Ba em bé
Trong cuộc đấu tranh thống nhất và tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, nó mang những khó khăn rất lớn và bao gồm cả những vấp váp sai lầm, những người văn nghệ và trí thức chúng ta có những lúc tâm trí như chùn lại. Những chuyện “tiền kiếp” trong mỗi con người chúng ta thỉnh thoảng lại khuấy bùn vẩn lên, gieo rắc hoang mang trong những dây sâu kín nhất của tâm trí. Những lúc có thể mất địa bàn như vậy, riêng tôi, tôi thường “ôn cố tri tân”; tôi lần nhẩm lại những bước đường mà tư tưởng tôi đã trải qua, từ lúc biết nghĩ cho đến giờ; tôi nhận định đích xác xem từ chỗ sa lầy nào mà tôi đã vươn lên, do quá trình tư tưởng nào mà tôi đã đến với chủ nghĩa cộng sản. Tôi thọc sâu vào bóng của quá khứ để so sánh nổi bật cái ánh sáng của hiện tại và tương lai. Và tôi lại thấy sao Bắc đẩu chói lọi.
Như một người làm mẹ đã thấy mình mang cái mầm sống từ ở trong dạ, tôi thấy đoá hoa sen của tư tưởng, tốt thay! đã đè được những lớp bùn mà nở trong tâm trí mình. Nó đã nở rồi, không gì có thể dìm nó được nữa.
Vâng, chính những chuyện “tiền kiếp” của chế độ cũ, mỗi khi nhớ đến, lại giúp đỡ tôi chiến thắng cho được những chông gai mới trên con đường dài của sự nghĩ suy; phải phá cho được, san cho được con đường đi tới trước vô biên của cuộc đời, chứ không thể ngựa quen đường cũ, quay lộn trở lại cái trầm luân xưa đã quá ư đau khổ!
Con một ông tú tài nho nghèo, dạy học, từ nông thôn chuyển dần ra thành phố, khá giả dần lên tới mức tiểu tư sản lớp giữa, tôi sinh và lớn lên ở miền Nam Trung bộ, không bao giờ giàu, nhưng chưa bao giờ phải chịu cái đói, cái rét vào thân. Tuy nhiên, tôi cũng đủ thương đau để mà đứng lên tố khổ không tiếc lời cái xã hội cũ. Chuyện đời trước dài lắm. Không phải trường hợp kể ở đây. Để làm chứng cho cái đời chẳng ra đời trước kia, tôi chỉ kể lại ba em bé:
Cuối năm 1940, từ Mỹ Tho lên Sài Gòn, tôi đến thăm nhà một anh bạn cùng làm tham tá nhà Đoan [1] như tôi; bắt đầu Nhật thuộc rồi, làm công chức cuối mùa cho Pháp cỡ “viên ngoại” như thế, căn nhà thuê của anh xuềnh xoàng, bàn ghế qua loa. Lúc ấy vào khoảng ba, bốn giờ chiều ngày chủ nhật, tôi thấy bà vú già đang dỗ đứa cháu đầu lên ba tuổi, mới biết nói. Cháu khóc nho nhỏ, kéo dài, không giận hờn, không vòi vĩnh; vú già hỏi cháu: − “Cháu đau ở chỗ nào, nói với bà”. Mẹ cháu dỗ cháu: − “Mẹ mua bánh cho con nhé”. Cháu lắc đầu, và tiếp tục khóc. Người ta nựng nịu, vuốt ve em, người ta hỏi em: − “Tại sao em khóc?” Em bé chỉ trả lời bằng giọng Nghệ An có một tiếng: − “Buồn!”. Chị bạn lo lắng phân trần với tôi, ngơ ngác như không hiểu gì: − “Cháu thỉnh thoảng về chiều lại khóc như thế; cháu chẳng đòi gì cả, khám bác sĩ cũng không thấy cháu có bệnh gì; cháu chỉ kêu là “Buồn” và khóc. Tôi, thì tôi muốn nói với chị: − “Hỡi người mẹ đáng quý và đáng thương! con của chị cũng như tôi, nó đau “bệnh thời đại” đấy! Nó là cái biểu đo nóng lạnh của cuộc đời này; tâm hồn non yếu của nó cảm rất nhạy cái điều bàng bạc ở trong không khí, ở ngoài phố, ở quanh chúng ta: buổi chiều buồn quá, đời sống buồn quá!”. Từ khi đó, trở về, tôi không sao quên được vấn đề ghê rợn mà em bé đặt ra. Trời đất ơi, một em bé mới ra đời, chưa biết nói thành câu mà đã phải khóc vì buồn, thì cuộc đời này còn sống thế nào nữa!
Năm 1942, tôi đi xe lửa từ Sài Gòn ra Hà Nội, đến vào khoảng Đồng Hà, Tân Ấp thì đường đứt vì vài tuần trước mưa, bão, phải “sang tàu”. Vùng này đang bị đói to, đến khoai sắn cũng thiếu. Trong một nhà tranh lụp xụp, một người đàn bà khoảng hai mươi nhăm tuổi đang đút cho con ăn lưng bát cơm vơi. Em bé ba tuổi không ăn, nó khóc, máu dồn lên đỏ cả đầu; nó giậm chân xuống đất, nhất quyết bắt đền người mẹ: - “Trả đây! Trả đây!”. Người mẹ dỗ nó: - “Thôi con ăn đi, con nhé, mẹ thương”. Nó không chịu, càng khóc: - “Nhả ra! Nhả ra! Trả đây!” Thì ra người mẹ cũng đói quá, trong khi đút cơm cho con, cầm lòng không đậu, đã ăn mất của con mấy thìa. Con đói quá, quá tham ăn, đòi lại mấy thìa cơm như một ám ảnh. Con cứ bắt đền, mẹ cứ cố gắng dỗ. Người đàn bà trẻ và nghèo ứa nước mắt, thẹn thùng vì đã để cho cái đói làm tổn thương cái tự trọng của một người làm mẹ. Em bé thì như bị một cơn khủng hoảng não cân, cứ ngoáy mãi vào chỗ đau thương. Người mẹ vô kế khả thi. Đứa con tiếng đã khản rồi, vẫn giậm chân xuống đất. Mười lăm phút ấy đối với tôi dài dằng dặc; cho đến khi tầu đã xịch bánh chạy, mà vẫn còn nghe em bé: “Trả đây! Nhả ra!”.
Năm 1945, nạn đói khủng khiếp ở miền Bắc. Người chết như rạ ở gầm Cầu sông Cái, ở các lề đường Hà Nội. Cái xã hội cũ nó tàn ác đến thế là cùng. Người nào đi ăn yến cứ ăn, gặm chưa hết một miếng thịt đã bỏ vào đĩa xương để gắp miếng khác; người nào chết đói cứ chết, lăn ra như chuột. Bữa ăn, chúng tôi phải đóng cửa lại. Ăn như ăn vụng! Ăn như là mình giành mất cơm của người chết đói. Chúng tôi thuê trọ trên một căn gác phố Hàng Bông, quen thân hai ông bà dưới nhà cũng ở thuê, có cửa hàng bán mũ bậc trung, vợ chồng hiền lành, biết phải. Một buổi sáng, tôi trên gác xuống, nghe ở nhà dưới đang la om. Tôi nhìn ra trước cửa, thấy một em nhỏ con trai độ mười tuổi đang dán mình vào phía ngoài một bên khung cửa kính bày hàng. Em trần truồng như một con nhộng, không có một tý thịt nào nữa, chết hết cả người rồi, chỉ còn hai con mắt. Không hiểu em từ góc phố nào đến, mà nhất định đi vào trong nhà này, để xin một ít cháo chăng. Có lẽ em không còn thấy đây là cửa kính, em cứ đi vào, bị cửa kính chặn lại đứng sững; nhưng em vẫn bị hút bởi cái sống ở bên trong, cứ dấn mình vào gương. Người ta la mắng đuổi em đi, quát nạt thật to và lâu để cố thủng vào tai em, người ta kiêng, người ta ghê sợ, coi em như quỷ nhập tràng; em, em của tôi, mặt em cũng thông minh và xinh đẹp, nếu em no. Mười ba năm từ ấy đến nay, tôi vẫn còn nghe tiếng la thét đuổi em bé. Em như một con ruồi mắc vào kính tủ, ruồi mắc từ trong ra, em thì mắc từ ngoài vào; không có lòng thương xót nào có thể cứu em, vì người ta bó tay ngao ngán trước cái chết đói kinh khủng, mênh mông. Giữa đời sống hàng ngày, có những bức tường thuỷ tinh dày ngăn cách; những người hay “thương vay” như tôi, thi sĩ, đành giương đôi mắt ếch nhìn đồng bào mình chết qua tường kính, mà không nhắc chân động tay cứu giúp gì được!
