2
Hôm Thuỷ đi xa, tôi biết. Tôi còn biết chuyến bay của Aeroflot sẽ cất cánh vào khoảng hai giờ chiều. Tôi cũng biết số người ra tiễn Thuỷ ngần nào là bạn, ngần nào là người thân. Tôi nằm một mình không hút thuốc, không uống rượu. Cả người nhiều đờ đẫn. Có một mảng vôi lở ở trên trần lớp loè hiện hình quái dị. Tôi lấy làm tiếc là tôi vẫn ở Hà. Nội. Nằm bâng quơ một lúc lâu, tôi lấy làm may là tôi không bỏ đi xa. Hai tháng trước tôi vào Huế, chơi lang thang. Tạp chí Sông Hương cho tôi một cái giải nho nhỏ, truyện ngắn hay trong tháng. Tôi đã đến Huế một lần, thuở vời vợi năm cuối sinh viên.
Cũng chẳng nhớ nhiều vì nhập nhoạng ở chưa hết một ngày. Ang áng thấy Sông Hương là hiền và con gái Huế là dịu dàng. Nói vậy để khỏi phụ thơ phú tiểu thuyết chứ hôm ấy tôi uống nhiều, từ sáng đến tối chỉ gặp duy nhất hai phụ nữ: một bà già bán cơm hến và bà kia còn già hơn bán bún bò giò heo. Tôi đứng cửa ga lưỡng lự hỏi thăm đường. Tôi không quen ai ở Huế, trong túi chỉ bơ vơ có cái địa chỉ toà soạn của tạp chí nọ. Lúc tôi lên tầu, sân ga Hà Nội có mưa rào. Lúc tôi xuống tầu, Huế ảm đạm trong cái mưa nổi tiếng. Tôi ở Huế một tuần và Huế mưa đủ bẩy ngày. Tôi ích kỷ như bao kẻ lãng du cưỡi ngựa xem hoa? tôi thấy mưa Huế là đẹp. Anh bạn nhà thơ mới quen ngồi đối ẩm trầm ngâm lắc lắc đầu.
Chúng tôi mồi bằng cật dê và uống nguyên một chai Martel. Tôi cạn chén nhắc lại, nếu Huế không mưa Huế sẽ tầm thường như bất cứ một thị xã lẻ nào. Anh bạn nhà thơ khoát khoát tay không hiểu phủ nhận hay đồng ý. Tôi muốn ngày mai đi lăng Minh Mạng. Anh bạn góp ý đấy là lăng ỏ xa nhất thường thường người ta hay đi vào ngày cuối. Tôi không thích giống các đoàn du khách, trong ba hoặc bốn lăng đáng thăm, tôi sẽ lần lượt theo chiều dọc của lịch sử. Anh bạn nhà thơ chiều tôi gật đầu. Những người biết làm thơ hiền và lành nhất trên cái quả đất mà. "Mấy giờ thì Hoàng phải về khách sạn". Tôi nói là đêm đầu tiên ở xứ lạ bao giờ tôi cũng overnight_ ở ngoài đường. Anh bạn nhà thơ rủ đến nhà một người bạn thơ, ở Huế trời ẩm nên đông người làm thơ. Anh bạn cười. Thật hạnh phúc khi được uống rượu với những người thông minh mà không độc ác. ơn Chúa, chúng tôi mới quen nhau lúc buổi chiều. Tôi ở khách sạn số 5 Lê Lợi. Một tổ hợp dịch vụ với giá bình bình. Đợt này đi, Nhã đưa tôi nhiều tiền. Tôi ngần ngừ cho xếp đô xanh vào túi ngực. Nhã hỏi "đã đủ chưa", giang hồ vặt như thế 1à là quá nhiều. "Tôi không dám nhìn thẳng, tôi đã nhìn thấy vài sợi bạc trong mái tóc dầy của bạn. Nhã nói thêm "Không tiễn nhớ". Tôi ừ. Cái truyện ngắn tôi được giải lần này lấy bút danh là Phương Nhã. Cái truyện ngắn duy nhất Nhã thích. Khi toà soạn gửi báo biếu kèm một trăm ngàn nhuận bút, Nhã và tôi đủ ăn chả cá. Con bé Phương Phương tôi không bế nổi nữa rồi và nó vẫn ngồi đằng trước xe. Tôi phải hơi ngước nhìn để cám khỏi đụng vào đầu nó. Nhã đợi lấy bằng xong thì mua ô tô. Chả cá Lã Vọng tối thứ bẩy đông chật khách du lịch. Nhã không ăn mấy ngồi đọc lại truyện. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vẻ háo hức ở Nhã "Chính tay cậu đánh bản thảo cơ mà". Nhã tự đánh bản thảo trên Computer đời mới nhất, bốn tám sáu. Nhã bảo "truyện này lạ lắm, cậu không làm nổi cái thứ hai đâu". Tôi cũng thấy thế, vài năm gần đây tôi hay chua chát nên làm gì cũng ngấm đôi phần cay đắng còn truyện này, theo như Nhã, nó dịu dàng và có hậu. Anh bạn nhà thơ đưa tôi qua nhà, một khu tập thể sẫm vào nền trời đen vì mất điện, chạy vội lên khoảng tầng ba chắc báo vợ đêm nay không về Anh bạn nhà thơ hơn tôi chừng chục tuổi vẻ khắc khổ. Khi gõ cửa phòng tôi ở khách sạn rụt rè tự giới thiệu. Tôi thật mừng. Vừa nẫy tôi có gọi phone cầu âu tới toà soạn. Tôi trân trọng mời anh vào và thật sự thấy cảm động. Truyện ngắn đầu tiên ở một tạp chí lạ. Tôi chả là cái gì cả. Anh nói là rất thích truyện đó và hình dung tôi khác. Tôi hỏi anh xem đây có quán nào uống được không. Anh và tôi vào cái quán có vẻ nghèo. Rượu đế ngai ngái và đồ mồi thì thật dở. Tôi hơi cố vì gần đây tôi hay được uống rượu ngon. Uống chừng hết một tuần tôi rủ anh về khách sạn, uống ở quầy bar. Anh không quen ngồi ghế cao, tôi kêu kê một bàn ra ngoài sân. Chúng tôi uống ly, linh tinh Cognac lẫn Whisky và tôi thấy rượu ly ở Huế thật rẻ. Khoảng bẩy giờ chúng tôi thành bốn người, thêm hai thằng Tây tôi quen trên tầu khi nằm cùng Comparterment_. Một là Pháp, một là Hà Lan đều kém tuổi tôi. Đang trầm trầm uống tôi bỗng giật nảy người vì cái vỗ mạnh hai bên má liên tiếp nhận những cái hôn bạo. Hóa ra cả Giắc và Vanh đều thuê cùng khách sạn nhưng ở loại buồng tồi hơn tôi. Tôi lấy khăn ướt chùi kỹ má, có lẽ hai thằng này đã nốc tới vài lít. Lúc trên tầu có bốn cái giường, duy nhất tôi là Việt. Còn một nàng tóc hung hung đỏ quốc tịch Mỹ. Marry đi suốt vào Nha Trang vì đã đi Huế rồi. Tầu chạy chúng tôi bắt đầu làm quen, tôi nói cho oai là đi công tác, đi tổ chức một hội nghị Quốc tế to đùng về kỹ thuật ủ nấu rượu theo phương pháp truyền thống thuần Việt. Mọi người khi biết tuổi tôi đền kêu là trẻ. Marry chân thành khen tiếng Anh của tối. Cô ta mặt tròn nhiều tàn nhang nghiên cứu dân tộc học và bập bẹ chút tiếng Việt. Cô ta cũng biết Hai Bà Trưng. Tôi hỏi trong lịch sử Mỹ có những phụ nữ vĩ đại nào không. Marry nghĩ một lúc và lắc đầu. Giắc quay sang tôi nói về Jane da. Tôi mở ba lô lấy chai rượu Hà Bắc tôi thửa từ nhà. Tôi mời, vì theo truyền thống của dân tộc tôi khi nói về các nữ anh hùng người ta thường uống mừng. Các bạn nước ngoài trân trọng tán thành và đồng thanh coi đó là tập tục đáng kính. Hóa ra Giắc và Vanh là hai con sâu rượu, tửu lượng không thua tôi một ly nào. Tôi giới thiệu anh bạn nhà thơ. Giắc nói, năm năm gần đây anh chỉ kính trọng hai loại người, thi sĩ và Bartender. Tôi diễn nôm cho bạn tôi hiểu, đó là người pha rượu ở các tiệm chuyên nghiệp.
Bạn tôi bắt chặt tay Giắc nhờ tôi dịch hộ, khen ý kiến lỗi lạc. Giắc chạy đến quầy lấy thêm một chai Lúa mới rút tiền trả trước. Vanh cao hứng đọc một bài thơ tiếng Hà Lan cổ rồi dịch sang tiếng Anh. Trong bài thơ có rượu có tình yêu. Đột nhiên tôi nhớ Thủy. Tôi đi xa lần này em không biết. Trước lúc lên tàu tôi đi ngang qua ngõ nhà em. Cái ngõ nhỏ rất nhiều lần tôi đã đưa em về và là đầu tiên em cho phép tôi hôn ở chỗ khúc rẽ vắng người có tán cây si già mọc thấp. Bar rượu càng về tối càng đông khách. Tôi không muốn ồn ào nữa lấy cớ là phải đưa anh bạn về nhà, và tôi với nhà thơ đi uống tiếp. Đã đến tăng ba phải uống cho tử tế. Tôi hỏi có quán nào sang trọng không. Nhà thơ của tôi cười, anh không biết.
Tôi chưa đọc thơ anh nhưng biết chắc là anh nghèo. Chúng tôi mò mẫm quanh cửa Thượng Tứ rồi cũng vào một quán sáng choang. Quán có bàn ghế đẹp và thưa khách. Cô bé đứng sau quầy trạc ngoài hai mươi, khuôn mặt mỏng, kiểu mặt tôi không thích. Tôi hỏi đấy có phải tiêu biểu của gái Huế không. Anh bạn lắc đầu, nếu tôi muốn, chiều thứ bẩy đi bọ dọc sông Hương nhìn nữ sinh trung học tan trường. Những tà áo trắng đến nao lòng.
