TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
Số tín chỉ:
2
Số giờ lý
thuyết: 24
Số giờ tiểu luận: 12
Chương một
TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Vài nét về hoàn cảnh ra đời sự
phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học
Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và sâu sắc
các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch
sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất
liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và Tiểu
Á.
Sự thuận lợi
về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát triển tất cả
các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì vậy, nơi
đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng, để
thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh
Châu Âu và của cả nhân loại. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô
lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không
có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn
minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Sự hình
thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu
của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân
gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự
nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại
là nơi để con người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí
mà còn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt
của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời
và từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức,
về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ
thống đo lường, lịch pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước
phương Đông. Vì vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người
đã nhiều lần đến phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy, có
thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-đó là kết quả
nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà triết học không
phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình
mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy
tư trong các khái niệm triết học”.
Triết học
Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học
thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học
thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học
thời kỳ Hy Lạp hoá
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là
sự kết tinh những gì tinh tuý nhất của nhận thức nhân loại từ PTSX thứ nhất đến
PTSX thứ hai ở phương Tây vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của
thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người,
mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong
phú, muôn hình muôn vẻ…Ph. Ăngghen nhận xét như sau: “Chính vì trong các hình
thức muôn vẻ của triết học Hi Lạp đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả
các loại thế giới quan sau này”.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hi Lạp đặc biệt
quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt
động của thế giới. Mặc dù vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể,
giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, Triết học Hi Lạp cổ đại
mang tính chất duy vật tự phát và biện
chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất
thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng
biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép
biện chứng.
III. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU
HERACLITTE (khoảng 540 - 475)
Ông được xem là trung tâm trong lịch sử của phép biện chứng Hi Lạp cổ đại.
Lênin coi ông là một trong những người sáng lập ra phép biện chứng. Tư tưởng của
ông có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của phép biện chứng sau này.
1. Về khởi nguyên của vũ trụ
- Lửa là khởi
nguyên của thế giới, lửa tạo ra từng sự vật cụ thể hàng ngày gần gũi cho đến những
hành tinh xa lắc. “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái, không phải do thần
thánh hay do con người tạo ra nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh
cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy và mức độ của những cái đang lụi
tàn”.
- Lửa là cơ
sở làm nên sự thống nhất của thế giới. “Thế giới chỉ là một ngọn lửa đang bập
bùng cháy suốt ngày đêm”. Các hiện tượng tự nhiên như nắng mưa, các mùa,…theo
ông không phải là những hiện tượng thần bí mà chỉ là những trạng thái khác nhau
của lửa. “Cái chết của lửa chỉ là sự ra đời của không khí, cái chết của không
khí chỉ là sự ra đời của nước. Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh
ra từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí”.
- Thế giới
vận động theo trật tự mà ông gọi là logos: logos khách quan và logos chủ quan
quan hệ với nhau như là quan hệ giữa khách thể và nhận thức. Và như vậy thì sự
phù hợp với logos khách quan là tiêu chuẩn để đánh giá tư duy con người. Đây là
một đóng góp có giá trị của Heraclit cho phép biện chứng sau này.
2. Về sự vận động là phổ biến
Quan niệm về
vận động đã được một số nhà triết học trước đó đề cập nhưng phải đến Heraclit
thì mới tồn tại với tư cách là học thuyết về vận động với câu nói nổi tiếng
“không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Quan niệm về
vận động của ông có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập.
Thứ nhất, thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng
và là sự hài hoà giữa các mặt đối lập. Đồng nhất được xem là giới hạn
theo nghĩa cùng tồn tại trong một tương quan để so sánh, nếu thiếu thì không
còn sự so sánh nữa như là không thể quý sức khoẻ khi không biết mặt đối lập của
nó là bệnh tật.
Tính chất của
sự đồng nhất là tương đối. Bản chất của sự vật chỉ có thể được xác định trong mối
liên hệ với các sự vật khác. Nhưng ở những tương quan khác nhau sẽ cho những kết
quả so sánh khác nhau. “Con khỉ đẹp nhất trong loài khỉ cũng không thể so sánh
với con người. Con người sáng suốt nhất so với Thượng đế cũng chỉ là con khỉ
xét về trí tuệ, sắc đẹp”.
Thứ hai, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng trong quá trình biến
đổi đều trải qua các trạng thái đối lập và chuyển thành các mặt đối lập với nó.
Ông viết:
“Cùng một thứ ở trong ta như sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già, vì sau khi
biến đổi cái này trở thành cái kia và ngược lại”.
Thứ ba, Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là sự
đối lập mà còn là sự thống nhất giữa các mặt đối lập, là điều kiện của tồn tại
Trái với
quan điểm đang thịnh hành lúc bấy giờ xem đấu tranh như một hiện tượng hoàn
toàn tiêu cực, như là sự xung đột giữa các lực lượng mù quáng bất động mang
tính chất phá huỷ, Hêraclit khẳng định đấu tranh sẽ tạo ra một trật tự hài hoà
về sự thống nhất.
Theo ông,
cái vốn có ở trong hài hoà là đấu tranh và đó là điều kiện để hài hoà. Ở đâu không
có sự khác biệt thì ở đó không có sự thống nhất. Đấu tranh là nguồn gốc của mọi
cái đang hiện hữu, là khởi nguyên sáng tạo của sự sống và tồn tại. Vì vậy đấu
tranh là phổ biến tất yếu.
Từ quan niệm
về dòng chảy, về vận động là phổ biến, Heraclit đã kháiinh ra một khái niệm triết
học mới đó là Độ. Độ là cái tạo ra sự hài hoà, tính chu ky, tính ổn định, sự biến
đổi của sự vật hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Với cách hiểu như vậy,
độ chính là logos của logos.
Với nội
dung triết học được diễn đạt bằng hình ảnh là điểm mạnh đồng thời cũng là hạn
chế của Heraclit. Hình ảnh so với khái niệm là cùng một lúc có thể thu tóm được
các mặt đối lập, biểu diễn được cái chung và cái riêng, gây được những ấn tượng
trực quan sinh động, những mối liên tưởng so sánh nhưng do tính chất đa nghĩa của
nó, khó có thể diễn tả chính xác bản chất của vấn đề vì vậy thường phải viện dẫn
đến những nghịch lý, châm ngôn, một kiểu làm quen thuộc của văn học chứ không
phải triết học.
3. Về nhận thức luận và nhân bản học
Về mặt nhận
thức. Theo ông, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các giác quan để con
người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò không giống nhau
giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt nhất nhưng mắt
tốt hơn tai”.
Ông chia nhận
thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm
tính chỉ là sự tiếp cận với logos nhưng không chắc chắn. Nhận thức lý tính là
con đường đạt tới chân lý nên ông đề cao.
Về nhân bản học. Con người là sự thống nhất cả hai mặt đối lập ẩm ướt và
lửa. Linh hồn của con người là biểu hiện của lửa. Lửa đưa con người đến điều
thiện, làm cho con người trở nên hoàn hảo, lửa là thôi thúc ở trong tim để ngăn
ngừa những cám dỗ vì chống lại khoái cảm còn khó hơn chống lại sự giận dữ.
Theo ông, hạnh
phúc không phải là sự hưởng lạc về mặt thể xác thoả mãn dục vọng mà ở chỗ phải
biết vượt lên trên mình biết nói, biết suy nghĩ, hành động theo logos.
Tóm lại,
Heraclit được xem là mọt trong những người sáng lập ra phép biện chứng. Giá trị
mà ông để lại chính là những vấn đề mà ông đã đặt ra.
ĐÊMOCRITE (khoảng 460-370)
Chiếm vị
trí nổi bật trong triết học Hi Lạp cổ đại là khuynh hướng nguyên tử luận mà đại
biểu là Lơxip và Đêmocrit. Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời
cổ đại.Ông cho rằng, tất cả mọi vật đều hình thành từ nguyên tử, đó là phần tử
vật chất bé nhỏ, cơ sở của mọi vật và không phân chia được nữa. Học thuyết
nguyên tử của Đêmôcrit là thành quả vĩ đại của tư tưởng duy vật trong thế giới
cổ đại. Những tư tưởng vũ trụ học của ông xây dựng trong lý luận nguyên tử về cấu
tạo vật chất và thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát có một ý nghĩa sâu sắc
đối với lịch sử triết học.
Thừa nhận
vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmocrit cho rằng có vô số thế giới vĩnh viễn
phát sinh, phát triển và tiêu diệt.
Ông phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất,
đó là một phỏng đoán thiên tài. Theo ông, vận động của những nguyên tử là vĩnh
viễn, không có điểm kết thúc.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrits nêu ra khái niệm không
gian. Theo ông, không gian là khoảng chân không
rộng lớn, trong đó những nguyên tử vận động vĩnh viễn. Không gian là những
khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật thể có thể tụ lại hoặc giãn ra.
Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmmocit cho rằng không gian là gián đoạn và
có thể phân chia vô tận.
Đặc điểm nổi
bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcit là quyết định luận (thừa nhận sự ràng buộc
theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm chống lại
mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên không
phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tất
yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị
nhất của triết học duy vật Hi Lạp cổ đại.
Đêmocrit có nhiều
công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt ra và giải quyết một
cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác với tính cách
là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự
nhiên.
Nét đặc sắc
trong triết học duy vật của Đêmôcrit là chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng sở dĩ
con người tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượng khủng
khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những hiện tượng
tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tôn giáo Hi
Lạp đã thần thánh hoá thì ông cho đó chỉ là một khối lửa.
Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là
ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của triết học duy vật.
Đối lập với
chủ nghĩa duy vật Hi Lạp cổ đại là chủ nghĩa duy tâm trong triết học mà đại biểu
lớn nhất là Platôn.
PLATÔN (427-347)
Platôn là
người dầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm
khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay gắt
chống lại chủ nghĩa duy vật đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa
duy vật thời bấy giờ như Hêraclit, Đêmôcrit.
Theo Platôn, giới tự nhiên-thế giới của những vật cảm tính-bắt nguồn từ
những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái
bóng của ý niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý người ta phải từ bỏ mọi
cái hữu hình cảm tính; phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử quan
sát được trong thế giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên
cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.
Nếu ở
Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở Platôn phép biện
chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platôn chống lại đường lối
Đêmôcrit trong triết học Hi Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của
Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các quan hệ toán học. Đạo đức học
của ông được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của
lý luận tôn giáo, là bộ phạn quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp
chủ nô quý tộc.
Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Aten, Platôn coi “chế độ
quý tộc” tức là chế độ nhà nước của tầng lớp thượng lưu là “nhà nước lý tưởng”.