Đấy, cái xã hội cũ có ba em bé kia nó tốt đẹp như thế đấy! Tôi còn muốn thêm một em bé thứ tư. Lúc tôi lên chín tuổi, do nghịch cảnh gia đình phong kiến tôi phải sống xa má tôi, mà ở với thầy tôi. Bên ngoại cách bên nội độ vài cây số; lâu lâu tôi trốn về thăm má cho đỡ nhớ thương. Một buổi chiều, tôi trốn về thăm má; má đang bận vội đi chợ, má cho tôi bốn đồng tiền ăn ba [2] , rồi để tôi đi. Tôi ra khỏi nhà má, lê từng bước một, đi dọc ngược theo con sông Gò Bồi mà trở về nhà thầy. Buồn quá. Tôi thấy buồn mang mang mà không hiểu được. Tôi đứng lại bên bờ sông, nhìn con đường, nhìn các rặng tre, nhìn dòng nước, nhìn trên mặt sông Gò Bồi nắng xiên khoai vàng úa; tôi thấy như cái gì cũng không biết để làm gì cả; và đứa trẻ con chín tuổi bèn cầm bốn đồng tiền trị giá mười hai đồng kẽm, ném xuống mặt sông, mặc dầu “mười hai đồng” lúc đó có thể mua những mười trái ổi.
Tiếng đoạn trường của văn học
Lớn lên đi học đến thành chung, rồi đến “tú tài”, tôi yêu thơ vô hạn, rất mê thích văn học. Những điều kiện của gia đình và xã hội đã làm tôi buồn sẵn, lại học vào một nền văn học nặng buồn bã, than thở, bi quan. Ở lớp nhất [3] , thơ Tản Đà đã ru tôi, nhưng cũng để lại cho tâm hồn tôi một vị đắng: Gió hiu, trăng lạnh, tiếng ve sầu. – Ếch kêu đầy phố, tiếng xe hơi. – Vèo trông lá rụng đầy sân… tất cả mọi sự chẳng qua cũng vèo! Tôi thuộc nhuyễn bài thơ Đoàn Như Khuê: Biển thảm mênh mông sóng lụt trời. Em thiếu niên mới chớp mi mắt nhìn ra cuộc đời, đã thấy một rèm giọt lệ! Vào năm đầu bậc thành chung[4] , tôi nhìn miệng ông giáo quốc văn đọc, say mê uống từng lời du dương êm ái: “Giả sử ngay khi trước, Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng dở việc ma chay…” [5] . Sao mà văn thơ cứ tiếc nuối một cái gì; có một cái gì bình rơi gương vỡ, rụng cải rơi kim ở trong văn học!
Đồng thời, Tuyết hồng lệ sử dịch của Từ Trẩm Á mê lịm tôi trong những điệu ca từ thật là réo rắt, tất cả quyển sách là một cuộc nhặt hoa rơi, chôn hoa rụng, khóc hoa tàn! Lớn thêm vài tuổi, văn học nước Pháp bắt đầu huyễn diệu tôi với Cái Hồ của La-mac-tin:
Ừ rồi cứ trôi đi mãi mãi
Trong đêm trường trở lại được nào!
Tôi đã bắt đầu có ý thức lừng khừng đứng lại không chịu đi, trong lúc ngoại vật và thời gian thì cứ đẩy cho con người mất hút vào vĩnh viễn. Bấy giờ trong tôi có hai lực lượng: một mặt, tuổi thanh niên đưa đến cho tôi những luồng máu nóng rực, say mê, hăng hái; một mặt xã hội phong kiến, đế quốc cùng với hệ thống tư tưởng và văn hoá cũ chụp lên tâm trí tôi một lớp buồn sầu ảm đạm, càng học lên nhiều, càng bi quan, bế tắc. Tôi thấy trong tôi ào lên một nguồn thơ sôi nổi, mới mẻ: nhưng tôi vừa tập tễnh đến ngưỡng cửa của làng văn, thì La Bờ-ruy-e (La Bruyère) [6] đã lắc đầu niêm yết một câu bất lực: “Tất cả đều đã nói cả rồi, và người ta đến quá muộn, từ bốn ngàn năm nay mà đã có những con người, và họ suy nghĩ”. Phương ngôn Âu Tây cũng nói: “Không có cái gì mới ở dưới mặt trời”. Trước tôi một trăm năm, thi sĩ Muýt-xê (Musset) đã kêu lên: “Ta sinh ra muộn quá trong một thế giới già quá chăng?”. Trước tôi năm mươi năm, thi sĩ Véc-len (Verlaine) cũng lại kêu lên: “Ta sinh ra quá sớm hay là quá muộn? Ta đến trong đời này để làm gì?”. Mộng Hà, nhân vật chính của Tuyết Hồng lệ sử và Ngọc lê hồn, hay sầu, say, và thổ huyết, đã tự tóm tắt tâm hồn bằng ba bước: uống rượu xong thì “ngà ngà mà say, ngây ngây mà sầu, rồi lại rầu rầu mà khóc”. Rơ-nê (René) [7] , ông tổ của Mộng Hà ở Pháp, thì đi giữa mây, sương, gió, bị ám bởi con quỷ của trái tim “nó là một con rắn tự nhai mình”; Véc-te (Werther), [8] ông tổ xa hơn của Mộng Hà ở Đức, thì dùng súng lục tự tử vì không lấy được một người đàn bà đã hứa hôn với người khác trước khi gặp anh. Thật đúng với câu thơ Nguyễn Du:
Ma dắt lối, quỷ đưa đường,
Lại tìm những lối đoạn trường mà đi!
Từ 1934 về sau, những sách tôi đọc nói sự cùng đường một cách tinh vi, sâu sắc hơn; nó cũng không còn là sự lãng mạn ít hay nhiều thơ mộng nữa, mà là một sự bi quan có triết lý. Những điều tôi thu hoạch được, góp chắp cổ với kim, đông với tây, chứng minh trước trí tuệ một bài toán dẫn đến số không. Bô-đơ-le (Baudelaire) kêu thét lên như đang bị cháy nhà, hay lửa cháy vào người:
Ôi đau đớn! Ôi đau đớn! thời gian ăn cuộc sống!
Một cụ dạy chữ Hán ở trường “tú tài” giảng cho tôi nghe một bàiSám dâm văn (răn hối cái dâm) và nói: Lúc xưa có một người mê sắc quá, đã tự chữa cho mình bằng cách: hễ nhìn thấy một người đàn bà đẹp, thì tưởng tượng trước mắt người đàn bà ấy khi chết, dòi ăn bọ đục, và chỉ còn là một bộ xương, một toạ cô lâu (cô lâu mộng), tức khắc “bệnh Tề Tuyên hết nổi lên đùng đùng”! Có cái “nhân văn” gì mà tàn nhẫn như thế? Hăng-ri đờ Rê-nhi-ê (Henri de Régnier) [9] chưa đến nỗi nghĩ như anh nọ, nhưng nhẫn tâm có kém gì! Trong bài thơ “Kinh nghiệm”, đại khái nhà thơ nói: Tôi đi trên bờ gành biển; phía trước tôi có đôi trai gái đang tự tình, họ đi xa dần, đắm đuối trong mê ly, thề hẹn muôn điều tốt đẹp… Nhưng tôi, tôi biết “cái chữ kết thúc của giấc quái mộng tầm phào”! Có thể, trong xã hội tư bản, ông đã từng phụ nhiều người và bị nhiều người phụ lại, có thể ông không thấy vợ ông là đáng yêu nữa, nhưng sao ông lại tổng kết vội vàng và ác ý như vậy? Sao lại lấy con mắt của người già tuổi, già lòng mà nhìn những bạn trẻ đang yêu mến, tin tưởng vô cùng? Nếu nhà văn có tinh thần trách nhiệm hơn, thì đời nào lại đi dạy cái chán chường như thế?
Vận mệnh con người không biết tới đâu; đến vũ trụ cũng không biết tới đâu. Một nhà triết lý chết trẻ, đầy lòng thương yêu con người như Guyô (Guyau) [10] , nhưng không cất mình ra khỏi được hệ thống tư tưởng của những giai cấp suy tàn, cũng đã làm cho tôi tái tê cả cõi lòng, khi ông tả cái đẹp, cái mạnh của biển lớn mênh mông, buồn rằng tất cả cái năng lượng vô vàn kia cũng chỉ còn một ít bọt sóng cho gió bay tung, và hạ một câu: “Trái tim của quả đất đập, không hy vọng”.
Đường về thu trước xa lăm lắm…
Dưới những ảnh hưởng gia đình, xã hội và văn hoá như vậy, những bước đường tư tưởng của tôi trước Cách mạng là những bước sờ soạng, lưu lạc, thương đau. Tôi chưa hội ý với các bạn thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, v.v… nhưng có lẽ, ở đây, tôi cũng nói, bằng những khía cạnh của tôi, cái tình trạng chung đau khổ tinh thần của các anh, khi lạc đường quần chúng, khi chưa tìm thấy ánh sáng của Đảng.
Văn hoá cũ với phương pháp tư tưởng “siêu hình” (métaphysique) của nó, dắt tâm trí tôi, từ khi nhỏ đến lúc lớn, vào một con đường rút vào trôn ốc thật là tắc tị! Tự nghĩ mình là một kẻ tài tình, một “tài nhân” biết yêu cái đẹp, quý cái hay, trọng cái phải, và lại còn tạo ra cái hay, cái đẹp là đằng khác, tôi và hàng vạn học sinh, nghệ sĩ, trí thức khác tự đặt cái tôi như một thực tại bất di bất dịch, tự đề cao cái bản ngã, coi nó là một tuyệt đối.
