NHÀ Số 1: Cửa KIỀN với Chủ KIỀN (Phục vị trạch) (Cửa cái tại Kiền, Chủ phòng hay Sơn chủ cũng tại Kiền)
[size=175]- Lời tương ứng về ngôi nhà: Kiền Kiền thuần dương, thương phụ nữ.[/size]
[size=175]- Lời tương ứng về ngôi nhà: Kiền Kiền thuần dương, thương phụ nữ.[/size]
Ý nghĩa: Kiền gặp Kiền là thuần dương (2 cung đều thuộc dương) ắt âm phải suy. Aõm chỉ vào phụ nữ.
- Cửa Kiền và Chủ cũng Kiền thuộc về Tây tứ trạch. Từ Cửa Kiền biến 8 lần tới Chủ Kiền tất được Phục vị cho nên kiểu nhà này gọi là Phục vị trạch. (Phàm Chủ thừa du niên nào thì lấy tên du niên ấy đặt tên cho trạch (nhà). Tiếp tục còn 63 nhà sắp tới cũng vậy). Phục vị Mộc làm Kiền Kim tương khắc là thất vị: phẩm và lượng đều kém.
- Phục vị trạch, Cửa Kiền và Chủ Kiền tỷ hòa cho nên: những năm đầu phát lên giàu sang, nhưng vì dương nhiều ắt thắng và lấn át âm phải suy, ở lâu năm rồi hàng phụ nữ chết yểu. Và vì thuần dương bất quá như hai nam nhân ở chung nhau tới bao lâu cũng không sanh hóa chi được, ứng về sự cô quả, lẻ loi, không con nối dòng. Kết luận: Nhà này tốt rất ít, trước tạm hưng mà sau bại.
Cửa Kiền và Chủ Kiền phối 8 Bếp: (Hết thảy 8 Bếp sau đây đều thuộc về nhà số I)
1) Bếp Kiền: Bếp Kiền thuộc Tây trù hợp với Tây tứ trạch. Cửa Kiền, Chủ Kiền lại Bếp cũng Kiền, cà ba đều thuộc dương Kim tỷ hòa sanh vượng khí ở chung trong một nhà, cái thế dương khí tiến lên rất mạnh cho nên lúc đầu phát phúc lộc mau lắm. Nhưng hễ bạo phát bạo tàn, lại toàn là dương không sanh hóa ra được nữa cho nên tài lộc sẽ suy giảm mãi và về sau không con cháu nối dòng, hàng phụ nữ bất lợi, người làm vợ tai ương. – Lại luận rằng: cả 3 chỗ đều là Kiền hỗ biến tất được 3 du niên Phục vị. Phục vị là trở lại ngôi cũ, là tượng dậm chân tại một chỗ. Phục vị thuộc Mộc là du niên tốt ít oi lại bị Kiền Kim khắc là mất ngôi (thất vị), chẳng phát lên nổi. – Đặt Bếp Kiền cho ngôi nhà số I này tốt chẳng bao lâu rồi tới bất hạnh.
2) Bếp Khảm: Từ Cửa Kiền biến 4 lần tới Khảm thừa Lục sát cho nên gọi là Bếp Lục sát. Khảm Thủy đối với Kiền Kim tương sanh nhưng chính Thủy cũng làm tiết khí Kim (là làm hao mất khí lực) cho nên lúc đầu cũng có tốt qua loa rồi về sau hao tán tiền của đến mực sống cùng khổ. Lại thừa Lục sát Thủy là du niên khiến cho trụy lạc, dâmđãng, cờ bạc… vợ con bị tổn thương, tuyệt tự, bệnh ho khạc đàm. Kết luận: Bếp Khảm gây họa cho nhà số I này chẳng ít.
