Chuyện ấy xảy ra ở miếu thờ thuỷ thần. Tôi đã kể một phần trong cuốn “Đảo chìm”. Đó là một chuyện thật mà tôi không hề bịa đặt, hư cấu. Bây giờ thì tôi xin kể tiếp cái phần mà cuốn sách không đề cập đến. Sự việc rất ngẫu nhiên. Bắt đầu từ khi Thiêm, cậu lính trẻ của đảo mang chăn ra biển giặt. Thế rồi bất ngờ, một con sóng ào đến, cuốn chiếc chăn ra xa. Thiêm nhào xuống vớt chăn. Túm được mảnh chăn rồi thì Thiêm không còn sức bơi vào đảo nữa. Biển cả không hề êm đềm như Thiêm nghĩ. Chẳng mấy chốc, cu cậu đã chới với bên mép san hô. Nghe tiếng kêu cứu của Thiêm, Trung đội trưởng ào xuống ứng cứu. Rồi tiếp theo là Chính trị viên, rồi Đảo trưởng...Lần lượt bảy con người. Cả bảy con cá kình ấy đều bị sóng cuốn. Đảo báo động khẩn cấp. Tầu trực chiến quần lượn suốt mấy ngày trời mới vớt được sáu người lính trôi dạt. Còn Thiêm thì vẫn chẳng thấy đâu.
CHUYỆN Ở MIẾU THUỶ THẦN
TRẦN ĐĂNG KHOA
I
Tôi không phải là một kẻ duy tâm. Thủ trưởng của tôi, Đại tá Nguyễn Văn Định, Trưởng phòng Tuyên huấn Hải quân, cũng chẳng bao giờ tin rằng ở trên đời này lại có thánh thần hay ma quỷ. Anh bảo: "Mình đồng ý với cậu là trong mỗi một gia đình cần phải có một cái bàn thờ. Tết nhất hay ngày rằm, mồng một thì thắp hương, cúng giỗ. Đó là những việc làm cần thiết, là sợi dây nối ta với ông bà tiên tổ. Không có bàn thờ là không còn ra căn nhà. Bàn thờ là nơi ta bày tỏ lòng biết ơn với tổ tiên. Chúng ta không bao giờ quên những người đã khuất. Bàn thờ chỉ có ý nghĩa như thế, chứ đấy đâu phải là nơi ngự trị của các linh hồn. Chết là hết. Làm gì có thế giới bên kia. Nếu thật sự có thế giới bên kia, thì đời sống của chúng ta không thể có được sự yên ả như thế này đâu. Vì ân oán nhiều lắm. Bao nhiêu người chết oan. Chết đau đớn, tủi nhục. Nếu có linh hồn thì tại sao những kẻ bạc ác, gây nên những cái chết oan ức ấy vẫn cứ sống vương giả mà những linh hồn oan khuất lại không thể làm gì được?". "Có lẽ do sự cách biệt của thế giới âm dương chăng? - Tôi tỏ vẻ băn khoăn - Anh sẽ giải thích như thế nào về những hiện tượng đặc biệt. Đó là những người có khả năng nói chuyện với những người đã khuất. Họ tìm mộ rất chính xác. Hỏi bí quyết thì họ bảo: Tôi chẳng tài cán gì đâu. Người chết bảo sao thì tôi nói vậy. Chính họ cho địa chỉ. Cứ theo sự chỉ dẫn của họ mà tìm".
"Bịp bợm! Người chết không thể vạch mặt kẻ bịp bợm nên muốn nói sao thì nói. Cậu lại đi tin những trò nhảm nhí ấy à?". "Tôi không tin, nhưng cũng không giám phản bác quyết liệt anh ạ. Vì có thể cả tôi và anh đều không có những khả năng đặc biệt ấy. Cũng như "thằng" BBC vẫn phát sóng hàng ngày ở Băng hai. Nhưng cái đài của tôi và anh lại chỉ có mỗi một băng, nên không thể bắt được. Rà mãi cũng không thấy. Thế là chúng ta có thể khẳng định: Bằng kiểm chứng khoa học qua cách dò làn sóng, ta có thể khẳng định, không có đài BBC. Nhưng thực chất, cái đài BBC vẫn tồn tại đấy thôi". "Cậu lại nguỵ biện rồi - Đại tá Nguyễn Văn Định cười điềm đạm - Đài BBC và linh hồn người chết là hai lĩnh vực rất khác nhau. Không nên đánh tráo khái niệm và xáo trộn hiện trường. Nếu có linh hồn thì chắc con người đã tìm được ra cách kết nối mà không cần đến giới thầy cúng. Chẳng có gì là bí mật trước sự khám phá của con người và thời đại công nghệ thông tin phát triển như bão lốc hiện nay".