Triết học Platon được nhiều nhà triết học thời trung cổ
và sau đó, nhiều nhà duy tâm thời cận đại lặp lại dưới những hình thức cải
biên…nhằm phục hồi và đẩy cao tính duy
tâm mà Platôn mắc phải làm cho nó trở nên thần bí hơn với khẩu hiệu “trở về với
Platôn”.
Chương hai
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ
1. Điều kiện hình thành và một số đặc điểm của triết
học Tây âu thời trung cổ
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Xã hội Tây Âu thời
trung cổ là khoảng thời kỳ lịch sử ngàn năm (từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIV).
Đây là thời kỳ hình thành và phát triển PTSX phong kiến phương Tây.
Sự hình
thành vô số những điền trang thái ấp phong kiến Tây Âu đã tạo ra một chế độ
phong kiến cát cứ phân quyền. Trong điều kiện đó, tôn giáo nhất thần đã có cơ hội
phát triển với tư cách là công cụ tinh thần thiêng liêng của giai cấp phong kiến
thống trị. Thiên chúa giáo - một dòng tôn giáo giữ truyền thống bảo thủ nhất của
Cơ đốc giáo – đã trở thành một tôn giáo độc tôn của các nước phong kiến Tây Âu.
Sự thống trị của uy quyền phong kiến và thần quyền giáo hội đã cản trở sự phát
triển của khoa học và kỹ thuật. Triết học cũng bị phụ thuộc vào thần học. Bản
chất của CNDV gắn liền với khoa học, thời kì này đã không có điều kiện để phát
triển.
Như vậy, thời
kỳ này không chỉ có phong kiến quý tộc giữ vai trò thống trị mà giới tăng lữ,
giáo hội và nhà thờ đã thiết định được một sức mạnh chưa từng có của thần quyền,
có khả năng chi phối cả quyền lực chính trị. Bởi vậy trong suốt nhiều thế kỷ,
triết học và khoa học đã trở thành nô tì của thần học, tồn tại và hiện thân
trong vai người ca tụng, biện minh cho các tín nhiệm của tôn giáo, phản bác, loại
bỏ các tư tưởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vô thàn tiến bộ. Tình hình
này đã cắt nghĩa sự đồng quyền của giáo hội trong văn học và giáo dục. Các tín
điều của tôn giáo là những nguyên lý của giáo dục, là cơ sở của thế giới quan
và nhân sinh quan.
Từ thế kỷ X đã
diễn ra nhiều cuộc Thập tự chinh với mục đích là xâm chiếm, cướp đoạt của cải của
các nước phong kiến nhỏ ở Phương Đông (vùng vịnh Ả Rập) nhưng lại núp dưới danh
nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà giáo, giải phóng vùng đất thánh… Những cuộc
chiến tranh tôn giáo này đã đem lại những kết quả ngoài mong muốn của những người
khởi xướng ở chỗ là đã tạo nên sự giao lưu văn hoá Đông-Tây tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển tư tưởng, khoa học và kinh tế ở Tây Âu.
Sự phát triển
kinh tế đã dẫn đến đòi hỏi gia tăng sự hiểu biết. Tình trạng mù chữ, thất học,
sống đơn điệu của các lãnh địa không thể tiếp tục duy trì. Vì vậy chỉ trong
vòng hai thế kỷ (XII, XIII) ở Tây Âu hàng loạt các trường đại học đã ra đời.
Tóm lại, từ
lập trường DVBC mà xét thì thời kỳ trung cổ không phải là quá trình đứt đoạn của
lịch sử mà là một thời kỳ “trong nỗi đau đớn đã sinh ra một nền văn minh mới, tạo
cơ sở cho sự ra đời của những bộ tộc hiện đại chuẩn bị cho lịch sử tương lai ở
Châu Âu”.
1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ
trung cổ
Thứ nhất, triết học trung cổ là tiếng đồng
vọng của tôn giáo, là sự biện minh của thần học.
Thứ hai, trục trung tâm của tư tưởng triết
học Trung cổ là mối quan hệ giữa niềm tin và tri thức.
Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT
không diễn ra quyết liệt như thời cổ đại mà ẩn mình trong xung đột giữa chủ
nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh.
Thứ tư, con người – sinh linh bé nhỏ, tội
nghiệp, thụ động, trĩu nặng trong tội tổ tông, ăn năn sám hối trong kiếp làm
người.
1.3. Một số triết gia tiêu biểu
Tômát Đacanh (1225-1274)
Là đại biểu
của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thực trong giai đoạn
hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa nhận là triết
học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa.
Tômát
Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp quyền, đạo đức, chế
độ nhà nước, kinh tế. Với 18 cuốn sách, trong tuyển tập của ông hợp thành bộ
bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng thịnh.
Tômát
Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”, còn đối
tượng của thần học là nghiên cứu “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đế là
khách thể cuối cùng của triết học và thần học, cho nên không có mâu thuẫn giữa
thần học và triết học. Nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí của
người thấp hơn “lý trí của thần”. CNDT của Tômát Đacanh thể hiện một cách công
khai với quan điểm cho rằng, giới tự nhiên do Trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự
phong phú, hoàn thiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thông
minh của Trời. Trật tự đó được Trời quy định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ
các sự vật không có linh hồn, tiến qua con người, tới các thần thánh và cuối
cùng là bản thân Chúa Trời. Mỗi bậc dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên, toàn bộ
hệ thống mong tiến tới Chúa Trời. Con người do Chúa Trời tạo ra theo “hình dáng
của mình” và sắp xếp theo những đẳng cấp khác nhau. Nếu người nào vượt ra khỏi
đẳng cấp của mình là có tội với Chúa Trời. Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý
của Trời”. Quyền lực tối cao bao trùm hết thảy thuộc về giáo hội.
Đứng trên lập
trường duy thực ôn hoà, Tômát Đacanh giải quyết vấn đề bản chất của cái chung.
Ông cho rằng cái chung tồn tại trên ba phương diện:
Thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật
trong trí tuệ của Chúa Trời như là hình mẫu của sự vật riêng lẻ.
Thứ hai, cái chung tồn tại trong các sự vật
riêng lẻ.
Thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường
trừu tượng hoá của trí tuệ con người từ các sự vật riêng lẻ.
Về lý luận
nhận thức, Tômát Đacanh khôi phục về mặt hình thức lý thuyết hình dạng của
Arixtot nhưng loại bỏ cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong học
thuyết của Arixtot. Theo Tômát Đacanh, nhận thức của con người là hình dạng của
sự vật chứ không phải bản thân sự vật. Ông chia hình dạng thành hình dạng cảm
tính và hình dạng lý tính. Trong đó hình dạng cảm tính có vai trò quan trọng, nhờ
đó mà cảm giác trở nên cảm thụ tích cực. Còn hình dạng lý tính cao hơn hình dạng
cảm tính, nhờ đó mà ta biết đươc cái chung chứa đựng trong nhiều sự vật riêng lẻ.
Lý luận nhận thức của Tômát Đacanh là một bước tiến mới trong triết học kinh viện
trung cổ.
Rôgiê Bêcơn (1214 -1294)
Là một triết
gia, một nhà khoa học người Anh, tiến sĩ thần học đại học tổng hợp Paris . Tác phẩm chính là:
- Về sư kéo dài sự sống của con người
- Chỉ dẫn để nghiên cứu thần học
- Chỉ dẫn để nghiên cứu triết học
- Tiểu phẩm ca ngợi toán học
- Về cầu vồng
- Triển vọng
- Về sai lầm của các bác sĩ…
Ông được
xem là người đề xướng vĩ đại nhất khoa học thực nghiệm, ông phê phán mạnh mẽ chủ
nghĩa kinh viện, giáo hội và nhà nước phong kiến. Là một tu sĩ nhưng ông đã phải
sống 14 năm trong các nhà giam của giáo hội.
R.Bêcơn đã
đưa ra một quan niệm mới về đối tượng của triết học có ý nghĩa quan trọng trong việc đấu tranh chống triết học
kinh viện, mở đường cho mối quan hệ giữa triết học và các khoa học bộ phận.
Theo ông, triết học là khoa học chung giải thích mối quan hệ giữa khoa học bộ
phận và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản, và bản thân triết học
được xây dựng trên những thành quả của khoa hoc đó.
Sự phê phán
sâu sắc và thông minh của R.Bêcơn đối với chủ nghĩa kinh viện là đóng góp có
giá trị và tiến bộ trong thời đại của ông. R.Bêcơn nêu ra những nguyên nhân cản
trở chân lý là do:
- Sự sùng
bái trước các uy tín không có căn cứ và không xứng đáng;
- Do thói
quen lâu đời đối với những quan niệm đã có;
- Do tính
vô căn cứ của những phán đoán về số đông;
- Do sự che
dấu những điều ngu dốt của các nhà bác học dưới cái mác của sự thông thái hư ảo.
Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và thực nghiệm; kinh
nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước đo của lý luận. Trong tri thức khoa học
“Không có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt”.
Đối lập với
chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học, R.Bêcơn hướng sự
nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Ông coi khoa học thực nghiệm là chúa
tể của khoa học. Bản thân ông đã có nhiều đóng góp cho khoa học thực nghiệm.
Về xã hội,
R.Bêcơn cũng có những tư tưởng tiến bộ. Ông bênh vực quyền lợi của nhân dân,
lên án sự áp bức bóc lột của phong kiến. Ông chống giáo hoàng và bóc trần những
xấu xa của tầng lớp thầy tu, nhưng ông không chống tôn giáo nói chung.
Tóm lại,
triết học của R.Bêcơn bộc lộ xu hướng duy vật. Ông đã nắm bắt được những biến đổi
xã hội vừa mới xuất hiện và đi trước thời đại của ông trong những mơ ước và ý
tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ông luôn bị nhà nước phong kiến giáo
hội truy nã, cầm tù.
Tuy nhiên,
ông cũng không thể thoát khỏi những hạn chế trong thời đại của mình - thời đại
thống trị của tôn giáo và nhà thờ. Vì vậy, bên cạnh những tư tưởng tiến bộ, ông
tuyên bố: triết học phụ thuộc vào lòng tin, và ông cũng dành thời gian để
nghiên cứu tính chất rõ ràng của tư tưởng xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của của
Thượng đế, và về “lý trí của hoạt động tiên nghiệm”.
Tuy nhiên,
mang những mầm mống duy vật - đấu tranh dai dẳng chống lại trào lưu duy thực –
cùng với một số tư tưởng khoa học tự nhiên tiên tiến, trào lưu duy danh đã góp
phần khai tử chủ nghĩa kinh viện vào thế kỷ XV và chuẩn bị cho sự ra đời của
triết học thời Phục hưng và cận đại.
Chương ba
TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI
I.
