Nguyễn Thị
Anh
Viện Nghiên cứu Hán
Nôm
Văn bản hành chính là
một phần không thể thiếu trong đời sống chính trị của một quốc gia. Chúng gắn
liền với những hoạt động mang tính chất quan phương của nhà nước, thể hiện sự
chú ý của những người lãnh đạo về mọi mặt trong xã hội. Và trong hệ thống văn
bản hành chính thời trung đại, chiếu là một loại hình văn bản có tầm
quan trọng thiết yếu.
Xuất hiện và phát triển trong chế độ phong kiến, chiếu là một loại hình văn bản hành
chính có vai trò rất lớn. Ở mọi triều đại, trong mọi thời kì, chiếu luôn được coi là một trong những
loại hình văn bản hành chính quan phương
nhất, bởi nó trực tiếp thể hiện những mệnh lệnh, những ý kiến, những suy nghĩ
của nhà vua và được ban bố rộng rãi cho quần thần và dân chúng. Nhưng mặt khác
đây cũng là một thể loại văn học quan trọng ra đời từ thời cổ. Ở Việt Nam,
chiếu cũng xuất hiện tương đối sớm
và được ghi chép lại khá nhiểu trong sử sách. Đặc biệt là hai bộ sử lớn của Việt
Nam là Đại Việt sử kí toàn thư và Đại Nam thực lục do Quốc sử triều
Nguyễn soạn. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu sâu
và hệ thống các văn bản chiếu chiếu của Việt Nam.
Thông qua việc khảo sát 2 bộ sử này, hy vọng bước đầu chúng ta có cái nhìn tổng
quát về hệ thống văn bản chiếu của Việt Nam.
1.
Thể loại chiếu
1.1
Khái niệm
Để đưa ra một khái niệm thống nhất
về chiếu, chúng tôi tiền hành tìm
hiểu thông qua các bộ từ điển:
Trong Từ nguyên chính tục biên bản hợp đính,
quyển 1, Thương vụ ấn thư quán, năm 1947, trang 1376, một trong những định nghĩa
về chiếu như sau:
詔
, 詔書也
. 古時上命其下皆曰詔
. 秦漢以後天子稱之
.漢書
“ : 陛下登德音,
下明詔”(Chiếu, chiếu thư dã. Cổ thời thượng mệnh kì hạ
giai viết chiếu). Tần Hán dĩ hậu
thiên tử xưng chi. Hán thư: “Bệ hạ
phất đức âm, hạ minh chiếu” nghĩa
là: Chiếu tức là chiếu thư. Thời xưa người trên ra lệnh cho
người dưới thì đều gọi là chiếu. Từ
đời Tần Hán trở về sau khi dùng cho thiên tử mới dùng từ này. Sách Hán thư: “Bệ hạ mở đức, hạ minh chiếu”.
Để làm sáng tỏ hơn định nghĩa này,
cũng trong cuốn Từ nguyên chính tục biên trên, chúng tôi xin
trích định nghĩa về chiếu thư như
sau: 詔書,
舊制也
. 國家大政事布告民者曰詔書
, 用哽皇紙墨 書
. 独斷
: “帝之下書有四
. 三曰詔書”
(Chiếu thư, cựu chế dã. Quốc gia đại
chính sự bố cáo dân giả viết chiếu
thư, dụng ngạnh hoàng chỉ mặc thư. Độc
đoạn: “Đế chi hạ thư hữu tứ, tam viết chiếu thư), nghĩa là: Chiếu thư là chế cũ. Các việc chính sự lớn mà
bố cáo cho dân chúng thì gọi là chiếu thư, dùng chỉ vàng cứng và mực đen để
viết. Sách Độc đoạn nói rằng: “Thư
nhà vua ban xuống cho dân có 4 thứ, thì 3 cái gọi là chiếu thư”.