3) Bếp Cấn: Từ Cửa Kiền biến 6 lần tới Cấn được Thiên y cho nên gọi Bếp Cấn là Bếp Thiên y. Thiên y Thổ lâm Cấn cũng Thổ là tỷ hòa đăng diện. Bếp Cấn hỗ biến với Chủ Kiền cũng lại được Thiên y. Phàm Bếp thừa Thiên y tốt nhất hạng, huống chi Thiên y đăng diện, cho nên sơ niên phú quí song toàn, sanh được 3 con, nhưng về sau lâu xa (đến đời cháu chắt) hàng phụ nữ sẽ gặp nhiều tang thương và lại hiếm con cái, cưới lấy thê thiếp lắm lần, nuôi con người khác để thừa tự. Đó là ba chỗ chính yếu Kiền Kiền Cấn thuần dương mà khuyết âm, sự hưng phát lúc đầu không kéo dài mãi được.
4) Bếp Chấn: Từ Cửa Kiền biến 2 lần tới Chấn tất phạm Ngũ quỉ cho nên gọi Bếp Chấn là Ngũ quỉ. (Lại Bếp Chấn hỗ biến với Chủ Kiền cũng tác thành Ngũ quỉ). Bếp Ngũ quỉ hung hại bậc nhất, gây loạn tới cùng. Bếp Chấn Mộc đối với Cửa Kiền và Chủ Kiền Kim đều bị khắc, ở nhà này ắt lâm đại nguy hại; quỷ ma nhiễu loạn, quan tụng lo buồn, khẩu thiệt thị phi làm nhiều điều bực bội, tiền tài rất hao tán mà người mang họa hoạn có thể mất mạng vì bọn cướp. Chấn thuộc trưởng nam thừa Ngũ quỉ lại bị 2 Kiền khắc cho nên sự hung hại ứng vào hạng con trai cả, bất cứ ở thời gian hiện tại hay tới đời con, cháu, chắt cũng vậy. Những tai họa rất thường ứng vào số 4 hay số 5, vì chỗ khắc hại là Kiền Kim thuộc số 4 và Ngũ quỉ thì Ngũ là số 5. Ví dụ đến 4 năm hoặc trong tháng 5 hay ngày mồng 5 xảy ra tai họa, hoặc chịu tai họa trong 4 hay 5 ngày, trong 4 hay 5 tháng hoặc hao mất số tiền 4 trăm hay 5 ngàn, ..v…v…
5) Bếp Tốn: Từ Cửa Kiền biến 5 lần tới Tốn sanh Họa hại, cho nên gọi Bếp Tốn là Bếp Họa hại. Lại Bếp Tốn hỗ biến với Chủ Kiền cũng sanh Họa hại. Họa hại tức sao Lộc tồn Thổ sanh 2 Kiền Kim, nghiệm cũng có tốt chút ít, nhưng Họa hại là hung du niên và Tốn Mộc là cung thừa nó bị 2 Kiền Kim khắc cho nên tốt sơ sài chẳng đặng bao năm rồi đến hồi suy vi. Tốn thuộc âm bị khắc ứng điềm phụ nữ bị đoản thọ, lưng mông đau nhức, tim bụng thọ thương. Kết luận: Bếp Tốn này cũng bất lợi như Bếp Chấn trên nhưng Tốn thuộc âm khiến cho nhà khỏi bị cái hại thuần dương, xấu ít hơn.
6) Bếp Ly: Từ Cửa Kiền biến 7 lần tới Ly ngộ Tuyệt mệnh cho nên gọi Bếp Ly là Bếp Tuyệt mệnh. Như vậy là Bếp Ly sanh ra tới 2 Tuyệt mệnh, ắt gây ra nhieều hung hại trong nhà và những sự việc có tánh đoạn tuyệt. Ly là âm Hỏa khắc cả 2 dương Kim tại Cửa và Chủ, như vậy âm Hỏa là chỗ chính ứng, thế cho nên luận về nhân khẩu thì nhà này nhiều nữ mà ít nam, phụ nữ tánh khí ngoan cường, ở lâu chừng nào thì nhân khẩu và tiền tài càng suy kém, đến nỗi có lắm người ở góa, không con thừa tự, người người thường mang bệnh nhức đầu, đau mắt và các chứng ghẻ độc (vì Ly Hỏa thuộc về đầu và về mắt).
