Thiên IV :
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Hồ sơ hôn nhân Hồ Chí Minh
Trong bài “Nguyễn Ái Quốc (NAQ) chết rồi sống lại”, tôi đã nhấn mạnh, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc chết vì bệnh lao phổi; người xuất hiện sau này tuyệt đối không phải NAQ mà chính là Hồ Tập Chương, làm nhiều chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh (HCM) đặt câu hỏi nghi ngờ. Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã tham khảo không chỉ một vài tài liệu mà thực chất đã tiếp cận hàng đống hồ sơ, do đó đã phát hiện ra những điều bất hợp lý thậm chí mâu thuẫn nhau trong cuộc đời nhân vật lịch sử này. Vấn đề quan trọng nhất là cần phải khách quan và trung thực trên cơ sở những chứng cứ khoa học, đồng thời hết sức tránh thái độ cực đoan do thành kiến, nhằm loại trừ những sai lầm để tìm ra sự thật.
Nghiên cứu hồ sơ hôn nhân, tình ái của Hồ Chí Minh chính là để làm sáng tỏ Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, người này không thể là người kia và ngược lại. Hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc cần được phân biệt giữa Breiere, Tăng Tuyết Minh với Nguyễn Thị Minh Khai (NTMK). Hôn nhân tình ái của Hồ Chí Minh cũng phải được phân biệt giữa Lâm Y Lan (LYL), Đỗ Thị Lạc (ĐTL) và Nông Thị Xuân (NTX). Một số cuộc hôn nhân, tình ái này đã được đề cập rải rác trong “Truyện Hồ Chí Minh” của Willam J.Duiker và “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích” của Sophie Quinn – Judge, quyển 2, nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu” (Đại lục) với bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, nguyệt san “Nhân Dân Văn Trích” (Đại lục) có bài “Mối tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Về phía Việt Nam (VN) có tác phẩm “Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, “Việt duệ Hoa nhân Lĩnh Nam di dân” chuyên san có bài “Thê thiếp và tình nhân của Hồ Chí Minh”. Nói chung, các tác phẩm trên đều có những phát hiện và trình bày, phân tích về tình trạng hôn nhân, tình ái của Hồ Chí Minh tương đối đúng sự thực. Tuy nhiên, về phía nhà nước VN, những người lãnh đạo cao cấp đều ra sức phản bác, cũng như lúc sinh thời, Hồ Chí Minh chưa bao giờ thừa nhận mình từng có vợ có con. Họ coi Hồ Chí Minh là thần thánh, biểu tượng tối cao của sự nghiệp cách mạng, nên sẵn sàng nhắm mắt, bịt tai trước sự thật lịch sử. Hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hiện thực khách quan, được bạch hóa tại nhiều hồ sơ lưu trữ, không thể xóa bỏ được vết hằn lịch sử.
Từ sau năm 1933 cho đến lúc qua đời, Hồ Chí Minh không bao giờ thừa nhận các quan hệ hôn nhân, gia đình, nhưng trước năm 1933, tình trạng hôn nhân của NAQ lại được công khai rõ ràng. Nhà nước Cộng sản Việt Nam (CSVN) cường điệu chuyện Hồ Chí Minh vì sự nghiệp độc lập giải phóng dân tộc mà hy sinh tình cảm cá nhân, bởi vì họ không muốn và cũng không dám đối mặt với một sự thật chết người, ấy là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một. Không còn cách nào khác, các nhà lãnh đạo cao cấp, thông qua bộ máy tuyên truyền, đã lợi dụng những chuyện cường điệu, bịa đặt về thứ tình yêu “đồng chí cộng sản” để nấp sau tấm màn nhung, điều khiển vở hài kịch “trộm rồng đổi phượng”, “dời hoa tiếp cây”…
Chuyện hoang đường về đạo đức thánh nhân