Vâng, tôi cũng tin như thế. Ấy vậy mà rồi lại có khoảnh khắc, cả tôi và Trưởng phòng Tuyên huấn Nguyễn Văn Định đều thấy cuộc đời không đơn giản như vậy. Hình như vẫn đang tồn tại một sức mạnh huyền bí nào đó. Sức mạnh ấy lại nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
II
Chuyện ấy xảy ra ở miếu thờ thuỷ thần. Tôi đã kể một phần trong cuốn Đảo chìm. Đó là một chuyện thật mà tôi không hề bịa đặt, hư cấu. Bây giờ thì tôi xin kể tiếp cái phần mà cuốn sách không đề cập đến. Sự việc rất ngẫu nhiên. Bắt đầu từ khi Thiêm, cậu lính trẻ của đảo mang chăn ra biển giặt. Thế rồi bất ngờ, một con sóng ào đến, cuốn chiếc chăn ra xa. Thiêm nhào xuống vớt chăn. Túm được mảnh chăn rồi thì Thiêm không còn sức bơi vào đảo nữa. Biển cả không hề êm đềm như Thiêm nghĩ. Chẳng mấy chốc, cu cậu đã chới với bên mép san hô. Nghe tiếng kêu cứu của Thiêm, Trung đội trưởng ào xuống ứng cứu. Rồi tiếp theo là Chính trị viên, rồi Đảo trưởng...Lần lượt bảy con người. Cả bảy con cá kình ấy đều bị sóng cuốn. Đảo báo động khẩn cấp. Tầu trực chiến quần lượn suốt mấy ngày trời mới vớt được sáu người lính trôi dạt. Còn Thiêm thì vẫn chẳng thấy đâu.
Sang đến ngày thứ tám, chúng tôi đinh ninh là Thiêm đã chết. Theo kinh nghiệm của những người đi biển lâu năm, những người chết đuối, xác thường dạt vào những bãi nổi. Chúng tôi lần đến các bãi nổi. Rồi điện cho những hòn đảo lân cận, báo cho các đồng đội, cùng tham gia tìm kiếm. Mặc dù vẫn chẳng thấy gì hết ngoài những vỏ ốc, vỏ sò, vậy mà chúng tôi vẫn sục sạo lần tìm.
Con tầu lại tiếp tục xé sóng. Lao đi. Đi xa lắm. Và cuối cùng, chúng tôi dạt lên một hòn đảo đá. Hòn đảo không có người ở. Một vách đá sừng sững như trường thành. Nép bên vách đá là một ngôi miếu thờ thuỷ thần. Ngôi miếu chẳng biết được xây cất từ đời nào. Xi măng trát tường đã tróc loang lổ và mủn như rêu. Trời đang nắng. Nhưng trong miếu vẫn lạnh toát và lúc nào cũng âm âm tối. Bùng biêng treo trong miếu là những hình tầu thuyền bằng giấy xanh đỏ, rồi những hình nhân mặt người đuôi cá. Trên bệ thờ, mấy xấp tiền giấy xếp chồng lên nhau, dày đến hàng mấy gang tay. Không phải tiền âm phủ. Mà là tiền thứ thiệt. Tiền tươi hẳn hoi. Thôi thì đủ loại. Tiền Nguỵ. Tiền của Miền Nam khi vừa giải phóng. Tiền Miền Bắc. Tiền mới VN Đ. Rồi dollas. Rất nhiều dollas. Có đến hàng mấy xấp. Lớp tiền ở phía dưới đang mủn ra, hoá mùn. Có lẽ những người dân chài, hay cánh di tản nào đó qua đây, cúng thuỷ thần, cầu mong “ngài” phù hộ thuận buồm xuôi gió khi vượt đại dương chăng? Anh Định kêu lên: "Phí quá cậu ạ! Cả một gia tài lớn đang tự tiêu huỷ". Tự dưng trong tôi bỗng nảy lòng tham rất trần thế. Tôi bảo Trưởng phòng Tuyên huấn: "Hay là ta mang số tiền VN Đ và dollas này về cho một trại trẻ mồ côi nào đó. Một đống tiền như vậy mà bỏ đi thì uổng quá. Dân mình nhiều người vẫn còn đang đói khổ"