Tôi là tôi, là khác với người khác, là mục đích, là cứu cánh. Vì vậy nên hai người yêu nhau, mà
Em là em, Anh vẫn cứ là anh
Có thế nào qua Vạn lý Trường thành…
Đã dựng cái tôi lên sừng sững như một Hi Mã Lạp Sơn, thì tự khắc cô lập mình, không hoà nổi mình vào với tạo vật, thiên nhiên, vào với nhân quần, xã hội: cái hình bản ngã mang cái nghiệp của nó, là cái bóng cô đơn. Gió, trăng, hoa, cỏ,
trong phố chật, giữa chợ đông, ở đâu cũng thấy được mình là lẻ chiếc một mình. Luôn luôn thấy rợn ở trong hồn một luồng gió heo may lạnh toát.
Muốn đóng cái tôi như một cái cọc cố định, vĩnh viễn ở trong đời sống, cho nên khi thấy ngoại cảnh thay đổi, thì cuống cuồng lên. Nhà triết học tư sản Pháp Béc-xông (Bergson) phân tích rất tinh vi, tế nhị rằng cuộc sống là chuyển động, là đổi thay, nhưng lại không muốn thấy quá trình biện chứng và lịch sử, nghĩa là tiến bộ của sự vật; học mót của Béc-xông, tôi ngoáy sâu vào nỗi thay đổi: Cái bay không đợi cái trôi, Từ tôi phút trước sang tôi phút này, nhưng mù mịt không thấy được sự thay đổi biện chứng và tiến bộ, chỉ thấy đổi thay là nổi nênh, trôi chảy, xiêu đổ, tan tác, từ ly! Rồi đâm ra “vội vàng”, “giục giã”, sảng sốt. Trong khi đó, thì những bài hát chiếu bóng, những đĩa hát tiếng Pháp đưa sang, rót vào tai óc tôi những ý niệm đại loại như:
Tôi mơ một bông hoa
Không bao giờ chết cả…
… Nhưng nó khờ dại quá
Giấc mộng của tôi mơ.
Cứ mỗi lần hát bài này, thì lại như ai nghiến trong lòng, ứa nước mắt.
Chỉ thấy cuối đường là già, là chết, nên lần chần không muốn bước; phía trước đã cụt đường vậy, không đi tới được nữa, bèn thoái lui, ngoảnh lại đi về phía sau. Tâm hồn cứ phóng ra cho thật xa, cho thật vu vơ, cho thật viễn vọng… Xa, và Xưa! Nhiều thi sĩ mơ mộng thuở những ông nghè vinh quy cưỡi ngựa, Quân hầu reo chuyển đất, Tung cán lọng vừa quay [13] ; chúng tôi cứ đi ngược thời gian, bới tìm những gì bụi bặm đâu đâu trong ngày tháng cũ. Chế Lan Viên, nhà thơ 16 tuổi, đã diễn tả rất tài tình cái tâm trạng đó:
Đường về thu trước xa lăm lắm,
Mà kẻ đi về chỉ một tôi…
Nếu yêu một người, thì cứ muốn chiếm lấy tất cả người ta, bắt người yêu phải phụ thuộc vào cái tôi của mình, truy lĩnh một cách đau ốm cả tuổi nhỏ của người ta, cho nên rất động lòng khi tìm thấy cái trường xưa, người yêu học từ lúc còn bé xíu! Ôi! con đường trôn ốc, càng đi càng rút mãi vào chỗ thuỷ tận sơn cùng!
Ở chỗ tận cùng cheo veo đó, Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề; cái tôithu lại chỉ bằng đầu một mũi kim, và qua vạn trùng đại dương, lên tiếng gọi kêu cứu tuyệt vọng:
Giơ tay ta vẫy ngoài vô tận,
Chẳng biết xa lòng có những ai! [14]
Đối với cái xã hội trái ngược, tàn nhẫn quanh mình, tôi chỉ biết lấy một lòng thương mênh mang, đau đớn; luôn luôn nghĩ đến vấn đề đau khổ của con người, tôi không có cách gì giải quyết được, đành rải đi những Phấn thông vàng, mong xoa dịu những nỗi khổ một phần nào!... Tôi đã diễn tả đúng cái hoang mang trước xã hội bằng hình ảnh:
Thuyền tôi không lái cũng không neo,
Trên biển đau thương dạo cánh bèo;
Trên biển đau thương đi lặng lẽ,
Thuyền tôi không lái cũng không chèo…
Đối với nghệ thuật, tôi say mê, quý trọng, nhưng tại sao tôi thấy ngoài xã hội coi thường, coi khinh. Ngay từ bé, đứng nghe một người mù dắt em con gái nhỏ, gẩy chiếc đàn bầu, hát những bài ca Huế rất mực là hay và xin từng đồng xu, tôi đã chạnh lòng nghĩ đến thân tôi: “Nghệ thuật nghèo hèn, hay là Người mù hát dạo”. Một người thi sĩ, trong xã hội Pháp thuộc, ai quý trọng? Có tài như Tản Đà, cũng đến nỗi phải bói số Hà lạc để sinh nhai. An-phông-xơ Đô-đê (Alphonse Daudet) [15] vẽ một người có óc vàng, phải nạo óc ra mà bán; tôi nghĩ truyện một “Người lệ ngọc”, khóc nước mắt ra thành ngọc để độ nhật, đến lúc lệ cạn, phải châm gai vào mắt cho lệ ngọc cố rơi ra! Bởi thấy những người tài tình ở trong đời bị thiểu số và bị khinh thường, tôi nghĩ một bài văn để “Chiêu tài tử”, gọi nhau từ xưa đến nay lại, đặng tri âm với nhau, thương lấy nhau. Khi nghệ thuật không có lý luận cách mạng soi đường, không có quần chúng nuôi dưỡng, nó cầu bơ cầu bất như thế đấy!
Đến khi ách Nhật thuộc quàng thêm vào cổ, tư tưởng tôi càng ngày càng bi. Tôi cố bám lấy lập trường tiểu tư sản đứng giữa của tôi: một mặt không hề chịu đi thi tri huyện làm quan, ghét sự buôn bán, sự “làm giàu”, lánh xa bọn ăn trên ngồi trốc của xã hội; phản đối những người làm thơ truỵ lạc, viết văn ca tụng thuốc phiện; đòi hỏi sự lành mạnh, sự sáng sủa trong văn học; một mặt không biết, không dám đi với quần chúng cần lao, nghèo khổ; tôi đứng giữa, giữ một thứ “trong sạch” tiêu cực, của những kẻ “tài tình là luỵ muôn đời”. Từ trước, chỉ biết buồn đau, chứ chưa hề viết một câu khinh bạc đối với cuộc đời, nhưng đến năm 1942- 43, tôi đã cười mỉa tạo vật cứ lặp đi lặp lại mãi, người con gái lấy chồng, đẻ con, lại lặp lại cái sự yêu con… Năm 1943- 44, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buôn chợ đen thì không buôn được, viết văn thì cứ nói mãi cái buồn cũng hết chuyện, tôi ngồi giở quần áo cũ ra vá giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoa khô. Đấy, thưa những ai hiện nay còn cao đạo và còn tự cho cái tôi của mình là ông trời, cái tôi cũ nó vinh quang như thế đấy!
Ôm mãi cái tôi mà lặn ngụp trầm luân mãi với nó, tôi đi đến chiêm ngưỡng nụ cười của đức Phật, sờ soạng một cách giải quyết nào đó trong “sắc sắc, không không”. Tại vì, mới bước vào tuổi thanh niên, tôi đã đọc nhà thơ lớn Ba Tư Ô-ma Kha-y-am (Omar Khayam): - Cái bình thon thon kia, xưa là một người đàn bà có lưng ong rất đẹp; hoặc: Ta đừng dẫm hòn đất nhỏ nọ, xưa đó là con mắt của một người… Những hình ảnh nghệ thuật quá hay đó lặn sâu vào thâm tâm tôi, bây giờ lại nổi lên. Tại vì, trước tôi, một người rất tài hoa, rất thông minh, mà tôi rất phục, như Thánh Thán, viết văn phê bìnhTây Sương ký có khí có thế như vậy, mà cuối tập Mái Tây, lại lấy kinh nhà Phật để chú các câu thơ; tôi đọc chương Kinh mộng cuối cùng, chỗ Quân Thuỵ đi ra kinh để thi, nằm mơ thấy Oanh Oanh chạy dõi theo mình, mà Thánh Thán bình luận, nói cái giác ngộ về sự “chiêm bao”, bỗng nhiên tôi lạnh rùng cả linh hồn: thì ra cả cái tình yêu kia đã làm mình mê mệt từ đầu sách đến giờ, vốn chỉ là mộng mị, mộng mị!...