7) Bếp Khôn: Từ Cửa Kiền biến 3 lần tới Khôn thừa Diên niên cho nên gọi Bếp Khôn là Bếp Diên niên. Bếp Khôn hỗ biến với Chủ Kiền cũng được Diên niên. Như vậy Bếp Khôn tạo cho nhà này được 2 Diên niên là kiết du niên. Diên niên Kim lâm Khôn Thổ tương sanh đắc vị, lại Khôn Thổ sanh Cửa Kiền và Chủ Kiền, âm hiệp với dương, vợ chồng chánh phối, sanh đặng 4 con, phước lộc thọ đều đủ cả. Bếp Diên niên này tốt hơn tất cả các Bếp khác thuộc nhà số I, đáng gọi là một cái Bếp đại cát (tốt lớn).
8) Bếp Đoài: Từ Cửa Kiền biến 1 lần tới Bếp Đoài thừa Sinh khí cho nên gọi Bếp Đoài là Bếp Sinh khí. Bếp Đoài hỗ biến với Chủ Kiền cũng được Sinh khí. Vậy Bếp Đoài tạo ra 2 Sinh khí cho nhà. Tuy Sinh khí Mộc lâm Đoài Kim thất vị nhưng vẫn là kiết du niên. Gia dĩ Bếp Đoài đối với 2 Kiền tỷ hòa và có đủ âm dương cho nên sơ niên phát tài, phát lộc, nhân khẩu cũng nhiều, nhưng ở lâu năm rồi cũng dần dần bớt phát đạt, cưới lấy thê thiếp nhiều lần rồi ra cũng lăm người cô độc. Đó là bởi Kiền Kiền Đoài Kim quá nhièu có tánh đoạn cát. Lại nhà Phục vị, Bếp Sinh khí tàn du niên thuộc Mộc đồng bị 3 Kim khác hại, sự hưng thịnh đâu đặng bền. Tuy vậy vẫn kể Bếp Đoài này là một cái Bếp tốt, tốt vừa vừa.
- Cửa Kiền và Chủ cũng Kiền thuộc về Tây tứ trạch. Từ Cửa Kiền biến 8 lần tới Chủ Kiền tất được Phục vị cho nên kiểu nhà này gọi là Phục vị trạch. (Phàm Chủ thừa du niên nào thì lấy tên du niên ấy đặt tên cho trạch (nhà). Tiếp tục còn 63 nhà sắp tới cũng vậy). Phục vị Mộc làm Kiền Kim tương khắc là thất vị: phẩm và lượng đều kém.
- Phục vị trạch, Cửa Kiền và Chủ Kiền tỷ hòa cho nên: những năm đầu phát lên giàu sang, nhưng vì dương nhiều ắt thắng và lấn át âm phải suy, ở lâu năm rồi hàng phụ nữ chết yểu. Và vì thuần dương bất quá như hai nam nhân ở chung nhau tới bao lâu cũng không sanh hóa chi được, ứng về sự cô quả, lẻ loi, không con nối dòng. Kết luận: Nhà này tốt rất ít, trước tạm hưng mà sau bại.