Tôi cười và lẩm bẩm áo em trắng quá nhìn không ra". Cảnh cổ điển, mà đã Clacssic thì ở đâu cũng vậy. Một ông già bạc bưng ly tới. Chai Martel cả chai tính đắt hơn Hà Nội chừng vài ba chục ngàn. Chúng tôi yên lặng uống. Nhiều khi uống với Thuỷ chúng tôi cũng yên lặng.
Những lúc hạnh phúc nhất là Thuỷ để yên tay trong tay tôi và khe khẽ hát. Những hôm như thế không nhiều lắm. Những hôm như thế uống rất khó say. Tôi lang mang ngắm cái mũi hơi hếch của Thủy ở giữa chân mày phải, có một nốt ruồi đậm. Thuỷ cười vô cớ he hé hàm răng ngà ngà màu tetracylin. Những năm chiến tranh trẻ con không có loại kháng sinh nào khác. Tôi thì thầm "Anh yêu đôi hàm răng của em, nhất là mấy cái răng cửa". Thuỷ nhìn tôi đầy cảnh giác
"Lại bắt đầu giở trò đấy".
Anh thề trong hội hoạ mầu vàng là gam mầu sang trọng. Và đâu phải ngẫu nhiên mầu vàng là mầu riêng của hoàng gia cả Đông lẫn Tây".
Thuỷ cấu tay tôi, cấu li ti rất đau như ong đốt. Tôi vô tình cho tay ra ngoài cửa sổ Mưa Huế về đêm nặng hạt hơn, nhàn nhạt lạnh chảy ngược vào trong ống tay áo. Hết chừng nửa chai chúng tôi đi ra mưa. Anh bạn nhà thơ đèo tôi bằng cái xe Phượng Hoàng xích chùng.
Huế muộn đường phố càng trầm. Cả một đoạn dài hầu như không quán xá. Chúng tôi lại đi qua cầu mới. Đến đầu đường Lê Lợi tôi vẫy cái xích lô đạp ngược. Chúng tôi cất cái xe Phượng Hoàng được gia cố quá nhiều những phụ tùng Sài Gòn vào chỗ gửi xe của khách sạn.
Anh nhà thơ đập tay vào thành xích lô. Chiếc xe đỗ trước nhà có vườn rộng đường đất lép nhép ướt vào căn phòng ồn ào đông ngươi. Mọi người reo lên khi thấy nhà thơ và ngỡ ngàng lịch sự nhìn tôi. Chiếu rượu đang dở bữa. Hai đĩa nhôm to đầy nem lụi và nhiều mực khô.
Quanh tường treo lộn xộn tranh sơn dầu và thuốc nước, đa phần vẽ hoa. Anh bạn nhà thơ giới thiện tôi, tôi trân trọng uống một ly đầy rượu thuốc của một anh áng chừng chủ nhà. Chiếu rượu tiếp tục mọi người đang bàn chuyện thơ. Thơ miền Trung mang một tâm thế lớn trong nền thơ dân tộc. Đấy là nghe nói vậy, chứ thơ tôi không rành. Một đôi nam nữ còn trẻ hăng say đọc Nguyễn Tết Nhiên hay Phạm Thiên Thư, tôi không rõ.
Trong các nhà thơ của miền Nam trước bẩy nhăm, có dạo tôi rất thích Nguyên Sa. Hồi chơi nhạc ở ban Sóng đêm, thằng Bích kiếm đâu được tập thơ Bùi Giáng. Tôi đứng đọc dưới hiên vỉa đường Cô Giang, từ đó thấy cũng bớt nhiều ác cảm với những ai là thi sĩ. Tôi rút chai Martel dở ở phía trong áo khoác ra góp vui. Thiếu nữ tóc thề vừa đọc thơ vừa khẽ liếc tôi, con gái Huế đa tình đã được ghi vào sách. Tôi vừa ăn nem vừa nghe một anh trạc ngoài bốn mươi nói giọng Bắc bình luận giải thưởng của Hội nhà văn năm ngoái. Tạp chí Sông Hương mấy số vừa rồi đăng nhiều bài phê bình văn học bị coi là có vấn đề. Người Huế hiền, nhưng khi bàn học thuật, cũng khá là ác khẩu. Anh chủ nhà bê ra thêm bình rượu. Mọi người ngất ngư uống và bắt đầu đọc thơ mới sáng tác.
Tiếng Việt có nhạc điệu cao, nhiều nhà ngôn ngữ nổi tiếng bảo vậy, nên dân tộc ta ưa làm thơ. Chuông đồng hồ đánh một hay hai tiếng gì đấy. Sáng hôm sau tôi tỉnh dậy trong khách sạn, chịu không thể nhớ mình về bằng cách nào. Đầu ê ẩm, người bị cắt khúc từng mảng. Chắc là có ngã. Trang Tử bảo: "Người hòa với rượu khi ngã không đau". Tôi vào toillete, cái gương hình bầu dục có khuôn mặt nhợt nhạt phía dưới cổ áo là vệt nôn đậm chưa khô hẳn. Tôi đánh răng lau mặt kỹ và tắm. Người ơn ớn lại thấy nôn nao. Tôi lảo đảo ra bàn uống hết chai nước khoáng. Đây là kinh nghiệm của riêng tôi đúc kết qua nhiều lần quá chén. Bị lại rượu và buồn nôn cứ cho dạ dày ngập nước. Tôi để lại cái bô nhựa đỏ đựng bã trà ra trước mặt bình tĩnh chờ. Tới rồi. Tôi thắt người ra mà nôn, nước mắt nước mũi ứa nhoè nhoẹt. Một nhịp, hai nhịp cơ hoành bẻ gập xương sống. Bây giờ mới thật ra hết. Tôi ngồi thằng lưng thở dốc, thấy ân hận chuyện rượu chè quá. Từ mai nhất quyết không đụng đến ly cốc nữa. Trong cái đám nước sùng sũng nhờ nhờ mấy giọt quánh mầu nâu. Đúng là ra mặt xanh mặt tím. Các cụ nhà mình thật giỏi. Tôi tỉnh hẳn. Lại xúc miệng cẩn thận rồi mềm mại thả lỏng chân tay nằm dềnh dang cả giường. Tôi nằm dài xem báo đến chừng mười một rưỡi trưa thì kêu xích lô tìm quán bún bò giò heo. Tôi mê phở Hà Nội, yêu bún Huế và thích hủ tiến Sài Gòn. Hồi còn trong Nam, mấy anh em chơi nhạc khuya về, kéo nhau ra đường Paster ăn phở. Phở Sài Gòn lạ miệng cũng thật ngon. Miếng gầu miếng nạm bản to thái hơi dầy. Có thêm giá và vài nhánh mùi tầu. Tôi thòm thèm làm trọn một bát nhưng bắt tối nào cũng ăn liên miên thì chịu.
Phở bò Hà Nội nước trong hơn nên đỡ ngấy. Hàng phở ngon cũng chỉ còn một vài. Giữa phố Bát Đàn và đầu phố Lý Quốc Sư. Nắng hiếm hoi ửng nhạt qua rèm cửa. Một tuần ở Huế có cái may là ít gặp nắng. Nhiều ngươi kêu ca mưa Huế, nhưng tôi thích. Cũng có thể do tâm trạng lúc này.
Tôi xuống ga Hà Nội và đi thẳng đến nhà Nhã. Hôm ở Huế tôi có phone ra. Nhã nói là tự nhiên thấy sốt ruột. Tôi bảo không có chuyện gì đâu, Huế hiếu khách và thật đẹp. Rồi đùa thêm, ở Huế chưa có bia ôm. Nhã kêu, qua phone nghe thấy nhiều tiếng ồn. Tôi giải thích là mình đang ở trong một vũ trường xinh xắn và giá thật rẻ. Nhã bảo là hãy cẩn thận với Sông Hương. Dòng sông thơ mộng đã nhấn chìm biết bao sĩ phu Bắc Hà. Tôi cười. Thứ nhất tôi không phải là kẻ sĩ. Thứ hai là tôi đã được mời đi nghe hát ca Huế ở trên thuyền rồng. Không giống người ta đồn.
"Thế nó giống cái gì".
"Nó giống quảng cáo".
"Không được uống rượu à?
"Mình say thiếu điều lộn cổ.
"Uống vừa thôi nhớ".
"Chủ nhật tới mình ra, thấy nhớ bé Phương Phương lắm".
"Chú Hoàng ơi, con đây".
"Chú chào con. Muốn cái gì nào".
"Chú đợi con, con ị xong đã".
"Cậu không đi Sài Gòn nữa à"
"Chán rồi"
"Cậu đừng về Hà Nội vội".
"Sao vậy".
"Cứ nghe mình đi".
"Chuyện của Thuỷ à"
"Hai hôm trước Thuỷ nó có qua nhà mình, Thuỷ đến vì biết cậu ở Huế".
"Bẩy tháng rồi chúng mình không gặp nhau".
Hoàng này, Thuỷ sắp đi Tiệp, có lẽ tuần sau. Mọi giấy tờ xong hết rồi chỉ chờ ngày có vé".
Tôi cúp máy. Nói cho thật đúng là tôi không đủ sức cầm phone nữa. Em không tha thứ cho tôi. Cái điều bất hạnh tôi linh cảm đã tới. Tôi có lỗi và lạy Chúa, sao Người thật nặng nề với con. Tôi đi dọc theo đường Lê Lợi. Anh yêu em mà, bình tĩnh đi em. Chẳng nhẽ anh phải chịu một hình phạt kinh khủng thế saO.Không có em, anh còn biết làm gì. Từ Bưu điện đến nhà thờ Phủ Cam có đường ngắn hơn kia. Loanh quanh rất lâu dưới trời mưa tôi không tìm thấy nhà thờ. Mà tôi cũng cóc cần nhà thờ. Tôi chẳng tin ai cả, tôi chẳng tin vào một cái gì cả. Tất cả chỉ lừa dối. Càng dịu dàng càng nhân ái lại càng lừa dối. Càng xinh xắn lại càng lừa dối. Đâu có phải lỗi tại mình tôi. Đập vỡ, cứ đập vỡ đi. Sao em ác độc vậy Mình điên rồi. Mình phải đi xích lô thôi. Sẽ đi qua một nhà thuốc. Tôi lập cập trèo lên một cái xích lô. Mình mua một vỉ hay hai vỉ sédulxen. Thực ra sédulxen là thuốc an thần. Mình có anh bạn mất ngủ tối nào cũng uống bốn viên, tôi đưa cả nắm tiền lẻ vò nhàu trong túi quần ẩm. Đứa bé gái đang mải chơi bài rút đại mấy vỉ đưa tôi. Bình tĩnh đi. Tôi mở khóa phòng lơ mơ leo cả giầy lên giường. Tôi nhớ ra chưa trả tiền xích lô. Tôi chạy xuống nhảy ba bậc một suýt đâm phải hai nàng nhân viên đang khanh khách cười đi ngược cầu thang. Ông xích lô vẫn chờ. Tôi rút tờ tiền chẵn đưa ông ta máy móc đợi trả lại. Ông xích lô loay hoay không có tiền lẻ. Tôi bỗng thét lên giọng căm giận vô cớ. "Tôi cho ông đấy". Ông xích lô vội vã đạp, đến ngã tư còn ngoái cổ lại.