Không có con đường để giải quyết thoả đáng cái tôi, tôi bèn từ chỗ mài nhọn sắc cái tôi như nữ thi sĩ An-na đờ Nô-ay (Anna de Noälles)[16] muốn tự tạo mình thành “sinh vật độc nhất vô song, không gì thay thế được”, từ chỗ quá khích này, tôi sang chỗ quá khích khác, hai thứ đều duy tâm cả, là tôi rất cảm ơn nhà tôn giáo Ấn Độ Cơ-rit-na-muýc-ti (Khrisnamurti) [17] trỏ cho tôi con đường huỷ diệt cái tôi.
“Một đêm sao” [18] nằm nhìn lên trời, tôi diễn tả cái cảm giác cô đơn cùng cực: “… Tuồng như tôi đã trôi giạt trong không rộng, và hai mắt tôi đã rời ra xa cách tôi; và chính hai mắt cũng rẽ nhau không song song nữa, lưu ly thất lạc mỗi chiếc một đường”. Cuối bài, tôi kết thúc: “Ta nguyện thành một đợt sóng ở giữa đại dương, một hạt bụi trong bãi cát, một bánh xe khi trời chuyển pháp luân. Khi gió dấy lên, khi nước cuộn, ta lăn quay trong tay của chúa đời. Làm gì có cái “ta”! Đó là ảo ảnh của tuổi trẻ; đó là nhầm lẫn của chúng sinh ham sống…” Thế là tư tưởng của tôi, cuối một con đường dài mười lăm năm đi tìm chân lý, đã đến câu ca vọng cổ rẻ tiền: - “Thà rằng thành chim hoá đá, vẩn vơ nơi núi Sở sông Tần…”
Trong khi quần chúng càng ở dưới ách Pháp Nhật càng cùng khổ và đã bắt đầu chết đói, thì người trí thức, người nghệ sĩ ở tôi sa lầy trầm trọng vào cả một hệ thống tư tưởng cũ như vậy, nó là mộttạp-pí-lù tư tưởng của phong kiến, tư sản và tiểu tư sản; tôi cứ ngồi vá áo và phát ra những tiếng kêu đau đớn xé ruột xé gan. Tôi càng nghĩ suy, càng va đầu vào mâu thuẫn. Tâm hồn, trí tuệ tôi là một con chim lồng mà không tự biết, thấy mình có động cánh, thì tưởng mình bay; cứ lấy trái tim đập vào cửa “vĩnh viễn”, của “vô cùng”, kêu khóc: “Mở ra! mở ra cho tôi”, nhưng nó không mở ra bao giờ, vì làm gì có thứ cửa cố định, siêu hình ấy mà mở!
Trong khi âm cực, dương hồi…
Đến hiện nay mà còn có những người tự gọi là suy nghĩ, lại dựa vào cớ này cớ nọ để dè bỉu Liên Xô, dè bỉu Cách mạng do giai cấp vô sản dẫn đường, tôi là một người đã nhiều đau khổ bản thân, tôi thấy những kẻ ấy không biết điều thái quá! Nếu không có Cách mạng tháng Tám đến lôi bật tôi ra khỏi cái vũng lầy quằn quại, thì sau 1945, chắc tôi không còn có thể tiếp tục ngồi xỏ kim vá áo một cách “trong sạch” như thế mãi; mà một nữa là tôi đi vào truỵ lạc, bán văn buôn chữ, sa đoạ thành bồi bút chính trị; hai nữa là tôi hoá điên; chứ thế tất sự lửng lơ không thể kéo dài quá một mức nào đó được.
Những thiên tài văn học cũ, dù sự nghiệp trước tác rõ ràng làm giàu tâm hồn tôi vô hạn, và dạy cho tôi nhiều vô cùng về con người và cuộc sống, nhưng tất cả những trang rất mực tài tình đó đều không đập phá gì hộ tôi được cái nhà tù tư tưởng siêu hình, vì chính họ cũng không tự phá nổi cho họ.
Cụ Võ Liêm Sơn, tác giả thiên tiểu thuyết đầy ý tốt nhưng bi quanCô lâu mộng [19] , đã xua tay rất đúng, “lạy cả nón” cái xã hội cũ:
Thôi thánh hiền,
Thôi tiên phật,
Thôi hào kiệt,
Thôi anh hùng!
Nhưng bài ca cảm khái của cụ thiếu hẳn một nửa. Vâng, âm cực thì dương hồi, tất cả những vị trên đây không cứu gì cho tư tưởng tôi được; duy ngày 19 tháng 8 năm 1945, có quần chúng, có Đảng Cộng sản, có chủ nghĩa Mác-Lênin áp dụng vào hoàn cảnh một nước nông nghiệp thuộc địa, có Cách mạng tháng Tám, em của Cách mạng tháng Mười, đã cứu tôi và cứu tư tưởng của tôi. Rõ ràng là từ trước, tôi mắc kẹt nửa người vào một cánh cửa mở đóng lừng khừng, cửa cứ nghiến, tôi cứ kêu vô ích và thất thanh, cầu cứu khắp các thứ sách vở trên đời ngoài sách vở Mác-Lênin, nên không đi đến đâu cả. Quần chúng lao khổ, rách rưới, chết đói đã đứng lên theo Đảng của giai cấp vô sản, lôi cuốn cả toàn dân tộc, đạp tung cánh cửa lừng khừng của lịch sử, tự cứu mình và cứu hàng vạn những nghệ sĩ, trí thức chết kẹt như tôi. Như vậy mà bảo tôi quên ơn, thì quên làm sao được?
Những vấn đề mâu thuẫn tích luỹ hàng trăm, ngàn năm, quần chúng vượt bậc giải quyết, Đảng của giai cấp vô sản giải quyết. Trước hết chưa giải quyết những đau ngứa phiền toái của tôi, mà hãy kéo tôi đứng lên, gọi tên thật của tôi là một Con Người, xoá trên trán tôi cái vết sắt nung của thời nô lệ, trả cho tôi một Tổ quốc, một dân tộc, cho tôi một ý nghĩa của cuộc đời. Từ trước, học tập một nền văn học Âu châu vào hàng rực rỡ là văn học Pháp, tôi đã nhận thấy đại khái trong đó, trên nét lớn, thời kỳ cổ điển thì tìm chuộng lẽ phải (la raison) thời kỳ lãng mạn thì tìm chuộng tình cảm (le sentiment), đến thời kỳ sa đoạ tiếp theo, nhiều trường phái văn học lại tìm chuộng cái phần thấp của con người, là cảm giác (la sensation). Cuối thế kỷ mười chín, và nhất là sang thế kỷ hai mươi, những “nhà văn” tư sản Pháp đủ các cỡ đi xục vào cái mũi ngửi, cái lưỡi nếm, cái mắt nhìn đường nét sắc màu, coi người ta là một cái túi để đựng các thứ sướng vui, đập vào những phần sơ đẳng nhất, con vật nhất của thằng người; và họ đầu tư nhiều nhất là vào những xúc cảm sinh dục! Cuối thời kỳ thứ ba này, văn học tư sản Pháp không có thời kỳ thứ tư nào để mà đi nữa. Cái bí đường của nó nhập cảng sang Việt Nam, “nhà văn” không còn thể thống gì sốt, lăn vào bàn đèn làm một con thiêu thân chán chường và ác khẩu; văn học không còn có tư tưởng, một số “nhà văn” ba hoa bán trời không văn tự, nhưng thực chất là muốn ăn ngon, chơi sướng mà lại rất nhác lười! Những người còn biết tự trọng và tiếp tục tìm chân lý của cuộc đời, thì loay hoay mãi cũng không thể nào giải quyết bằng “tinh thần” được.