Trong nhận thức của một số người, ấn tượng phổ biến về việc ông HCM không có vợ con là bởi sự nghiệp cách mạng, vì độc lập dân tộc nên dã hy sinh hạnh phúc gia đình. Đại sứ Trung Quốc (TQ) Lý Gia Trung đã viết trên tờ “Thế Giới Tân Văn” ngày 11 tháng 7 năm 2005 như sau: “HCM vì sự nghiệp cách mạng chấp nhận sống độc thân, không xây dựng gia đình, không vợ không con”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, vào những năm năm mươi, các nhà lãnh đạo VN đã từng có ý sắp đặt một nữ tthanh niên ưu tú bên cạnh Bác để giúp đỡ Người trong công tác cũng như sinh hoạt. Thế nhưng, khi người phụ nữ ấy được đưa đến, HCM lại bảo: “Bác ở đây không có việc gì, cháu hãy về cơ quan công tác cho tốt”. Có lần HCM tâm sự với các nhân viên phục vụ về nguyên nhân mình không xây dựng gia đình: “Thời trẻ, Bác bôn ba nước ngoài, đi đến đâu cũng được phụ nữ để ý, chỉ hiềm lúc ấy Bác đang họat động bí mật, sẽ có ngày trở về nước làm cách mạng, một khi thành gia thất thì rất khó bảo vệ được bí mật”. Lý Đại sứ viết tiếp: “HCM vì tự do độc lập của nhân dân mà chấp nhận cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, không màng đến sự sống chết và hạnh phúc cá nhân, cho nên chấp nhận suốt đời sống độc thân”. Việc không có vợ con của HCM có đúng như Lý Gia Trung nhận định là chỉ vì nền độc lập dân tộc hay là còn có lý do khác quan trọng hơn mà họ cố ý giấu nhẹm sự thật, tạo ra chung quanh một vòng hào quang để biến ông thành vị thánh sống?
Căn cứ vào những hồ sơ từ thời thực dân Anh Pháp để lại, mới được giải mật gần đây, thì NAQ và HCM đã có thời kỳ hôn nhân tốt đẹp, đồng thời cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn trong các mối quan hệ. Tuy nhiên, nhà nước cộng sản (CS) Liên Xô (LX), TQ và VN cho đến nay chẳng những không chịu thừa nhận thực trạng hôn nhân của HCM mà còn cố ý làm sai lệch các hồ sơ trên. Họ làm vậy mới mục đích gì? Lần lượt phân tích các hồ sơ qua nội dung đã được bạch hóa, có thể suy đoán, Nga cộng, Trung cộng, Việt cộng, không dám công bố sự thật hôn nhân HCM là bởi họ đã hiểu NAQ và HCM là hai người khác nhau. Một khi các chuyên gia nghiên cứu về HCM công bố trước thế giới sự thật này thì thân phận HCM sẽ trở thành một “song bào án”, hình tượng HCM bỗng chốc sụp đổ, làm gì còn đủ tư cách “cha già dân tộc”!
Những năm ấy Quốc tế cộng sản (QTCS) phải khó khăn lắm mới tạo ra được vở kịch “mượn xác hoàn hồn” với kế hoạch cài cắm một phái viên của QTCS vào VN nhằm thực hiện mục đích “nhuộm đỏ” khu vực Đông Nam Á (ĐNA), nay có nguy cơ bị vạch trần nên tất yếu họ tìm mọi cách bưng bít.
Vào những năm dầu thế kỷ XXI (năm 2000), sự thực về hôn nhân, tình ái của HCM còn được Sophie Quinn- Judge trong “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích”, quyển I, ở phần mở đầu, giới thiệu tóm tắt đã viết: “HCM không phải là hòa thượng độc thân, qua thẩm xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, ông ta từng có quan hệ chính thức với hai người phụ nữ”. Phần tổng kết, tác giả nhắc lại: “HCM tuyệt đối không phải là một vị thánh của Chủ nghĩa cộng sản (CNCS) chỉ vì ông ta không có cơ hội chung sống cùng phụ nữ mà thôi”. Một tác giả người Việt là nhà nghiên cứu Trần Gia Phụng trong tác phẩm “Ông Hồ có bao nhiêu vợ?”, đã viết: “HCM cũng chỉ là một người bình thường. Ông đã từng trải qua mấy cuộc hôn nhân, có vợ có con, thậm chí có đến mấy bà vợ cùng nhân tình”. Trong xã hội VN năm sáu mươi năm về trước, đây là hiện tượng cực kỳ phổ biến. Chỉ có điều, đã trót suy tôn ông ta là “nhà chính trị kiệt xuất”, “cha già dân tộc”, “biểu tượng của cách mạng VN” nên bắt buộc phải giấu biệt các mối quan hệ hôn nhân, tình ái, vô hình chung Cộng sản Việt Nam (CSVN) đã biến ông Hồ thành kẻ phụ tình, bất nghĩa, thoái thác trách nhiệm làm chồng làm cha, một lẽ thường của đạo nhân luân.