Anh Định cũng nghĩ làm như vậy là phải. Nhưng rồi, cả tôi và anh Định, chẳng ai nghĩ đến việc lựa chọn những đồng tiền có thể tiêu được, khi chợt nghe tiếng gió u ú rú lên trong các hốc đá sau miếu. Ngoài kia, biển vẫn mù mịt sóng. Con tàu lấp liếng trao lắc, trông nó mỏng manh như một chiếc vỏ đỗ. Sóng vẫn ào ào ném lên mép cát những mảnh vỉ buồm rách nát, những chiếc dép trẻ con, những mảnh vỏ sò, vỏ hến rồi cả những rảnh xương người. Những rảnh xương trắng xoá và mòn vẹt. Không cái chết nào dữ dội như cái chết của con người trên biển cả. Chết rồi mà vẫn chẳng được yên. Dù chỉ còn là những rảnh xương tàn, nhưng rồi mỗi mảnh xương tàn ấy vẫn còn phải ngày đêm vật lộn với sóng gió. Bây giờ thì sóng hất những số phận hẩm hiu ấy lên đây cùng vỏ ốc, vỏ sò...
- Cậu có mang theo tiền không?
Anh Định bỗng nhiên hỏi tôi. Tôi thực sự lúng túng. Đi biển thì có tiêu được gì đâu mà mang theo tiền. Tôi chẳng có đồng nào. Anh Định chắc cũng thế. Anh lặng lẽ lục khắp các túi. Rồi đột ngột, anh rút bao thuốc Vinataba đang hút giở, đặt lên bệ thờ. Tôi bỗng rùng mình. Mồ hôi túa lạnh ngắt. Tôi không biết hút thuốc. Trong người chỉ có mỗi một cây bút bi và cuốn sổ tay đang ghi dở. Bắt chước anh Định, tôi cũng trịnh trọng đặt cây bút, cuốn sổ tay và chiếc đồng hồ lên bệ thờ cũng Thủy thần. Lúc đó là 13 giờ 17 phút chiều ngày 17 tháng 6 năm 1981.
Tôi không phải kẻ mê tín. Anh Định cũng như tôi. Chúng tôi tuyệt nhiên không tin, không bao giờ tin trên đời này lại có thánh thần hay ma quỷ ...
CHUYỆN Ở MIẾU THUỶ THẦN
TRẦN ĐĂNG KHOA
I
Tôi không phải là một kẻ duy tâm. Thủ trưởng của tôi, Đại tá Nguyễn Văn Định, Trưởng phòng Tuyên huấn Hải quân, cũng chẳng bao giờ tin rằng ở trên đời này lại có thánh thần hay ma quỷ. Anh bảo: "Mình đồng ý với cậu là trong mỗi một gia đình cần phải có một cái bàn thờ. Tết nhất hay ngày rằm, mồng một thì thắp hương, cúng giỗ. Đó là những việc làm cần thiết, là sợi dây nối ta với ông bà tiên tổ. Không có bàn thờ là không còn ra căn nhà. Bàn thờ là nơi ta bày tỏ lòng biết ơn với tổ tiên. Chúng ta không bao giờ quên những người đã khuất. Bàn thờ chỉ có ý nghĩa như thế, chứ đấy đâu phải là nơi ngự trị của các linh hồn. Chết là hết. Làm gì có thế giới bên kia. Nếu thật sự có thế giới bên kia, thì đời sống của chúng ta không thể có được sự yên ả như thế này đâu. Vì ân oán nhiều lắm. Bao nhiêu người chết oan. Chết đau đớn, tủi nhục. Nếu có linh hồn thì tại sao những kẻ bạc ác, gây nên những cái chết oan ức ấy vẫn cứ sống vương giả mà những linh hồn oan khuất lại không thể làm gì được?". "Có lẽ do sự cách biệt của thế giới âm dương chăng? - Tôi tỏ vẻ băn khoăn - Anh sẽ giải thích như thế nào về những hiện tượng đặc biệt. Đó là những người có khả năng nói chuyện với những người đã khuất. Họ tìm mộ rất chính xác. Hỏi bí quyết thì họ bảo: Tôi chẳng tài cán gì đâu. Người chết bảo sao thì tôi nói vậy. Chính họ cho địa chỉ. Cứ theo sự chỉ dẫn của họ mà tìm".