Cách mạng đến! Cách mạng Việt Nam mang tới cái mà văn học tư sản Pháp không có nổi, là sự hành động (l’action). Không phải cái thứ “hành động để mà hành động” (acte gratuit) của Ăng-đơ-rê Gít (André Gide), mà hành động cách mạng, hành động cùng với quần chúng, hành động có mục đích và có hiệu quả. Những ngày Cách mạng tháng Tám, tôi cùng bao nghệ sĩ, tri thức khác say sưa mỗi người một việc, ngày đêm công tác. Hoạt động, công tác cách mạng đã giải quyết sự hoang mang vô bổ của trí tuệ tôi, nhúng trí tuệ tôi trở lại trong cái ý nghĩa cơ bản của sự lao động. Thực dân Pháp đánh Nam Bộ, rồi toàn quốc Kháng chiến, Đảng trao nhiệm vụ giết giặc cứu nước cho ngòi bút tôi. Tôi rộng mở bước vào Kháng chiến trường kỳ, và tư tưởng của tôi còn gặp gỡ, trải vượt nhiều chặng đường xuống lên không phải là đơn giản…
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
Muốn tự công bằng với mình, tôi phải tự nhận cái ưu điểm có hệ thống của tôi, là ngay từ nhỏ, do là con một ông đồ nho nghèo mấy đời, lại là con của má tôi là một người vợ bé, do sớm bị áp bức trong gia đình và sớm được biết cái nghèo túng, và do cố gắng suy nghĩ bản thân, tôi có một lòng thương người yêu người tràn ngập, mặc dầu có đượm một màu sắc không tưởng. Khổ buồn từ bé, tôi luôn luôn nghĩ đến vấn đề đau khổ của con người; tôi dám cả gan viết những câu như:
Cho tôi đau mà bớt khổ loài người,
Tôi nguyện sẽ chết trên cây thánh giá… (1938)
Những khi tối đen bế tắc, cô đơn đến ghê lạnh, tôi vẫn thấy một điều mà tôi không thể từ chối được, là chung quanh tôi, vẫn còn có những con người: “Tôi như chiếc lá lo chuyện lìa rừng, buồn đời bé nhẹ; nghĩ đến muôn nghìn ức triệu lá bạn, mà lại phe phất với đời…”[20] . Cái tôi của tôi huênh hoang tự đại như một thằng bé con, nhưng nó vẫn còn ở trong hồn một điểm sống, một điểm sáng không tắt: “Về đêm, ta trèo ngồi trên đầu Trái Đất; thuyền ta nhịp, bơi qua các sao. Biển trời xanh đen, không thấy đầu đuôi, trên dưới. Ta buồn quá, muốn khóc; ta sầu cái sầu của vũ trụ, ta hận cái hận không gian… Trong cái đại dương vô liêu này, thôi chỉ là hư vô, là sức mạnh to lớn, gồ ghề, vô tri; bọn tinh đẩu làm gì mà xoay như thế? Tôi quay đầu lại nhìn các bạn vô số của tôi; chán nghĩ chuyện trời, tôi nghĩ chuyện người, và tự nhiên lòng tôi thấm thía yêu mến” (1939). Luôn luôn trong tôi có một sự dằng co như vậy; một mặt tư tưởng tôi học phải một nền văn hoá siêu hình, bị nó lôi theo xuống dốc và vào hũ nút; nhưng mặt khác, tôi vẫn đầy lòng thương yêu, và cãi lại: không thể chết hết, không thể mất hết được! đời vẫn cứ còn đây kia mà! Cuối Nhật thuộc, hai triệu nhân dân chết đói, tôi đã bị ngập đến tận cổ, nhưng nhất định tôi không chìm, tôi vẫn thở, tôi cố bơi, và tôi đã bơi đến với Cách mạng. Khi quần chúng cầm cờ đỏ sao vàng đi cướp lấy chính quyền vào trong tay, tôi thấy đó là điều tôi vẫn chờ đợi, thấy cuộc Cách mạng này là của tôi, không thể khác, không thể khác được!
Tuy nhiên, cũng như trong ái tình, yêu nhau rồi, nhưng không phải nhất đán đã hiểu nhau tất cả; càng yêu càng hiểu, càng hiểu càng yêu, bao gồm cả những lúc hờn giận không hiểu nhau, thậm chí có lúc “bằng mặt chẳng bằng lòng”, tệ hơn nữa, có lúc tưởng như ly dị nhau được! Một số người yêu Cách mạng, đến với Cách mạng, nhiều khi cũng thế.
Tôi hăng hái vào Cách mạng, vui sống với công tác, nhưng thực ra, đã ở với nhau, mà tôi mới khám phá ra Cách mạng dần dần… Vào làm Văn hoá Kháng chiến ở Thanh, đầu năm 1947, tôi bỗng mở quyển Lịch sử kỳ diệu của loài người [21] ra đọc. Quyển sách chưa phải đã là không có khuyết điểm, nhưng tôi đọc nó như người được bác sĩ mổ lấy cái màng che nơi hai con mắt. Tôi sướng quá! Tôi đẻ ra đã làm một tên nô lệ nhỏ, suốt đời sống trong gông cùm, dưới chà đạp, thấy toàn chuyện xấu xa tàn ngược, nên chi tôi đã cho đó là tất cả lịch sử của loài người. Nhưng không, loài người bơi qua biển máu, trèo qua núi xương, bị các giai cấp thống trị kế tục nhau coi là cái rác, cực nhục quá lắm, nhưng mỗi thế kỷ đều có tiến thêm trên đường giải phóng, đều có sáng thêm mãi ra, đều có nổi dậy quật cho bọn áp bức bóc lột ngã chỏng gọng, rơi xuống ăn bùn, và lấy máu trả đền nợ máu! Té ra nghìn triệu người nghèo khổ bị chết bao nhiêu lâu nay không phải là cỏ cây mục nát vô ích, mà là động lực căn bản của cuộc vươn lên vĩ đại. Ừ, dầu cho chế độ tư bản, khi nó rẫy chết, khi nó thành chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít, nó tàn ác bằng mấy những ngày cuối cùng của chế độ phong kiến, Hít-le đốt hàng vạn người Âu châu trong lò, Mỹ thả bom nguyên tử giết dân Nhật, nhưng nó nhất định cáo chung, đó là thắng lợi ghê gớm của loài người. Ở cuối quyển sách dày, có cái chương lớn về chủ nghĩa xã hội. Cái chương kỳ diệu nhất, đơm hoa kết quả của lịch sử kỳ diệu loài người! Thì ra từ nhỏ đến bây giờ, tôi bi quan tắc tị là vì vô minh, là vì dốt, vì không được hiểu, và cả không muốn hiểu! Chứ Mác, Lê-nin, Cách mạng tháng Mười và Liên bang Xô viết vẫn rờ rỡ chói lọi trước tôi; nhưng cái nghề đời là như vậy, phải có Hồng quân Liên Xô đánh tan đội binh Quan Đông của Nhật ở Mãn Châu, Cách mạng tháng Tám vũ bão lay cả người tôi, thì mới chọc thủng được con đường cho chân lý đến với tôi được!
Kỳ diệu thật! Tôi như vỡ lẽ ra hiểu tất cả! Từ trước tới nay, các tác giả lớn bé kêu khóc đời buồn, cuộc sống vô nghĩa, thế giới suy tàn… Pôn Mô-răng (Paul Morand) xách va-ly dán đủ các thứ giấy nhà ga đi chơi lắm nước về, thở hắt hơi ra, kêu: Chỉ trơ có trái đất! [22] Nhà văn Pi-e Lô-ti (Pierre Loti) [23] đồng thời là sĩ quan thuỷ quân Pháp, cưỡi tầu đi chu du hầu khắp thế giới, mà văn của ông cứ như một buổi hoàng hôn xám dài dặc, buồn thấm thía nhức xương; một con bò ở trên tầu của ông chờ ngày đem ra làm thịt, tiếng kêu thảm đạm; ông thương xót nó, trở nên đay nghiến: Thôi mà, những kẻ sẽ ăn ngươi, rồi họ cũng sẽ chết đấy mà! Sau chiến tranh 1914-18, Pôn Va-lê-ri (Paul Valéry) [24] nói một câu trứ danh: “Chúng tôi đây, những nền văn minh, chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể chết”.
Các nhà văn tư sản Pháp trước chiến tranh 1914-18 và từ chiến tranh đó đến cuộc đại chiến 1939-45, kéo dài ở trong thơ văn họ một thứ buồn tận thế như vậy. Họ diễn tả rất đúng cái mốc meo cũ rích của thế giới tư bản và đế quốc chủ nghĩa; cái thế giới đó thì còn cái gì mới đem đến cho loài người nữa? nó chỉ tô hô ra một cái chán chường to lớn. Nhưng họ cũng diễn tả rất sai,− tôi chắc phần lớn họ là những đồ đệ vô tâm của chủ nghĩa “thành thật”, cứ có gì viết nấy theo cảm tính, chứ không phải họ bán mình cho bọn cá mập tài chính, − họ diễn tả rất sai khi họ vơ đũa cả nắm, cho rằng thế giới tư bản là tất cả thế gian, khi họ lấy cái buồn tận thế của tư bản chủ nghĩa điêu tàn mà phóng rộng bao trùm lên cả trái đất và vũ trụ. Có tận thế thật, nhưng chỉ là thế giới cũ tận thế; chứ còn thế giới mới đã xuất hiện lồ lộ ở Liên bang Xô Viết rồi! Chỉ nhầm lẫn − với một số người, thì là gian lận − có một chút xíu đó thôi: từ ngày 25 tháng 10 năm 1917, có đến hai hệ thống xã hội ở trên thế gian, nhưng văn hoá tư sản cứ làm như là vĩnh viễn duy nhất chỉ có một.
Thế mà khóc lóc rên kêu thảm thiết, làm cho số nhà văn Việt Nam, sinh trong nước thuộc địa của đế quốc Pháp, cũng nhầm, khóc theo. Tản Đà nói: Bác đã về thôi, đời đáng chán. Thế Lữ nói: Nhưng đến nay cô ấy đã phong trần, Vì trông thấy cuộc đời thô rõ quá. Huy Cận nói: Đời nghèo thế, chẳng dành tôi chút lạ. Tôi cũng nói: Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách, v.v… Khi than “đời buồn, đời là bể khổ”, chúng tôi chỉ muốn vạch cái cuộc đời mà chúng tôi đang sống, nghĩa là cuộc đời tư bản chủ nghĩa mà thôi; nhưng chúng tôi vô minh, dốt, nên đem tất cả cuộc đời ra mà chửi một thể. Chỉ nhầm có một chút xíu đó, chỉ quên hai dấu ngoặc đơn, đáng lẽ phải chú thích: (đời đây chỉ là đời tư bản chủ nghĩa) mà hàng trăm nhà văn Việt Nam ăn sầu nuốt hận, phao phí rất nhiều tâm huyết của mình. Chứ nếu sớm biết chủ nghĩa Mác Lê-nin, thì xã hội tư bản chết đi, chúng tôi chỉ có vỗ tay mừng, chớ làm sao lại đi khóc đống mối!