Đặc điểm
kinh tế - xã hội, khoa học và văn hoá
Khi bóng đêm của
đêm trường Trung cổ bị những ánh sáng bình minh của nền văn minh công nghiệp
chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước chuyển dữ dội, chuyển sang thời kỳ phục
hưng, thời đại phục sinh những giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy La đã bị lãng
quên trong nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu.
Xét về bản chất
kinh tế, thời kỳ phục hưng là giai đoạn quá độ của PTSX TBCN. Đây là thời kỳ
tích luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng. Người nông dân bị đuổi ra khỏi ruộng đất
của họ, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người lao động ra khỏi tư liệu sản
xuất. Các công trường thủ công dần dần át cách làm ăn kiểu phường hội phong kiến.
Các chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản;
trong khi người nông dân do không còn ruộng đất phải ra thành phố kiếm kế sinh
nhai bằng cách làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của
giai cấp vô sản sau này.
Chế độ phong kiến
với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc của nó đã bước vào giai đoạn lụi
tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ công trào dâng khắp Châu
Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta không chỉ đòi xoá bỏ đặc
quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên con đường phát
triển theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã, thành luỹ
tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởng đến toàn
bộ cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triết học.
Thế giới quan của giai cấp tư sản thể hiện dưới hình thức duy vật và vô thần
này càng rõ nét.
Do đòi hỏi của
thực tiễn sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển và
đây cũng là thời kỳ gặt hái bội thu về các thành tựu khoa học kỹ thuật như sử dụng
năng lượng nước, dệt, khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí, in ấn, hàng hải… Chẳng
hạn với việc sử dụng năng lượng nước đã cho phép thay thế dần sức người và sức
súc vật trong sản xuất.
Chính sự phát
triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho giai
cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ nghĩa duy tâm.
Về mặt văn hoá,
những tư tưởng triết học, những phát kiến khoa học của thời cổ đại được khôi phục
và phát triển. Các nhà tư tưởng tiên tiến của thời đại phục hưng đặc biệt dương
cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con người là đối tượng nghiên cứu của triết học,
những tư tưởng tốt đẹp về con người của Protagore, Xocrate…trở thành tiền đề lý
luận cho ước mơ giải phóng con người. Các giá trị toán học của Talet, hình học
của Euclide, những yếu tố duy vật trong triết học của Epicure,..cũng dược xem
xét và ghi nhận thoả đáng.
Triết học
thời phục hưng có những đặc diểm chính sau đây:
Thứ nhất, triết học thời kỳ này là vũ khí lý
luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội.
Thứ hai, tư tưởng của các nhà triết học phục
hưng có tính hai mặt: vừa có những tiến bộ nhưng còn chứa nhiều yếu tố duy tâm,
luẩn quẩn với hình thức “phiếm thần luận” hay “tự nhiên thần luận”.
Thứ ba, triết học thời kỳ này gắn liền với
vấn đề nâng cao giá trị khát vọng giải
phóng con người.
Thứ tư, triết học thời kỳ này là những tư
tưởng xã hội học thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn.
Khác với thời
phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây Âu là thời kỳ giai
cấp tư sản đã dành được chính quyền, PTSX TBCN được xác lập và trở thành PTSX
thống trị, nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà
trước hết là khoa hoc tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt được trình độ là cơ sở cổ
điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên - thực
nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn tới “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận thức
trong sự trừu tượng, tách rời, không vận động, không phát triển, nếu có đề cập
đến vận động thì là sự vận động máy móc không phát triển.
Chính điều
kiện kinh tế - chính trị và khoa học tự nhiên thời cận đại đã quy định những đặc
trưng về mặt triết học thời kỳ này:
Thứ nhất, đây là thời kỳ thắng lợi của CNDV
đối với CNDT, của những tư tưởng vô thần đối với hữu thần.
Thứ hai, CNDV thời kỳ này mang hình thức của
CNDV siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực
tư duy triết học và khoa học.
Thứ ba, đây là thời kỳ xuất hiện những
quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát
khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử.
MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU
FRANCIS BACON (Franxit-Bâycơn 1561-1626)
Là nhà triết học duy vật kiệt xuất của nước Anh. Mác đánh giá Bacơn là
“ông tổ thực sự của chủ nghĩa duy vật Anh và của khoa học thực nghiệm hiện đại”.
Các tác phẩm
chính:
- Khái lược về đạo đức và chính trị
- Đại phục hồi các khoa học
- Công cụ mới
- Lịch sử sự sống và cái chết
Bacơn thừa
nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Khoa học không biết một cái
gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên. Ông cho rằng con người cần
phải thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó có thực hiện được không
hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người. Bacơn cho rằng tri thức là
sức mạnh, sức mạnh là tri thức. Do đó cần có một khoa học mới lấy giới tự nhiên
làm đối tượng nghiên cứu nhằm biến tự nhiên thành “giang sơn” của con người.
Bacơn phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống, chỉ dựa
vào những lập luận tuỳ tiện không có nội dung và chẳng đem lại lợi ích gì cho
con người. Theo Bacơn, triết học phải giúp con người trở nên mạnh hơn. Nhiệm vụ
của triết học là nhận thức giới tự nhiên và các mối liên hệ phức tạp của nó.
Về nhận thức
luận và phương pháp luận.
Một trong những
vấn đề được quan tâm đặc biệt ở thời cận đại đó là vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận. Bacơn đã dành một vị trí thích
đáng để bàn về những nội dung này
Trước hết để nhận thức đúng bản chất của sự vật thì
phải chỉ ra khả năng và giới hạn nhạn thức của con người. Một trong những ảnh
hưởng đến quá trình nhận thức chân lý, theo Bacơn đó là những sai lầm vốn có
trong tư duy, do sai lầm trong lý tính mang lại.
Những sai lầm
do lý tính tạo ra, Bacơn gọi là những IDOLA (ảo tưởng, ảo ảnh - theo tiếng Hi Lạp
cổ Idola là những hình ảnh bị phản ánh một cách lệch lạc). Bacơn đã gom lại các
sai lầm và chia thành bốn ảo ảnh sau:
ẢO ẢNH LOÀI (IDOLA TRIBUS). Những nhận thức sai lầm do
loài người thường xuyên nhầm lẫn bản chất trí tuệ của mình với bản chất khách
quan của sự vật nên dễ dàng gán cho sự vật những ý tưởng của mình, biến chúng
thành thước đo chân lý, thước đo giá trị của sự vật. Ông cho rằng trí tuệ của
con người cũng tương tự như chiếc gương méo, khi pha trộn bản chất của mình với
bản chất của sự vật thì nó phản ánh các sự vật dưới dạng bị xuyên tạc, bị bóp
méo.
Để loại trừ ảo ảnh này, con người trong nhận thức phải
tôn trọng tính khách quan, không được duy ý chí, chủ quan áp đặt tư tưởng của
mình cho các đối tượng, thận trọng thăm dò, tăng cường quan sát, thực nghiệm,
thường xuyên kiểm tra các tài liệu do cảm tính mang lại, loại bỏ những sai lầm
về mặt logic…
ẢO ẢNH HANG ĐỘNG (IDOLA SPECUS). Thực chất là ảo ảnh loài
nhưng nó được biểu hiện ở mỗi con người cụ thể. Do có những đặc điểm sinh lý
riêng biệt, hoàn cảnh giáo dục, nghề nghiệp khác nhau…làm khúc xạ tầm nhìn, đẻ
ra những phán đoán về mọi cái theo bản thân mình hay theo bè nhóm cảm tính.
Ảo ảnh này được gọi là hang động vì Bacơn xem trí tuệ của
con người méo mó như hang động của Platôn, cái ta cảm nhận được không phải là bản
chất, chỉ là bản sao giống như ảo ảnh tưởng rằng nhốt được mặt trăng vào trong chậu nước.
ẢO ẢNH THỊ TRƯỜNG (IDOLA FORI). Ảo ảnh này xuất hiện do
thường xuyên sử dụng những danh từ trống rỗng để giao tiếp trong cuộc sống hàng
ngày (giống như ở chợ). Đó còn do sự ngộ nhận sử dụng các thuật ngữ khoa học
chưa thật chính xác. Theo ông, nhiều từ ngữ đã trở nên cưỡng bức lý tính, làm đảo
lộn tất cả và cuối cùng, thì chỉ dẫn mọi người đến các cuộc cãi vả để diễn giải
những cái rỗng tuếch. Vì thế phải phải bỏ thói quen dựa vào các quan niệm đang
lưu hành và có thái dộ phê phán đối với các thuật ngữ mơ hồ không chính xác.
Theo Bacơn, điều kiện được gọi là tri thức phải là tính chính xác của khái niệm.
ẢO ẢNH SÂN KHẤU (IDOLA THEATRI). Sai lầm bắt nguồn do
chúng ta quá tin vào người xưa, diễn ra trước mắt người ta như diễn ra trên sân
khấu. Quá khứ chỉ là một thời kỳ ấu trĩ của loài người chứ không phải là một thời
hoàng kim; để đi đến chân lý không nên giáo điều, hoặc rơi vào chủ nghĩa hoài
nghi luận.
Ý nghĩa tích cực của những ảo ảnh là ở chỗ không chỉ chống
lại các suy luận vô căn cứ của thần học, kinh viện mà còn đặt cơ sở xã hội cho
quá trình nhận thức. Đó là tôn trọng khách quan, phê phán và không giáo điều. Một
ý nghĩa không chỉ thuộc về thời Cận đại mà cho tất cả các thời đại. Ý nghĩa đã
trở thành nguyên tắc của nhận thức.
Về phương pháp luận, theo Bacơn cần phải rà soát những
phương pháp trước đây để từ đó kế thừa và triển khai phương pháp mới.
Ông cho rằng từ trước đến nay con người chủ yếu sử dụng
hai phương pháp là phương pháp con nhện và phương pháp con kiến. Cả hai phương
pháp này đều bộc lộ hạn chế, vì vậy ông đề xuất phương pháp con ong. “Con ong
chọn phương thức hành động trung gian, nó khai thác vật liệu từ hoa ngoài vườn
và ruộng đồng nhưng sử dụng và biến đổi nó phù hợp với khả năng và chỉ định của
mình. Công việc đích thực của triết học cũng không khác gì công việc đó”.
Về vai trò của phương pháp, Bacơn cho rằng “người què chạy
đúng hướng sẽ nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường” hoặc “phương pháp giống như ngọn
đèn soi đường cho lữ khách trong đêm đông”.
Ông đề xuất phương pháp quy nạp. Theo ông đó là phương
pháp tối ưu để nhận thức, khám phá những bí mật của đối tượng nhận thức. Bản chất
của phương pháp này là xuất phát từ những sự kiện riêng biệt sau đó tiến dần
lên những nguyên lý phổ biến, khẳng định bản chất của sự vật.
