F.FUKUYAMA (**)
Thật khó để đọc những dòng này mà không thấy mỉa mai trước sự phản ứng toàn cầu đối với chiến tranh Irắc, sự phản ứng đã thành công trong việc đoàn kết phần lớn thế giới để chống lại Hoa Kỳ. Hiện có những dấu hiệu cảnh báo rằng, đã có sự thay đổi trong mối quan hệ của Hoa Kỳ đối với thế giới từ trước khi chiến tranh Irắc xảy ra. Sự mất cân bằng về mặt kết cấu trong quyền lực toàn cầu đã trở nên rất lớn. Hoa Kỳ vượt trội so với phần còn lại của thế giới trên phương diện sức mạnh với một số dư thừa chưa từng thấy, chi phí quốc phòng của nó tương đương với chi phí của toàn bộ phần còn lại của thế giới cộng lại. Những năm dưới thời Clinton, sự bá chủ về kinh tế của Hoa Kỳ đã tạo nên sự thù địch ghê gớm đối với quá trình toàn cầu hoá do Hoa Kỳ điều hành; dần dần, những đồng minh dân chủ thân cận của Hoa Kỳ cũng nhận ra rằng, nước này đang cố gắng áp đặt mô hình xã hội phản thống kê (antistatist) lên họ.
Còn có những lý do khác để giải thích tại sao thế giới không chấp nhận kẻ bá chủ nhân từ Hoa Kỳ. Trước hết, vấn đề nằm ngay trong thuyết ngoại lệ với tư tưởng cho rằng Hoa Kỳ có thể sử dụng sức mạnh của nó trong trường hợp các nước khác không thể, bởi nó có đạo đức hơn. Học thuyết về quyền ra tay trước nhằm chống lại những nguy cơ khủng bố, được đưa ra trong Chiến lược An ninh Quốc gia năm 2002, là thứ không đủ tin cậy để được phổ biến trong hệ thống quốc tế. Hoa Kỳ sẽ là nước đầu tiên phản đối nếu Nga, Trung Quốc, Ấn Độ hay Pháp tuyên bố một hành động đơn phương tương tự. Hoa Kỳ cứ cố phán xét người khác, trong khi lại không sẵn sàng trả lời chất vấn về tư cách của chính nó ở những nơi như toà án hình sự quốc tế.
Một vấn đề khác của thuyết bá chủ nhân từ là tính bản địa của nó. Có những giới hạn rõ ràng trong sự quan tâm của nhân dân Hoa Kỳ đối với các hoạt động ngoại giao, cũng như việc sẵn sàng đóng góp tài chính cho những dự án hải ngoại không có lợi ích rõ ràng đối với quyền lợi của người dân nước này. Sự kiện ngày 11 tháng 9 đã thay đổi cách tính toán ấy theo hướng khích lệ sự ủng hộ rộng rãi đối với hai cuộc chiến ở Trung Đông và sự gia tăng chi phí quốc phòng. Tuy nhiên, tính ổn định của những ủng hộ đó là không chắc chắn: cho dù hầu hết người dân Hoa Kỳ muốn làm những gì cần để dự án tái thiết Irắc thành công, song hậu quả của cuộc xâm lược đã không làm tăng thêm sự ủng hộ trong công chúng đối với những cuộc can thiệp tốn kém tiếp theo.(…).
Cuối cùng, kẻ bá chủ nhân từ cho rằng, quyền bá chủ không chỉ có thiện ý, mà cần cả thẩm quyền. Nhiều phê phán của người châu Âu và những nước khác về sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Irắc không căn cứ trên chuẩn mực là nước này đã không được sự cho phép của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Họ căn cứ trên niềm tin rằng, trước hết Hoa Kỳ đã không đưa ra được cơ sở thích đáng cho việc xâm lược Irắc và không biết mình đang làm gì khi cố gắng dân chủ hoá Irắc. Đáng tiếc là những người phê phán cũng đã tiên liệu được điều này.
Đánh giá sai lầm căn bản nhất là đề cao quá mức cái nguy cơ đến từ những kẻ Hồi giáo cực đoan mà Hoa Kỳ phải đối mặt. Mặc dù cái khả năng những kẻ khủng bố mới không thể bị ngăn chặn và đáng quan ngại là được trang bị vũ khí huỷ diệt hàng loạt đã hiện diện, song những người ủng hộ chiến tranh đã đánh đồng một cách sai lầm điều này với cái nguy cơ từ phía Irắc, cũng như với vấn đề nhà nước ma quỷ/gia tăng vũ khí hạt nhân nói chung. Đánh giá sai lầm đó một phần dựa trên thất bại nghiêm trọng của các cơ quan tình báo Hoa Kỳ trong việc xác định một cách chính xác trạng thái những chương trình vũ khí huỷ diệt hàng loạt của Irắc trước cuộc chiến. Song, các cơ quan tình báo Hoa Kỳ chưa hề gieo rắc một cái nhìn sợ hãi về nguy cơ khủng bố hay vũ khí huỷ diệt hàng loạt như những người ủng hộ chiến tranh đã làm. Sự đánh giá thái quá về nguy cơ này đã được sử dụng sau đó để biện hộ cho việc nâng tầm cuộc chiến ngăn chặn thành điểm trung tâm của chiến lược an ninh mới, cũng như biện hộ cho hàng loạt biện pháp xâm phạm tự do công dân, từ chính sách giam cầm đến việc nghe lén trong nước.