Sức mạnh của một quyển sách như Lịch sử kỳ diệu loài người đối với tôi như vậy. Cuối năm 1947, làm ở Tiếng nói Việt Nam, tại ngoại ô thị xã Bắc Cạn, tôi lại được hiểu Cách mạng thêm một bước dài nữa, và căn bản. Tôi được đọc Những nguyên lý cơ bản về triết học của Pô-lit-de (Politzer) [25] . Từ Cách mạng tháng Tám trở đi, dần dần quan sát những sự việc quanh tôi, tôi cảm thấy một thế giới mới, một tư tưởng mới, một hành động mới, nhưng lộn xộn, chắp vá. Quyển Pô-lit-de đã cho trí tuệ tôi một cái xương sống. Nó vạch cho tôi thấy cái “tội tổ tông” của tư tưởng tôi trước đây, là phương pháp siêu hình, chủ quan, duy tâm; lấy mình làm trung tâm của cuộc sống và vũ trụ, coi cái tôi là một tuyệt đối bất di dịch, thì đồng thời cũng quan niệm sự vật và cuộc đời là từ xưa đến nay vẫn như thế, con người xưa nay vẫn thế, vũ trụ tuần hoàn lại chu kỳ quay về chỗ cũ…; quan niệm mọi vật cách biệt ra, không liên quan gì đến nhau, khoa học là khoa học, triết học là triết học; quan niệm đã chia ra thì chia ra vĩnh viễn và không thông với nhau được. Thuyền không giao nối đây qua đó, Vạn thuở chờ mong một cánh buồm [26] ; quan niệm sống là sống, chết là chết, hai điều trái ngược không bao giờ lại ở chung, Pô-lit-de kể rằng nhà tiểu thuyết Anh Hớc-bơ U-oen (Herbert Wells) sang Liên Xô, có đến thăm Ma-xim Goóc-ki và đề nghị với Goóc-ki lập ra một câu lạc bộ văn chương, trong đó người ta không làm chính trị. Dường như, nghe nói thế, Goóc-ki và các bạn ông bật cười, và U-oen lấy làm phật ý. Là vì U-oen hiểu và quan niệm nhà văn như sống ngoài xã hội, mà Goóc-ki và các bạn ông thì biết rằng trong đời, không phải như thế!
Quyển Pô-lit-de đã cho tôi một phương pháp tư tưởng khác hẳn. Tóm tắt lại, thì cũng có mấy chữ thôi: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử – ấy thế mà nó cách mạng cả thế giới. Khi nó đến với tôi một cách có lớp lang, hệ thống, lại như một người bạn chậm rãi phân trần sai, đúng, thì nó đích là “chiếc thuyền bát nhã” chân chính đưa trí tuệ tôi vượt biển vô minh đến bờ giác ngộ.
Như thế là trí tuệ tôi đã được phát động. Nguy hiểm nhất cho chủ nghĩa tư bản, là hạt giống tư tưởng Mác vào trong óc người và nẩy mầm trong đó. Trong ba bốn năm sau, tư tưởng tôi, theo quy luật của sự nẩy nở, tự nó một ngày một xé toang ra. Tôi hiểu Cách mạng, hiểu Đảng nhiều thêm. Một ngày một thấy mở rộng.
Lúc mới hơn hai mươi tuổi, mà tôi đã “Giã từ tuổi nhỏ” rất lâm ly; đến trước Cách mạng tháng Tám, tôi đã tự cho mình già, ngồi chằm vá áo. Nhưng từ khi biết chủ nghĩa Mác, tôi thấy mình được vào một lịch trình mới xuất phát, còn rất trẻ, tiến bộ đến vô cùng.
Lại tìm những lối đoạn trường…
Tuy vậy, dù sao, tôi cũng mới giác ngộ trên lý thuyết. Có lẽ cái vui sướng lớn của tôi là tự nhấc ra được khỏi một hệ thống chết, mà vào một hệ thống sống, nghĩa là tự cứu được mình. Mà đến với chủ nghĩa xã hội vì mình, thì chóng chầy những đau ngứa phiền toái cũ lại phát ra.
Những năm 1951, 52, 53, sau thắng lợi chiến dịch Biên giới, cuộc kháng chiến của ta trên đà trưởng thành mạnh, phải vượt những khó khăn rất to lớn. Bấy giờ, chỉ phơi phới đứng trên lập trường dân tộc chung chung mà thôi, không đủ nữa. Kinh tế của ta còn rất ì ạch, thuế nông nghiệp chưa có, Chính phủ phải tạm vay, có những lúc đói to, những vùng thiếu muối; bấy giờ phải có cái dạ sắt gan đồng của anh công nhân, anh bần cố nông, và có cả cái chí phấn đấu của họ, nghĩa là phải có cái giai cấp tính của những người mất thì chỉ mất cái xiềng, được thì được cả thế giới, mới chịu đựng được gian khổ. Mà đó là nhược điểm sâu sắc của tôi. Các thị trấn “tươi” lâm thời xẹp kém đi, các cơ quan cứ rút sâu thêm vào rừng; tôi ngại quá!
Sớm nay ra khỏi u tì quốc,
Một chiếc xe nhanh đạp giữa đường…
Mặt khác, xã hội mới càng ngày càng rõ qui luật tư tưởng, qui luật tổ chức của nó; nó đấu tranh mạnh với xã hội cũ để cho bản chất mới của nó trưởng thành; nó chống chủ nghĩa cá nhân tư sản, chống cái tản mạn tiểu tư sản, chống tinh thần vô chính phủ; nó đòi hỏi ý thức kỷ luật cao với tập thể, tinh thần trách nhiệm đủ với công tác; nghĩa là nó tiến hành đấu tranh tư tưởng. Mà đó cũng là nhược điểm sâu sắc của tôi.
Và xã hội mới đòi đẻ ra thực sự rồi; nó không chịu “dân tộc chung chung” nữa. Nó cấp bách yêu cầu làm cái việc mà cách mạng tư sản Pháp đã làm từ năm 1789; nó đòi hỏi dân cày phải có ruộng. Đồng thời, Mỹ can thiệp ngày càng rõ mặt vào Đông Dương; những trận ném bom, những trận càn khốc hại; lưới gián điệp tung ra. Cuộc kháng chiến gay go đòi giữa ta và địch phải rạch ròi. Cuộc đấu tranh giai cấp dần dần phải quyết liệt. Mà đây càng là nhược điểm sâu sắc của tôi. Từ xưa, tôi cứ “thương người chung chung”. Tôi vẫn mơ ước một xã hội mà mọi người sung sướng; nhưng muốn đến đó, phải biết thương những con người cụ thể, phải có thương ai? ghét ai? phải qua con đường đấu tranh giai cấp để xoá giai cấp. Con đường có rất nhiều đau đớn, nhưng không qua nó, thì không đi được tới đâu. Sợ đi qua con đường đó, tức là tôi vẫn ôm cái xã hội chủ nghĩa không tưởng, cái xã hội chủ nghĩa làm sẵn từ trên trời rơi xuống.
Và một mặt khác nữa, càng đi sâu vào Cách mạng, sự sáng tác càng gian nan. Từ trước, tôi viết cho những người “có học”, tức là, trên nét lớn, những người từ tiểu tư sản trở lên trong xã hội cũ. Bây giờ, những con người “vô học” cũ, nhờ cách mạng, họ đã có học, họ đã đọc sách và họ biết cả phê bình nữa; họ yêu cầu phải nói đến họ, công nông binh; không có lý gì họ nai lưng ra đổ mồ hôi, đổ máu nhiều nhất, mà trên sân khấu của các tác phẩm, lại chỉ có những người khác. Những người “có học” lớp trước kia, bây giờ cũng đã thay đổi cả yêu thích cũ, chính họ lại cũng đòi hỏi nói về công nông binh. Mà đó cũng lại càng là cái nhược điểm rất sâu sắc của tôi.
Những nhược điểm rất sâu sắc chủ quan của tôi không đáp được những đòi hỏi gay gắt khách quan của kháng chiến, trong hai, ba năm trời, trong tôi có một cái gì cứ chùn dần, cứ cuốn lại. Ngoài mặt thì như không có gì xảy ra, nhưng ở chỗ tinh vi, kín nhẹm nhất, có một sự rút trốn. Cái chất hưởng thụ, cầu an tích luỹ trong thể xác và tâm trí tôi hàng mấy chục năm, nay làm thành một sức ỳ khó lay chuyển. Gian khổ, khó khăn không chỉ ở đằng xa, nơi quần chúng vẫn chịu và gánh mà đã đến đụng chạm ngay bản thân tôi; tôi không thể “kháng chiến vui vẻ, cách mạng vui vẻ” nữa. Tự tôi mình theo tinh thần của giai cấp vô sản, gay lắm! Tôi đâm ra hờn, tủi, dỗi với những người đấu tranh với tôi; tôi tự ái giai cấp, bám lấy các thứ chức tước, danh hiệu cũ. Sáng tác cái mới thường thường bị thất bại, tôi quay về dựa lưng vào các thứ “của chìm”: tác phẩm ngày trước của mình. Kỳ tình, tôi vẫn biết đứng chỗ cũ không thể được nữa; tuy nhiên, lại ngại sang đứng chỗ mới; tâm trạng tôi như người bị chẹt, tinh thần bất ổn, vẫn gần với quá khứ, vẫn xa vợi với tương lai. Cứ chạy sang bên này rồi chạy sang bên kia, thật là đau đớn.
