹ mới thoát ra khỏi mớ bòng bong của những suy tưởng. Con la già mà bà cô cho làm của hồi môn đang nhìn mẹ với ánh mắt thân thiết và thương cảm của người già nó an ủi mẹ, gợi ý cho mẹ, cổ vũ mẹ.
Mẹ chống gậy, lê tấm thân mà phần dưới đã bị thối rữa nhích từng bước như đi trên đường tới thiên đàng, bước vào cổng lớn của nhà thờ.
Hôm ấy là ngày chủ nhật, mục sư Malôa tay cầm quyển Kinh thánh đứng bên bục giảng đầy bụi, đọc cho mười mấy bà già tóc bạc phơ nghe đoạn sau đây trong kinh Phúc âm:
Mẹ Ngươi là bà Maria đã hứa hôn với Giô-dép, chưa làm lễ thành thân thì Maria do cảm ứng thánh linh mà thụ thai trước. Ông Giô-dép là người nhân nghĩa, không muốn làm bà xấu hổ, định lặng lẽ từ hôn. Đang suy tính như vậy thì Sứ giả của Chúa báo mộng cho ông rằng: Hời Giô-dép con cháu của Đa-vít, đừng sợ, cứ cưới vợ ngươi là Maria, vì cái thai trong bụng Maria là cảm ứng từ thánh linh mà có. Maria sẽ sinh con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ dùng thân mình để chuộc tội cho loài người!
Nghe tới dây, nước mắt mẹ đã ướt đẫm vạt áo. Mẹ quẳng gậy quì xuống, ngước nhìn khuôn mặt bất động của chúa Giêsu tạc bằng gỗ táo nứt nẻ trên cây thánh giá nức nở:
- Chúa ơi, con đến muộn quá!...
Các bà già đều nhìn Thượng Quan Lỗ thị bằng ánh mắt ngạc nhiên. Mùi hôi thối trên người mẹ khiến họ nhíu mũi.
Mục sư Malôa đặt quyển Kinh thánh xuống bục giảng, giơ cả hai tay đỡ Lỗ Toàn Nhị. Cặp mắt xanh dịu dàng của ông long lanh nước mắt. Ông nói:
Em gái của tôi, tôi vẫn đọi em!
Đầu mùa hạ năm 1938, trong khu rừng hòe rậm rạp ít ngươi lui tới của thôn Sa Tử, mục sư Malôa kính cẩn quì bên mẹ vừa khỏi hẳn các vết thương, bàn tay đỏ lựng sờ nắn khắp thân thể mẹ, cặp môi đỏ mọng lẩm bẩm điều gì đó đôi mắt xanh biếc cùng màu với da trời nhìn qua kẽ lá. Ông thầm thì, giọng dứt quãng:
- Ôi em tôi... người bạn đời xinh đẹp của tôi, con chim bồ câu của tôi, con người hoàn hảo của tôi... Chân em mịn màng, đẹp như ngọc, tác phẩm vô giá của người thợ tài hoa... Rốn em như một cái ly tròn không một khiếm khuyết... Lưng em như một bó lúa mạch, xung quanh toàn là hoa bách hợp... Đôi vú em như cặp sừng hươu mới nhú, chị em sinh đôi với sừng hươu mẹ. Hai vú em đẹp như quả cọ rủ từng chùm dưới tán cây... Tôi muốn trèo lên cây, muốn vin cành cọ! Mong vú em luôn mọng như chùm nho... mùi thơm từ mũi em như mùi táo... miệng em thơm như rượu nồng... Em thân yêu, sao mà em đẹp vậy! Sao mà đáng yêu vậy. Tôi rất muốn vui vầy cùng em. Cơ thể mẹ như một đám lông thiên nga nhẹ nhàng bay lên trước những lời ca tụng, những cái vuốt ve dịu dàng của mục sư, bay cao, cao nữa lên vòm trời Cao Mật xanh biếc, bay vào trong cặp mắt xanh của mục sư Malôa. Mùi thơm đậm của hoa hòe đỏ và trắng tỏa ra từng đợt như sóng. Khi chùm tinh dịch của mục sư bắn thẳng vào tử cung thì mẹ ứa nước mắt với vẻ cảm kích và biết ơn. Cặp tình nhân thương tích đầy mình này gào lên trong làn hương nghẹt thở của hoa hòe và trong mối giao cảm phức tạp:
I ma mê li! I ma mê li!...
A lê lu xa! A lê lu xa!...
A men! A men!
A... men!