Mùa thu năm 1956, vì ở Chí Linh chưa có
trường cấp 2 nên tôi đã phải "tay nải gió đưa" lẽo đẽo ra thị xã Hải dương theo
học ở trường Trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm . Trường Trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm
lúc đó thực chất đã là một trường phổ thông cấp 2+3 rồi, vì ngoài các lớp 5, 6,
7 đã có thêm mấy lớp 8 nhô. Ngày tôi vào trường, trời mưa to lắm, phố Quang
Trung và phố rẽ vào chùa Quang Hanh ngập cả vỉa hè. Bọn học trò chúng tôi cứ
phải vừa đi vừa nhấc ống quần lội lõm bõm vào trường. Nhưng chỉ một năm sau thì
Trường trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm tách ra thành 2 trường: Trường cấp 3 Hồng
Quang học ở vị trí cũ, và Trường cấp 2 thị xã Hải Dương được chuyển ra gần Phố
Ga -Đường Hồng Quang bây giờ và mãi sau này mới mang tên Trường cấp 2 Trần
Phú.Tiếng là Trường cấp 2 của thị xã Hải Dương nhưng học trò khắp trong tỉnh
cũng về học. Nhưng khóa tôi học thì đa phần là các bạn ở thị xã. Trần Tiến,
Nguyễn Kiều Dung, Nguyễn Thị Mỹ, Nguyễn Thị Nữ, Vũ Đình Mai, Lê Đức Ban, Lương
Vĩnh Thịnh, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn văn Nghĩa, Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Văn Sáu,
Nguyễn Khắc Hồng, Nguyễn Thị Út, Nguyễn Thị Trọng, Bùi Quý Khoáng ... Trần Thị
Kim Dung, Đỗ Bá Tiến, Chu Thừa Tuyên, Nguyễn Bá Phường...Nhưng tuyệt nhiên tôi
không biết gì về Võ Thị Thanh, Chu Thị Hạnh, Chu Thị Phú...cũng là những cô gái
thị xã-những bạn học cùng lớp thời cấp 3 sau này ?
Thị xã Hải Dương lúc đó còn
nhỏ bé lắm. Nhộn nhịp nhất vẫn là phố Trần Hưng Đạo, thứ đến phố Quang Trung và
khu Chợ Lớn. Nhưng vui nhất, bắt mắt nhất vẫn là khu có rạp chiếu bóng Hòa Bình,
nhà kem Thụy Anh và Hiệu sách nhân dân.. Ở giữa khoàng nhà kem Thụy Anh và rạp
chiếu bóng Hòa Bình vẫn còn có một quán cơm bình dân che tạm bằng một mái lá
trên một ô đất trống. Những ngày đầu ra thị xã, bọn học trò nhà quê chúng tôi
thường đến ăn ở quán cơm này vì rẻ và cũng khá ngon. Thời ấy, ao chuôm, sông
ngòi, đồng ruộng còn lan vào đến gần tận trung tâm thị xã. Từ vườn hoa Độc Lập
nhìn ra Ga vẫn thấy mênh mông bát ngát và xa thăm thẳm. Từ vườn hoa Đu Đủ nhìn
ra cầu Phú Lương cũng vậy. Phố Bến Bè (phố Tam Giang bây giờ) một bên còn san
sát nhà tranh vách nứa và một bên là đường con trạch ngổn ngang tre, nứa, lá.
Mùa nước lớn, từ phố Bờ Sông (phố Bạch Đằng bây giờ) nhìn ra chỉ thấy nước ngập
mênh mông, mãi cuối tầm mắt mới thấy xanh xanh lũy tre xóm Miễu (Hải Tân bây
giờ). đường ra Cầu Cất, khu Bình Minh, Khu Máy Sứ, phố Điện Biên Phủ bây giờ còn
là những xóm làng mang tên Tân Kim, Bảo Sài, Hàn Giang...
Ngày mới ra thị xã, tôi và
một ông anh thúc bá tìm trọ trong một nhà ở làng Hàn ngay gần Ga. Ông chủ đi
kháng chiến rồi làm cán bộ gì đó mãi trên mạn ngược. Ở nhà chỉ có hai bà vợ. Bà
vợ cả, người làng Hàn, trông nhanh nhẹn tháo vát, nhưng sắc sói, lắm lời. Người
vợ bé lại là người mạn ngược, ông chủ lấy ở nơi công tác. So với bà cả, thì bà
bé trông chất phác và rất ít nói. Nhưng quan hệ giữa hai bà thường xuyên căng
thẳng. Những cuộc cãi nhau, mà chủ yếu là những trận la mắng của bà cả, xẩy ra
như cơm bữa. Những lúc ấy, bà hai thường chỉ biết ôm con nín nhịn, thỉnh thoảng
mới đáp lại được một câu yếu ớt. Nhưng liền sau đó thì bà cả trả đũa ngay bằng
một trận "báo táp" hơn nhiều. Có một lần, đang đêm chúng tôi phải bật dậy vì
những tiếng gào khóc, la làng, chửi bới được "phối khí" với những tiếng đấm,
tiếng đá, tiếng quăng quật tạo thành bản "giao hưởng" đến chói tai, sởn gáy. Thì
ra đêm ấy ông chủ về, ông chủ đã "nâng cấp" những "bè đôi" rền rĩ thường ngày
thành buổi "đại nhạc hội hoành tráng" . Sau buổi ấy, chúng tôi cũng lặng lẽ rút
quân.