Tôi không bi quan như xưa kia cho cuộc đời, tôi biết chắc là xã hội đang tiến mạnh; nhưng tôi tự bi quan. Khi người ta cảm thấy mình không tiến được nữa, người ta dễ oán hận, người ta ngậm ngùi. Tôi đâm rơi vào cô độc; có khi nằm ngủ, tôi thấy tôi vào thành Hà Nội mua đủ các thứ đồ hàng, nhưng độp một cái, địch đã biết được tôi, nó đuổi rượt và tôi chạy hộc tốc toát mồ hôi; mở mắt ra, mừng rằng mình vẫn nằm yên giữa cuộc kháng chiến, chẳng địch nào bắt mình được cả!
Ai giật mình rùng rợn khi nghĩ đến một vài cái lệch lạc, gò ép, “chụp mũ” phạm phải trong những lớp học tập chính trị thời Kháng chiến; nhưng tôi, tôi rất cảm ơn Chỉnh huấn, cảm ơn những đồng chí đã giúp tôi làm một cuộc vệ sinh lớn cho tư tưởng. Có thể họ đã cọ xát hộ tôi mạnh quá, đôi chỗ bị rách da chảy máu chăng − và tôi cũng có thể phạm như thế đối với họ − chúng ta dù có quá hăng, đôi khi dùng thuốc hơi mạnh, nhưng thuốc đắng vẫn cứ dã tật được như thường! Ở lớp Chỉnh huấn bốn tháng năm 1953 ra, tôi có thể tự hào rằng tôi đã phá được vòng vây luẩn quẩn của sự lừng khừng, và đã có trời cao biển rộng.
Bước đầu tuy chửa là bao,
Nhưng nghe đã rộng, đã cao vô ngần!
Tôi không tự ti nữa, mà tự tin mình, bởi tôi tin ở quần chúng, tin ở Đảng. Tôi thấy rằng Đảng, tức là chân lý. Chủ nghĩa Mác Lê-nin cũng như khí trời trong tốt; phổi ai hít thở được nhiều bao nhiêu, càng khoẻ mạnh bấy nhiêu; Đảng là ở mình. Ta không thể dối được mình, thì cũng không thể ở giả với Đảng; Đảng là hoàn toàn tự nguyện, tự giác. Các nhà văn rất thích sự chân thành, thì Đảng là sự chân thành.
Hai đợt đi làm đội viên phát động quần chúng giảm tô ở làng Còng (Thanh Hoá) và xã Cát Văn (Nghệ An) tiếp tục tái tạo tôi trong quần chúng nông dân. Từ thương người chung chung trước Cách mạng, tôi đã yêu thương những con người lao khổ nhất, xương máu nhất, chung chiếu rách với họ, chia mắm cà với họ, đứng trên lập trường của họ cùng họ đấu tranh: tôi đã bắt rễ vào đất của quần chúng.
Từ phen đá biết tuổi vàng, Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ
Tôi không dám nói đã biết được tuổi vàng, vì chủ nghĩa Mác Lê-nin có một con đường phát triển vô cùng tận. Tôi chỉ muốn nói càng ngày tôi càng yêu, hiểu Cách mạng tháng Tám, Cách mạng tháng Mười hơn. Mười ba năm sống trong chế độ mới của chúng ta, không thấm thía sao được. Từ một người nô lệ, từ một kẻ tù tư tưởng của văn hoá cũ, tôi đã thành một người tự do. Tôi không muốn cái xã hội đã bắt những em bé phải khóc vì buồn, những em bé đòi mẹ nhả cơm ra, những em bé chết đói bám vào cửa kính như ruồi, tôi không muốn nó còn quay trở lại. Ngòi bút của tôi nhọn, có thể góp sức cản đường nó. Khi nó lồng lộn đòi trở lại ở nước anh em Hung-ga-ri, tôi ở xa, vẫn biết mặt biết tên của nó. Tôi không thể phút nào quên được rằng nó còn ở trong miền Nam nước Việt thân yêu của ta!
Những em bé của chế độ ta đã no hơn, ấm hơn, chúng nó hát ca luôn miệng; và chúng nó thông minh, cái thông minh dũng cảm. Tôi coi chuyện em Ngọc như một trong trăm ngàn điển hình của các em đi kháng chiến. Ngọc làm liên lạc ở mặt trận, lúc đầu kháng chiến, bị thương. Bác sĩ phải mổ. Chị y tá thương em quá, ôm lấy đầu em, che mắt em lại. Em Ngọc nói, tỉnh táo: “Chị không cần phải che, hãy để cho em nhìn thấy vết thương của em.”
Ngọc muốn nhìn sự thật căm thù, không muốn trốn. Nhưng khi mẹ Ngọc hay tin, tìm đến thăm, thì Ngọc vẫn hãy còn nhỏ lắm, Ngọc thích làm nũng mẹ, đòi quà.
Chủ nghĩa nhân văn của chúng ta như thế đó. Một em liên lạc khác, không hơn mười ba tuổi, trong khi một toán quân ta, những năm đầu kháng chiến, rút lui lộn xộn, đã ở lại sau trên chiến địa, mò mẫm các bờ bụi, thấy một anh bộ đội bị thương nặng, nằm như người chết. Dốc hết toàn lực, bằng mọi cách, em cố cướp thời gian, cõng đưa anh về căn cứ, và đơn vị đã chữa được anh sống lại. Toàn đơn vị tuyên dương em, hỏi em vì sao đã cứu sống được một người, em trả lời: “Em sờ ngực anh thấy hãy còn nóng, em tiếc…”
“Em tiếc”, đó là chủ nghĩa nhân văn của chủ nghĩa Mác Lê-nin chúng ta!
Chúng ta không bao giờ coi một người còn sống là một “cô lâu mộng”, mà trái lại, chúng ta cố cứu sống lại những cái gì ngỡ là đã chết. Ví dụ như tư tưởng. Chúng ta rất muốn sống lâu năm, đem kinh tế, khoa học, y học để làm dài đời sống con người; nhưng chúng ta không chỉ thấy đời sống là một số lượng ngày khoái lạc cố đếm được càng nhiều càng hay. Chúng ta không quan niệm cái vĩnh viễn theo kiểu sợ già, sợ chết đó. Chúng ta là những người duy vật, nhưng đầy lý tưởng; chúng ta biết cái tinh diệu của đời sống là ở bên trong. Cái tôi của tôi, không cần và không nên huỷ diệt nó như vài nhà tôn giáo Ấn Độ quan niệm. Tôi vui sướng mang cái riêng, nhưng không tôn nó làm bạo chúa, mà hoà nó với cái chung; cái tôi kiểu mới này giàu và mạnh, sinh sôi nảy nở mãi đến hơi thở cuối cùng. Từ lúc hoà nó được với muôn người, tắm nó vào hành động cách mạng, thì nó thành bất diệt.
Vũ trụ của ta cũng vậy; nó không điêu tàn chút nào hết. Nó không quay luẩn quẩn, mà có một lịch sử, một đường tiến. Đầu tiên của loài người, vệ tinh xô-viết đã đem tin vui của Cách mạng tháng Mười vào trong vũ trụ. Con người, mà chủ nghĩa Mác Lê-nin hoàn toàn tin tưởng, đã bắt đầu ra mắt trên sân khấu của vũ trụ rồi!
Cái lạc quan không cùng của chủ nghĩa Mác Lê-nin đã rọi ánh thấu đáo vào tư tưởng tôi. Tôi rất biết rằng tâm trí tôi không phải chỉ có vui, mà luôn luôn có những mâu thuẫn mới, nảy ra trong đó, bắt tôi phải giải quyết. Khi chưa giải quyết được, thì ít hay nhiều, tôi còn buồn. Nhưng buồn chưa phải là bi quan. Mà nếu tôi có bi quan riêng tôi, thì mặc kệ! đời vẫn cứ có hướng lạc quan để tiến. Nhưng mà mình đã nhận định được rằng đời lạc quan tiến, thì mình cũng không có thể bi quan lâu về mình.