Tôi lên phòng mở một chai bia trong tủ lạnh. Tôi thong thả uống từng viên sédulxen. Đếm đúng viên thứ năm là ngừng. Tôi chậm chạp đặt mình xuống giường. Chân tay như giãn hết cỡ. Bỗng tôi lẩm nhẩm. Tôi cầu gọi Đức Mẹ. Hình như tôi cũng khóc. Tôi lơ mơ nhớ những khuôn mát quen, lạ. Ơn Chúa, tôi đã ngủ.
Sáng hôm sau tôi dậy rất muộn, người tỉnh táo. Cửa sổ gió lùa thổi tung, máy điều hòa vẫn chạy. Ngoài trời tiếp tục mưa. Mọi vật ảm đạm nhưng rõ nét. Tôi tháo giầy ra khỏi chân đi tìm cái gì uống. Hết sạch rượu nhưng bia thì còn nhiều. Tôi cũng cảm thấy đói. Thấy thèm một cái gì đó có nước và nóng. Bát mỳ vằn thắn chẳng hạn. Tôi ngồi thừ một lúc lâu. Trên mặt bàn, dưới cái gạt tàn, một bức thư tay của ai gửi. Anh bạn nhà thơ rủ tôi đi nhậu. Anh hẹn sáu rưỡi tối qua đón. Từ giờ cho đến lúc ấy thời gian còn rất dài. Theo kinh nghiệm những lúc như thế này không nên uống rượu một mình. Tôi tắm nước nóng thật kỹ, rồi đi qua ga hỏi mua vé tàu về Hà Nội. Vé nằm phải ba ngày nữa mới có. Bây giờ ở đâu với tôi cũng vậy. Về sớm mà làm gì. Tôi mua vé chuyến bảy giờ. Tôi ung dung quay về khách sạn. Khi ngang qua mấy quán quen cắm đầu đi thẳng. Tôi ở Huế ít ngày, những đến quán nào cũng kêu Henessy cả chai nên được thuộc mặt. Tôi không cầm ô, mưa phùn bám đầy tóc và môi tôi ngòn ngọt.
Tôi uống bia Hà Nội có cơn mưa rào bất chợt. Cụ bà nằm cùng buồng nhờ tôi xách hộ hai can nước mắm. Suốt đêm qua tôi mất ngủ vì cái mùi nặng. Bà cụ hơn sáu mươi đi thăm con trai làm ở sở Hoả xa Đà Nẵng. Tầu đỗ. Một ông già thắt cà vạt đỏ tóc khó tả màu vì thuốc nhuộm phai, giơ tay vẫy bà già "mình ơi, tôi đây".
Bà cụ nở nụ cười móm tình tứ, rồi giới thiệu tôi với phu quân. Tôi nhẹ người khi ông Quý tộc già nói merci và bảo tôi chuyển hai can nước mắm cho một thằng nhỏ chừng mười ba, mười bốn. Thằng bé nhìn hai can nước mắm bằng đôi mắt mang hình viên đạn. Hai ông bà già quen dùng bữa ở tiệm, còn đây 1à thức ăn khô trong vòng vài tháng của nó. Tôi đi xe ôm, ướt lướt thướt bấm chuông nhà Nhã. Bạn của tôi không có nhà. Bà U đi kiếm bộ pjama tôi vẫn để ở đây vì có những lúc dăm bẩy ngày tôi trông nhà, khi Nhã đi vắng. Tôi tắm xong, bà U nấu cho bát cháo nhiều thịt gà. Tôi uống hai lon bia tiger, tiện tay mở tủ thấy chai Gordon lưỡng lự uống thêm mấy ly. Tôi bật ti-vi, Giám đốc Ngân hàng mặt xấu giai đang giải thích về lãi xuất tiết kiệm, lại tắt. Lơ mơ, tôi với tờ báo Lao động xem chuyên nục thể thao. Có một bài cằn nhằn về giải bóng đá quốc gia ký tên Tường Vi, anh chàng này tôi thích vì cái giọng gay gắt gần văng tục. Lật mặt kia tôi xem mục tản mạn cuối tuần, tâm trạng của tác giả áy náy mặc cảm với lương tâm khi uống hết lon bia thứ hai thì trông thấy một bà già ăn mày hao hao mẹ mình.
Tôi vứt tờ báo xuống nền nhà. Trời vẫn day dứt mưa và rượu trong chai trắng đáy. Tôi thấy bơ vơ và ngẩn ngơ - tôi thiêm thiếp trên divang. Bừng mắt dậy thấy Nhã ngồi đối diện, mạc bộ váy ở nhà có hoa tím rất to.
- Trông cậu mệt lắm.
- Nhã về từ lúc nào".
- Lâu rồi, cậu ngủ ngon phát khiếp".
"Mình tu hết cả chai rượu"
"Chiều nay mình mua thêm. Cậu thử uống Remy Martin xem, rượu mới quảng cáo đấy".
"ở Huế rượu ly rẻ, nhưng nói chung dân Huế không nghiện.
"ở Huế cũng mưa à"
"Nhiều lắm"
Tôi đi vào toillette rửa mặt. Nhã pha cho tôi một cốc cam vắt. Tôi đùa.
"Tái ngộ là phải uống rượu".
Còn nửa chai Gordon cậu uống hết rồi. Cứ nghĩ vài tuần nữa cậu mới ra, hôm nọ có chai "giôn" đen, cầm đến biếu thầy Phi".
"Chết rồi, quên không mua cái gì cho bé Phương".
"Cậu chết, biệt tăm mấy hôm không phone ra, hai mẹ con lo phát khóc".
"Mấy giờ đi đón bé Phương".
"Chìa khóa xe kia kìa, chừng nửa tiếng nữa".
Tôi im lặng, cố nén không hỏi chuyện về Thuỷ.
Nhã nhìn tôi.
"Lúc nãy cậu mơ nói".
"Có văng tục à".
"ác khẩu thế, cậu gọi tên mình".
Mặt Nhã sẫm buồn. Hình như chỉ có một lần tôi thấy Nhã khóc. Tôi không muốn bạn tôi xót xa nhưng không hiểu sao không thể đùa nổi. Tôi thở dài. "Mình chỉ còn vài ba người mà bây giờ đặc biệt là cậu".
Cũng có một lần uống rượu nhiều Nhã nói trên đời này Nhã còn duy nhất hai người, tôi và bé Phương. Cách đây chừng sáu bẩy tháng cho đến trước hôm tôi đi Huế, có một Phó tiến sĩ không trẻ lắm nhưng rất giầu con một vị cựu Bộ trưởng theo đuổi Nhã. Tôi gặp vài ba lần, có nhiều cảm tình. Anh ta nhẹ nhàng ẩn giấu một vẻ quý phái thông minh. Tên anh ta là Sáng. Lần đầu gặp nhau ở nhà Nhã anh đầy cởi mở. Có lẽ chuyện tôi là bạn thân của Nhã, anh đã biết. Anh cư xử đúng mức, lịch lãm. Hôm ấy tôi ra sức ba hoa cho mọi người vui. Tôi thuộc tính Nhã, rất khó chịu với bất kỳ ai không được mời mà đến. Hôm sau Nhã kể:
"Mình quen anh ta ở một salon thượng lưu. Bảo hoàn toàn không biết tý gì trước thì cũng không phải. Nhiều người vun vàO.Kỳ quái, đa phần là những đứa vay tiền mình. Anh ta là giai tân theo nghĩa hành chính. Mải học, mải làm cũng được tiếng là ngoan nên chưa kịp lấy vợ. Xuất sắc trên nhiều phương diện, có cái tệ là biết làm thơ".