Cầu trả về cầu, đường trả về đường
Qua những sự thực lịch sử về tình trạng hôn nhân của HCM, cẩn thận xem xét, kiểm nghiệm kết hợp với so sánh, đối chứng, ta có thể thấy rõ, NAQ và HCM có những quan hệ hôn nhân, tình ái vào các thời kỳ khác nhau. Nếu đem hai người có tình trạng hôn nhân ở hai thời kỳ khác nhau gộp lại cho một người rồi đồng nhất cùng một thời gian thì chẳng khác gì câu chuyện dân gian “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, làm biến dạng bản chất sự việc. Muốn làm rõ việc này cần phải lấy năm 1932 làm mốc phân ranh giới giữa NAQ và HCM. Trước năm 1932, thuộc hôn nhân, tình ái của NAQ với Breiere, Tăng Tuyết Minh và Nguyễn Thị Minh Khai (NTMK). Từ năm 1933 về sau, thuộc hôn nhân tình ái của HCM với Lâm Y Lan, Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Xuân. Đem NAQ ghép với HCM là không thể. Để loại trừ những kết luận chủ quan, sai lầm, cần phải đối chiếu thời gian, tìm hiểu các mối quan hệ, phân tích dữ liệu một cách cẩn trọng trong đống hồ sơ lưu trữ về HCM để trả lại sự minh bạch cho lịch sử như tục ngữ của người TQ là “cầu trả về cầu, đường trả về đường”. Xin độc giả tham khảo những tư liệu sau đây:
1 – Năm 1921, NAQ ở trọ tại biệt thự Qua Bách Lâm thủ đô Paris nước Pháp, làm quen với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát xác nhận cô này là tình nhân của NAQ.
2 – Năm 1925, tại Quảng Châu, NAQ quen biết một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh, năm 1926 hai người kết hôn. Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự của M. Brodin.
3 – Năm 1930, tại Hương Cảng, NAQ mang theo từ Việt Nam một người đồng hương đồng thời là người yêu của ông ta tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm 1931, NAQ và NTMK cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà khách qua sự chứng kiến của các đồng chí đến từ Tây Cống và Đông Kinh.
4 – Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ 7- QTCS. Thời gian này NAQ bị bệnh đã qua đời, NTMK với tư cách là vợ của NAQ, khi đến Mạc Tư Khoa, ghi trong tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có tên PC. Lin. Hội nghị kết thúc, NTMK ở lại Liên Xô, đến phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD).
5 – Cuối năm 1944, HCM trở lại căn cứ địa cách mạng Bắc Kỳ. Trong số 18 cán bộ nòng cốt theo HCM về VN có một phụ nữ là Đỗ Thị Lạc (ĐTL), mọi người quen gọi “chị Thuận”. Tại Cao Bằng, HCM và ĐTL sống chung với nhau một thời gian.
6 – Năm 1955, một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng, quê Hòa An, Cao Bằng là Nông Thị Xuân (NTX) đượ cử làm y tá bên cạnh HCM. Hai người sống chung với nhau gần một năm thì cô Xuân sinh hạ một bé trai. Đứa bé lúc đầu gửi Hội Phụ nữ rồi Chu Văn Tấn chăm sóc, sau này thư ký riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận làm con, nuôi dưỡng tại nhà mình.
7 – Năm 1965, nhân việc Đào Chú, một yếu nhân của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời là bạn thân của HCM viếng thăm Hà Nội, ông Hồ có nhờ Đào Chú tìm giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Đông là Lâm Y Lan để nối lại tình xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về TQ báo cáo việc này với Tổng lý Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai nước lúc ấy không còn mặn mà như trước vì cuộc “Đại cách mạng văn hóa” nên đề nghị của ông Hồ tạm thời bị xếp lại.