Cái vấn đề tư tưởng chính trong văn học là nhà văn có được một niềm lạc quan cách mạng về quốc gia dân tộc, về xã hội, về nhân loại hay không? Cái lạc quan này có đầy đủ lý luận khoa học, chứ không phải cuồng tín; nó dựa chắc chắn vào quần chúng và Đảng; nó không sợ đấu tranh. Do vậy, thực chất của vấn đề bôi đen, tô hồng, theo ý tôi, là vấn đề thái độ đối với Đảng của giai cấp vô sản. Hòn đá thử vàng của một người, trước hết vẫn là thái độ của người đó đối với địch, đối với ta, với những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Trên một con đường gồ ghề, có những người cùng đẩy một chiếc xe bò. Do bản thân chiếc xe bò sức chưa được mạnh − nó chưa phải là một chiếc ô tô − lại do khuyết điểm xếp đặt, lau chùi kém, nó còn đi cà rịch cà tang, và kêu cọc cạch cút kít nhiều quá! Có người nóng tính vừa đẩy xe bò vừa chửi; có những người ráng đẩy cho mạnh hơn, những người này thì thường ít hay kêu om mà gắng nghĩ cách chữa xe; có người buông xuôi tay ra mà đứng bên đường; có người lấy cớ xe sai, nhẩy phóc lên xe ngồi để người khác đẩy mình. Lại có đứa vốn không yêu xe, xúi người ta đến đánh anh cầm càng đằng trước. Ai có lý và ai có lực?
Nhà văn dù có tài mấy, mà như Ho-vơ Phát (Howard Fast) bỏ mặt trận của Đảng trong lúc gay go và địch đang lợi dụng khuyết điểm của ta để tập trung đánh ta, chỉ là một kẻ đào ngũ. Dù là Picátxô (Picasso), hoạ sĩ lừng danh thế giới, đồng chí Picátxô ngày 20 tháng 11 năm 1956, khi cùng chín đảng viên trí thức khác, nằm trong các chi bộ, Đảng bộ khác nhau mà đã gửi thư tập thể thẳng cho các Uỷ viên Trung ương đang họp Ban chấp hành, đòi triệu tập Đại hội Đảng bất thường nhân vì có việc Hung-ga-ri, và ngay hôm sau, thư và tên người đã thấy đăng trên báo tư sản; đồng chí Pi-cát-xô cùng chín đồng chí ấy đã được Trung ương Đảng Pháp công bố bản trả lời chính thức, đồng thời công khai phê bình trước Đảng và toàn dân về việc hành động một cách bè phái và vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Một thiên tài lỗi lạc đến đâu cũng không thể coi hơn giai cấp công nhân và Đảng của nó, hơn quần chúng nhân dân, hơn dân tộc. Trong những ngày Đảng Pháp bị bọn phản động tấn công điên cuồng, đồng chí Giô-li-ô Quy-ri (Joliot Curie) phát biểu: Chưa bao giờ tôi thấy tôi thực sự tự do như bây giờ.
Lẽ phải ở với những người dù nóng tính hay đằm tính, tích cực đẩy, chữa, lái chiếc xe bò. Lẽ phải, và cả sức mạnh, ở với những người lao động, xây dựng, chiến đấu.
Chúng ta từ một xã hội cũ và xấu thoát thai ra, nên chúng ta hiện nay vẫn đang còn hai bậc thang đánh giá: những người hưởng thụ nhiều thì ít hy sinh, những người hy sinh nhiều thì hưởng thụ chưa được mấy; chúng ta sẽ làm cho chỉ còn có một bậc thang công minh trong một xã hội không có giai cấp. Trong khi còn chưa đến đó, thì nhiều người vẫn còn lấy sự giành giật tối đa hưởng thụ làm lẽ sống của họ. Nhưng trên tinh thần, lúc nào cũng chỉ có một bậc thang cao cả: là hy sinh.
Sung sướng thay, vinh quang thay những đồng chí đã đến với Đảng từ lúc tối lửa tắt đèn xưa kia, những đồng chí khổ trước thiên hạ, sướng sau thiên hạ! Đáng kính yêu thay, quần chúng trung bình và vĩ đại, bao giờ cũng chịu thương chịu khó như một bà mẹ, có khi trồng cây mà bị bọn láu cá hái quả ăn trước!
Cách mạng tháng Mười đã 40 năm. Cách mạng tháng Tám đã 13 năm. Tôi có thể nói với Đảng của giai cấp vô sản và của dân tộc:
Lên non em cũng theo lên,
Xuống biển em cũng ngồi bên mạn chèo.
Không những ngồi bên mạn chèo, mà trong tay dù chỉ có một cái que cũng thọc xuống nước mà bơi, bơi đến Thống nhất Tổ quốc, Hoà bình thế giới; bơi đến chủ nghĩa Xã hội, bơi đến chân trời Cộng sản.
10-1937
Chú thích
[1]Douanes: Thương chính, thuế quan (nguyên chú)
[2]Thời phong kiến, ở Trung Kỳ có những trự tiền đồng ăn ba, ăn sáu, ăn mười trự tiền kẽm. Một xu đổi được 15 đồng tiền ăn ba. (nguyên chú)
[3]Tương đương cuối cấp Một (nguyên chú)
[4]Tương đương cấp Hai (nguyên chú)
[5]Tựa Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh, Đoản Quỳ dịch (nguyên chú)
[6]Nhà văn Pháp thế kỷ 17 (nguyên chú)
[7]“Anh hùng lãng mạn” của Chateaubriand (1749-1848) tạo ra. (nguyên chú)
[8]“Anh hùng lãng mạn” của Goethe (1749-1832) tạo ra. (nguyên chú)
[9]Thi sĩ tượng trưng Pháp (1864-1936) (nguyên chú)
[10]Nhà triết học Pháp (1854 – 1888) (nguyên chú)
[11]Thơ Huy Cận (nguyên chú)
[12]Thơ Hàn Mặc Tử (nguyên chú)
[13]Thơ Nguyễn Nhược Pháp (nguyên chú)
[14]Thơ Phạm Hầu (nguyên chú)
[15]Nhà văn Pháp (1840- 1897) (nguyên chú)
[16]Nữ thi sĩ Pháp nổi tiếng (1876-1933) muốn “créer le plus irremplacable des êtres” (nguyên chú)
[17]Khrisnamurti, Ramakhrisna, Vivekananda: những nhà tôn giáo Ấn Độ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 (nguyên chú)
[18]Đăng tạp chí Thanh nghị 1944 (nguyên chú)
[19]Võ Liêm Sơn (1888-1949) viết Cô lâu mộng năm 1928, xuất bản năm 1934. (nguyên chú)
[20]Rút ở bài "An ủi giữa loài người" (1939) (nguyên chú)
[21]L’Histoire prodigieuse de l’Humanité của André Ribard (nguyên chú)
[22]Rien que la terre, tên một quyển sách của Paul Morand
[23]Nhà văn Pháp (1850 = 1923)
[24]Thi sĩ Pháp, nặng về hình thức câu thơ
[25]Một nhà triết học trẻ tuổi Pháp, đảng viên Cộng sản, bị Đức Hít-le giết (nguyên chú)
[26]Thơ Huy Cận
[1]Douanes: Thương chính, thuế quan (nguyên chú)
[2]Thời phong kiến, ở Trung Kỳ có những trự tiền đồng ăn ba, ăn sáu, ăn mười trự tiền kẽm. Một xu đổi được 15 đồng tiền ăn ba. (nguyên chú)
[3]Tương đương cuối cấp Một (nguyên chú)
[4]Tương đương cấp Hai (nguyên chú)
[5]Tựa Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh, Đoản Quỳ dịch (nguyên chú)
[6]Nhà văn Pháp thế kỷ 17 (nguyên chú)
[7]“Anh hùng lãng mạn” của Chateaubriand (1749-1848) tạo ra. (nguyên chú)
[8]“Anh hùng lãng mạn” của Goethe (1749-1832) tạo ra. (nguyên chú)
[9]Thi sĩ tượng trưng Pháp (1864-1936) (nguyên chú)
[10]Nhà triết học Pháp (1854 – 1888) (nguyên chú)
[11]Thơ Huy Cận (nguyên chú)
[12]Thơ Hàn Mặc Tử (nguyên chú)
[13]Thơ Nguyễn Nhược Pháp (nguyên chú)
[14]Thơ Phạm Hầu (nguyên chú)
[15]Nhà văn Pháp (1840- 1897) (nguyên chú)
[16]Nữ thi sĩ Pháp nổi tiếng (1876-1933) muốn “créer le plus irremplacable des êtres” (nguyên chú)
[17]Khrisnamurti, Ramakhrisna, Vivekananda: những nhà tôn giáo Ấn Độ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 (nguyên chú)
[18]Đăng tạp chí Thanh nghị 1944 (nguyên chú)
[19]Võ Liêm Sơn (1888-1949) viết Cô lâu mộng năm 1928, xuất bản năm 1934. (nguyên chú)
[20]Rút ở bài "An ủi giữa loài người" (1939) (nguyên chú)
[21]L’Histoire prodigieuse de l’Humanité của André Ribard (nguyên chú)
[22]Rien que la terre, tên một quyển sách của Paul Morand
[23]Nhà văn Pháp (1850 = 1923)
[24]Thi sĩ Pháp, nặng về hình thức câu thơ
[25]Một nhà triết học trẻ tuổi Pháp, đảng viên Cộng sản, bị Đức Hít-le giết (nguyên chú)
[26]Thơ Huy Cận