Nhã có phản ứng cực đoan với thi ca. Ngày xưa, với Du, thằng bạn thi sĩ của tôi, Nhã ghét. Nhã nhắc đi nhắc lại không biết bao lần là quá may tôi chỉ viết được văn xuôi. Hồi năm thứ hai, cô bạn thân duy nhất của Nhã quay sang làm thơ. Có một chùm tham gia cuộc thi "Ngày xanh học đường" do một báo thuộc Trung ương Đoàn tổ chức. Vô phúc, đấy là theo lời Nhã, cô bạn trúng giải. Mấy nhà phê bình xúm vào vuốt ve cô bé thi sĩ. Nữ sinh viên ngoại ngữ năm thứ hai bập bềnh lãng đãng trôi từ "Câu lạc bộ thơ trẻ" sang "Tọa đàm các nhà thơ nữ". Tôi chỉ biết ba năm sau khi vừa xong tốt nghiệp, tôi đèo Nhã sang thăm cô bạn ở Châu Quỳ. Cặp mắt long lanh ngày xưa bây giờ mất thần ngơ ngác nhìn tôi với Nhã cười vô cớ. Nhã đứng lặng, bất lực văng một câu rất tục. Còn tôi về đặt mua liên
tiếp ba tháng cái tờ báo khởi xướng cuộc thi ấy, dùng bồi trần nhà. Tôi không vay tiền Nhã, nhưng cũng vun vào chuyện anh Sáng. Lần thứ hai tôi gặp anh khi theo Nhã vào Sài Gòn dự lễ khai trương một triển lãm kinh tế của Nhật. Một nửa các gian quầy dùng quảng cáo các dây chuyền tái chế sản phẩm nông nghiệp, phần nửa còn lại khoe những thiết bị dân dụng. Đây gần như lần đầu tiên Nhật Bản, thiên đường kinh tế trong mơ mà người Việt Nam quá quen với những Sony, National, sau nhiều năm đứt đoạn chính thức được phép đưa hàng hoá không phải rò rỉ tủ lạnh, xe máy Ti vi qua những đội tầu viễn dương buôn lậu. Anh Sáng là một trong hội đồng chủ tịch của Ban tổ chức. Anh nói tiếng Nhật nhuần nhuyễn và mê thơ Haiku. Anh thổ lộ thêm điều ấy vì Nhã nửa nạc nửa mỡ tiết lộ tôi viết văn. Anh Sáng hỏi tôi hay đăng ở báo nào, tôi nói là tôi mới bắt đầu viết, đang dự định một bộ trường thiên tiểu thuyết dài ba nghìn trang và hiện nay tôi đã xong cái đề cương dài ba trang. Anh Sáng cụng ly với tôi, cố giấu vẻ giễu cợt. Tôi cám ơn và thấy trân trọng. Tôi biết, một công tử đại gia dòng dõi cao môn lệnh tộc như anh, thường thường rất
hay gặp những thằng nói phét. Hôm ấy chúng tôi ngồi uống rượu thân mặt ở Rex, anh mời riêng những người thân, vì hôm trước Nhã nhất quyết từ chối không dự bữa tiệc khai trương tại khách sạn Continnentan. Ngoài ba chúng tôi còn có hai người Nhật. Cả hai thương gia đều chưa đến bốn mươi có vẻ sắc sảo. Họ ăn bằng đũa, lịch sự nói với tôi bằng tiếng Anh. Khi chạm cốc, cố ý để ly dưới thấp tỏ ý khiêm nhường. Anh Sáng giải thích, người Nhật ăn uống cẩn thận, họ là cha đẻ ra kiểu oskawa chỉ ăn gạo lứt muối mè. Anh Sáng hỏi tôi có biết Basho không tôi thưa có rồi cung kính nghe anh cất giọng trầm ấm đọc bài con ếch nhẩy vào ao nước bằng nguyên bản tiếng Nhật. Hai thương gia đồng hương của đại thi hào phục lăn và tôi cũng lăn ra vì phục. Chúng tôi ở Sài Gòn thêm ba ngày và ba tháng và chưa gặp Thuỷ. Nhiều hôm tôi lảng vảng ở đầu ngõ không dám vào sâu vì cái ngõ nhỏ chật người đã quá quen mặt tôi. Tôi chặn đường em lúc ấy đã bốn rưỡi chiều. Tôi đứng bên số lẻ của đường Bà Triệu hút thuốc cứ nửa điếu là lại dụi. Mấy tay mua lậu xe đạp ăn cắp thay nhau nhìn tôi. Thuỷ đi thực tập rất chăm, đều dặn hai buổi sáng chiều. Ngân hàng công thương quận Hai Bà tan ra toàn đàn bà. Thuỷ vẫn đi xe đạp, song song cùng một nàng mặc váy bó lộ những đường nét trung niên, tôi theo sau, loáng thoáng ngược gió nghe tiếng xưng hô cô cháu. Đến gần hồ Halais thì Thuỷ có một mình. Trong tình yêu hay có nhiều nốt láy. Lần đầu tiên tôi đưa Thuỷ về cũng chính ở đoạn này.
"Anh chào em".
Thuỷ quay sang, một vẻ dửng dưng, không ngạc nhiên.
"Em tan muộn vậy".
Thuỷ mím môi rồi nói từng câu.
"Chắc anh muốn nói chuyện".
"Vâng"
Im lặng dài. Chúng tôi đi rất chậm và cây hai bên đường đầy gió.
"Thế này nhé. Tôi sẽ ngồi với anh hết lần này, nếu cần đến tận đêm. Có điều gì muốn nói với tôi thì cứ nói hết. Rồi từ mai anh bỏ cái kiểu loanh quanh trước ngõ hay trước cơ quan tôi đi. Tôi không muốn mọi người dị nghị và tôi cũng mỏi mệt rồi".
Chúng tôi ngồi ở quán café có vươn trông ra hồ, một đoạn phố còn sót nhiều Villar kiểu Pháp. Bà chủ quán gầy sắc, ánh mắt nhìn đanh, tôi kêu một lon bấm ba và ly café đá. Bao nhiêu lần tôi với em ngồi cùng nhau hay uống kiểu này. Trong tôi tôi còn một gói dở Marlboro. Tôi nhìn em và em nhìn mung lung. Khuôn mặt của em những tháng gần đây gầy, da xạm, cặp mắt hơi nhíu hằn vài nét nhăn trên vầng trán xanh khắc khổ. Bây giờ nhớ lại lần gặp cuối đấy, tôi vẫn thấy buồn. Một kiểu buồn với những nét cào nhức buốt. Tôi đã làm gì để em đau đớn và trở nên dửng dưng. Tôi hút thuốc miệng đắng nhả những vòng khói vô hồn lễnh loãng. Tôi nhấp ngụm bia quen tay khuấy hộ em ly cafe. ở trong sâu xa tôi biết mọi chuyện cơ hồ khó cứu vãn. Tôi bắt đầu nói và nói nhiều, cố dẫn giải như hồi đầu mới yêu em. Tôi tránh không nhắc về cái tát, không nói về Trần Bình. Tôi nói, tính tôi em đã biết, dở nhiều hay ít. Nếu em còn yêu tôi mong em bỏ qua những chuyện linh tinh tôi sẽ dần dần sửa chữa. Lưỡng lự, tôi cũng xin lỗi mặc dù không thật lòng. Tôi cũng ghen tuông như bất cứ người con trai nào yêu lần đầu.
"Anh nói hết chưa"
Thuỷ nhìn đồng hồ và cau mặt khi tôi lấy tay che đồng hồ.
"Anh yêu em".
"Anh nói hết chưa".
"Vâng, anh đã nói hết".
"Thế thì đến lúc phải về rồi. "
"Em không nghe anh nói một chút gì sao".
Thuỷ đột nhiên thở dài, hình như là cay đắng.
"Quá nhiều lần nghe anh nói rồi".
"Tha lỗi cho anh, một lần nữa, anh xin em"
"Thực ra anh có lỗi gì đâu".
"Em đừng nói thế".
"Ngày xưa, có nhiều lúc, cứ luôn nghĩ mình là người hạnh phúc nhất".
"Lúc nào anh cũng yêu em".
"Thôi"
"Cái gì cơ",
"Đã đến lúc phải đi về".
Thuỷ dứng lên. Tôi cầm hai tay của em.
"Anh bỏ ra"
"Tha lỗi cho anh".
"Anh bỏ tay ra".
"Thuỷ".
"Anh đừng làm tôi khó chịu".
Có cái gì hung bạo chợt gầm lên trong tôi, vô thức tôi giơ cánh tay. Thuỷ đứng thẳng trừng trừng nhìn tôi.
Thật là hết. Tự nhiên tôi thấy bải hoải. Thuỷ kêu thanh toán tiền. Tôi ngồi yên vô hồn nhìn Thuỷ mở khoá xe, đạp từng vòng từng vòng, khuất nẻo vào ngã tư Nguyễn Du - Trần Bình Trọng. Tòi khóc, gục mặt uống cái bàn mây ngai ngái mùi tàn thuốc ẩm mà nức nở. Không biết bao lâu, có tiếng bà chủ the thé vọng vào gọi phích nước sôi trong nhà. Tôi đi về hướng hồ, mơ màng thấy chân mình dẫm xuống nước. Mặt hồ đen thăm thẳm một màu tuyệt vọng. Tất cả đều là vô nghĩa. Tôi giật mình vì một cái cấu bạo ngang sườn. Cô nàng mặt phấn với mi mắt xanh lét nhẽo nhợt mời mọc. Tôi đang sống và tôi chưa biết phải làm gì. Tôi quay về nhà với mẹ. Những tuần tiếp đó tôi lang thang bao nhiêu quán rượu. Nhiều buổi chiều khi đã mềm mềm môi tôi phi xe lên cầu Thăng Long. Từ trên cái lan can cao tít của cây cầu tôi nhìn dòng sông đỏ cuồn cuộn chảy. Tôi bình tâm hơn, lẩm nhẩm kêu tên Đức Mẹ. Đột ngột có cơn gió sắc như bất hạnh thổi tung tà áo tôi đã phanh dở. Lạy Chúa, Người thật công bằng. Tôi có tội, không phải nghiệp chướng từ kiếp trước mà ngay ở kiếp này tôi đã làm nhiều bậy bạ.
Tôi kêu van Chúa xin Người hãy thương tôi. Hiển nhiên không oan trái gì khi em bỏ tôi. Tôi cũng đã dửng dưng tàn nhẫn với nhiều người. Sao tôi lại mất em. Không có em. Suốt năm năm liền tôi đã quen có em. Gió trên cao quần quật thổi, Một cái xít-đờ-ca của cảnh sát cơ động đi tuần. Viên Đại uý có hàm râu quai nón nhìn tôi nghi ngờ. Tôi nhìn thật đậm vào lòng sông. Tôi thấy nhỏ nhoi và tuân theo ý Chúa. Tôi là một tín đồ cơ đốc giáo và giáó lý không cho phép tội tự huyt hoại. Tôi hét lên cho giọng mình lạc vào gió. Không phải hét mà là gào gọi.
Lạy Chúa, xin Người đừng bỏ con. Tôi thả người nằm xuống mặt cầu. Đỡ thấy hoang mang, đỡ thấy hư vô. Tôi lại trở về sở hữu sự mệt mỏi và bơ vơ. Ngay cuối cùng ở Sài Gòn, mọi người tổ chức Píc níc mừng thành công của triển lãm. Nhã gõ cửa phòng rủ tôi đi Lái Thiêu. Anh Sáng đang chờ dưới nhà tự tay lái cái Toyota Crona. Tôi nói với Nhã không phải tôi mệt, nhưng tôi không muốn đi. Bạn tôi chỉ muốn tôi khuây khỏa. Ơn lớn của bạn, tôi chỉ biết để trong tâm.