Trong Từ hải, bản hợp đính, quyển 1 trọn bộ
do Trung Hoa thư cục tái bản năm 1948, trang 1241, chữ chiếu cũng có rất nhiều nghĩa, trong đó
có một nghĩa như sau: 詔
, 詔書也
. 史記秦始皇紀
: “命為制
, 令為詔
, 漢書董仲舒傳
: “陛下登德音
, 下明詔”
(Chiếu, chiếu thư dã. Sử kí Tần Thủy Hoàng kỉ: “Mệnh
vi chế, lệnh vi chiếu”, Hán thư
“Đổng Trọng Thư truyện: “Bệ hạ phát đức âm, hạ minh chiếu”), nghĩa là: “ Chiếu, tức là chiếu thư. Tần Thủy Hoàng bản kỉ trong sách
Sử kí: “Mệnh là chế, lệnh là chiếu.” Sách Hán Thư: “Bệ hạ mở đức, hạ
minh chiếu”.
Và cũng trong cuốn Từ Hải này, chữ
chiếu thư được định nghĩa như sau:
皇帝布告臣民之書曰詔書
. 獨斷 : “帝之下書有四
, , 三曰詔書
, 詔書者
, 詔告也.Hoàng đế bố cáo thần
dân chi thư viết chiếu thư. Độc đoạn: Đế chi hạ hữu tứ, tam viết
chiếu thư, chiếu thư giả, chiếu cáo dã), nghĩa là : thư nhà vua
ban xuống cho dân có 4 thứ, thì ba cái gọi là chiếu thư, chiếu thư tức là chiếu cáo.
Qua hai bộ từ điển lớn là Từ nguyên và Từ hải trên, chúng ta có thể thấy chữ
chiếu không có một định nghĩa riêng
cụ thể mà nó chỉ được xếp chung vào chiếu thư, do người trên mệnh cho người
dưới, do Hoàng đế bố cáo cho thần dần những chuyện quốc gia đại
sự.
Trong Trung văn đại từ điển do Trung Quốc Văn
hóa Viện xuất bản năm 1968, trang 36182.1 – 36187.7, chữ chiếu bao gồm 13 nghĩa, trong đó có một
nghĩa như sau: 詔
, 天子 之詔令
, 王言曰詔
, 皇后太子曰令 (Chiếu, thiên tử chi chiếu lệnh, vương ngôn viết chiếu, hoàng hậu thái tử viết lệnh),
nghĩa là: Chiếu, tức là chiếu lệnh của thiên tử. Lời của nhà
vua là chiếu, còn lời của hoàng hậu
và thái tử là lệnh.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, chiếu là văn bản nhà vua ban bố cho
thần dân biết rõ một số chính sách của nhà nước, viết theo lối văn tứ lục biền
ngẫu, mỗi câu ngắt thanh hai đoạn bốn – sáu hoặc sáu – bốn và có về đối ở từng
cặp câu [362,20]
Theo Từ điển Văn học (bộ mới), chiếu lệnh là một hình thức văn chương
của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông thời cổ, dùng để gọi chung các văn từ
mệnh lệnh do nhà vua ban bố cho quần thần, bao quát các thể văn sách, chiếu, mệnh, lệnh, chế, cáo… vốn không
thống nhất về thể loại cũng như tên gọi [470,8]
Trong Thơ văn Lý – Trần nhìn từ thể loại, NXB
Giáo dục,1996, tác giả Nguyễn Phạm Hùng đã đưa ra định nghĩa về chiếu như sau:
“Chiếu là loại văn bản hành chính của
triều đình nhằm công bố cho thần dân trong nước biết và thực hiện những nhiệm vụ
hay những vấn đề có liên quan tới đời sống quốc gia, dân tộc, vương triều”.
[36,9].
Từ những khái niệm trên, chúng ta có
thể đưa ra một định nghĩa chung cho văn chiếu như sau:
Chiếu là văn bản hành
chính có tính quan phương trong thời kì trung đại, nhằm công bố cho thần dần
trong nước biết và thực hiện những nhiệm vụ hay những vấn đề có liên quan tới
đời sống quốc gia, dân tộc, vương triều và thường được viết theo lối văn tứ lục
biền ngẫu, mỗi câu ngắt thành hai đoạn bốn – sáu hoặc sáu – bốn , có vế đối ở
từng cặp câu.