Triết học Bacơn là triết học duy vật không triệt để khi
ông không dám công khai xung đột với tôn giáo. Điều này thể hiện tính thoả hiệp
trong triết học của ông. Mặc dù vậy, triết học duy vật của Bacơn đã có tác dụng
tích cực đối với sự phát triển của khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy
tín của nhà thờ và giáo hội.
RENNE DESCARTES (RƠNÊ ĐÊCACTƠ 1596 - 1650)
Cũng như Bacơn, Đêcáctơ đã chú ý đến nghiên cứu phương
pháp nhận thức khoa học để tạo nên khả năng đi sâu vào nghiên cứu những bí mật
của giới tự nhiên. Ông tin tưởng rằng, với phương pháp mới có thể đạt đươc những
tri thức có ích cho cuộc sống. Triết học của ông có tính chất nhị nguyên. Ông
cho rằng, hai thực thể tinh thần và vật chất tồn tại độc lập với nhau, nhưng cả
hai thực thể này đều phục tùng nguyên thể thứ ba – nguyên thể tối cao là thần
linh. Nhị nguyên luận của Đêcáctơ biểu hiện tính chất thoả hiệp của hệ tư tưởng
tư sản.
Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tôn giáo, Đêcáctơ đưa
lý trí lên vị trí hàng đầu trong lý luận về nhận thức. Gống như Bacơn, ông cho
rằng nhiệm vụ của thí nghiệm không phải là phát minh ra các quy luật của tự
nhiên mà là khẳng định những tri thức, những quy luật mà lý trí phát hiện ra. Nếu
Bacơn cho rằng điều kiện cần thiết đầu tiên để xây dựng một khoa học chân chính
về khoa học tự nhiên là tẩy rửa được mọi ảo tưởng, thì Đêcáctơ thừa nhận rằng sự
nghi ngờ là điểm xuất phát của phương pháp khoa học. Ông nhấn mạnh rằng, dù anh
nghi ngờ mọi cái nhưng không thể nghi ngờ rằng anh nghi ngờ. Đêcáctơ nói: Tôi
tư duy, vậy tôi tồn tại, và ông cho
đó là nguyên lý cơ bản bất di bất dịch. Ý nghĩa tiến bộ của nguyên lý trên là ở
chỗ nó đề cao vai trò của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối những gì mà người
ta mê tín. nHưng nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm, vì Đecáctơ đã
không nhìn thấy rằng không thể đi tìm tiền đề xuất phát của nhận thức ở ngay
trong nhận thức mà phải tìm từ bản thân đời sống thực tiễn xã hội.
Đêcáctơ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa
duy lý của Đêcáctơ ở một mức độ khá lớn có liên hệ với chủ nghĩa duy tâm, vì
ông cho rằng trong lý trí của c người có “những tư tưởng bẩm sinh”, độc lâp với
kinh nghiệm. Ông đã thừa nhận một cách sai lầm rằng, những nguyên tắc cơ bản của
logic học và toán học là những cái “bẩm sinh”, không phụ thuộc vào kinh nghiệm.
Trong học thuyết về tự nhiên, Đêcáctơ là một nhà duy vật,
ông coi vật chất là một thực thể duy nhất, là cơ sở duy nhất của tồn tại và nhận
thức. Quảng tính là thuộc tính cơ bản của vật chất, nhưng ông lại đi đến đồng
nhát vật chất với quảng tính, và ngược lại, ở đâu không có quảng tính thì không
có vật chất. Vật chất choán đầy vũ trụ, không có không gian trống rỗng. Đêcátơ
thừa nhận tính vĩnh cửu của vật chất. Vạn động cơ học được ông xem như là một
biểu hiện sức sống của vật chất. Vận động được chuyển từ vật này đến vật khác
và không bao giờ bị tiêu diệt. Luận điểm của Đêcáctơ về tính không bị tiêu diẹt
của vận động được Ph.Ăngnhen đánh giá như một thành tựu khoa học vĩ đại.
Đêcáctơ thừa nhận sự xuất hiện của thế giới thực vật và động
vật trong quá trình vận động. Nhưng ông chưa thấy sự khác nhau vè chất giữa thế
giới sinh vật, coi cơ thể sống là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng, sự khác biệt
giữa con người và con vật là ở chỗ: con người không chỉ là một cơ thể vật chất
mà còn là một thực thể có lý trí. Nhưng lý trí, theo ông không phụ thuộc vào
qúa trình vật chất. Điều này thể hiện tính chất duy tâm trong triết học của
Đêcátơ.
Chương bốn
TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
1. Điều kiện
kinh tế - xã hội và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức
Khái niệm “triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ triết học của
nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống
triết học của I.Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm khách
quan của Hêghen và triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc.
Chỉ trong một thời kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học
cỏ điển Đức đã tạo những tiền đề lý luận hết sức quan trọng cho sự ra đời của
triết học Mác vào giữa thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lich sử
hết sức đặc biệt. Nước Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong
kiến điển hình với 360 quốc gia tự lập trong Liên bang Đức hết sức lạc hậu về
kinh tế và chính trị. Trong khi đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp,ở nước
Pháp cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước
vào nền văn minh công nghiệp.
Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các
nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng
giai cấp này sống rải rác ở hững vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng,
yếu kém về kinh tế và chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn
thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập
trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước..
Chính điều này đã quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: Nội dung cách
mạng dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ,; đề cao vai trò tích cực của tư duy
con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất
phát của mọi vấn đề triết học.
Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không
chỉ là sự phản ánh những điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà
còn của cả các nước Châu Âu lúc đó.
I. CANTƠ (1724 - 1804)
Nét nổi bật trong triết học của
Cantơ là những quan niệm biện chứng về giới tự nhiên. Trong tác phẩm Lịch sử phổ
thông và lý thuyết bầu trời, ông đã nêu giả thuyết có giá trị về sự hình thành
vuc trụ bằng cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Cantơ cũng đưa ra một luận
đề sau này được khoa học chứng minh về ảnh hưởng lên xuống của thuỷ triều do lực
hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng gây ra đã ảnh hưởng tới trái đất, làm cho
vòng xoáy của trái đất quanh trục của nó mỗi ngày một chậm lại. Ăngghen đã đánh
giá những phỏng đoán của Cantơ là sự công phá vào quan điểm siêu hình (kể cả
trong triết học và khoa học).
Triết học của Cantơ là triết học nhị nguyên. Ông thừa nhận
sự tồn tại của thế giới các “vật tự nó” ở bên ngoài con người, thế giới đó có
thể tác động tới các giác quan của chúng ta. Ở điểm này, Cantơ là nhà duy vật.
Mặt khác, ông lại cho rằng thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại
không liên quan gì đến cái gọi là “thế giới vật tự nó”,chúng chỉ là các “hiện
tượng…phù hợp với cái cảm giác và tri thức do lý tính của ta tạo ra. Nhưng các
cảm giác và tri thức không cung cấp cho hiểu biết gì về “thế giới vật tự nó”.
Nói cách khác, theo Cantơ nhận thức con người không chỉ biết được hiện tượng bề
ngoài mà không xâm nhập vào được bản chất đích thực của sự vật, không phán xét
gì được sự vật như chúng tự thân tồn tại. Như vậy, trong lĩnh vực nhận thức luận,
Cantơ là người theo thuyết “không thể biết” (tất nhiên là khác với Hium). Nhận
thức luận của Cantơ có tính chất duy tâm thể hiện ở sự phản ứng của ông với chủ
nghĩa duy vật Pháp và sự khôi phục lại Thượng đế. Ông nói rằng trong nhận thức
cần hạn chế phạm vi của lý tính để dành cho đức tin.
Tính chất duy tâm trong triết học của Cantơ không nhất
quán, đầy mâu thuẫn. Lênin nhận xét: “Đặc trưng chủ yếu của triết học Cantơ là ở
chỗ nó dung hoà chủ nghĩa duy ý chí với chủ nghĩa duy tâm, thiết lập sự thoả
hiêp giữa hai chủ nghĩa đó kết hợp hai khuynh hướng triết học khác nhau và đối
lâp trong một hệ thống triết học duy nhất. Khi Cantơ thừa nhận rằng một cái gì
đó ở ngoài chúng ta thì Cantơ là người duy vật. Khi ông tuyên bố rằng cái vật tự
nó ấy không thể nhận thức được là siêu nghiệm, là ở thế giới bên kia thì ông ta
là người duy tâm”.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đánh giá cao những công
trình của Cantơ về khoa học tự nhiên, về những vấn đề phép biện chứng, nhưng đã
bác bỏ thuyết không thể biết và nghiêm khắc phê phán những quan niệm duy tâm của
Cantơ về không gian và thời gian, về các phạm trù bởi vì, Cantơ coi phạm trù chỉ
là hình thức tiên thiên của lý tính con người.
HÊGHEN (1770 - 1831)
Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm
khách quan. Triết học của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông
là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống
triết học duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân
bên trong vốn có của sự phát triển của tự nhên và xã hội. Ông cho rằng, khởi
nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần
thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận
động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. “Ý
niệm tuyệt đối” theo nhận xét của Lênin chỉ là một cách nói theo đường vòng, một
cách khác nói về Thượng đế mà thối. Cho nên triết học của Hêghen là sự biện hộ
cho tôn giáo.
Hêghen dã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và
ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng
một quá trình, nghĩa là trong sự vận động và biến đổi không ngừng. Đồng thời
trong khuôn khổ của hệ thống triết học duy tâm của mình, Hêghen không chỉ trình
bày các phạm trù như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến các quy
luật “lượng đổi dẫn đến chất đổỉ và ngược lại”, “phủ dịnh của phủ định” và “quy
luật mâu thuẫn”. Nhưng tất cả cái đó chỉ là quy luật vận động và phát triển của
bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong hệ thống triết học của Hêgen,
không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của
tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự nhiên phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm
tuyệt đối.Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự nhiên
là tính thứ hai do tinh thần thế giới và ý niệm tuyệt đối quyết định. Nó là một
sự “tồn tại khác” của tinh thần, sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy,
ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là
giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghn gọi là tinh thần tuyệt đối.
Trong các quan điểm xã hội, Hêghen đứng trên lập trường của
chủ nghĩa Sovanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức
là hiện thân của tinh thần vũ trụ mới. Chế độ nhà nước Phổ đương thời được ông
xem là đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật.