Cửa Kiền và Chủ Kiền phối 8 Bếp: (Hết thảy 8 Bếp sau đây đều thuộc về nhà số I)
1) Bếp Kiền: Bếp Kiền thuộc Tây trù hợp với Tây tứ trạch. Cửa Kiền, Chủ Kiền lại Bếp cũng Kiền, cà ba đều thuộc dương Kim tỷ hòa sanh vượng khí ở chung trong một nhà, cái thế dương khí tiến lên rất mạnh cho nên lúc đầu phát phúc lộc mau lắm. Nhưng hễ bạo phát bạo tàn, lại toàn là dương không sanh hóa ra được nữa cho nên tài lộc sẽ suy giảm mãi và về sau không con cháu nối dòng, hàng phụ nữ bất lợi, người làm vợ tai ương. – Lại luận rằng: cả 3 chỗ đều là Kiền hỗ biến tất được 3 du niên Phục vị. Phục vị là trở lại ngôi cũ, là tượng dậm chân tại một chỗ. Phục vị thuộc Mộc là du niên tốt ít oi lại bị Kiền Kim khắc là mất ngôi (thất vị), chẳng phát lên nổi. – Đặt Bếp Kiền cho ngôi nhà số I này tốt chẳng bao lâu rồi tới bất hạnh.
2) Bếp Khảm: Từ Cửa Kiền biến 4 lần tới Khảm thừa Lục sát cho nên gọi là Bếp Lục sát. Khảm Thủy đối với Kiền Kim tương sanh nhưng chính Thủy cũng làm tiết khí Kim (là làm hao mất khí lực) cho nên lúc đầu cũng có tốt qua loa rồi về sau hao tán tiền của đến mực sống cùng khổ. Lại thừa Lục sát Thủy là du niên khiến cho trụy lạc, dâmđãng, cờ bạc… vợ con bị tổn thương, tuyệt tự, bệnh ho khạc đàm. Kết luận: Bếp Khảm gây họa cho nhà số I này chẳng ít.
3) Bếp Cấn: Từ Cửa Kiền biến 6 lần tới Cấn được Thiên y cho nên gọi Bếp Cấn là Bếp Thiên y. Thiên y Thổ lâm Cấn cũng Thổ là tỷ hòa đăng diện. Bếp Cấn hỗ biến với Chủ Kiền cũng lại được Thiên y. Phàm Bếp thừa Thiên y tốt nhất hạng, huống chi Thiên y đăng diện, cho nên sơ niên phú quí song toàn, sanh được 3 con, nhưng về sau lâu xa (đến đời cháu chắt) hàng phụ nữ sẽ gặp nhiều tang thương và lại hiếm con cái, cưới lấy thê thiếp lắm lần, nuôi con người khác để thừa tự. Đó là ba chỗ chính yếu Kiền Kiền Cấn thuần dương mà khuyết âm, sự hưng phát lúc đầu không kéo dài mãi được.
4) Bếp Chấn: Từ Cửa Kiền biến 2 lần tới Chấn tất phạm Ngũ quỉ cho nên gọi Bếp Chấn là Ngũ quỉ. (Lại Bếp Chấn hỗ biến với Chủ Kiền cũng tác thành Ngũ quỉ). Bếp Ngũ quỉ hung hại bậc nhất, gây loạn tới cùng. Bếp Chấn Mộc đối với Cửa Kiền và Chủ Kiền Kim đều bị khắc, ở nhà này ắt lâm đại nguy hại; quỷ ma nhiễu loạn, quan tụng lo buồn, khẩu thiệt thị phi làm nhiều điều bực bội, tiền tài rất hao tán mà người mang họa hoạn có thể mất mạng vì bọn cướp. Chấn thuộc trưởng nam thừa Ngũ quỉ lại bị 2 Kiền khắc cho nên sự hung hại ứng vào hạng con trai cả, bất cứ ở thời gian hiện tại hay tới đời con, cháu, chắt cũng vậy. Những tai họa rất thường ứng vào số 4 hay số 5, vì chỗ khắc hại là Kiền Kim thuộc số 4 và Ngũ quỉ thì Ngũ là số 5. Ví dụ đến 4 năm hoặc trong tháng 5 hay ngày mồng 5 xảy ra tai họa, hoặc chịu tai họa trong 4 hay 5 ngày, trong 4 hay 5 tháng hoặc hao mất số tiền 4 trăm hay 5 ngàn, ..v…v…
5) Bếp Tốn: Từ Cửa Kiền biến 5 lần tới Tốn sanh Họa hại, cho nên gọi Bếp Tốn là Bếp Họa hại. Lại Bếp Tốn hỗ biến với Chủ Kiền cũng sanh Họa hại. Họa hại tức sao Lộc tồn Thổ sanh 2 Kiền Kim, nghiệm cũng có tốt chút ít, nhưng Họa hại là hung du niên và Tốn Mộc là cung thừa nó bị 2 Kiền Kim khắc cho nên tốt sơ sài chẳng đặng bao năm rồi đến hồi suy vi. Tốn thuộc âm bị khắc ứng điềm phụ nữ bị đoản thọ, lưng mông đau nhức, tim bụng thọ thương. Kết luận: Bếp Tốn này cũng bất lợi như Bếp Chấn trên nhưng Tốn thuộc âm khiến cho nhà khỏi bị cái hại thuần dương, xấu ít hơn.