"Bịp bợm! Người chết không thể vạch mặt kẻ bịp bợm nên muốn nói sao thì nói. Cậu lại đi tin những trò nhảm nhí ấy à?". "Tôi không tin, nhưng cũng không giám phản bác quyết liệt anh ạ. Vì có thể cả tôi và anh đều không có những khả năng đặc biệt ấy. Cũng như "thằng" BBC vẫn phát sóng hàng ngày ở Băng hai. Nhưng cái đài của tôi và anh lại chỉ có mỗi một băng, nên không thể bắt được. Rà mãi cũng không thấy. Thế là chúng ta có thể khẳng định: Bằng kiểm chứng khoa học qua cách dò làn sóng, ta có thể khẳng định, không có đài BBC. Nhưng thực chất, cái đài BBC vẫn tồn tại đấy thôi". "Cậu lại nguỵ biện rồi - Đại tá Nguyễn Văn Định cười điềm đạm - Đài BBC và linh hồn người chết là hai lĩnh vực rất khác nhau. Không nên đánh tráo khái niệm và xáo trộn hiện trường. Nếu có linh hồn thì chắc con người đã tìm được ra cách kết nối mà không cần đến giới thầy cúng. Chẳng có gì là bí mật trước sự khám phá của con người và thời đại công nghệ thông tin phát triển như bão lốc hiện nay".
Vâng, tôi cũng tin như thế. Ấy vậy mà rồi lại có khoảnh khắc, cả tôi và Trưởng phòng Tuyên huấn Nguyễn Văn Định đều thấy cuộc đời không đơn giản như vậy. Hình như vẫn đang tồn tại một sức mạnh huyền bí nào đó. Sức mạnh ấy lại nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.
II
Chuyện ấy xảy ra ở miếu thờ thuỷ thần. Tôi đã kể một phần trong cuốn Đảo chìm. Đó là một chuyện thật mà tôi không hề bịa đặt, hư cấu. Bây giờ thì tôi xin kể tiếp cái phần mà cuốn sách không đề cập đến. Sự việc rất ngẫu nhiên. Bắt đầu từ khi Thiêm, cậu lính trẻ của đảo mang chăn ra biển giặt. Thế rồi bất ngờ, một con sóng ào đến, cuốn chiếc chăn ra xa. Thiêm nhào xuống vớt chăn. Túm được mảnh chăn rồi thì Thiêm không còn sức bơi vào đảo nữa. Biển cả không hề êm đềm như Thiêm nghĩ. Chẳng mấy chốc, cu cậu đã chới với bên mép san hô. Nghe tiếng kêu cứu của Thiêm, Trung đội trưởng ào xuống ứng cứu. Rồi tiếp theo là Chính trị viên, rồi Đảo trưởng...Lần lượt bảy con người. Cả bảy con cá kình ấy đều bị sóng cuốn. Đảo báo động khẩn cấp. Tầu trực chiến quần lượn suốt mấy ngày trời mới vớt được sáu người lính trôi dạt. Còn Thiêm thì vẫn chẳng thấy đâu.
Sang đến ngày thứ tám, chúng tôi đinh ninh là Thiêm đã chết. Theo kinh nghiệm của những người đi biển lâu năm, những người chết đuối, xác thường dạt vào những bãi nổi. Chúng tôi lần đến các bãi nổi. Rồi điện cho những hòn đảo lân cận, báo cho các đồng đội, cùng tham gia tìm kiếm. Mặc dù vẫn chẳng thấy gì hết ngoài những vỏ ốc, vỏ sò, vậy mà chúng tôi vẫn sục sạo lần tìm.
