Đề tài, vốn được xem như một mảnh đất mời gọi những người viết gieo trồng và gặt hái. Nhưng thật lạ, cũng từ đó, với tài năng tái cấu trúc thành thế giới nghệ thuật riêng của mình, nhà văn đã giúp đề tài có tầm vóc hơn. Nó không bạc màu, cũ kĩ mà xanh tươi và mênh mông như một thảo nguyên rộng lớn lôi cuốn những cây bút đi sau. Ấy mới là lúc nhà văn đã tri ân được “mảnh đất” đã làm nên tên tuổi của mình.
Đề tài người lính trong thơ Việt Nam
Hào hoa và mộc mạc
Trong văn học Việt Nam hiện đại, đề tài người lính là một trường hợp khá đặc biệt. Cho dù, từ Đề cương văn hoá Việt Nam (1943), văn học, nghệ thuật đã được định hướng rõ ràng với hướng đi “phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu”. Nhưng rồi, không vì thế mà hình tượng người lính đi vào văn chương một cách khiên cưỡng. Từ những năm đầu kháng chiến, chính những người lính cầm bút đã tự cảm nhận về mình bằng những cách riêng. Với chàng trai xuất thân từ trí thức thành thị thuở ban đầu tham gia kháng chiến, họ hình dung về chính mình vẫn còn mang dáng dấp những anh hùng nghĩa sĩ trong sử sách. Nghĩa là vẫn cấu trúc nên giá trị mới bằng những chất liệu cũ:
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
(Tây tiến - Quang Dũng)
Với tầm vóc, khí phách của những “hùng binh”, “hổ tướng”, bản thân giấc mơ (sự phản ánh kí ức của thế hệ) cũng hào hoa và sang trọng: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Trong khi, những anh nông dân thuần phác đến với kháng chiến bằng tình yêu hồn nhiên mộc mạc của người nhà quê hôm nào. Từ đồng cảnh, đồng cảm đến đồng lòng:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Đồng chí
(Đồng chí - Chính Hữu)
Lần đầu tiên những người trai quê nước Nam có một danh xưng lạ lẫm mà thiêng liêng đến thế. Hai chữ “đồng chí” trang trọng hơn những anh Giáp, anh Ất… nhưng lại bình dị, dễ gần chứ không trịch thượng như ông này, bà nọ. Bởi thế, hồi ức về quê hương của họ là những hình ảnh thực, trong giờ phút tỉnh táo trước khi lâm trận: Ruộng nương anh gửi bạn than cày / Gian nhà không mặc kệ gió lung lay / Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính… (Đồng chí- Chính Hữu). Những người lính đã vượt qua cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ bằng sự hồn nhiên mà quả cảm như thế đó. Chỉ cần cái nắm tay rất chặt của người đồng đội trong cơn sốt rét, chỉ cần đêm “đuốc hoa” ấm tình quân dân cũng đủ tạo nên niềm lạc quan vào tương lại cách mạng trước khi có sự ý thức và hình thành đầy đủ nhất về cảm hứng lãng mạn (cách mạng) trong văn học kháng chiến sau này.
Khí phách và triết lí
Kể từ sau 1948 (1), với sự ý thức cao hơn về nhiệm vụ xây dựng nền văn nghệ kháng chiến, các nhà thơ đã coi đề tài người lính là một hình tượng trung tâm của thời đại. Kể từ đây, đề tài người lính xuất hiện trong thơ ngày một phổ biến hơn nhưng hình tượng lại càng rõ nét chứ không bị mòn sáo, trùng lặp. Đi hết sự hồn nhiên hồn hậu đến trầm tư triết luận về sứ mệnh của thế hệ mình. Hình bóng quê nhà trong tâm trí anh vệ quốc quân bình dị ngày nào được chuyển hoá thành những chàng trai trẻ “ham” cắt nghĩa về sự hi sinh tuổi thanh xuân - vật báu vô giá của một dân tộc đang hồi sinh. Hiểu rõ như thế thì làm sao mà không tiếc! Nhưng, nếu tiếc thì đâu còn có đất nước toàn vẹn ngày mai:
Thế hệ chúng con đi như gió thổi
Quân phục xanh đồng sắc với chân trời
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn còn trai.
(Đất nước hình tia chớp - Trần Mạnh Hảo)
Cuộc kháng chiến càng đến hồi kết, càng gay go quyết liệt. Thay bằng lối tâm tình, lối miêu tả sự kiện, hình tượng người lính được khắc hoạ sắc cạnh và đa dạng hơn bằng một tinh thần tự hoạ, tự vấn và cũng đầy tự hào. Tinh thần bi tráng vì thế cũng được thể hiện mềm mại, trữ tình hơn. Có lẽ chất hào hoa và bình dị của những người lính chống Pháp thuở nào giờ đã xuyên thấm vào nhau mà tạo nên sự lẫm liệt ấy:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cần chi Tổ quốc
Cỏ sắc mà ấm quá phải không em
(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)
Lặng lẽ mà quyết liệt, anh dũng mà ham sống. Người lính đã dung hoà được những đối lập, hội tụ thành một quan niệm sống thuyết phục và lớn lao nhất. Đề tài người lính, vốn từ một nhiệm vụ chính trị đã chuyển thành một điểm tựa chân lí để ứng chiếu với những giá trị sống mới khi bước vào cuộc sống đời thường:
Anh về lại ngôi nhà mình
Sau mười năm chiến tranh.
Mẹ đón anh buổi bình minh nhập nhoạng,
Cơn mưa đón anh buổi hừng đông chạng vạng,
Mưa… Mưa… Mưa…
….
Vẫn anh.
Hôm qua chưa nhận một viên đạn
Hôm nay nhận những lỗ thủng
Anh về quê không mang súng
Vũ khí lúc này
Hai bàn tay.
(Ngày hòa bình đầu tiên - Phùng Khắc Bắc)
Không trượt dài theo những âm hưởng ngợi ca đã lùi vào dĩ vãng, thơ viết về người lính đã biến khúc vĩ thanh tráng ca phía trước thành khúc tiền tấu cho bản đàn của cuộc sống đời thường phía sau. Điều ấy nói lên rằng đâu phải chỉ khi cầm súng đánh giặc họ mới là những biểu tượng sống mà bản thân họ đã là một giá trị. Một giá trị thì không bao giờ sợ nhoà, sợ lẫn vào những biến tấu mới. Có lẽ vì những giá trị ấy mà đề tài người lính trong thơ Việt Nam sẽ mãi còn lôi cuốn.
Lâm Việt
Nguồn tin: vanhocquenha.vn