Giờ đây là lúc mà chủ nghĩa bảo thủ mới phải bị vượt qua, Hoa Kỳ cần phải hoạch định lại chính sách ngoại giao của nó theo nhiều đường hướng cơ bản. Trước hết, cần phi quân sự hoá cái mà chúng ta vẫn đang gọi là chiến tranh toàn cầu chống chủ nghĩa khủng bố và chuyển sang những hình thức chính sách công cụ khác. “Chiến tranh” là một ẩn dụ không đúng về cuộc đấu tranh rộng lớn, bởi vì các cuộc chiến là đánh nhau dữ dội và có khởi đầu, kết cuộc rõ ràng. Việc đương đầu với thách thức của chiến tranh Hồi giáo thật ra là một “cuộc chiến lâu dài, mờ mịt”. Cốt lõi của nó không phải là một chiến dịch quân sự, mà là một trận chiến về mặt chính trị chống lại những con tim và khối óc của những tín đồ Hồi giáo chân chính trên khắp thế giới. Những sự kiện gần đây ở Pháp và Đan Mạch cho thấy châu Âu sẽ là chiến trường trung tâm trong cuộc chiến này.
Hoa Kỳ cần phải đạt được một điều gì đó tốt hơn “những liên minh tự nguyện” nhằm hợp pháp hoá những quan hệ của nó với các nước khác. Thế giới ngày nay đang thiếu những thiết chế quốc tế đủ hiệu lực để có thể đem lại tính hợp pháp cho hành động tập thể; việc thiết lập những tổ chức mới có thể làm cân bằng hơn những đòi hỏi cả về tính hợp pháp, lẫn tính hiệu quả sẽ là nhiệm vụ hàng đầu của thế hệ tiếp theo. Với tính cách kết quả của hơn hai trăm năm tiến hoá về chính trị, chúng ta có được sự hiểu biết khá đúng đắn về việc làm thế nào để tạo dựng những thiết chế có ràng buộc với nhau, có trách nhiệm với nhau và có hiệu lực như trong bệ phóng thẳng đứng mà chúng ta gọi là các nhà nước. Cái mà chúng ta thiếu là những cơ chế tương xứng có hiệu lực, quan hệ chiều ngang giữa các nhà nước.
Những phê phán từ quan điểm bảo thủ đối với Liên hợp quốc đều rất thuyết phục: trong khi hữu dụng cho các hoạt động gìn giữ hoà bình và xây dựng đất nước thì Liên hợp quốc lại thiếu cả tính hợp pháp dân chủ, lẫn tính hiệu quả trong việc giải quyết những vấn đề an ninh nghiêm trọng. Giải pháp không phải là củng cố một cơ quan toàn cầu duy nhất, mà là thúc đẩy vấn đề đang nổi lên ở bất cứ sự kiện nào, một “thế giới đa phương” gồm những thiết chế quốc tế đan chéo lên nhau và đôi khi có cạnh tranh với nhau, được tổ chức dựa trên tuyến vùng hay tuyến chức năng. Côsôvô năm 1999 là một mẫu hình: khi quyền phủ quyết của Nga ngăn không cho Hội đồng Bảo an hành động, thì Hoa Kỳ và các đồng minh NATO chỉ cần chuyển việc xét xử sang NATO; ở đó, Nga không thể gây trở ngại.
Vấn đề cuối cùng cần xem xét lại, cũng là vấn đề sẽ được tranh luận nhiều nhất trong những năm tháng sắp tới, là vị trí của vấn đề thúc đẩy dân chủ trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Di hại tồi tệ nhất có thể gây ra từ chiến tranh Irắc là phản ứng chống lại quan điểm bảo thủ mới, cùng với sự chuyển biến đột ngột sang thái độ biệt lập với một chính sách kiểu hiện thực yếm thế, đánh đồng Hoa Kỳ với những người bạn độc tài. Việc cai trị đúng đắn, bao gồm không chỉ dân chủ, mà cả sự quản lý đối với luật pháp và sự phát triển kinh tế, có tính cốt yếu đối với một loạt những kết quả mà chúng ta muốn có, từ việc giảm bớt nghèo đói đến đối phó với dịch bệnh và kiềm chế những xung đột bạo lực. (…).