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc với cô Breiere
Breiere và Bourdon
Breiere có phải là người tình đầu tiên của NAQ hay không, việc này xác minh không khó. Qua quá trình thẩm xét, các hồ sơ liên quan đến NAQ đều cho thấy, Breiere đúng là người tình đầu tiên của NAQ. Mối quan hệ tình ái này, cả trong tác phẩm của William Duiker và Nguyễn Thế Anh đều không được đề cập đến, bởi các nhà nghiên cứu quan niệm, chuyện yêu đương thời kỳ đầu của Nguyễn thường là giả tạo, thậm chí còn bị tô vẽ phóng đại với mục đích chính trị.
Người tình đầu tiên của NAQ là một phụ nữ Pháp tên Breiere, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý đã bị lẫn lộn với mối tình của nữ chiến sĩ cách mạng NTMK. Việc làm này rõ ràng có ý đồ tạo ra một giả tượng đồng nhất HCM với NAQ. Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong tác phẩm “Con đường chính trị của Hồ Chí Minh”, khẳng định người tình đầu tiên của NAQ là cô Bourdon, còn William Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 76 lại ghi người tình đầu tiên của NAQ là cô Bourdon Breiere. Có nhiều khả năng, từ tiếng Pháp chuyển dịch sang tiếng Trung, danh xưng này bị phiên âm khác đi. Theo các tài liệu lịch sử để lại, cô Breiere và cô Bourdon đều là người tình của NAQ thời kỳ đầu đến nước Pháp thực chất chỉ là một người. William Duiker dẫn theo tài liệu thời kỳ đầu còn Nguyễn Thế Anh dẫn theo tài liệu ở thời kỳ kết thúc của mối tình này nên mới có sự bất đồng.
Mối tình đầu của Nguyễn Ái Quốc
Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong “Con đường chính trị của HCM” có ghi chép về mối tình đầu của HCM như sau: “Năm 1923, HCM từng bị thất tình với một cô gái người Pháp là Bourdon. Cô này đã trách móc Hồ vì việc Hồ tuyên bố với mọi người cô là vợ mình. Từ một bức thư đề ngày 10 tháng 5 năm 1923, HCM gửi cho Bourdon có thể biết được mối quan hệ tình ái của họ trong thời gian ấy: “Nhận được thư của em làm anh vô cùng sung sướng. Anh cũng gửi đến em lời cảm ơn về những tấm ảnh đẹp. Anh tạm gửi lại em hai tấm, còn giữ lại ba tấm, nếu có thời gian sẽ in tráng. Mong em cho phép anh in tráng hai bộ, một bộ gửi em, một bộ anh giữ để làm kỷ niệm tình đồng chí của chúng ta”. Sau đó hai người còn thư từ qua lại với nhau một thời gian nữa, hẹn sẽ có ngày gặp mặt. Có khả năng, theo lá thư đề ngày 11 tháng 6 năm 1923 gửi cho Bourdon, HCM viết: “Vừa nhận được thư cô, xin cô hãy giữ gìn các tấm ảnh, nhưng không cần thiết phải phóng đại số ảnh ấy. Đọc thư, tôi rất sửng sốt, không sao hiểu được ý tứ của những lời nói ấy. Nếu cô nghĩ rằng tôi làm việc ấy, xin mời cô hãy đến quán ăn, ta sẽ làm rõ sự thật”. (Tác giả nhận định, thời gian ấy, NAQ làm việc tại một hiệu ảnh, còn cô Bourdon có thể làm làm bồi bàn trong một nhà hàng). Trích dẫn từ một lá thư do Cục Bảo An Pháp thu được, hiện bảo tồn tại Trung tâm hồ sơ Pháp quốc hải ngoại (SLOTFOM), hàng thứ 2, hòm số 4, William J. Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”, chương 2, trang 76, viết: “Năm 1921, NAQ quyết định gia nhập đảng Cộng sản Pháp (ĐCSP), việc này đã tạo ra sự căng thẳng với nhóm người cùng ngụ trong biệt thự Qua Bách Lâm. Họ xem Nguyễn là nhân vật cấp tiến và hành động của anh ta có mùi vị súng đạn. Thời kỳ Hội nghị Versailles, NAQ có kể với người đồng hương là Trần Tiến Nam về người bạn gái bất đồng quan điểm với mình vì cô cho rằng anh ta có tư tưởng cực đoan. Cũng cuốn sách trên, trang 593 (chú giải số 49), có ghi: “Căn cứ Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại của Trung tâm viễn chinh quân bảo hộ, tủ thứ 36, ngày 27 tháng 12 năm 1920, Deveze viết như sau: “Người bạn gái là Breiere, cảnh sát tin là nhân tình của Nguyễn Ái Quốc”.
