1. Điều kiện
kinh tế - xã hội và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức
Khái niệm “triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ triết học của
nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống
triết học của I.Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm khách
quan của Hêghen và triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc.
Chỉ trong một thời kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học
cỏ điển Đức đã tạo những tiền đề lý luận hết sức quan trọng cho sự ra đời của
triết học Mác vào giữa thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lich sử
hết sức đặc biệt. Nước Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong
kiến điển hình với 360 quốc gia tự lập trong Liên bang Đức hết sức lạc hậu về
kinh tế và chính trị. Trong khi đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp,ở nước
Pháp cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước
vào nền văn minh công nghiệp.
Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các
nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng
giai cấp này sống rải rác ở hững vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng,
yếu kém về kinh tế và chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn
thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập
trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước..
Chính điều này đã quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: Nội dung cách
mạng dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ,; đề cao vai trò tích cực của tư duy
con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất
phát của mọi vấn đề triết học.
Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không
chỉ là sự phản ánh những điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà
còn của cả các nước Châu Âu lúc đó.
I. CANTƠ (1724 - 1804)
Nét nổi bật trong triết học của
Cantơ là những quan niệm biện chứng về giới tự nhiên. Trong tác phẩm Lịch sử phổ
thông và lý thuyết bầu trời, ông đã nêu giả thuyết có giá trị về sự hình thành
vuc trụ bằng cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Cantơ cũng đưa ra một luận
đề sau này được khoa học chứng minh về ảnh hưởng lên xuống của thuỷ triều do lực
hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng gây ra đã ảnh hưởng tới trái đất, làm cho
vòng xoáy của trái đất quanh trục của nó mỗi ngày một chậm lại. Ăngghen đã đánh
giá những phỏng đoán của Cantơ là sự công phá vào quan điểm siêu hình (kể cả
trong triết học và khoa học).
Triết học của Cantơ là triết học nhị nguyên. Ông thừa nhận
sự tồn tại của thế giới các “vật tự nó” ở bên ngoài con người, thế giới đó có
thể tác động tới các giác quan của chúng ta. Ở điểm này, Cantơ là nhà duy vật.
Mặt khác, ông lại cho rằng thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại
không liên quan gì đến cái gọi là “thế giới vật tự nó”,chúng chỉ là các “hiện
tượng…phù hợp với cái cảm giác và tri thức do lý tính của ta tạo ra. Nhưng các
cảm giác và tri thức không cung cấp cho hiểu biết gì về “thế giới vật tự nó”.
Nói cách khác, theo Cantơ nhận thức con người không chỉ biết được hiện tượng bề
ngoài mà không xâm nhập vào được bản chất đích thực của sự vật, không phán xét
gì được sự vật như chúng tự thân tồn tại. Như vậy, trong lĩnh vực nhận thức luận,
Cantơ là người theo thuyết “không thể biết” (tất nhiên là khác với Hium). Nhận
thức luận của Cantơ có tính chất duy tâm thể hiện ở sự phản ứng của ông với chủ
nghĩa duy vật Pháp và sự khôi phục lại Thượng đế. Ông nói rằng trong nhận thức
cần hạn chế phạm vi của lý tính để dành cho đức tin.
Tính chất duy tâm trong triết học của Cantơ không nhất
quán, đầy mâu thuẫn. Lênin nhận xét: “Đặc trưng chủ yếu của triết học Cantơ là ở
chỗ nó dung hoà chủ nghĩa duy ý chí với chủ nghĩa duy tâm, thiết lập sự thoả
hiêp giữa hai chủ nghĩa đó kết hợp hai khuynh hướng triết học khác nhau và đối
lâp trong một hệ thống triết học duy nhất. Khi Cantơ thừa nhận rằng một cái gì
đó ở ngoài chúng ta thì Cantơ là người duy vật. Khi ông tuyên bố rằng cái vật tự
nó ấy không thể nhận thức được là siêu nghiệm, là ở thế giới bên kia thì ông ta
là người duy tâm”.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đánh giá cao những công
trình của Cantơ về khoa học tự nhiên, về những vấn đề phép biện chứng, nhưng đã
bác bỏ thuyết không thể biết và nghiêm khắc phê phán những quan niệm duy tâm của
Cantơ về không gian và thời gian, về các phạm trù bởi vì, Cantơ coi phạm trù chỉ
là hình thức tiên thiên của lý tính con người.
HÊGHEN (1770 - 1831)
Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm
khách quan. Triết học của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông
là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống
triết học duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân
bên trong vốn có của sự phát triển của tự nhên và xã hội. Ông cho rằng, khởi
nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần
thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận
động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. “Ý
niệm tuyệt đối” theo nhận xét của Lênin chỉ là một cách nói theo đường vòng, một
cách khác nói về Thượng đế mà thối. Cho nên triết học của Hêghen là sự biện hộ
cho tôn giáo.