Hôm Thuỷ đi xa, tôi biết. Tôi còn biết chuyến bay của Aeroflot sẽ cất cánh vào khoảng hai giờ chiều. Tôi cũng biết số người ra tiễn Thuỷ ngần nào là bạn, ngần nào là người thân. Tôi nằm một mình không hút thuốc, không uống rượu. Cả người nhiều đờ đẫn. Có một mảng vôi lở ở trên trần lớp loè hiện hình quái dị. Tôi lấy làm tiếc là tôi vẫn ở Hà. Nội. Nằm bâng quơ một lúc lâu, tôi lấy làm may là tôi không bỏ đi xa. Hai tháng trước tôi vào Huế, chơi lang thang. Tạp chí Sông Hương cho tôi một cái giải nho nhỏ, truyện ngắn hay trong tháng. Tôi đã đến Huế một lần, thuở vời vợi năm cuối sinh viên.
Cũng chẳng nhớ nhiều vì nhập nhoạng ở chưa hết một ngày. Ang áng thấy Sông Hương là hiền và con gái Huế là dịu dàng. Nói vậy để khỏi phụ thơ phú tiểu thuyết chứ hôm ấy tôi uống nhiều, từ sáng đến tối chỉ gặp duy nhất hai phụ nữ: một bà già bán cơm hến và bà kia còn già hơn bán bún bò giò heo. Tôi đứng cửa ga lưỡng lự hỏi thăm đường. Tôi không quen ai ở Huế, trong túi chỉ bơ vơ có cái địa chỉ toà soạn của tạp chí nọ. Lúc tôi lên tầu, sân ga Hà Nội có mưa rào. Lúc tôi xuống tầu, Huế ảm đạm trong cái mưa nổi tiếng. Tôi ở Huế một tuần và Huế mưa đủ bẩy ngày. Tôi ích kỷ như bao kẻ lãng du cưỡi ngựa xem hoa? tôi thấy mưa Huế là đẹp. Anh bạn nhà thơ mới quen ngồi đối ẩm trầm ngâm lắc lắc đầu.
Chúng tôi mồi bằng cật dê và uống nguyên một chai Martel. Tôi cạn chén nhắc lại, nếu Huế không mưa Huế sẽ tầm thường như bất cứ một thị xã lẻ nào. Anh bạn nhà thơ khoát khoát tay không hiểu phủ nhận hay đồng ý. Tôi muốn ngày mai đi lăng Minh Mạng. Anh bạn góp ý đấy là lăng ỏ xa nhất thường thường người ta hay đi vào ngày cuối. Tôi không thích giống các đoàn du khách, trong ba hoặc bốn lăng đáng thăm, tôi sẽ lần lượt theo chiều dọc của lịch sử. Anh bạn nhà thơ chiều tôi gật đầu. Những người biết làm thơ hiền và lành nhất trên cái quả đất mà. "Mấy giờ thì Hoàng phải về khách sạn". Tôi nói là đêm đầu tiên ở xứ lạ bao giờ tôi cũng overnight_ ở ngoài đường. Anh bạn nhà thơ rủ đến nhà một người bạn thơ, ở Huế trời ẩm nên đông người làm thơ. Anh bạn cười. Thật hạnh phúc khi được uống rượu với những người thông minh mà không độc ác. ơn Chúa, chúng tôi mới quen nhau lúc buổi chiều. Tôi ở khách sạn số 5 Lê Lợi. Một tổ hợp dịch vụ với giá bình bình. Đợt này đi, Nhã đưa tôi nhiều tiền. Tôi ngần ngừ cho xếp đô xanh vào túi ngực. Nhã hỏi "đã đủ chưa", giang hồ vặt như thế 1à là quá nhiều. "Tôi không dám nhìn thẳng, tôi đã nhìn thấy vài sợi bạc trong mái tóc dầy của bạn. Nhã nói thêm "Không tiễn nhớ". Tôi ừ. Cái truyện ngắn tôi được giải lần này lấy bút danh là Phương Nhã. Cái truyện ngắn duy nhất Nhã thích. Khi toà soạn gửi báo biếu kèm một trăm ngàn nhuận bút, Nhã và tôi đủ ăn chả cá. Con bé Phương Phương tôi không bế nổi nữa rồi và nó vẫn ngồi đằng trước xe. Tôi phải hơi ngước nhìn để cám khỏi đụng vào đầu nó. Nhã đợi lấy bằng xong thì mua ô tô. Chả cá Lã Vọng tối thứ bẩy đông chật khách du lịch. Nhã không ăn mấy ngồi đọc lại truyện. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vẻ háo hức ở Nhã "Chính tay cậu đánh bản thảo cơ mà". Nhã tự đánh bản thảo trên Computer đời mới nhất, bốn tám sáu. Nhã bảo "truyện này lạ lắm, cậu không làm nổi cái thứ hai đâu". Tôi cũng thấy thế, vài năm gần đây tôi hay chua chát nên làm gì cũng ngấm đôi phần cay đắng còn truyện này, theo như Nhã, nó dịu dàng và có hậu. Anh bạn nhà thơ đưa tôi qua nhà, một khu tập thể sẫm vào nền trời đen vì mất điện, chạy vội lên khoảng tầng ba chắc báo vợ đêm nay không về Anh bạn nhà thơ hơn tôi chừng chục tuổi vẻ khắc khổ. Khi gõ cửa phòng tôi ở khách sạn rụt rè tự giới thiệu. Tôi thật mừng. Vừa nẫy tôi có gọi phone cầu âu tới toà soạn. Tôi trân trọng mời anh vào và thật sự thấy cảm động. Truyện ngắn đầu tiên ở một tạp chí lạ. Tôi chả là cái gì cả. Anh nói là rất thích truyện đó và hình dung tôi khác. Tôi hỏi anh xem đây có quán nào uống được không. Anh và tôi vào cái quán có vẻ nghèo. Rượu đế ngai ngái và đồ mồi thì thật dở. Tôi hơi cố vì gần đây tôi hay được uống rượu ngon. Uống chừng hết một tuần tôi rủ anh về khách sạn, uống ở quầy bar. Anh không quen ngồi ghế cao, tôi kêu kê một bàn ra ngoài sân. Chúng tôi uống ly, linh tinh Cognac lẫn Whisky và tôi thấy rượu ly ở Huế thật rẻ. Khoảng bẩy giờ chúng tôi thành bốn người, thêm hai thằng Tây tôi quen trên tầu khi nằm cùng Comparterment_. Một là Pháp, một là Hà Lan đều kém tuổi tôi. Đang trầm trầm uống tôi bỗng giật nảy người vì cái vỗ mạnh hai bên má liên tiếp nhận những cái hôn bạo. Hóa ra cả Giắc và Vanh đều thuê cùng khách sạn nhưng ở loại buồng tồi hơn tôi. Tôi lấy khăn ướt chùi kỹ má, có lẽ hai thằng này đã nốc tới vài lít. Lúc trên tầu có bốn cái giường, duy nhất tôi là Việt. Còn một nàng tóc hung hung đỏ quốc tịch Mỹ. Marry đi suốt vào Nha Trang vì đã đi Huế rồi. Tầu chạy chúng tôi bắt đầu làm quen, tôi nói cho oai là đi công tác, đi tổ chức một hội nghị Quốc tế to đùng về kỹ thuật ủ nấu rượu theo phương pháp truyền thống thuần Việt. Mọi người khi biết tuổi tôi đền kêu là trẻ. Marry chân thành khen tiếng Anh của tối. Cô ta mặt tròn nhiều tàn nhang nghiên cứu dân tộc học và bập bẹ chút tiếng Việt. Cô ta cũng biết Hai Bà Trưng. Tôi hỏi trong lịch sử Mỹ có những phụ nữ vĩ đại nào không. Marry nghĩ một lúc và lắc đầu. Giắc quay sang tôi nói về Jane da. Tôi mở ba lô lấy chai rượu Hà Bắc tôi thửa từ nhà. Tôi mời, vì theo truyền thống của dân tộc tôi khi nói về các nữ anh hùng người ta thường uống mừng. Các bạn nước ngoài trân trọng tán thành và đồng thanh coi đó là tập tục đáng kính. Hóa ra Giắc và Vanh là hai con sâu rượu, tửu lượng không thua tôi một ly nào. Tôi giới thiệu anh bạn nhà thơ. Giắc nói, năm năm gần đây anh chỉ kính trọng hai loại người, thi sĩ và Bartender. Tôi diễn nôm cho bạn tôi hiểu, đó là người pha rượu ở các tiệm chuyên nghiệp.
Bạn tôi bắt chặt tay Giắc nhờ tôi dịch hộ, khen ý kiến lỗi lạc. Giắc chạy đến quầy lấy thêm một chai Lúa mới rút tiền trả trước. Vanh cao hứng đọc một bài thơ tiếng Hà Lan cổ rồi dịch sang tiếng Anh. Trong bài thơ có rượu có tình yêu. Đột nhiên tôi nhớ Thủy. Tôi đi xa lần này em không biết. Trước lúc lên tàu tôi đi ngang qua ngõ nhà em. Cái ngõ nhỏ rất nhiều lần tôi đã đưa em về và là đầu tiên em cho phép tôi hôn ở chỗ khúc rẽ vắng người có tán cây si già mọc thấp. Bar rượu càng về tối càng đông khách. Tôi không muốn ồn ào nữa lấy cớ là phải đưa anh bạn về nhà, và tôi với nhà thơ đi uống tiếp. Đã đến tăng ba phải uống cho tử tế. Tôi hỏi có quán nào sang trọng không. Nhà thơ của tôi cười, anh không biết.
Tôi chưa đọc thơ anh nhưng biết chắc là anh nghèo. Chúng tôi mò mẫm quanh cửa Thượng Tứ rồi cũng vào một quán sáng choang. Quán có bàn ghế đẹp và thưa khách. Cô bé đứng sau quầy trạc ngoài hai mươi, khuôn mặt mỏng, kiểu mặt tôi không thích. Tôi hỏi đấy có phải tiêu biểu của gái Huế không. Anh bạn lắc đầu, nếu tôi muốn, chiều thứ bẩy đi bọ dọc sông Hương nhìn nữ sinh trung học tan trường. Những tà áo trắng đến nao lòng.