Con tầu lại tiếp tục xé sóng. Lao đi. Đi xa lắm. Và cuối cùng, chúng tôi dạt lên một hòn đảo đá. Hòn đảo không có người ở. Một vách đá sừng sững như trường thành. Nép bên vách đá là một ngôi miếu thờ thuỷ thần. Ngôi miếu chẳng biết được xây cất từ đời nào. Xi măng trát tường đã tróc loang lổ và mủn như rêu. Trời đang nắng. Nhưng trong miếu vẫn lạnh toát và lúc nào cũng âm âm tối. Bùng biêng treo trong miếu là những hình tầu thuyền bằng giấy xanh đỏ, rồi những hình nhân mặt người đuôi cá. Trên bệ thờ, mấy xấp tiền giấy xếp chồng lên nhau, dày đến hàng mấy gang tay. Không phải tiền âm phủ. Mà là tiền thứ thiệt. Tiền tươi hẳn hoi. Thôi thì đủ loại. Tiền Nguỵ. Tiền của Miền Nam khi vừa giải phóng. Tiền Miền Bắc. Tiền mới VN Đ. Rồi dollas. Rất nhiều dollas. Có đến hàng mấy xấp. Lớp tiền ở phía dưới đang mủn ra, hoá mùn. Có lẽ những người dân chài, hay cánh di tản nào đó qua đây, cúng thuỷ thần, cầu mong “ngài” phù hộ thuận buồm xuôi gió khi vượt đại dương chăng? Anh Định kêu lên: "Phí quá cậu ạ! Cả một gia tài lớn đang tự tiêu huỷ". Tự dưng trong tôi bỗng nảy lòng tham rất trần thế. Tôi bảo Trưởng phòng Tuyên huấn: "Hay là ta mang số tiền VN Đ và dollas này về cho một trại trẻ mồ côi nào đó. Một đống tiền như vậy mà bỏ đi thì uổng quá. Dân mình nhiều người vẫn còn đang đói khổ"
Anh Định cũng nghĩ làm như vậy là phải. Nhưng rồi, cả tôi và anh Định, chẳng ai nghĩ đến việc lựa chọn những đồng tiền có thể tiêu được, khi chợt nghe tiếng gió u ú rú lên trong các hốc đá sau miếu. Ngoài kia, biển vẫn mù mịt sóng. Con tàu lấp liếng trao lắc, trông nó mỏng manh như một chiếc vỏ đỗ. Sóng vẫn ào ào ném lên mép cát những mảnh vỉ buồm rách nát, những chiếc dép trẻ con, những mảnh vỏ sò, vỏ hến rồi cả những rảnh xương người. Những rảnh xương trắng xoá và mòn vẹt. Không cái chết nào dữ dội như cái chết của con người trên biển cả. Chết rồi mà vẫn chẳng được yên. Dù chỉ còn là những rảnh xương tàn, nhưng rồi mỗi mảnh xương tàn ấy vẫn còn phải ngày đêm vật lộn với sóng gió. Bây giờ thì sóng hất những số phận hẩm hiu ấy lên đây cùng vỏ ốc, vỏ sò...
- Cậu có mang theo tiền không?
Anh Định bỗng nhiên hỏi tôi. Tôi thực sự lúng túng. Đi biển thì có tiêu được gì đâu mà mang theo tiền. Tôi chẳng có đồng nào. Anh Định chắc cũng thế. Anh lặng lẽ lục khắp các túi. Rồi đột ngột, anh rút bao thuốc Vinataba đang hút giở, đặt lên bệ thờ. Tôi bỗng rùng mình. Mồ hôi túa lạnh ngắt. Tôi không biết hút thuốc. Trong người chỉ có mỗi một cây bút bi và cuốn sổ tay đang ghi dở. Bắt chước anh Định, tôi cũng trịnh trọng đặt cây bút, cuốn sổ tay và chiếc đồng hồ lên bệ thờ cũng Thủy thần. Lúc đó là 13 giờ 17 phút chiều ngày 17 tháng 6 năm 1981.
Tôi không phải kẻ mê tín. Anh Định cũng như tôi. Chúng tôi tuyệt nhiên không tin, không bao giờ tin trên đời này lại có thánh thần hay ma quỷ ...