Tóm lại, Hêghen là nhà triét học biện chưng duy tâm khách
quan. Là nhà triết học duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối”
là cái có trước vật chất, tồn tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào con người, tạo
ra hiện thực khách quan. Giới tự nhiên chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm tuyệt
đối” Tính đa dạng của thực tiễn được ông xem như là kết quả tác động và sáng tạo
của ý niệm tuyệt đối. Là nhà biện chứng, ông đã có công nêu ra những phạm trù,
quy luật cơ bản của phép biện chứng. Nhưng phép biện chứng của Hêghen là phép
biện chứng duy tâm, vì vậy Mác gọi đó là phép biện chứng lộn ngược đầu xuống đất,
vì đó cũng chỉ là quy luật của sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Mặc
dù vậy, ông vẫn là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên và lịch sử dưới
dạng một quá trình không ngừng vận động và biến đổi, phát triển và cố gắng vạch
ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy.
C.Mác và Ăng ghen đã phê phán một cách triệt để tính chất
phản khoa học và thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêghen; đồng thời
hai ông đánh giá cao và tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của
Hêghen để xây dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của
mình.
LUTVICH
PHOIƠBĂC (1804 -1872)
Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời kỳ
trước C.Mác. Công lao vĩ đại của Phoiơbăc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại
chủ nghiã duy tâm và thần học, ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết
học duy vật; đã giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và chủ
nghĩa duy tâm nói chung.
Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất, giới tự
nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không
phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm
ngay trong giới tự nhiên. Chống lại hệ thống duy tâm của Hêghen - hệ thống coi
giới tự nhiên là sự tồn tại khác của tinh thần. Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học
mới này phải có tính chất nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên.
Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc là xoá bỏ sự
tách rời giữa tinh thần và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên
tao ra. Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu
tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là
quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm tôn giáo và thần học cho rằng
Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con người tạo ra Thượng đế.
Khác với Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha
hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của
con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp
nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái
đó co người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng
Thượng đế; từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế
siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những
hạn chế. Khi ông đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với
tự nhiên thì đồng thời đã đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để
xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người trong quan niệm
của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những đặc tính sinh học
bẩm sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy
tâm. Ông nói răng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình
yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu nhiên cần xây
dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng càn phải
biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội
khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều
kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa
nhân đạo về tình yêu thương con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng,
duy tâm.
Công lao to lớn của Phoiơbắccòn ở chỗ, ông không chỉ đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm mà còn đáu tranh chống lại những người duy vật tầm
thường. Ông đã có quan niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về
các quá trình lý – hoá; công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới.
Ông đã kịch liệt phê phán những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không
thể biết. Trong sự phát triển lý luận nhận thức duy vât, Phoiơbắc đã biết dựa
vào thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu về tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận
thức được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là
lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và hoạt động thực tiễn của nó là
cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.
Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch
sử đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông
đã vạch ra mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết
phải đấu trnah loại bỏ tôn giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con
người. Ông đã có công khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII,
XVIII.
Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của
triết học Hêghen, Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như
các nhà triết học giai đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết
các vấn đề xã hội.
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc
đấu tranh của ông chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý
nghĩa lịch sử to lớn. Vì vậy, triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những
nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
2. Vài nhận định
về nền triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối
ngắn nhưng nó đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước
hết, nó đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế
kỷ XVII, XVIII. Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đã đạt tới
trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng cổ đại Hy Lạp đã chưa đạt
tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII cũng không có khả năng tạo ra.
Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là
tính chất duy tâm khách quan của Hêghen, còn về chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc
thì xét về thực chất không vượt qua được trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII
– XVIII Tây Âu.
Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã
được triết học Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên một trình độ mới của chủ
nghĩa duy vật hiện đại.
Chương năm
MỘT SỐ TRÀO
LƯU TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI
1. Vài nét về
sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại
Đến giữa thế kỷ XIX, với việc giai cấp tư sản nhiều nước
Châu Âu lần lượt giành được chính quyền, triết học cận đại cũng hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của nó trong cách mạng tư sản. Từ sau đó, triết học này đã dần xa rời
truyền thống duy vật và biện chứng của triết học Anh, Pháp , Đức, trong các thế
kỷ XVII, XVIII, XIX. Nó chuyển hướng sang chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình
nên không còn đưa ra được một thế giới quan tích cực, giàu sức sống như nó đã từng
thể hiện trong mấy thế kỷ trước. Từ đầu thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế
giới thứ hai, triết học phương Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều
trường phái, nhưng xoay quanh hai trào lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa học
và chủ nghiã nhân bản phi duy lý.
Vì sao có sự chuyển hướng đó trong triết học tư sản hiện
đại?
Ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản đi lên, chủ nghĩa duy lý và chủ
nghĩa nhân đạo đã từng là hai vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản chống lại chế
độ phong kiến và thần học và chủ nghĩa kinh viện. Lúc đó, giai cấp tư sản tôn
sùng lý tính, đề cao khoa học và chủ nghĩa nhân đạo để dùng chúng chống lại tôn
giáo và chế độ chuyên chế phong kiến. Trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản
nhằm xác lập và phát triển chủ nghĩa tư bản, thì chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa
nhân đạo thống nhất với nhau và đã có vai trò lịch sử tiến bộ.
Sau khi giành được chính quyền, giai cấp tư sản buộc phải
đối phó với những lực lượng xã hội mới và các mâu thuẫn xã hội mới ngày càng bộc
lộ gay gắt. Họ không còn nhu cầu chống lại thần học, tôn giáo như trước đây.
Nhưng để phát triển sức sản xuất, củng cố sự thống trị của bản thân họ, giai cấp
tư sản cần phát triển khoa học kỹ thuật. Vì vậy, giai cấp này tìm cách điều hoà
mâu thuẫn giữa khoa học và tôn giáo. Dưới chế độ tư bản, tiến bộ của khoa học kỹ
thuật đã thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn không đưa lại “tự do,
bình đẳng, bác ái”. Trái lại, nó còn dẫn đến các cuộc khủng hoảng xã hội, khủng
hoảng tinh thần, khủng hoảng sinh thái ngày càng sâu sắc, đẩy con người vào
tình trạng tha hoá toàn diện ngày càng nặng nề hơn.
Trong điều kiện lịch sử đó, trong triết học phương Tây đã
diễn ra sự tách biệt và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân bản.
Để phát triển sản xuất, gia tăng lợi nhuận, giai cấp tư sản cần đến khoa học,
nhưng lại lý giải khoa học một cách duy tâm, do đó đã hình thành trào lưu triết
học duy khoa học theo lập trường duy tâm
đẩy mâu thuẫn trong vấn đề con người và xã hội, giai cấp tư sản không muốn thừa
nhận các quy luật khách quan của sự phát triển nên họ đề cao chủ nghĩa phi duy
lý. Do đó đã hình thành trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Trào lưu duy
khoa học và trào lưu phi duy lý dường như đối lập nhau, nhưng trên thực tế lại
bổ sung nhau, vì chúng đều cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội tư
bản, đều là phản ánh mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại.
2. MỘT SỐ TRƯỜNG
PHÁI TRIẾT HỌC TIÊU BIỂU
2.1. CHỦ NGHĨA
HIỆN SINH
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học chủ yếu
trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy
lý. Triết học hiện sinh đặt lên vị trí hàng đầu tính đặc thù độc đáo của tồn
tại con người. Tính độc đáo này không thể nhận thức bằng khái niệm và cũng
không thể diễn đạt qua ngôn ngữ. Chủ nghĩa hiện sinh bắt nguồn từ học thuyết của
Kiếckegơ và trở thành một trào lưu tư tưởng phổ biến ở Đức vào những năm 20 của
thế kỷ XX. Lức đó nước Đức thua trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất và bị
tàn phá nghiêm trọng. Triết học hiện sinh của Hâyđơgiơ phản ánh tâm trạng bi
quan của xã hội Đức trước sự tàn phá đó. Trong chiến tranh thế giới II, trung
tâm của chủ nghĩa hiện sinh từ nước Đức chuyển sang nước Pháp. Sau chiến tranh
thế giới II, mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển gay gắt. Các
cuộc khủng hoảng nhiên liệu, khủng hoảng sinh thái cùng với đạo đức xã hội suy
thoái đã làm tăng sự khủng hoảng về tâm hồn trong xã hội các nước tư bản chủ
nghĩa, khiến cho tư tưởng hiện sinh lan tràn trên nước Mỹ và sang nhiều nước
phương Tây khác.
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời từ hai nguyên nhân trực tiếp
sau đây:
Nguyên nhân thứ nhất là từ mâu thuãn của xã hội tư bản.
PTSX TBCN chạy theo lợi nhuận tối đa đã đẩy con người vào tình trạng tha hoá
cùng cực, lấy đi của họ cái vị trí làm người đích thực. Những tệ nạn xã hội
cùng với sự tàn phá khủng khiếp từ hai cuộc thế chiến do chủ nghĩa đế quốc gây
ra đã đẩy con người vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc trong đời sống tinh thần.
Nhiều luận điểm của chủ nghĩa hiện sinh cùng với phong trào hiện sinh thể hiện
sự nổi loạn trong lòng xã hội tư bản nhằm lên án nó, chống lại nó, kêu gọi con
người phải tự cứu lấy mình. Nhưng dựa vào cái gì để cứu mình và cứu xã hội thì
họ chưa rõ.
Nguyên nhân thứ hai là phản ứng trước việc các nước
phương Tây tuỵêt đối hoá vai trò của khoa học, sùng bái kỹ thuật đã hạ thấp, bỏ
rơi con người hoặc chỉ quan tâm đến mặt vật chất mà xem nhẹ mặt tâm hồn, đời sống
tình cảm của họ. Triết học duy lý đã từng có vai trò tích cực nhất định trong
việc làm cho các nước phương Tây đạt được những thành tựu vượt bậc trong chinh
phục tự nhiên bằng khoa học, công nghệ hiện đại. Đồng thời khoa học kỹ thuật
cũng bắt con người phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về môi trường, xã hội,
sinh thái, sức khoẻ. Một xã hội phương Tây giàu có về vật chất lại nghèo nàn về
văn hoá, tinh thần; tăng trưởng nhanh về kinh tế lại suy thoái nhanh về văn
hóa, đạo đức. Các nhà triết học hiện sinh hoàn toàn có lý khi họ kịch liệt phê
phán sự tuyệt đối hoá vai trò của lý trí, của khoa học khi họ vạch rõ sự thiếu
hụt tinh thần nhân đạo trong chính nền tảng của văn minh phương Tây. Nhưng họ
đã mắc sai lầm khi chỉ thừa nhận vai trò của cảm giác, của xúc cảm cá nhân, tức
là ngả sang phía chủ quan phi duy lý.
Chủ nghĩa hiện sinh đầu thế kỷ XX có cội nguồn sâu xa mà
trực tiếp nhất là triết học phi duy lý ở thế kỷ XIX. Đại biểu chủ yếu của chủ
nghĩa hiện sinh là Hâyđơgơ, Xáctơrơ, Giapxpơ, Macxen.