1.2 Lịch sử hình thành, phát triển
và một số đặc điểm của văn bản chiếu
1.2.1 Lịch sử hình thành , phát triển của
văn bản chiếu
Chiếu là một loại hình văn
bản hành chính đặc biệt đã xuất hiện ở Trung Quốc từ thời cổ và được truyền sang
các nước phương Đông thuộc vùng ảnh hưởng của văn hóa Hán, trong đó có Việt
Nam. Sở dĩ đặc biệt vì đó là một
trong những loại hình văn bản hành chính có tính quan phương nhất của nhà nước
đã ra đời từ rất lâu, tồn tại trong suốt thời kì phong
kiến.
Trong tác phẩm Lịch sử văn hóa Trung Quốc được tác giả
Nguyễn Phạm Hùng trích dẫn trong cuốn Văn học Lí – Trần nhìn từ thể loại, Đàm
Gia Kiện đã viết về nguồn gốc của văn chiếu như sau: Chiếu là “cáo của triều đình ban bố gọi
chung là chiếu lệnh, bắt nguồn từ
thể cáo trong Thượng thư, thời Xuân
Thu gọi là mệnh, thời Chiến Quốc gọi là lệnh. Sau khi Tần thống nhất, đổi mệnh
thành chế, đổi lệnh thành chiếu.
Đầu đời Hán mệnh chia làm bốn loại, danh mục, công dụng khác nhau. Chiếu là cáo với bách quan…” Như vậy,
chiếu vốn được bắt nguồn từ thể cáo
trong sách Thượng thư, được gọi là chiếu lệnh, trải qua các tên gọi khác
nhau, đến đời Tần mới có tên gọi là chiếu như hiện nay. Thực chất, nó là
loại văn bản hành chính của triều đình nhằm công bố cho thần dân biết và thực
hiện những nhiệm vụ có liên quan đến đời sống xã hội, dân tộc, hoàng
triều.[36,9]
1.2.2 Một số đặc trưng của văn bản
chiếu:
Chiếu không chỉ đơn thuần
thuộc phạm vi của văn bản hành chính của thời kì Trung đại mà còng là một thể
loại có nhiều đóng góp cho nền văn học mỗi nước trong thời kì này. Đó là một thể
loại văn học có chức năng cao, phục vụ cho việc giao tiếp có tính quan phương.
Tùy vào mỗi triều đại, mỗi thời kì cụ thể mà văn bản chiếu có những đặc điểm riêng phù hợp
với từng triều đại, mỗi thời kì cụ thể mà văn bản chiếu có những đặc điểm riêng phù hợp
với từng triều đại, từng thời kì đó. Nhưng về cơ bản, đặc trưng của thể loại
này, xét về nội dung là mệnh lệnh của vua chúa đối với thần dân; xét về hình
thức thì đó là sự vận dụng phổ biến các cách diễn đạt của văn xuôi cổ thể, của
biền văn, tản văn, và cả vận văn nữa, trong đó
phổ biến nhất là hình thức biền văn. Từ ngữ được sử dụng trong văn chiếu cũng rất đa dạng, phong phú. Điều
này nhằm phù hợp với mục đích sử dụng của văn chiếu: vừa đảm bảo tính bác học vừa đảm
bảo tính phổ cập, vì phải để mọi tầng lớp nhân dân đều có thể hiểu
được.
Các nhà lí luận văn học cổ xem chiếu là một hình thức văn học quan
trọng. Trong 文心雕龍
Văn tâm điêu
long, Lưu hiệp
劉勰
đã xếp thiên Chiếu sách 詔策
vào thiên thứ 19. Ông viết: “唯詔
策乎軒轅 唐虞
同稱為命
... 降及七國並稱曰令,
秦改令為詔
... 古之詔詞
皆用散文
, 故能深厚
, 爾雅
, 感動乎人
(Duy có chiếu sách hồ Hiên Viên, Đường, Ngu gọi là mệnh, giáng cập thất quốc tịnh xưng lệnh. Tần
cải lệnh vi chiếu... Cổ chi chiếu từ giai dụng tản văn, cố năng thâm hậu , nhĩ
nhã, cảm động hổ nhân). Duy có chiếu sách vào thời Hiên Viên, Đường,
Ngu được gọi là mệnh... ban xuống cho 7 nước thì gọi là lệnh, về sau Tần sửa
mệnh thành chiếu... Lời chiếu thời cổ đều dùng tản văn, cho nên
ý tứ thâm sâu, điển nhã, cảm động lòng người...”