Tôi cười và lẩm bẩm áo em trắng quá nhìn không ra". Cảnh cổ điển, mà đã Clacssic thì ở đâu cũng vậy. Một ông già bạc bưng ly tới. Chai Martel cả chai tính đắt hơn Hà Nội chừng vài ba chục ngàn. Chúng tôi yên lặng uống. Nhiều khi uống với Thuỷ chúng tôi cũng yên lặng.
Những lúc hạnh phúc nhất là Thuỷ để yên tay trong tay tôi và khe khẽ hát. Những hôm như thế không nhiều lắm. Những hôm như thế uống rất khó say. Tôi lang mang ngắm cái mũi hơi hếch của Thủy ở giữa chân mày phải, có một nốt ruồi đậm. Thuỷ cười vô cớ he hé hàm răng ngà ngà màu tetracylin. Những năm chiến tranh trẻ con không có loại kháng sinh nào khác. Tôi thì thầm "Anh yêu đôi hàm răng của em, nhất là mấy cái răng cửa". Thuỷ nhìn tôi đầy cảnh giác
"Lại bắt đầu giở trò đấy".
Anh thề trong hội hoạ mầu vàng là gam mầu sang trọng. Và đâu phải ngẫu nhiên mầu vàng là mầu riêng của hoàng gia cả Đông lẫn Tây".
Thuỷ cấu tay tôi, cấu li ti rất đau như ong đốt. Tôi vô tình cho tay ra ngoài cửa sổ Mưa Huế về đêm nặng hạt hơn, nhàn nhạt lạnh chảy ngược vào trong ống tay áo. Hết chừng nửa chai chúng tôi đi ra mưa. Anh bạn nhà thơ đèo tôi bằng cái xe Phượng Hoàng xích chùng.
Huế muộn đường phố càng trầm. Cả một đoạn dài hầu như không quán xá. Chúng tôi lại đi qua cầu mới. Đến đầu đường Lê Lợi tôi vẫy cái xích lô đạp ngược. Chúng tôi cất cái xe Phượng Hoàng được gia cố quá nhiều những phụ tùng Sài Gòn vào chỗ gửi xe của khách sạn.
Anh nhà thơ đập tay vào thành xích lô. Chiếc xe đỗ trước nhà có vườn rộng đường đất lép nhép ướt vào căn phòng ồn ào đông ngươi. Mọi người reo lên khi thấy nhà thơ và ngỡ ngàng lịch sự nhìn tôi. Chiếu rượu đang dở bữa. Hai đĩa nhôm to đầy nem lụi và nhiều mực khô.
Quanh tường treo lộn xộn tranh sơn dầu và thuốc nước, đa phần vẽ hoa. Anh bạn nhà thơ giới thiện tôi, tôi trân trọng uống một ly đầy rượu thuốc của một anh áng chừng chủ nhà. Chiếu rượu tiếp tục mọi người đang bàn chuyện thơ. Thơ miền Trung mang một tâm thế lớn trong nền thơ dân tộc. Đấy là nghe nói vậy, chứ thơ tôi không rành. Một đôi nam nữ còn trẻ hăng say đọc Nguyễn Tết Nhiên hay Phạm Thiên Thư, tôi không rõ.
Trong các nhà thơ của miền Nam trước bẩy nhăm, có dạo tôi rất thích Nguyên Sa. Hồi chơi nhạc ở ban Sóng đêm, thằng Bích kiếm đâu được tập thơ Bùi Giáng. Tôi đứng đọc dưới hiên vỉa đường Cô Giang, từ đó thấy cũng bớt nhiều ác cảm với những ai là thi sĩ. Tôi rút chai Martel dở ở phía trong áo khoác ra góp vui. Thiếu nữ tóc thề vừa đọc thơ vừa khẽ liếc tôi, con gái Huế đa tình đã được ghi vào sách. Tôi vừa ăn nem vừa nghe một anh trạc ngoài bốn mươi nói giọng Bắc bình luận giải thưởng của Hội nhà văn năm ngoái. Tạp chí Sông Hương mấy số vừa rồi đăng nhiều bài phê bình văn học bị coi là có vấn đề. Người Huế hiền, nhưng khi bàn học thuật, cũng khá là ác khẩu. Anh chủ nhà bê ra thêm bình rượu. Mọi người ngất ngư uống và bắt đầu đọc thơ mới sáng tác.
Tiếng Việt có nhạc điệu cao, nhiều nhà ngôn ngữ nổi tiếng bảo vậy, nên dân tộc ta ưa làm thơ. Chuông đồng hồ đánh một hay hai tiếng gì đấy. Sáng hôm sau tôi tỉnh dậy trong khách sạn, chịu không thể nhớ mình về bằng cách nào. Đầu ê ẩm, người bị cắt khúc từng mảng. Chắc là có ngã. Trang Tử bảo: "Người hòa với rượu khi ngã không đau". Tôi vào toillete, cái gương hình bầu dục có khuôn mặt nhợt nhạt phía dưới cổ áo là vệt nôn đậm chưa khô hẳn. Tôi đánh răng lau mặt kỹ và tắm. Người ơn ớn lại thấy nôn nao. Tôi lảo đảo ra bàn uống hết chai nước khoáng. Đây là kinh nghiệm của riêng tôi đúc kết qua nhiều lần quá chén. Bị lại rượu và buồn nôn cứ cho dạ dày ngập nước. Tôi để lại cái bô nhựa đỏ đựng bã trà ra trước mặt bình tĩnh chờ. Tới rồi. Tôi thắt người ra mà nôn, nước mắt nước mũi ứa nhoè nhoẹt. Một nhịp, hai nhịp cơ hoành bẻ gập xương sống. Bây giờ mới thật ra hết. Tôi ngồi thằng lưng thở dốc, thấy ân hận chuyện rượu chè quá. Từ mai nhất quyết không đụng đến ly cốc nữa. Trong cái đám nước sùng sũng nhờ nhờ mấy giọt quánh mầu nâu. Đúng là ra mặt xanh mặt tím. Các cụ nhà mình thật giỏi. Tôi tỉnh hẳn. Lại xúc miệng cẩn thận rồi mềm mại thả lỏng chân tay nằm dềnh dang cả giường. Tôi nằm dài xem báo đến chừng mười một rưỡi trưa thì kêu xích lô tìm quán bún bò giò heo. Tôi mê phở Hà Nội, yêu bún Huế và thích hủ tiến Sài Gòn. Hồi còn trong Nam, mấy anh em chơi nhạc khuya về, kéo nhau ra đường Paster ăn phở. Phở Sài Gòn lạ miệng cũng thật ngon. Miếng gầu miếng nạm bản to thái hơi dầy. Có thêm giá và vài nhánh mùi tầu. Tôi thòm thèm làm trọn một bát nhưng bắt tối nào cũng ăn liên miên thì chịu.
Phở bò Hà Nội nước trong hơn nên đỡ ngấy. Hàng phở ngon cũng chỉ còn một vài. Giữa phố Bát Đàn và đầu phố Lý Quốc Sư. Nắng hiếm hoi ửng nhạt qua rèm cửa. Một tuần ở Huế có cái may là ít gặp nắng. Nhiều ngươi kêu ca mưa Huế, nhưng tôi thích. Cũng có thể do tâm trạng lúc này.
Tôi xuống ga Hà Nội và đi thẳng đến nhà Nhã. Hôm ở Huế tôi có phone ra. Nhã nói là tự nhiên thấy sốt ruột. Tôi bảo không có chuyện gì đâu, Huế hiếu khách và thật đẹp. Rồi đùa thêm, ở Huế chưa có bia ôm. Nhã kêu, qua phone nghe thấy nhiều tiếng ồn. Tôi giải thích là mình đang ở trong một vũ trường xinh xắn và giá thật rẻ. Nhã bảo là hãy cẩn thận với Sông Hương. Dòng sông thơ mộng đã nhấn chìm biết bao sĩ phu Bắc Hà. Tôi cười. Thứ nhất tôi không phải là kẻ sĩ. Thứ hai là tôi đã được mời đi nghe hát ca Huế ở trên thuyền rồng. Không giống người ta đồn.
"Thế nó giống cái gì".
"Nó giống quảng cáo".
"Không được uống rượu à?
"Mình say thiếu điều lộn cổ.
"Uống vừa thôi nhớ".
"Chủ nhật tới mình ra, thấy nhớ bé Phương Phương lắm".
"Chú Hoàng ơi, con đây".
"Chú chào con. Muốn cái gì nào".
"Chú đợi con, con ị xong đã".
"Cậu không đi Sài Gòn nữa à"
"Chán rồi"
"Cậu đừng về Hà Nội vội".
"Sao vậy".
"Cứ nghe mình đi".
"Chuyện của Thuỷ à"
"Hai hôm trước Thuỷ nó có qua nhà mình, Thuỷ đến vì biết cậu ở Huế".
"Bẩy tháng rồi chúng mình không gặp nhau".
Hoàng này, Thuỷ sắp đi Tiệp, có lẽ tuần sau. Mọi giấy tờ xong hết rồi chỉ chờ ngày có vé".
Tôi cúp máy. Nói cho thật đúng là tôi không đủ sức cầm phone nữa. Em không tha thứ cho tôi. Cái điều bất hạnh tôi linh cảm đã tới. Tôi có lỗi và lạy Chúa, sao Người thật nặng nề với con. Tôi đi dọc theo đường Lê Lợi. Anh yêu em mà, bình tĩnh đi em. Chẳng nhẽ anh phải chịu một hình phạt kinh khủng thế saO.Không có em, anh còn biết làm gì. Từ Bưu điện đến nhà thờ Phủ Cam có đường ngắn hơn kia. Loanh quanh rất lâu dưới trời mưa tôi không tìm thấy nhà thờ. Mà tôi cũng cóc cần nhà thờ. Tôi chẳng tin ai cả, tôi chẳng tin vào một cái gì cả. Tất cả chỉ lừa dối. Càng dịu dàng càng nhân ái lại càng lừa dối. Càng xinh xắn lại càng lừa dối. Đâu có phải lỗi tại mình tôi. Đập vỡ, cứ đập vỡ đi. Sao em ác độc vậy Mình điên rồi. Mình phải đi xích lô thôi. Sẽ đi qua một nhà thuốc. Tôi lập cập trèo lên một cái xích lô. Mình mua một vỉ hay hai vỉ sédulxen. Thực ra sédulxen là thuốc an thần. Mình có anh bạn mất ngủ tối nào cũng uống bốn viên, tôi đưa cả nắm tiền lẻ vò nhàu trong túi quần ẩm. Đứa bé gái đang mải chơi bài rút đại mấy vỉ đưa tôi. Bình tĩnh đi. Tôi mở khóa phòng lơ mơ leo cả giầy lên giường. Tôi nhớ ra chưa trả tiền xích lô. Tôi chạy xuống nhảy ba bậc một suýt đâm phải hai nàng nhân viên đang khanh khách cười đi ngược cầu thang. Ông xích lô vẫn chờ. Tôi rút tờ tiền chẵn đưa ông ta máy móc đợi trả lại. Ông xích lô loay hoay không có tiền lẻ. Tôi bỗng thét lên giọng căm giận vô cớ. "Tôi cho ông đấy". Ông xích lô vội vã đạp, đến ngã tư còn ngoái cổ lại.