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học rất phức
tạp. Quan điểm của những đại biểu triết học này thường có sự khác nhau rất lớn.
Ngoài sự phân biệt quốc gia như chủ nghĩa hiện sinh Đức, chủ nghĩa hiện sinh
Pháp và chủ nghĩa hiện sinh của Mỹ, còn có thể phân biệt chủ nghĩa hiện sinh
theo thái độ với tôn giáo như chủ nghĩa hiện sinh vô thần và chủ nghĩa hiện
sinh hữu thần. Trên những vấn đề chính trị lớn, giữa những nhà triết học hiện
sinh cũng có những khác biệt lớn. Nhưng tất cả những người theo chủ nghĩa hiện
sinh đều coi sự hiện sinh của cá nhân là nội dung cơ bản trong triết học của
mình, đều coi hiện sinh là sự cảm thụ chủ
quan, sự thể nghiệm tâm lý có tính chất phi lý tính của cá nhân.
Về mặt bản thể
luận, chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh việc
nghiên cứu bản thể luận nhưng cho rằng khuyết điểm căn bản của triết học truyền
thống không phải là đã nghiên cứu bản thể luận mà là phương hướng nghiên cứu
không đúng, không giải thích đúng đắn đối với hiện sinh. Bởi vì hiện sinh có
trước bản chất. Xactơrơ giải thích điều này như sau: Thế nào là hiện sinh có
trước bản chất? Điều đó có nghĩa là con người hiện hữu trước, tự nổi lên trong
thế giới, và sau đó nó mới được định nghĩa. Con người nếu như nó không định
nghĩa được, đó là vì không có cái gì cả. Con người không có cái gì khác ngoài
cái mà nó đang hiện ra.
Các nhà hiện sinh phân biệt hai khái niệm hữu thể và hiện hữu (hiện sinh). Hữu thể là khái niệm chỉ một cái gì đó (một vật,một
người) đang tồn tại, đang có mặt nhưng chưa là một cái gì đó cụ thể cả, chưa có
diện mạo, chưa có cá tính. Đó là một tồn tại chưa sống đích thực, vô hồn tức là
chưa hiện hữu. Còn hiện hữu là một khái niệm chỉ một cái gì đó không những là
đang có mặt (tồn tại) mà còn là đang sống đích thực với diện mạo riêng.
Do đó hiện sinh không phải là giới tự nhiên hoặc sự vật,
mà là con người. Bởi vì chỉ có con người mới hiểu được sự tồn tại của bản thân
và của sự vật khác. Chỉ có con người mới có hiện sinh. Hiện sinh của con người
không phải là sự tồn tại lịch sử cụ thẻ của họ trong những quan hệ xã hội, mà
là sự tồn tại tinh thần của nhân vị. Chỉ có xuất phát từ tinh thần tồn tại của
nhân vị mới có thể lý giải ý nghĩa của toàn bộ thế giới. Do đó nhiệm vụ hàng đầu
của triết học là phân tích vè mặt bản thể luận đối với hiện sinh, tức là mô tả
sự tồn tại bản chất của con người trong hoạt động ý thức phi duy lý của các cá
nhân. Đó mới là bản thể luận duy nhất đúng. Thực chất đây là bản thể luận duy
tâm chủ quan.
Về mặt nhận thức luận, do đã coi vấn đề bản thể luận
trung tâm của triết học là sự cảm thụ chủ quan và thái độ ứng xử của cá nhân
nên chủ nghĩa hiện sinh không chú trọng nghiên cứu nhận thức khoa học. Trái lại,
chủ nghĩa hiện sinh cho rằng những tri thức khoa học thu được do lý tính là hư ảo.
Người ta càng dựa vào lý tính, khoa học thì càng khiến mình bị chi phối, từ đó
bị tha hoá. Theo họ để đạt đến hiẹn sinh chân chínhchỉ có thể dựa vào trực giác
phi lý tính. Chỉ có trong cuộc sống đau khổ, cô đơn, sợ hãi, tuyệt vọng… con
người mới có thể trực tiếp cảm nhận được sự tòn tại của mình. Như vậy, nhận thức
luận của chủ nghĩa hiện sinh là nhận thức duy tâm chủ quan phi duy lý.
Về luân lý, chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức
quyết định luận trong đạo đức, phủ nhận sự tồn tại phổ biến của các nguyên tắc
đạo đức.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là bản chất của sự hiện
sinh của cá nhân con người, nó không phục tùng Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy
nào, cũng không chịu sự ràng buộc của bất cứ tính tất yếu khách quan nào, nó là
tuyệt đối. Giá trị hiện sinh của cá nhân được thể hiện trong sự lựa chọn của tự
do cá nhân. Chủ nghĩa hiện sinh còn đặt tự do của cá nhân đối chọi với tự do của
cá nhân khác. Tự do của cá nhân không bị gò bó bởi người khác hay bất kỳ lưc lượng
xã hội nào. Như vậy, quan điểm tự do của chủ nghĩa hiện sinh là quan điểm tự do
cá nhân cực đoan.
Về quan điểm lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh xuất
phát từ tự do cá nhân tuyệt đối, cho rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân
thực, xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh của cá nhân, hơn nữa là phương thức
hiện sinh không chân thực. Bởi vì xã hội và cá nhân liên hệ chặt chẽ thì sự tồn
tại của cá nhân sẽ không còn là cá nhân thực sự mà là cá nhân bị đối tượng hoá,
bị mất cá tính do bị ràng buộc với người khác và với xã hội, là cá nhân bị tập
thể, bị xã hội lấn át. Do đó, tồn tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của
con người. Để khôi phục sự hiện sinh chân chính của mình, con người cần thoát
khỏi sự ràng buộc của những người khác và của xã hội. Xã hội chính là sản vật
tha hoá của con người, bản thân nó không phải là cái tồn tại khách quan tự thân
phát triển theo quy luật, mà chỉ là một mớ ngẫu nhiên những con người bị tha
hoá. Động lực phát triển tất nhiên cũng không nằm trong bản thân xã hội mà là
do hiện sinh của cá nhân quyết định. Do đó cần tìm tiến trình và đặc điểm của lịch
sử thế giới ở bên trong cá nhân con người.
Chủ nghĩa hiện sinh còn cho rằng, lịch sử là không thể nhận
thức được. Theo họ, lịch sử chẳng qua là sự biểu hiện ra bên ngoài của tồn tại
của con người, mà sự tồn tại của con người là không thể biết được. Vì chúng ta
không hiểu biết về quá khứ, cũng không hiểu biết về tương lai, nên chúng ta
không hiểu được thực sự hiện tại. Cho nên đốivới con người thì líchử xã hội mãi
mãi chỉ là một vùng đen tối. Lịch xã hội đã không thể biết thì đứng trước xã hội
con người tất nhiên cảm thấy yếu đuối, bất lực.
Theo chủ nghĩa hiện sinh, một mặt lịch sử xã hội là sựtha oá của tồn tấic nhân, nên bản thân
nó không có thực tại khách quan; mặt khác
con người lại bị nô dịch bởi những cái mà họ sáng tao ra, đó là sức mạnh tha
hóa. Hơn nữa, mọi cố gắng thoát khỏi sự nô dịch đó đều vô ích, đều bị thất bại.
Do đó, lịch sử loài người chỉ là một bi kịch không có kết thúc. Vậy con người
làm thế nào để giải thoát khỏi sức mạnh tha hoá và bi kịch của họ? Chủ nghĩa hiện
sinh nhận định rằng không thể dựa vào khoa học và lý tính hay bất cứ cái gì
khác mà chỉ có thể tự cứu mình bằng những hành động tự phát, mạo hiểm hoặc chờ
mong sự giải thoát ở các lực lượng tôn giáo thần bí. Đó là con đường bế tắc mà
chủ nghĩa hiện sinh chỉ ra cho con người.
Chủ nghĩa hiện
sinh là sự phản ứng của con người trước tình trạng bất ổn về xã hội trong thời
kỳ khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa tư bản như lo sự chiến tranh, không tin
vào khoa học, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng vì thế nó có ảnh hưởng mạnh mẽ, rộng
rãi đối với thế giới phương Tây.
Từ cuối những năm 60 đầu những năm 70 đến nay, khi mà chủ
nghĩa tư bản đi vào thời kì tương đối ổn định thì vai trò của chủ nghĩa hiện
sinh tương đối mờ nhạt và bị thay thế bởi các triết học khác. Nhưng vì chủ
nghĩa tư bản không có cách nào căn bản thoát khỏi các mâu thuãn xã hội vốn có của
nó, nên chủ nghĩa hiện sinh tuy đã suy thoái nhưng những tư tưởng chủ yếu của
nó vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đến khoa học nhân văn, triết học và khoa học xã hội
ở nhiều nước phương Tây. Giải pháp của chủ nghĩa hiện sinh đối với các vấn đề
xã hội cơ bản là tiêu cực.Nhưng các nhà hiện sinh đã đóng vai trò tích cực khi
họ đặt ra và đề cao nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề về bản chất con người, về sự
tôn vinh các giá trị con người, về tự do cá nhân, về sự tha hoá do sự thống trị
của kĩ thuật v. v. cũng như việc họ thức tỉnh mọi người phải trăn trở về ý
nghĩa của cuộc sống và về các hiện tượng bất hợp lý trong xã hội tư bản hiện đại.
2.2. CHỦ NGHĨA PHRƠT
Chủ nghĩa Phrơt cũng là một trường
phái có ảnh hưởng rất lớn của trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý do nhà bệnh
học tinh thần, nhà tâm lý học người Áo - Phrớt sáng lập. Học thuyết và phương
pháp của Phrớt có ý nghĩa thế giới quan và nhân sinh quan triết học, có ảnh hưởng
rộng lớn đối với các trường phái của chủ nghĩa nhân bản triết học phương Tây hiện
đại.