Chiếu thuộc kiểu giao tiếp
cộng đồng, lấy số đông làm đối tượng. Tất nhiên trong một số trường hợp, nhà vua
có thể ban di chiếu riêng cho một
số người. Nhưng về cơ bản, đó vẫn là sự giao tiếp giữa vua và thần dân, giữa
triều đình phong kiến và dân chúng, giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống
trị.
Sự tồn tại của văn
học chiếu gắn bó với sự tồn tại của
các triều đại phong kiến, chính vì thế, khi chế độ phong kiến sụp đổ, loại hình
văn hành chính này cũng sẽ không còn lí do để tồn tại.
2.
Hệ thống văn bản chiếu trong lịch sử Việt
Nam
Nhằm phần nào tái hiện diện mạo khái quát nhất về hệ thống văn bản
chiếu Việt Nam, chúng tôi đã tiến
hành khảo sát và lọc các bài chiếu
trải qua các thời lịch sử chủ yếu trong hai bộ chính sử đáng tin cậy (Đại Việt sử kí toàn thư Và Đại Nam thực lục) cũng như một số
nguồn tư liệu khác (Nguyễn Trãi toàn
tập, Tổng tập văn học Việt
Nam, Thơ văn Lí Trần). Chúng tôi đã lập bảng
thống kê số lượng chiếu trong các
thời kì lịch sử Việt Nam dưới đây.
Bảng thống kê số
lượng chiếu các thời trong lịch sử
Việt Nam
(Qua một số nguồn tư
liệu)
Stt
|
Tên nguồn tư
liệu
|
Số lượng chiếu
|
|
Lý
|
Trần
|
Lê
|
Nguyễn
|
1
|
Đại Việt sử kí toàn
thư
|
24
|
23
|
56
|
0
|
2
|
Đại
Nam thực
lục
|
0
|
0
|
0
|
191
|
3
|
Nguyễn Trãi toàn
tập
|
0
|
0
|
6
|
0
|
4
|
Tổng tập văn học Việt
Nam
|
0
|
0
|
0
|
0
|
5
|
Thơ văn Lý
Trần
|
6
|
0
|
0
|
0
|
|
Tổng
|
30
|
23
|
56
|
191
|
Căn cứ vào bảng trên chúng ta có thể
đi đến một vài nhận xét: Trải dài thời kì Trung đại, thời đại nào cũng có các
văn bản chiếu. Song Nguyễn là thời
kì có số lượng văn bản chiếu nhiều
nhất. Điều đó hoàn toàn có thể giải thích được bởi lí do khách quan về thời
gian, khí hậu, chiến tranh cũng như vì ý thức của con người mà số lượng chiếu của các thời Lí, Trần, Lê đã bị
mai mốt nhiều.
Qua việc khảo sát chúng tôi thấy
rằng các văn bản chiếu ngày càng
hoàn thiện dần đạt tới độ ổn định cho loại văn hành chính mang tính chất quan
phương này.
Như vậy qua khái quát về tình hình
chiếu của Việt Nam qua
các thời kì ta thấy chiếu là văn
bản hành chính quan phương xuất hiện từ thời cổ ở Trung Quốc, tồn tại song hành
cùng với sự phát triển của các vương
triều phong kiến.
Khi chế độ phong kiến Việt
Nam được hình thành thì các văn bản
chiếu cũng lập tức được lựa chọn và
sử dụng. Hiện nay văn bản chiếu sớm
nhất được xác định là Thiên đô
chiếu của Lí Công Uẩn sáng tác vào năm 1010 và bản chiếu cuối cùng là Thoái vị chiếu của vua Bảo Đại (tháng 8
năm 1945). Văn bản chiếu sau cùng
này cũng đánh dấu sự chấm dứt vĩnh viễn vai trò của văn bản chiếu trong chế độ phong kiến Việt
Nam đã tồn tại lâu đời.
|