6) Bếp Ly: Từ Cửa Kiền biến 7 lần tới Ly ngộ Tuyệt mệnh cho nên gọi Bếp Ly là Bếp Tuyệt mệnh. Như vậy là Bếp Ly sanh ra tới 2 Tuyệt mệnh, ắt gây ra nhieều hung hại trong nhà và những sự việc có tánh đoạn tuyệt. Ly là âm Hỏa khắc cả 2 dương Kim tại Cửa và Chủ, như vậy âm Hỏa là chỗ chính ứng, thế cho nên luận về nhân khẩu thì nhà này nhiều nữ mà ít nam, phụ nữ tánh khí ngoan cường, ở lâu chừng nào thì nhân khẩu và tiền tài càng suy kém, đến nỗi có lắm người ở góa, không con thừa tự, người người thường mang bệnh nhức đầu, đau mắt và các chứng ghẻ độc (vì Ly Hỏa thuộc về đầu và về mắt).
7) Bếp Khôn: Từ Cửa Kiền biến 3 lần tới Khôn thừa Diên niên cho nên gọi Bếp Khôn là Bếp Diên niên. Bếp Khôn hỗ biến với Chủ Kiền cũng được Diên niên. Như vậy Bếp Khôn tạo cho nhà này được 2 Diên niên là kiết du niên. Diên niên Kim lâm Khôn Thổ tương sanh đắc vị, lại Khôn Thổ sanh Cửa Kiền và Chủ Kiền, âm hiệp với dương, vợ chồng chánh phối, sanh đặng 4 con, phước lộc thọ đều đủ cả. Bếp Diên niên này tốt hơn tất cả các Bếp khác thuộc nhà số I, đáng gọi là một cái Bếp đại cát (tốt lớn).
8) Bếp Đoài: Từ Cửa Kiền biến 1 lần tới Bếp Đoài thừa Sinh khí cho nên gọi Bếp Đoài là Bếp Sinh khí. Bếp Đoài hỗ biến với Chủ Kiền cũng được Sinh khí. Vậy Bếp Đoài tạo ra 2 Sinh khí cho nhà. Tuy Sinh khí Mộc lâm Đoài Kim thất vị nhưng vẫn là kiết du niên. Gia dĩ Bếp Đoài đối với 2 Kiền tỷ hòa và có đủ âm dương cho nên sơ niên phát tài, phát lộc, nhân khẩu cũng nhiều, nhưng ở lâu năm rồi cũng dần dần bớt phát đạt, cưới lấy thê thiếp nhiều lần rồi ra cũng lăm người cô độc. Đó là bởi Kiền Kiền Đoài Kim quá nhièu có tánh đoạn cát. Lại nhà Phục vị, Bếp Sinh khí tàn du niên thuộc Mộc đồng bị 3 Kim khác hại, sự hưng thịnh đâu đặng bền. Tuy vậy vẫn kể Bếp Đoài này là một cái Bếp tốt, tốt vừa vừa.