Chủ nghĩa Phrớt hình thành vào đầu
thế kỷ XX. Lúc đó chủ nghĩa tư bản đang đi vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các
mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, bệnh tinh thần trong xã hội phát triển
nhanh. Sinh học, sinh lý học, tâm lý học… cũng có bước phát triển mạnh mẽ khiến
cho những lý luận giải thích các hiện tượng sinh lý và tâm lý con người bằng
quan diểm cơ giới dần được thay thế bằng những lý luận mới. Trong bối cảnh đó,
Phrớt sáng lập ra thuyết phân tích tâm lý (phân tâm học), đặc biệt chú trọng giải
thích đời sống nội tâm của con người, giải thích các bệnh tinh thần. Các tác phẩm
chủ yếu của ông như Phân tích giấc mơ
(1890), Dẫn luận phân tích tinh thần (1910), Tự ngã và bản ngã (1923)…
Lý luận về vô thức là bộ phận quan trọng trong hệ thống phân tích tâm lý đầu
tiên của Phrớt. Ông chia quá trình tâm lý
của con người thành ba bậc: Ý thức,
tiềm thức và vô thức. Sự suy
nghĩ của con người thường tiến hành giữa trạng thái vô thức và ý thức. Ý thức
là tâm lý nhận biết của con người. Thí dụ một người nói với mình rằng trời sắp
mưa, phải mau mau về nhà thì suy nghĩ đó tiến hành trong trạng thái ý thức,
tuân theo những hình thức logic. Còn vô thức là hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm
vi của lý trí, do bản năng, thói quen và dục vọng của con người gây ra. Hoạt động
tâm lý này tiến hành theo nguyên tắc khoái cảm, tức là do tình cảm và dục vọng
chi phối, không bị hạn chế về thời gian, không gian và quy tắc logic của lý
trí. Con người thường suy nghĩ trong tình trạng vô thức như vô cớ bực bội…
Tiềm thức là yếu tố trung gian, ở
giữa ý thức và vô thức, hoạt động theo nguyên tắc của tính hiện thực. Phrớt cho
rằng trong vô thức ẩn dấu những xung đột bản năng, phải thông qua sự lựa chọn,
kiểm soát của tiềm thức mới có thể trở thành ý thức. Theo ông, ý thức không phải
là thực chất của hoạt động tâm lý mà chỉ là một thuộc tính không ổn định của hoạt
động tâm lý. Vô thức mới là căn cứ của
hành vi con người. Phrớt nhấn mạnh tác dụng quan trọng của vô thức đối với
hành vi con người. Ông phân tích những hành vi vô thức thường ngày của con người
như nói nhịu, viết sai, đưa nhầm, lấy nhầm, đánh mất v.v. và cho rằng nguyên
nhân tâm lý của những hành vi đó chính là kết quả của những ước vọng bị dồn
nén.
Phrớt có cống hiến quan trọng trong việc đề xuất việc
nghiên cứu vai trò của vô thức trong hệ thống phân tích tâm lý nhưng ông sai lầm
là đã khuếch đại tác dụng của vô thức đối với hành vi của con người, không đánh
giá đúng vai trò của ý thức và các điều kiện xã hội.
Trong lý luận về nhân cách, phrơt đưa ra ba khái niệm
“cái ấy”, “cái tôi” và “cái siêu tôi”. Theo ông, “cái ấy” chính là biểu hiện của
libido (tính dục), bản năng đầu tiên có từ lúc con người sinh ra. Nó là nguồn
năng lượng tâm lý đòi hỏi bộc lộ ra và đòi hỏi được thoả mãn một cách mãnh liệt.
Nó là kết cấu phi lý tính, chỉ tuân theo nguyên tắc khoái cảm. “Cái tôi” là hệ
thống ý thức, là cái đứng giữa “cái ấy” và thế giới bên ngoài, điều tiết sự xung
đột giữa “cái ấy” với thế giới bên ngoài. “Cái siêu tôi” là đại diện của xã hội,
của lý tưởng và uy thế bên ngoài trong tâm lý của con người. Nó được tạo thành
bởi những chuẩn mực xã hội, những quy tắc luân lý và những giới luật tôn giáo.
“Cái siêu tôi” khuyến khích cuộc đấu tranh giữa “cái tôi” và “cái ấy”. Phrớt
cho rằng, trạng thái tâm lý của người bình thường là giữ được sự cân bằng giữa
ba cái “cái ấy”, “cái tôi” và “cái siêu tôi”. Những người mắc bệnh tinh thần
thường là do mối quan hệ cân bằng giữa ba cái đó bị phá hoại.
Thuyết tính dục cũng là nội dung quan trọng trong hệ thống
phân tích tâm lý của chủ nghĩa Phrớt. Phrớt cho rằng trong mọi xung động bản
năng của “cái ấy” thì bản năng tính dục là hạt nhân, là cơ sở của hành vi con
người. Tính dục ông nói ở đây có nghĩa rộng, gồm mọi loại khoái cảm. Phrớt cho
rằng tính dục là xung đột vĩnh hằng, ngay cả khi bị ý thức và tiềm thức áp chế
nó vẫn tìm cách bộc lộ ra, có khi bằng hệ thống nguỵ trang nhập vào hệ thống ý
thức. Do đó về tâm lý có hiện tượng nằm mơ, nói nhịu và những bệnh tin thần
khác. Ông giải thích: “khát vọng vô thức lợi dụng sự nới lỏng của ý thức vào
ban đêm để ùa vào trong ý thức bằng giấc mơ. Sự đề kháng lại tình trạng dồn nén
của cái tôi cũng không phải là đã bị thủ tiêu trong suốt giấc mơ”. Do đó, giấc
mơ là “một sự thoả hiệp hình thành giữa yêu cầu của một bản năng bị dồn nén với
sự kháng cự lại của một sức mạnh kiểm duyệt trong cái tôi”. Theo ông, nguyên
nhân của nhiều loại bệnh tinh thần là do bản năng tính dục bị dồn nén.
Phrớt đề ra phương pháp chữa bệnh tinh thần gọi là
“phương pháp giải thoát tinh thần”. Ông cho nằm mơ là một biểu hiện của tính dục,
là khởi điểm tót nhất của tự do liên tưởng. Theo ông, từ một con số, một tên
người hoặc một sự việc hiện ra trong giấc mơ đều không phải là vô cớ, mà là sự
thể hiện hoặc sự thoả mãn một nguyện vọng nào đó. Do đó, thông qua sự liên tưởng
và tự phân tích có thể có thể biết được điều bí mật trong nội tâm để chữa khỏi
bệnh tinh thần. Phrớt mở rộng lý luận và phương pháp đó sang các lĩnh vực khác
để giải thích các hiện tượng xã hội. Ông cho rằng văn hoá nghệ thuật của nhân
loại không có quan hệ gì với điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hôi mà bắt nguồn
từ bản năng tính dục bị áp chế. Chẳng hạn như bức vẽ nàng “Monalisa” của
Leonardo de Vinci là sự thể hiện bằng nụ cười quyến rũ của Catơrina, người mẹ
đã mất của ông. Qua sự tái hiện đó, Leonardo de Vinci đã thoả mãn được lòng
thương nhớ tình yêu dưỡng dục đối với người mẹ thời niên thiếu. Phrớt còn cho rằng
mẹ của Leonardo de Vinci sớm khêu gợi tính dục của con, chính sự khêu gợi đó đã
đưa đến tình cảm say sưa sáng tác của Leonardo de Vinci.
Phrớt coi bản năng tính dục của con người là cơ sở duy nhất
cho các hoạt động của con người. Điều đó không đúng. Mác nói: “Cố nhiên là ăn uống,
sinh đẻ con cái, v.v.. cũng là những chức năng thực sự có tính người. Nhưng nếu
bị tách một cách khó hiểu ra khỏi phần còn lại của phạm vi hoạt động của con
người và do đó mà biến thành những mục đích cuối cùng và duy nhất thì những chức
năng ấy mang tính chất súc vật”. Đúng vậy, không thể tách rời tính xã hội, tách
rời phương thức sản xuất của xã hội để bàn luận về hành vi của con người một
cách trừu tượng kể cả hành vi tính dục. Quan điểm trên của Phrớt dù nhìn từ góc
độ sinh lý học hay xã hội học đều không thể đứng vững được.
Chủ nghĩa Phrớt đến nay vẫn là một học thuyết có ảnh hưởng
sâu rộng tren thế giới, không những trở thành một trường phái rộng lớn nhất của
tâm lý học hiện đại - trường phái tâm lý học nhân bản, mà còn là nguồn gốc làm
nảy sinh nhiêù trường phái triết học phương Tây hiện đại. Nững vấn đề ông nêu
lên trong đời sống tinh thần của nhân loại như: ngoài ý thức ra phải chăng còn
lĩnh vực vô thức? Liệu có thể đem vô thức quy vào sự xung đột của bản năng của
tính dục? Có thể xem vô thức là cái cốt lõi và động lực tâm lý căn bản của hoạt
động của con người được không? Có thể dùng bản năng tính dục để giải thích đời
sống và sự phát triển của lịch sử nhân loại được không? Đó là những vấn đề
tranh luận trong triết học và tâm lý học, vừa liên quan đến nguyên nhân và
phương pháp chữa trị các bệnh tinh thần, lại có liên quan đến tâm lý học, đến
quan điểm lịch sử.
Phân tâm học Phrớt lấy lý luận vô thức và lý luận về tính
dục làm hạt nhân đã vượt qua phạm vi nghiên cứu của tâm lý học truyền thống, bổ
sung những kiến thức quan trọng vào những chỗ trống trong tâm lý học, nên có
giá trị lý luận và ảnh hưởng lớn đến tâm lý học, tâm thần học, xã hội học, dân
tộc học, nghệ thuật nảư đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Phrớt không phải là một học
thuyết triết học theo nghĩa đầy đủ của nó nhưng nó có một tiềm năng về thế giới
quan và phương pháp luận đáng kể. Điều có liên quan trước hết đến sự thấu hiểu
đặc biệt của Phrớt về con người và văn hoá. Là một nhà khoa học, Phrớt đã tiếp
thu truyền thống duy vật của khoa hoc tự nhiên cổ điển và của thuyết tiến hoá.
Tuy nhiên trong thế giới quan của ông bộc lộ những yếu tố duy tâm khi ông đem
sinh vật hoá những yếu tố thuộc vè tâm lý của con người, đem tự nhiên hoá những
cái về loài người, đem tâm lý hoá những cái thuộc về xã hội, và tuỵêt đối hoá
cái tâm lý trong đời sống của con người. Có thể xem đó là những sai lầm của chủ
nghĩa Phrớt. Vì quá nhấn mạnh đến bản năng tính dục nên ông đã bị nhiều người
phản đối, trong đó có cả học trò của ông.
2.3. CHỦ NGHĨA THỰC
DỤNG
Chủ nghĩa thực dụng là một trường phái triết học phương
Tây hiện đại đề cao kinh nghiệm và hiệu quả, ra đời vào cuối thế kỷ XIX ở nước
Mỹ. Giữa các đại biểu chủ yếu của chủ nghĩa thực dụng có nhiều điểm khác nhau,
nhưng nói chung, triết học của họ đều giới hạn trong phạm vi kinh nghiệm, coi
tri thức là công cụ để thích ứng với hoàn cảnh, coi chân lý là cái “có ích”. Chủ
nghĩa thực dụng thể hiện một cách nổi bật phương thức tư duy và phương thức
hành động vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận của xã hội Mỹ. Vì vậy, nó trở thành một
trong những trường phái triết học có ảnh hưởng lớn nhất ở nước Mỹ từ đầu thế kỷ
XX đến nay.