Điều đầu tiên chúng ta cần hiểu là, việc thúc đẩy dân chủ và hiện đại hoá ở Trung Đông không phải là một giải pháp cho vấn đề chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo; rất có thể nó sẽ làm cho vấn đề ngắn hạn trở nên tồi tệ hơn, như chúng ta đã thấy trong trường hợp cuộc bầu cử ở Palétxtin đem lại quyền lực cho phong trào Hamas. Đạo Hồi cực đoan là một sản phẩm phụ của chính hiện đại hoá, nẩy sinh từ việc đánh mất bản sắc, cùng với sự chuyển đổi sang một xã hội hiện đại, đa nguyên. (…).
Song, sự tham dự ngày càng nhiều hơn vào chính trị của những nhóm Hồi giáo cực đoan rất có khả năng xẩy ra dù cho chúng ta làm gì đi nữa, và đó sẽ là cách duy nhất mà độc tố của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan có thể xâm nhập vào những thể chế chính trị của các cộng đồng Hồi giáo trên khắp thế giới. Những nhân tố xã hội mới đang phát triển ở khắp nơi, từ Bôlivia và Vênêzuêla đến Nam Phi và vịnh Pécxích. Một nền hoà bình lâu bền với cả Ixraen và Palétxtin không thể được xây dựng dựa trên lực lượng Fatah thối nát, bất hợp pháp, luôn phải lo sợ về uy quyền của nhóm Hamas. Hoà bình có lẽ sẽ xuất hiện, đôi khi ở cuối con đường, từ một nước Palétxtin được điều hành bởi một nhóm khủng bố cực đoan trước đó, đã buộc phải giải quyết những vấn đề thực tế của việc điều hành đất nước.
Nếu thực sự coi trọng chương trình điều hành hợp lý thì chúng ta phải chuyển sự chú ý sang việc cải tổ, tái cơ cấu và đầu tư một cách chính xác cho những thiết chế của chính phủ Hoa Kỳ, cái đó thực sự thúc đẩy dân chủ, sự phát triển và sự kiểm soát luật pháp trên toàn thế giới, chẳng hạn như những tổ chức như Bộ Ngoại giao, Tổ chức vì sự phát triển quốc tế của Hoa Kỳ (U.S.A.I.D), Quỹ hỗ trợ dân chủ quốc gia. (…).Tuy nhiên, bài học bao quát rút ra là Hoa Kỳ không thể quyết định dân chủ sẽ xuất hiện khi nào và ở đâu. Nói một cách chính xác, những kẻ bên ngoài không thể “ấn định” dân chủ vào một đất nước mà nước đó không muốn; đòi hỏi dân chủ và cải tổ phải là nhu cầu nội tại.(…).Hồi tháng 1, bà C.Rice đã có một bài phát biểu nghiêm túc về vấn đề “ngoại giao chuyển hoá”, bắt đầu nỗ lực tổ chức lại phương diện phi quân sự của hoạt động ngoại giao và viết lại những văn kiện chiến lược an ninh quốc gia. Tất cả những điều này đều là những thay đổi đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, những di hại của chính sách ngoại giao trong nhiệm kỳ thứ nhất của chính quyền Bush và những người ủng hộ thuộc phái bảo thủ mới đang bị phân cực tới mức sẽ khó có được một cuộc tranh luận phải chăng về việc làm thế nào để cân bằng một cách thoả đáng giữa lý tưởng với lợi ích của Hoa Kỳ trong những năm tới. Phản ứng chống lại chính sách không hoàn thiện có thể gây tác hại giống như bản thân chính sách ấy và một phản ứng như vậy là sự nuông chiều mà chúng ta không thể chấp nhận được. Tạo ra được một phong trào phê phán thì chúng ta đã tới được chính trị toàn cầu.
Chủ nghĩa bảo thủ mới, bất kể nguồn gốc phức tạp của nó, gắn bó chặt chẽ với những khái niệm như sự thay đổi chế độ mang tính cưỡng bức, chủ nghĩa đơn phương và quyền bá chủ kiểu Hoa Kỳ. Hiện nay, điều cần thiết là những lý tưởng mới, trừ lý tưởng bảo thủ mới hay duy thực, để làm thế nào để Hoa Kỳ liên hệ được với phần còn lại của thế giới - những lý tưởng vẫn hàm chứa niềm tin bảo thủ mới về tính phổ quát của nhân quyền, nhưng không còn những ảo tưởng về hiệu quả của sức mạnh và quyền bá chủ của Hoa Kỳ có thể đem lại những mục đích như vậy./.
Người dịch: KHUẤT DUY DŨNG
Người hiệu đính: TS. HOÀNG THỊ THƠ
After Neoconservatism. Đăng trên New York Times, ngày 16 tháng 2 năm 2006.
Francis Fukuyama giảng dạy tại Trường Nghiên cứu quốc tế cao cấp thuộc Đại học Johns Hopkins. Tiểu luận này trích từ cuốn Nước Mỹ tại thời điểm quyết định của ông, sẽ được Nxb Đại học Yale xuất bản trong tháng 2.
Ám chỉ sự kiện tổ chức này giành thắng lợi trong cuộc bầu cử quốc hội Ai Cập (người dịch).
|