Mối tình đầu giữa NAQ và Breiere là tình yêu chân chính của những người tuổi trẻ. Nó thường bị lợi dụng gắn kết với mối tình giữa NAQ và NTMK, cố ý gây lẫn lộn, làm mối tình đầu thất bại này mang phong vị lãng mạn, tạo ra một hình ảnh HCM thánh nhân, đạo đức “đất nước chưa độc lập thống nhất, HCM không thể xây dựng gia đình riêng”. Theo các đề mục ở phần sau của tác phẩm “HCM vì sao không lấy vợ?” và “Tình yêu vượt qua Hồng Hà” (Truyện Hồ Chí Minh), hai thiên này rất không đúng sự thực, chứng tỏ vòng hào quang chung quanh HCM chỉ là thần thoại giả tạo.
Nghi án ái tình giả tạo
HCM vì sao suốt đời không lấy vợ?, tờ “Nhân Dân Nhật Báo” Trung Quốc, bản hải ngoại (bản số 3, ngày 16 tháng 9 năm 2000), Hồ Văn Sinh viết: “Năm 20 tuổi HCM lên một chiếc tàu thủy đến nước Pháp, bắt đầu tìm thấy chân lý ở chủ nghĩa Marx – Lenine. Trên đường đi, ông làm quen với một cô gái xinh đẹp người Viêt, dáng mảnh mai, tính tình nhu thuận. Họ nhanh chóng có tình cảm với nhau. Khi HCM tham gia “Phong trào vận động giải phóng dân tộc Việt Nam” thì người bạn gái yêu thương bị kẻ thù giết hại một cách thảm khốc. Một hôm, ông đến gặp các nhà lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (VNTNCMĐCH) trịnh trọng tuyên bố: “Một khi VN chưa giải phóng, đất nước chưa thống nhất thì đời này, kiếp này tôi nhất định không thành gia thất”. Từ Đại lục, “Phúc Kiến Kiều Báo” có đăng tải bài “Tình yêu vượt qua Hồng Hà, chuyện tình Hồ Chí Minh” với nội dung như sau: “Năm 20 tuổi, HCM rời quê hương Nghệ An ra đi trên một chiếc tàu thủy đến nước Pháp tìm chân lý qua nghĩa Marx- Lenine để giải phóng dân tộc. Hai tháng lênh đênh trên biển, ông làm quen với một cô gái con nhà gia thế, dáng vóc xinh đẹp, tính tình nhu thuận. Ông Hồ là một thanh niên cao thượng, phong cách tao nhã, làm việc cần mẫn không nghỉ, quyết chí hiến thân cho lý tưởng quốc gia độc lập, dân tộc giải phóng, làm người thiếu nữ vô cùng cảm động và ái mộ. Năm 1923, HCM đi Liên Xô học tập. Một thời gian sau người yêu của ông cũng được cử qua đường Liên Xô về nước truyền bá ngọn lửa cách mạng. Cặp tình nhân níu áo, rơi lệ từ biệt nhau. Sau đó, HCM từ Liên Xô trở về Quảng Châu TQ vận động thành lập VNTNCMĐCH và “Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Á Đông Bị Áp Bức” (HLHCDTAĐBAB). Đúng vào lúc HCM toàn tâm toàn ý hoạt động cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt thì một tin dữ truyền đến, người yêu của ông bị kẻ thù sát hại một cách thảm khốc. HCM đau đớn tưởng như không thể sống được nữa. Một ngày, ông đến gặp các cán bộ chủ chốt của VNTNCMĐCH trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam chưa giải phóng, đời này, kiếp này, tôi quyết không thành gia thất”.