Chủ nghĩa thực dụng, với tư cách là mọt trường phái triết
học, đã ra đời trong các năm 1871 – 1874, khi câu lạc bộ siêu hình ở trường Đại
học Cambridge (bang Masachuset) được thành lập. Đó là một hội học thuật do một
số giáo viên của trường lập ra. Người sáng lập ra chủ nghĩa thực dụng là Piêcxơ
và một số người khác trong đó có Giêmxơ.
Nguyên tắc căn bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu quả, công dụng
làm tiêu chuẩn. So với các trường phái triết học phương Tây khác, chủ nghĩa thực
dụng đã phản ánh trực tiếp lợi ích và nhu cầu thực tế của giai cấp tư sản, nên
nó đã gây ảnh hưởng tương đối rộng lớn ở xã hội phương Tây. Một đặc điểm làm
cho chủ nghĩa thực dụng khác với triết học truyền thống là nó đã đi vào triết học
từ phương pháp. Người đại biểu chủ yếu của nó đã có lúc đã quy triết học chỉ
còn là vấn đề phương pháp, tuyên bố chủ nghĩa thực dụng không phải là lý luận
triết học có hệ thống mà chỉ là lý luận về phương pháp.
Sau những năm 40 của thế kỷ XX, địa vị chủ đạo của chủ
nghĩa thực dụng trong triết học Mỹ đã được thay thế bằng các trường phái triết
học mới nổi lên ở châu Âu và được truyền bá vào nước Mỹ.
Về nhận thức luận: Chủ nghĩa thực dụng nói đến một phương thức tư duy đặc
thù. Phương thức tư duy đó không xem xét khái niệm trong bản thân khái niệm mà
đi sâu nghiên cứu xem khi sử dụng thì nó sản sinh ra hậu quả gì. Khái niệm và
lý luận không phải là sự giải đáp về thế giới. Muốn phân biệt ý nghĩa và giá trị
của nó thì không phải là xem xét nó có phản ánh đúng thực tế khách quan hay
không mà là xem hiệu quả có thể kiểm nghiệm được của nó khi ứng dụng vào thực tế.
Các cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết hoc
truyền thống được coi là cuộc đấu tranh có tính chất siêu hình, chẳng có ý
nghĩa gì. Bởi vì, theo cách nhìn của chủ nghĩa thực dụng, thì thế giới mà con
người có kinh nghiệm thực tế về nó, đều giống nhau. Lấy hiệu quả thực tế mà xét
thì thế giới dù là vật chất hay là tinh thần cũng chẳng có sự khác biệt gì. Nếu
xuất phát từ hiệu quả để khẳng định giá trị của tôn giáo và của khoa học thì niềm
tin khoa học và tín ngưỡng tôn giáo đều có giá trị thiết thực vì cả hai đều là
công cụ để đạt được mục đích của con người.
Chủ nghĩa thực dụng phê phán triết học truyền thống là đã
tách rời chủ thể nhận thức, tức là tách rời người có kinh nghiệm với đối tượng
nhận thức trong kinh nghiệm, tức là tách rời tinh thần và vật chất thành hai
cái không cùng một lĩnh vực. Nó sử dụng khái niệm “kinh nghiệm” để lẩn tránh vấn
đề cơ bản của triết học. Đối với người theo chủ nghĩa thực dụng thì “kinh nghiệm”
không có tính chủ quan, cũng không có tính khách quan mà là “kinh nghiệm thuần
tuý” hoặc “kinh nghiệm nguyên thuỷ”. Kinh nghiệm là một khái niệm có hai nghĩa:
nó bao gồm mọi cái thuộc về ý thức chủ quan, nhưng nó cũng bao gồm mọi cái về sự
vật, sự kiện khách quan. Bản thân nó cũng không có sự khác biệt và đối lập về
nguyên tắc giữa chủ quan và khách quan. Kinh ngiệm có tính “nguyên thuỷ”, vật
chất và tinh thần đều là sản phẩm của việc tiến hành sự phản tỉnh đối với kinh
nghiệm nguyên thuỷ. Chủ thể và đối tượng, kinh nghiệm và tự nhiên đều là hai mặt
khác nhau trong một chỉnh thể kinh nghiệm thống nhất, chúng không thể thoát ly
khỏi kinh nghiệm mà tồn tại độc lập được.
Việc chủ nghĩa thực dụng dùng hiệu quả của kinh nghiệm để
thẩm định tất cả là nhằm phủ định thế giới bên ngoài và quy luật khách quan, về
thực chất là đi theo con đường kinh nghiệm luận duy tâm của Béccơli, song, về
hình thức có những điểm khác biệt sau:
- Dùng quan điểm tâm lý học hoặc sinh học để giải thích
kinh nghiệm. Kinh nghiệm không phải là tri thức, không phải là sự phản ánh của
bộ óc con người đối với thế giới khách quan, mà là hoạt động tâm lý nào đó
thích ứng với hoàn cảnh.
- Cường điệu tính năng động chủ quan của kinh nghiệm.
Dewey J. nhận định rằng, hoạt động thích ứng với hoàn cảnh của con người khác với
động vật thích ứng một cách tiêu cực đối với thiên nhiên. Con người dựa vào ý
chí và trí tuệ của mình làm cho hoàn cảnh phát sinh sự thay đổi có lợi cho đời
sống con người. Cho nên kinh nghiệm được hình thành ở con người là do tác động
lẫn nhau của con người và hoàn cảnh.
Chủ nghĩa thực dụng , khi cường điệu tính năng động của
kinh nghiệm đã thủ tiêu cơ sở khách quan của kinh nghiệm. Họ nhận định rằng đối
tượng của kinh nghiệm là do ý chí sáng tạo ra, bản thân kinh nghiệm là cái ở
vào trạng thái hỗn độn. Trong hoạt động kinh nghiệm con người tập trung sự chú
ý của mình vào những kinh nghiệm thích hợp với mục đích, hứng thú, nguyện vọng
của mình, hơn nữa làm cho những bộ phận kinh nghiệm đó được cố định, gán cho nó
cái địa vị độc lập của “khách thể”. Cho nên, khách thể, đối tượng chỉ là một bộ
phận mà ý chí tách ra từ trong kinh nghiệm, còn chủ thể của kinh nghiệm chẳng
qua chỉ là ý chí, mục đích, hứng thú, tâm tình, v.v.. chi phối hoạt động kinh
nghiệm trong kinh nghiệm mà thôi.
Như vậy, chủ nghĩa thực dụng đã tuyệt đối hoá tác dụng của
ý chí con người nên rơi vào chủ nghĩa duy
tâm chủ quan và chủ nghĩa duy ý chí.
Quan niệm về chân
lý của chủ nghĩa thực dụng: Lý luận về chân
lý của chủ nghĩa thực dụng có quan hệ mật thiết với kinh nghiệm luận của nó. Lý
luận này cho rằng tư duy của con người chỉ là một cách thức của kinh nghiệm, là
hành vi thích ứng và chức năng phản ứng của con người. Nó không đưa lại một
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Giêmxơ lập luận rằng, chân lý không
phải là “bản sao chép” sự vật khách quan, nó chỉ là mối quan hệ giữa các kinh
nghiệm với nhau. Ông cho rằng một quan niệm chỉ cần có thể đem các quan niệm cũ
và mới liên hệ với nhau, đem lại cho con người lợi ích cụ thể và hiệu quả thoả
mãn thì nó là chân lý. Muốn xét một quan niệm có phải là chân lý hay không, thì
không cần phải xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không, mà phải xem
nó có đem lại hiệu quả hay không. Như vậy, hữu
dụng và vô dụng đã trở thành tiêu
chuẩn để ông ta phân biệt chân lý với sai lầm. Hữu dụng là chân lý đó là quan điểm căn bản của Giêmxơ về chân lý.
Quan niệm của
Dewey J. coi chân lý là công cụ, về thực chất nhất trí với quan điểm của
Giêmxơ về chân lý. Dewey J. nhận định rằng
tính chân lý của quan niệm, khái niệm, lý luận, v.v.. không phải là ở chỗ nó có
phù hợp với thực tế khách quan hay không mà ở chỗ chúng có gánh vác được một
cách hữu hiệu nhiệm vj làm công cụ cho hành vi của con người hay không.
Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng không những
là chủ quan mà còn có khuynh hướng tương
đối chủ nghĩa rõ rệt. Những người theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng, chân
lý là cái thoả mãn nhất mà con người cảm nhận được trong một thời điểm hoặc
trong môt trường hợp cụ thể. Do con người thì có nhiều hứng thú, lợi ích khác
nhau, cho nên có các loại chân lý tuỳ theo các nhu cầu được tạo ra bởi hứng thú
và lợi ích khác nhau. Một quan niệm có ích cho đời sống con người hay không là
tuỳ theo từng người, từng thời gian và địa điểm khác nhau.
Tóm lại, trào lưu chủ nghĩa duy khoa học và trào lưu chủ nghĩa
nhân bản đều phản ánh mâu thuẫn sâu sắc của thế giới quan tư sản. Để thoát ra
khỏi tình cảnh khó khăn, triết học phương Tây đã và đang diễn biến theo ba hướng
sau đây:
- Một là, hợp một
dòng với triết học tôn giáo.
- Hai là, sự
thâm nhập hoặc hoà vào nhau giữa các trường phái triết học.
- Ba là, thâm
nhập vào chủ nghĩa Mác.
Phân tích quá trình lịch sử diễn biến phức tạp của sự
phân hoá và sự thích hợp của triết học phương Tây hiện đại, có thể nhận thấy một
số đặc trưng chủ yếu sau:
- Triết học phương Tây hiện đại có ý đồ vượt lên trên sự
đối lập của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
- Triết học phương Tây hiện đại giải thích sai lệch hoặc
chống lại phép biện chứng của chủ nghĩa Mác.
- Với tư cách là hình thái ý thức tư sản ở giai đoạn xã hội
tư sản lâm vào khủng hoảng sâu sắc, triết học phương Tây hiện đại đã không còn
mang một hình thức lý luận thống nhất và hoàn chỉnh.
- Là hình thái ý thức của giai cấp tư sản nhưng khuynh hướng
chính trị của các trường phái lại có sự khác biệt nhất định.
Như vậy, triết học phương Tây hiện đại phản ánh được một
số vấn đề mới của thời đại hiện nay, đã có những tìm tòi và đạt được nhiều
thành quả nhận thức nhất định, song, do hạn chế về lập trường giai cấp nên
không đưa ra được câu trả lời khoa học cho các vấn đề đó, càng không thể chỉ ra
phương hướng phát triển của nhân loại. Sự thực đó lại một lần nữa chứng minh
vai trò của triết học Mác trong thời đại hiện nay.