Hêghen dã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và
ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng
một quá trình, nghĩa là trong sự vận động và biến đổi không ngừng. Đồng thời
trong khuôn khổ của hệ thống triết học duy tâm của mình, Hêghen không chỉ trình
bày các phạm trù như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến các quy
luật “lượng đổi dẫn đến chất đổỉ và ngược lại”, “phủ dịnh của phủ định” và “quy
luật mâu thuẫn”. Nhưng tất cả cái đó chỉ là quy luật vận động và phát triển của
bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong hệ thống triết học của Hêgen,
không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của
tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự nhiên phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm
tuyệt đối.Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ nhất, giới tự nhiên
là tính thứ hai do tinh thần thế giới và ý niệm tuyệt đối quyết định. Nó là một
sự “tồn tại khác” của tinh thần, sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy,
ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là
giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghn gọi là tinh thần tuyệt đối.
Trong các quan điểm xã hội, Hêghen đứng trên lập trường của
chủ nghĩa Sovanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức
là hiện thân của tinh thần vũ trụ mới. Chế độ nhà nước Phổ đương thời được ông
xem là đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật.
Tóm lại, Hêghen là nhà triét học biện chưng duy tâm khách
quan. Là nhà triết học duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối”
là cái có trước vật chất, tồn tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào con người, tạo
ra hiện thực khách quan. Giới tự nhiên chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm tuyệt
đối” Tính đa dạng của thực tiễn được ông xem như là kết quả tác động và sáng tạo
của ý niệm tuyệt đối. Là nhà biện chứng, ông đã có công nêu ra những phạm trù,
quy luật cơ bản của phép biện chứng. Nhưng phép biện chứng của Hêghen là phép
biện chứng duy tâm, vì vậy Mác gọi đó là phép biện chứng lộn ngược đầu xuống đất,
vì đó cũng chỉ là quy luật của sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Mặc
dù vậy, ông vẫn là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên và lịch sử dưới
dạng một quá trình không ngừng vận động và biến đổi, phát triển và cố gắng vạch
ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy.
C.Mác và Ăng ghen đã phê phán một cách triệt để tính chất
phản khoa học và thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêghen; đồng thời
hai ông đánh giá cao và tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của
Hêghen để xây dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của
mình.
LUTVICH
PHOIƠBĂC (1804 -1872)
Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời kỳ
trước C.Mác. Công lao vĩ đại của Phoiơbăc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại
chủ nghiã duy tâm và thần học, ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết
học duy vật; đã giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và chủ
nghĩa duy tâm nói chung.
Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất, giới tự
nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không
phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm
ngay trong giới tự nhiên. Chống lại hệ thống duy tâm của Hêghen - hệ thống coi
giới tự nhiên là sự tồn tại khác của tinh thần. Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học
mới này phải có tính chất nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên.
Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc là xoá bỏ sự
tách rời giữa tinh thần và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên
tao ra. Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu
tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là
quan niệm về Thượng đế. Trái với các quan niệm tôn giáo và thần học cho rằng
Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con người tạo ra Thượng đế.
Khác với Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha
hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của
con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp
nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái
đó co người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng
Thượng đế; từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế
siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những
hạn chế. Khi ông đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với
tự nhiên thì đồng thời đã đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để
xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người trong quan niệm
của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những đặc tính sinh học
bẩm sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy
tâm. Ông nói răng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình
yêu. Do vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu nhiên cần xây
dựng một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng càn phải
biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội
khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều
kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa
nhân đạo về tình yêu thương con người trở thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng,
duy tâm.
Công lao to lớn của Phoiơbắccòn ở chỗ, ông không chỉ đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm mà còn đáu tranh chống lại những người duy vật tầm
thường. Ông đã có quan niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về
các quá trình lý – hoá; công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới.
Ông đã kịch liệt phê phán những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không
thể biết. Trong sự phát triển lý luận nhận thức duy vât, Phoiơbắc đã biết dựa
vào thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu về tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận
thức được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là
lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và hoạt động thực tiễn của nó là
cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.
Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch
sử đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông
đã vạch ra mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết
phải đấu trnah loại bỏ tôn giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con
người. Ông đã có công khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII,
XVIII.
Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của
triết học Hêghen, Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như
các nhà triết học giai đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết
các vấn đề xã hội.
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc
đấu tranh của ông chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý
nghĩa lịch sử to lớn. Vì vậy, triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những
nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
2. Vài nhận định
về nền triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối
ngắn nhưng nó đã tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước
hết, nó đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế
kỷ XVII, XVIII. Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đã đạt tới
trình độ một hệ thống lý luận – điều mà phép biện chứng cổ đại Hy Lạp đã chưa đạt
tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII cũng không có khả năng tạo ra.
Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là
tính chất duy tâm khách quan của Hêghen, còn về chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc
thì xét về thực chất không vượt qua được trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII
– XVIII Tây Âu.
Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã
được triết học Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên một trình độ mới của chủ
nghĩa duy vật hiện đại.