Tôi lên phòng mở một chai bia trong tủ lạnh. Tôi thong thả uống từng viên sédulxen. Đếm đúng viên thứ năm là ngừng. Tôi chậm chạp đặt mình xuống giường. Chân tay như giãn hết cỡ. Bỗng tôi lẩm nhẩm. Tôi cầu gọi Đức Mẹ. Hình như tôi cũng khóc. Tôi lơ mơ nhớ những khuôn mát quen, lạ. Ơn Chúa, tôi đã ngủ.
Sáng hôm sau tôi dậy rất muộn, người tỉnh táo. Cửa sổ gió lùa thổi tung, máy điều hòa vẫn chạy. Ngoài trời tiếp tục mưa. Mọi vật ảm đạm nhưng rõ nét. Tôi tháo giầy ra khỏi chân đi tìm cái gì uống. Hết sạch rượu nhưng bia thì còn nhiều. Tôi cũng cảm thấy đói. Thấy thèm một cái gì đó có nước và nóng. Bát mỳ vằn thắn chẳng hạn. Tôi ngồi thừ một lúc lâu. Trên mặt bàn, dưới cái gạt tàn, một bức thư tay của ai gửi. Anh bạn nhà thơ rủ tôi đi nhậu. Anh hẹn sáu rưỡi tối qua đón. Từ giờ cho đến lúc ấy thời gian còn rất dài. Theo kinh nghiệm những lúc như thế này không nên uống rượu một mình. Tôi tắm nước nóng thật kỹ, rồi đi qua ga hỏi mua vé tàu về Hà Nội. Vé nằm phải ba ngày nữa mới có. Bây giờ ở đâu với tôi cũng vậy. Về sớm mà làm gì. Tôi mua vé chuyến bảy giờ. Tôi ung dung quay về khách sạn. Khi ngang qua mấy quán quen cắm đầu đi thẳng. Tôi ở Huế ít ngày, những đến quán nào cũng kêu Henessy cả chai nên được thuộc mặt. Tôi không cầm ô, mưa phùn bám đầy tóc và môi tôi ngòn ngọt.
Tôi uống bia Hà Nội có cơn mưa rào bất chợt. Cụ bà nằm cùng buồng nhờ tôi xách hộ hai can nước mắm. Suốt đêm qua tôi mất ngủ vì cái mùi nặng. Bà cụ hơn sáu mươi đi thăm con trai làm ở sở Hoả xa Đà Nẵng. Tầu đỗ. Một ông già thắt cà vạt đỏ tóc khó tả màu vì thuốc nhuộm phai, giơ tay vẫy bà già "mình ơi, tôi đây".
Bà cụ nở nụ cười móm tình tứ, rồi giới thiệu tôi với phu quân. Tôi nhẹ người khi ông Quý tộc già nói merci và bảo tôi chuyển hai can nước mắm cho một thằng nhỏ chừng mười ba, mười bốn. Thằng bé nhìn hai can nước mắm bằng đôi mắt mang hình viên đạn. Hai ông bà già quen dùng bữa ở tiệm, còn đây 1à thức ăn khô trong vòng vài tháng của nó. Tôi đi xe ôm, ướt lướt thướt bấm chuông nhà Nhã. Bạn của tôi không có nhà. Bà U đi kiếm bộ pjama tôi vẫn để ở đây vì có những lúc dăm bẩy ngày tôi trông nhà, khi Nhã đi vắng. Tôi tắm xong, bà U nấu cho bát cháo nhiều thịt gà. Tôi uống hai lon bia tiger, tiện tay mở tủ thấy chai Gordon lưỡng lự uống thêm mấy ly. Tôi bật ti-vi, Giám đốc Ngân hàng mặt xấu giai đang giải thích về lãi xuất tiết kiệm, lại tắt. Lơ mơ, tôi với tờ báo Lao động xem chuyên nục thể thao. Có một bài cằn nhằn về giải bóng đá quốc gia ký tên Tường Vi, anh chàng này tôi thích vì cái giọng gay gắt gần văng tục. Lật mặt kia tôi xem mục tản mạn cuối tuần, tâm trạng của tác giả áy náy mặc cảm với lương tâm khi uống hết lon bia thứ hai thì trông thấy một bà già ăn mày hao hao mẹ mình.
Tôi vứt tờ báo xuống nền nhà. Trời vẫn day dứt mưa và rượu trong chai trắng đáy. Tôi thấy bơ vơ và ngẩn ngơ - tôi thiêm thiếp trên divang. Bừng mắt dậy thấy Nhã ngồi đối diện, mạc bộ váy ở nhà có hoa tím rất to.
- Trông cậu mệt lắm.
- Nhã về từ lúc nào".
- Lâu rồi, cậu ngủ ngon phát khiếp".
"Mình tu hết cả chai rượu"
"Chiều nay mình mua thêm. Cậu thử uống Remy Martin xem, rượu mới quảng cáo đấy".
"ở Huế rượu ly rẻ, nhưng nói chung dân Huế không nghiện.
"ở Huế cũng mưa à"
"Nhiều lắm"
Tôi đi vào toillette rửa mặt. Nhã pha cho tôi một cốc cam vắt. Tôi đùa.
"Tái ngộ là phải uống rượu".
Còn nửa chai Gordon cậu uống hết rồi. Cứ nghĩ vài tuần nữa cậu mới ra, hôm nọ có chai "giôn" đen, cầm đến biếu thầy Phi".
"Chết rồi, quên không mua cái gì cho bé Phương".
"Cậu chết, biệt tăm mấy hôm không phone ra, hai mẹ con lo phát khóc".
"Mấy giờ đi đón bé Phương".
"Chìa khóa xe kia kìa, chừng nửa tiếng nữa".
Tôi im lặng, cố nén không hỏi chuyện về Thuỷ.
Nhã nhìn tôi.
"Lúc nãy cậu mơ nói".
"Có văng tục à".
"ác khẩu thế, cậu gọi tên mình".
Mặt Nhã sẫm buồn. Hình như chỉ có một lần tôi thấy Nhã khóc. Tôi không muốn bạn tôi xót xa nhưng không hiểu sao không thể đùa nổi. Tôi thở dài. "Mình chỉ còn vài ba người mà bây giờ đặc biệt là cậu".
Cũng có một lần uống rượu nhiều Nhã nói trên đời này Nhã còn duy nhất hai người, tôi và bé Phương. Cách đây chừng sáu bẩy tháng cho đến trước hôm tôi đi Huế, có một Phó tiến sĩ không trẻ lắm nhưng rất giầu con một vị cựu Bộ trưởng theo đuổi Nhã. Tôi gặp vài ba lần, có nhiều cảm tình. Anh ta nhẹ nhàng ẩn giấu một vẻ quý phái thông minh. Tên anh ta là Sáng. Lần đầu gặp nhau ở nhà Nhã anh đầy cởi mở. Có lẽ chuyện tôi là bạn thân của Nhã, anh đã biết. Anh cư xử đúng mức, lịch lãm. Hôm ấy tôi ra sức ba hoa cho mọi người vui. Tôi thuộc tính Nhã, rất khó chịu với bất kỳ ai không được mời mà đến. Hôm sau Nhã kể:
"Mình quen anh ta ở một salon thượng lưu. Bảo hoàn toàn không biết tý gì trước thì cũng không phải. Nhiều người vun vàO.Kỳ quái, đa phần là những đứa vay tiền mình. Anh ta là giai tân theo nghĩa hành chính. Mải học, mải làm cũng được tiếng là ngoan nên chưa kịp lấy vợ. Xuất sắc trên nhiều phương diện, có cái tệ là biết làm thơ".