(Còn tiếp)
© Thông Luận 2010 – Ngày: 24/12/2010
Thiên IV #2
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
(Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc
Câu chuyện hôn nhân, ái tình của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đến Quảng Châu đổi tên thành Lý Thụy. Vào một ngày cuối năm 1925, Tăng Tuyết Minh (TTM) đến trụ sở “Hội Phụ nữ Vận động Diễn tập” tìm gặp Thái Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lý Thụy ở chỗ rẽ cầu thang. Khi ấy, hai người chẳng để ý gì đến lễ tiết mà cùng đối mặt nhìn nhau. Lý Thụy bị phong thái cao nhã, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn, khi lên gác, không nén được bèn hỏi Thái Sướng: “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây tên là gì và có quan hệ thế nào với Hội Phụ nữ?”. Thấy Lý Thụy dường như đã có tình ý với TTM nên Thái Sướng đã có nhã ý giới thiệu nhân thân cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối cho cuộc nhân duyên này.
Tăng Tuyết Minh sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu, nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà buôn, đã từng kinh doanh ở Đàn Hương Sơn (nước Mỹ), cả nhà theo đạo Cơ Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đình. Từ năm 1912 đến năm 1917, Tăng Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu qua các trường Trấn Quang tiểu học và Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa xuân năm 1923, TTM vào học trường Nữ Hộ Sinh, năm 1925 tốt nghiệp. Sau khi được Hiệu trưởng Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá trợ sản Sở Y vụ La Tú Vân, Quảng Châu. Lúc ấy, TTM vừa tròn hai mươi tuổi. Đương thời, Quảng Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng sáng lập tổ chức “Phụ nữ Vận động Diễn tập”. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, TTM thường đến trụ sở Hội nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động, kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng.
TTM có người anh thứ hai là Tăng Cẩm Tương là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng viên đại học. Tăng giáo thụ mời Lý Thụy đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lý Thụy khiêm nhường, tự tin, thiết thực, nhiệt tình, có viễn kiến, lịch duyệt và biết nhiều ngoại ngữ, ông đã thay mặt gia đình tác thành cho đôi lứa. Ngày 18 tháng 10 năm 1926, hôn lễ được cử hành long trọng tại nhà hàng Thái Bình Dương trước sự chứng kiến của đông đảo quan khách do Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ trì. Cố vấn Nga Xô Mikhail Borodin, trợ thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến chúc mừng.
Cuối năm 1926, Tăng Tuyết Minh mang thai. Lý Thụy khấp khởi mừng thầm vì sắp được hưởng niềm vui làm bố. Có điều, mẹ TTM là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai. Tuy TTM có những mười anh chị em, nhưng trừ anh hai Tăng Cẩm Tương, còn lại đều sống xa gia đình. Cha mất sớm, mẹ tuổi già cô độc, vì chữ hiếu, nàng khó mà trái lời khuyên của mẹ nên đã gặp Lý Thụy nói sự thật rồi nuốt nước mắt bỏ đi cốt nhục của mình, để lại mối hận cho đến cuối đời. Từ khi kết hôn đến lúc hai người chia tay chưa đầy một năm.
Tình hình cách mạng Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng giới Thạch gây ra sự kiện Trung Sơn Hạm triệt để phản bội cách mạng, điên cuồng truy sát các đảng viên cộng sản, tạo thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn động dư luận quốc tế. Trước tình hình nghiêm trọng, Lý Thụy nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, theo đoàn cố vấn Nga Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau đó đến Vladivostok để sang Mạc Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.
Năm 1929, Lý Thụy đến Hương Cảng đổi tên thành Tống Văn Sơ, tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của QTCS, thành lập ĐCSVN tại Cửu Long, Hương Cảng. Tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao Victoria. Tống Văn Sơ tìm cách báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc mình bị câu lưu. Được tin, các chị gái TTM nhiệt tình giúp đỡ bằng cách mời luật sư biện hộ để em rể thắng kiện trước tòa. TTM theo các chị đến nơi mới biết Tống Văn Sơ chính là Lý Thụy, chồng mình, vội đến nhà giam thăm nhưng không được gặp đành gạt nước mắt ra về.
Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo, trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói, người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị Trung – Việt, sự việc mới lắng xuống.
Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một thân cô quả, thủ tiết chờ chồng từ năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh, trải qua sóng gió Cách mạng Văn hóa rồi nghỉ hưu, một thân một mình cho đến năm 1991 thì qua đời ở tuổi 86.
Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức thư ngày trước viết cho HCM mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa được cố vấn Mikhail Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại. Vào dịp kỷ niệm ngày sinh 111 năm của Hồ Chí Minh và 96 năm của Tăng Tuyết Minh, tôi, với tư cách là thành viên Sở Nghiên cứu Văn sử thành phố Vũ Hán, Ủy viên Chính hiệp Thành phố, là nhà thư pháp, hiểu rất rõ trách nghiệm và nghĩa vụ của mình khi soạn cuốn sách này. Bởi vì cuốn sách chính là tấm lòng kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng nhớ đến người cô TTM, cho dù tình cảm bị tổn thương vẫn một lòng chung thủy chờ chồng, suốt đời cam chịu sống độc thân, và lãnh tụ HCM, chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, suốt đời sống độc thân, không mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Dù thời gian qua đi nhưng tình cảm của hai người vẫn không thay đổi, một lòng một dạ trung trinh, đời đời ghi vào lịch sử.
Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh
Viết về hôn nhân và tình ái của HCM, có thể điểm đến các tác phẩm“Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng 4200 chữ, do Từ Song Minh (cháu của người chị gái bà Tăng Tuyết Minh viết), Khổng Khả Lập phê bình, chú giải tại Nguyệt san“Vũ Hán Văn sử Tư liệu”, năm 2001, kỳ 1; William J. Duiker, với “Truyện Hồ Chí Minh”gồm hai phần, cả hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, hòm số 367, tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 – 1927).
Phần thứ nhất, chương 4 – “Long đích truyền nhân” (Người nối dòng rồng), trang 143, nội dung như sau: “Mùa xuân, năm 1927, NAQ dừng lại ở Quảng Châu già nửa năm. Ông ta đã trở thành nhân vật trọng yếu được các thành viên trong đảng đoàn kính nể, đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất tốt với nhà cách mạng Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi và các lãnh tụ Quốc Dân Đảng cánh tả (là đảng viên ĐCSTQ) Liêu Trọng Khải v.v. Đến lúc ấy, chẳng những NAQ đã ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà còn muốn tìm một người vợ để học Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia đình. Không lâu sau, một người đồng sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu với NAQ một thiếu nữ là Tăng Tuyết Minh để hai người làm quen. Tuy cô gái là con một gia đình có giáo dục nhưng một số đồng nghiệp vẫn không tán thành. NAQ bất chấp mọi phản đối, quyết định cầu hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một phòng trên tầng 2 biệt thự của Mikhail Borodin. Việc này đã được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.
Thư gửi Tăng Tuyết Minh bị Mật thám Đông Dương chặn được ngày 14.8.1928, hiện tàng trữ tại C.A.O.M. (Aix en Provence). Xuất xứ Daniel Hémery, HO CHI MINH De L’Indochine |
Một phần khác, ghi chép tại chương 6 – “Xích sắc Nghệ Tĩnh” (Màu đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết: “Tình yêu giữa NTMK và NAQ không phải mọi người đều biết, thậm chí cũng chẳng biết có hay không hôn lễ cử hành chính thức”. Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đã rời TQ, vẫn còn chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại. Theo một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với một người quen ở Cục Bảo An: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không hợp với mình, đồng ý kết hôn chỉ vì lý do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi NAQ rời Quảng Châu có gửi cho TTM một bức thư: “Hai ta phân ly gần một năm, cho dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy tình cảm chẳng khác gì ngày trước. Anh viết gửi em mấy dòng này làm vật chứng, xin em chắp tay trước nhạc mẫu chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ hôn nhân của NAQ và TTM chấm dứt, vào năm 1931, ông bắt đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ đồng chí trẻ tuổi người đồng hương là NTMK, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông tổ chức đám cưới cho hai người. Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học lịch sử Quảng Tây, đã dành nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan hệ Trung Việt và HCM. Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng, ông đã viết trên tờ“Đông Nam Á tung hoành”(Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12, tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ Chí Minh đích xác có một người vợ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh.
Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh
NAQ và TTM, năm 1925 bắt đầu có quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy vì sao, người cháu con bà chị là Từ Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười? Qua sử liệu và quá trình nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện này có nhiều vấn đề phức tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đã bị ban lãnh đạo Cộng sản Việt Nam bưng bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công bố. Năm 2000, William J. Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác giả có đề cập đến chi tiết, một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) tố cáo với Cục Bảo An Pháp như sau: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không phù hợp với mình, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đã vu khống tình yêu chân chính (sinh tử luyến) và tấm lòng trung trinh của TTM với NAQ, bôi nhọ nhân cách và danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với W.J. Duiker. Vì thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” do Khổng Khả Lập phê bình, đăng tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”. Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời khẳng định tình cảm của bà cô TTM đối với NAQ trước sau như một không hề thay đổi. Qua bài viết, Từ Song Minh cũng đã làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng luôn tìm cách che giấu sự thật lịch sử này.
Nguyệt san Vũ Hán Văn Sử Tư Liệu |
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc” có đoạn viết: “Ngày 19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn Hối Báo” thấy in ảnh chân dung Hồ Chí Minh cùng điện văn chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Trung ương ĐCSTQ và Chủ tịch Mao Trạch Đông (MTĐ) kèm theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến lúc ấy bà mới biết, hình bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng hiện về trong giấc ngủ hàng đêm chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mọi cố gắng của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minh đều không có kết quả. Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “ Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.
Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám để TTM gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ TTM đau khổ mà không làm gì được.
Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả – một vụ án kép
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” có đoạn: “Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói: “người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng”, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ TQ Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận TTM và HCM đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này nếu xử lý không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị hai nước, nội vụ mới được dẹp yên.
Liệu HCM có biết TTM vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm?
Trong“Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết: “Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau khi về nước, Đào Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Khi ấy Thủ tướng Chu Ân Lai và các vị lãnh đạo cao cấp cũng có mặt, vô cùng kinh ngạc. Về phía mình, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ Chính Trị để biểu quyết về sự kiện đặc biệt này.
Hai bài báo trên đều xuất hiện vào năm 1958.“Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại phóng”, sự kiện hôn nhân của TTM và NAQ bị hiểu sai. Thân phận nhân vật nam chính NAQ bị biến thành HCM theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào án). Bài “Mối tình nồng thắm của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” kể về việc HCM nhờ ĐCSTQ nối lại mối quan hệ hôn nhân với người phụ nữ Quảng Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và tình ái trên đã thể hiện rất rõ sự khác nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và tình yêu cũng không giống nhau. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, Mikhail Borodin, Trung Cộng và QTCS chứng kiến. Tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam biết rõ.
Có thể khẳng định, bất cứ ai, nếu không biết rõ, sẽ không dám tự tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng không thể có gan bịa đặt, hư cấu. Cho nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đã trình bày phải được khẳng định là có cơ sở thực tế.
“Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già” Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh |
Bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần cuối có kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một trong hai tấm có dòng chữ “Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh chụp năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh Lý Thụy, tức NAQ treo trước tủ gương thì hai khuôn mặt rất không giống nhau. Tấm ảnh NAQ chụp năm 1930 có đeo cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo sư William J. Duiker, trong một trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung NAQ và tấm chân dung TTM để trong hộp gương gần như giống nhau hoàn toàn. W.J. Duiker nói rõ về tấm ảnh bên cạnh: “HCM và bạn bè thanh minh, suốt đời ông chưa bao giờ thắt cravate”, nhưng căn cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, HCM bảo mình chưa bao giờ thắt cravate là chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi nhận ra được cái lý trái ngược của sự hoang ngôn ấy. Bởi vì, từ đầu chí cuối William J. Duiker luôn cho rằng NAQ và HCM chỉ là một người nên mới có chuyện nghi ngờ HCM suốt đời chưa từng thắt cravate. Khẳng định NAQ và HCM không phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời thanh minh của ông ta?
Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là HCM chủ trì các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp… đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenine hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng hình thức, thậm chí còn có vẻ quê mùa. Đây là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.
Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc NAQ 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đã chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, NAQ vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh còn lại được lưu trong hồ sơ của ông đã chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết: “Con gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn Judge ‘Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang’. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài hòa khiến mọi người đều phải chú ý vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lãm”. Phía sau tấm ảnh chân dung dường như còn ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện tình thời trai trẻ.
(Còn tiếp)
© Thông Luận 2010 – Ngày: 25/12/2010