Nhã có phản ứng cực đoan với thi ca. Ngày xưa, với Du, thằng bạn thi sĩ của tôi, Nhã ghét. Nhã nhắc đi nhắc lại không biết bao lần là quá may tôi chỉ viết được văn xuôi. Hồi năm thứ hai, cô bạn thân duy nhất của Nhã quay sang làm thơ. Có một chùm tham gia cuộc thi "Ngày xanh học đường" do một báo thuộc Trung ương Đoàn tổ chức. Vô phúc, đấy là theo lời Nhã, cô bạn trúng giải. Mấy nhà phê bình xúm vào vuốt ve cô bé thi sĩ. Nữ sinh viên ngoại ngữ năm thứ hai bập bềnh lãng đãng trôi từ "Câu lạc bộ thơ trẻ" sang "Tọa đàm các nhà thơ nữ". Tôi chỉ biết ba năm sau khi vừa xong tốt nghiệp, tôi đèo Nhã sang thăm cô bạn ở Châu Quỳ. Cặp mắt long lanh ngày xưa bây giờ mất thần ngơ ngác nhìn tôi với Nhã cười vô cớ. Nhã đứng lặng, bất lực văng một câu rất tục. Còn tôi về đặt mua liên
tiếp ba tháng cái tờ báo khởi xướng cuộc thi ấy, dùng bồi trần nhà. Tôi không vay tiền Nhã, nhưng cũng vun vào chuyện anh Sáng. Lần thứ hai tôi gặp anh khi theo Nhã vào Sài Gòn dự lễ khai trương một triển lãm kinh tế của Nhật. Một nửa các gian quầy dùng quảng cáo các dây chuyền tái chế sản phẩm nông nghiệp, phần nửa còn lại khoe những thiết bị dân dụng. Đây gần như lần đầu tiên Nhật Bản, thiên đường kinh tế trong mơ mà người Việt Nam quá quen với những Sony, National, sau nhiều năm đứt đoạn chính thức được phép đưa hàng hoá không phải rò rỉ tủ lạnh, xe máy Ti vi qua những đội tầu viễn dương buôn lậu. Anh Sáng là một trong hội đồng chủ tịch của Ban tổ chức. Anh nói tiếng Nhật nhuần nhuyễn và mê thơ Haiku. Anh thổ lộ thêm điều ấy vì Nhã nửa nạc nửa mỡ tiết lộ tôi viết văn. Anh Sáng hỏi tôi hay đăng ở báo nào, tôi nói là tôi mới bắt đầu viết, đang dự định một bộ trường thiên tiểu thuyết dài ba nghìn trang và hiện nay tôi đã xong cái đề cương dài ba trang. Anh Sáng cụng ly với tôi, cố giấu vẻ giễu cợt. Tôi cám ơn và thấy trân trọng. Tôi biết, một công tử đại gia dòng dõi cao môn lệnh tộc như anh, thường thường rất
hay gặp những thằng nói phét. Hôm ấy chúng tôi ngồi uống rượu thân mặt ở Rex, anh mời riêng những người thân, vì hôm trước Nhã nhất quyết từ chối không dự bữa tiệc khai trương tại khách sạn Continnentan. Ngoài ba chúng tôi còn có hai người Nhật. Cả hai thương gia đều chưa đến bốn mươi có vẻ sắc sảo. Họ ăn bằng đũa, lịch sự nói với tôi bằng tiếng Anh. Khi chạm cốc, cố ý để ly dưới thấp tỏ ý khiêm nhường. Anh Sáng giải thích, người Nhật ăn uống cẩn thận, họ là cha đẻ ra kiểu oskawa chỉ ăn gạo lứt muối mè. Anh Sáng hỏi tôi có biết Basho không tôi thưa có rồi cung kính nghe anh cất giọng trầm ấm đọc bài con ếch nhẩy vào ao nước bằng nguyên bản tiếng Nhật. Hai thương gia đồng hương của đại thi hào phục lăn và tôi cũng lăn ra vì phục. Chúng tôi ở Sài Gòn thêm ba ngày và ba tháng và chưa gặp Thuỷ. Nhiều hôm tôi lảng vảng ở đầu ngõ không dám vào sâu vì cái ngõ nhỏ chật người đã quá quen mặt tôi. Tôi chặn đường em lúc ấy đã bốn rưỡi chiều. Tôi đứng bên số lẻ của đường Bà Triệu hút thuốc cứ nửa điếu là lại dụi. Mấy tay mua lậu xe đạp ăn cắp thay nhau nhìn tôi. Thuỷ đi thực tập rất chăm, đều dặn hai buổi sáng chiều. Ngân hàng công thương quận Hai Bà tan ra toàn đàn bà. Thuỷ vẫn đi xe đạp, song song cùng một nàng mặc váy bó lộ những đường nét trung niên, tôi theo sau, loáng thoáng ngược gió nghe tiếng xưng hô cô cháu. Đến gần hồ Halais thì Thuỷ có một mình. Trong tình yêu hay có nhiều nốt láy. Lần đầu tiên tôi đưa Thuỷ về cũng chính ở đoạn này.
"Anh chào em".
Thuỷ quay sang, một vẻ dửng dưng, không ngạc nhiên.
"Em tan muộn vậy".
Thuỷ mím môi rồi nói từng câu.
"Chắc anh muốn nói chuyện".
"Vâng"
Im lặng dài. Chúng tôi đi rất chậm và cây hai bên đường đầy gió.
"Thế này nhé. Tôi sẽ ngồi với anh hết lần này, nếu cần đến tận đêm. Có điều gì muốn nói với tôi thì cứ nói hết. Rồi từ mai anh bỏ cái kiểu loanh quanh trước ngõ hay trước cơ quan tôi đi. Tôi không muốn mọi người dị nghị và tôi cũng mỏi mệt rồi".
Chúng tôi ngồi ở quán café có vươn trông ra hồ, một đoạn phố còn sót nhiều Villar kiểu Pháp. Bà chủ quán gầy sắc, ánh mắt nhìn đanh, tôi kêu một lon bấm ba và ly café đá. Bao nhiêu lần tôi với em ngồi cùng nhau hay uống kiểu này. Trong tôi tôi còn một gói dở Marlboro. Tôi nhìn em và em nhìn mung lung. Khuôn mặt của em những tháng gần đây gầy, da xạm, cặp mắt hơi nhíu hằn vài nét nhăn trên vầng trán xanh khắc khổ. Bây giờ nhớ lại lần gặp cuối đấy, tôi vẫn thấy buồn. Một kiểu buồn với những nét cào nhức buốt. Tôi đã làm gì để em đau đớn và trở nên dửng dưng. Tôi hút thuốc miệng đắng nhả những vòng khói vô hồn lễnh loãng. Tôi nhấp ngụm bia quen tay khuấy hộ em ly cafe. ở trong sâu xa tôi biết mọi chuyện cơ hồ khó cứu vãn. Tôi bắt đầu nói và nói nhiều, cố dẫn giải như hồi đầu mới yêu em. Tôi tránh không nhắc về cái tát, không nói về Trần Bình. Tôi nói, tính tôi em đã biết, dở nhiều hay ít. Nếu em còn yêu tôi mong em bỏ qua những chuyện linh tinh tôi sẽ dần dần sửa chữa. Lưỡng lự, tôi cũng xin lỗi mặc dù không thật lòng. Tôi cũng ghen tuông như bất cứ người con trai nào yêu lần đầu.
"Anh nói hết chưa"
Thuỷ nhìn đồng hồ và cau mặt khi tôi lấy tay che đồng hồ.
"Anh yêu em".
"Anh nói hết chưa".
"Vâng, anh đã nói hết".
"Thế thì đến lúc phải về rồi. "
"Em không nghe anh nói một chút gì sao".
Thuỷ đột nhiên thở dài, hình như là cay đắng.
"Quá nhiều lần nghe anh nói rồi".
"Tha lỗi cho anh, một lần nữa, anh xin em"
"Thực ra anh có lỗi gì đâu".
"Em đừng nói thế".
"Ngày xưa, có nhiều lúc, cứ luôn nghĩ mình là người hạnh phúc nhất".
"Lúc nào anh cũng yêu em".
"Thôi"
"Cái gì cơ",
"Đã đến lúc phải đi về".
Thuỷ dứng lên. Tôi cầm hai tay của em.
"Anh bỏ ra"
"Tha lỗi cho anh".
"Anh bỏ tay ra".
"Thuỷ".
"Anh đừng làm tôi khó chịu".
Có cái gì hung bạo chợt gầm lên trong tôi, vô thức tôi giơ cánh tay. Thuỷ đứng thẳng trừng trừng nhìn tôi.
Thật là hết. Tự nhiên tôi thấy bải hoải. Thuỷ kêu thanh toán tiền. Tôi ngồi yên vô hồn nhìn Thuỷ mở khoá xe, đạp từng vòng từng vòng, khuất nẻo vào ngã tư Nguyễn Du - Trần Bình Trọng. Tòi khóc, gục mặt uống cái bàn mây ngai ngái mùi tàn thuốc ẩm mà nức nở. Không biết bao lâu, có tiếng bà chủ the thé vọng vào gọi phích nước sôi trong nhà. Tôi đi về hướng hồ, mơ màng thấy chân mình dẫm xuống nước. Mặt hồ đen thăm thẳm một màu tuyệt vọng. Tất cả đều là vô nghĩa. Tôi giật mình vì một cái cấu bạo ngang sườn. Cô nàng mặt phấn với mi mắt xanh lét nhẽo nhợt mời mọc. Tôi đang sống và tôi chưa biết phải làm gì. Tôi quay về nhà với mẹ. Những tuần tiếp đó tôi lang thang bao nhiêu quán rượu. Nhiều buổi chiều khi đã mềm mềm môi tôi phi xe lên cầu Thăng Long. Từ trên cái lan can cao tít của cây cầu tôi nhìn dòng sông đỏ cuồn cuộn chảy. Tôi bình tâm hơn, lẩm nhẩm kêu tên Đức Mẹ. Đột ngột có cơn gió sắc như bất hạnh thổi tung tà áo tôi đã phanh dở. Lạy Chúa, Người thật công bằng. Tôi có tội, không phải nghiệp chướng từ kiếp trước mà ngay ở kiếp này tôi đã làm nhiều bậy bạ.
Tôi kêu van Chúa xin Người hãy thương tôi. Hiển nhiên không oan trái gì khi em bỏ tôi. Tôi cũng đã dửng dưng tàn nhẫn với nhiều người. Sao tôi lại mất em. Không có em. Suốt năm năm liền tôi đã quen có em. Gió trên cao quần quật thổi, Một cái xít-đờ-ca của cảnh sát cơ động đi tuần. Viên Đại uý có hàm râu quai nón nhìn tôi nghi ngờ. Tôi nhìn thật đậm vào lòng sông. Tôi thấy nhỏ nhoi và tuân theo ý Chúa. Tôi là một tín đồ cơ đốc giáo và giáó lý không cho phép tội tự huyt hoại. Tôi hét lên cho giọng mình lạc vào gió. Không phải hét mà là gào gọi.
Lạy Chúa, xin Người đừng bỏ con. Tôi thả người nằm xuống mặt cầu. Đỡ thấy hoang mang, đỡ thấy hư vô. Tôi lại trở về sở hữu sự mệt mỏi và bơ vơ. Ngay cuối cùng ở Sài Gòn, mọi người tổ chức Píc níc mừng thành công của triển lãm. Nhã gõ cửa phòng rủ tôi đi Lái Thiêu. Anh Sáng đang chờ dưới nhà tự tay lái cái Toyota Crona. Tôi nói với Nhã không phải tôi mệt, nhưng tôi không muốn đi. Bạn tôi chỉ muốn tôi khuây khỏa. Ơn lớn của bạn, tôi chỉ biết để trong tâm.