Chúng tôi tìm đến trọ ở số
nhà 22 phố Trần Phú, sau một doanh trại quân đội, trên đường ra Cầu Cất. Đó là
một ngôi nhà hai tầng, gồm bốn hộ thuê trọ. Tầng trên có hộ gia đình một ông
giáo và gia đình một ông bác sĩ. Tầng dưới gian phía trong là gia đình một ông
"cán bộ tổ chức". Chúng tôi cũng chỉ nghe nói thế chứ không biết cụ thể ông ấy
làm việc ở cơ quan nào. Gia đình anh em tôi trọ nằm ở gian phía ngoài là một gia
đình thuộc diện "dân tự do". Bà vợ chuyên bán bánh kẹo ở Chợ Lớn. Còn ông chồng
khi thì đi bán kem, khi thì đạp xích lô... Thực ra thì gia đình họ cũng chẳng
rộng rãi gì nhưng vì nể tình hơi ho quen biết mà cho chúng tôi ở trọ thôi. Ông
chủ nhà tôi trọ vốn là người gần làng tôi. Khoảng đầu những năm năm mươi bị huy
động vào "lính bảo hoàng". Hòa bình lập lại được ra lính và ở lại thị xã này làm
dân tự do. Bà vợ vốn là gái xứ Thanh và theo công giáo, nhanh nhẹn, tháo vát và
cũng khá đáo để. Cuộc sống của họ cũng lam lũ vất vả lắm. Bà vợ, suốt ngày ngoài
chợ đã đành. Ông chồng cũng thường dậy từ rất sớm ra nhà kem chờ lấy hàng, rồi
đạp về các huyện bán. Hôm nào cũng thấy khoảng bốn năm giờ chiều mới về đến nhà.
Người ông ấy đen nhẻm, dáng vẻ bơ phờ mệt nhọc. Được cái bà vợ có vẻ chiều
chồng. Chiều nào cũng thấy bà ấy lo cho chồng một bữa cơm khá tươm tất. Thường
thì ông ấy cứ nghỉ ngơi tắm rửa xong là cơm rượu đã sẵn sàng. Ông ấy cứ việc
ngồi một mình mà khề khà trước đi. Bà ấy còn lo tắm rửa cho con, cho mình rồi
mới vào ăn sau. Trong những lúc khề khà như thế ông ấy thường than vãn sự đời
như là muốn thổ lộ và chia sẻ với chúng tôi vậy. Cứ sau cái động tác gắp một
miếng giò lụa hoặc một miếng giồi chó... bỏ vào miệng nhai, tợp một hớp rượu,
khà một tiếng là ông ấy lại than: "Đời khổ lắm, đời chó lắm các chú ạ!". Đầu
tiên thì chúng tôi chỉ buồn cười. Buồn cười vì thấy ông ấy ăn uống sung sướng
thế có gì mà kêu khổ? Nhưng lâu dần qua những câu chuyện ông ấy kể chúng tôi
cũng tin rằng ông ấy đã thực lòng.
Chúng tôi trọ ở đây được
chừng hơn năm thì xẩy ra một sự cố bất thường. Lần ấy bà chủ chuyển sang đi buôn
chuyến. Một chiều thấy ông chủ dẫn một phụ nữ về nhà giới thiệu với chúng tôi là
khách quen. Cô này người đen đen cao cao không lấy gì là xinh đẹp. Cơm chiều
xong thấy hai người lại dẫn nhau ra phố Quang Trung xem hát cải lương. Chúng tôi
ở nhà đến giờ thì đi ngủ và ngủ say như chết chẳng biết có chuyện gì xẩy ra sau
đó nữa. Chỉ đến quá nửa đêm, khi bà chủ về tru tréo ầm ĩ lên thì chúng tôi mới
bừng tỉnh giấc. Ông anh tôi xông vào giữ chặt cái tay đang cầm dao phay của bà
chủ. Ông chủ thì vừa che chắn cho cô gái, vừa chằm chằm nhìn vợ để liệu hướng
tránh đòn. Một loáng sau thì hàng xóm cũng thức cả dậy. Họ xúm lại xem, kẻ can,
người hún, người nguyền rủa... nhưng rút cuộc họ cũng ngăn chặn được "một cuộc
chiến tranh đẫm máu". Người ta giằng con dao trong tay bà chủ. Người ta giải vây
cho cô gái. Người ta hẩy tay ra hiệu cho ông chồng chuồn đi... Nhưng không ai
bịt mồm được bà chủ cả. Suốt đêm ấy bà ấy rên la kêu khóc. Hết nguyền rủa "con
đĩ" lại mắng nhiếc chồng. Rồi trong cơn nóng giận bà ấy trách mắng luôn cả anh
em chúng tôi nữa: "Cho các chú trọ chẳng có ích lợi gì. Để anh dẫn gái về nhà mà
các chú cũng để yên được...". Trong lòng chúng tôi cũng dậy lên một nỗi tự ái
nhưng đành câm miệng hến chứ biết nói gì. Suốt đêm ấy chúng tôi không ngủ được
nữa. Chúng tôi chỉ nằm nghe và mới rõ được cái câu chuyện tình cũng khá bất
thường của họ.Tai một làng nọ ở xứ Thanh, trong một lần đi càn, một anh lính bảo
hoàng, trông thấy một cô gái xinh đẹp, anh ta bèn túm sống, kéo đến chân một cái
đống rơm cạnh gốc cau, ngả bàn đèn. Không ngờ sau lần "nếm thử" ấy thì anh lính
bảo hoàng kia không sao quên được cô gái nữa. Cho nên anh ta lại về tìm cô gái.
Cố nhiên là cô gái ghét dơ, chỉ muốn băm vằm cái mặt thịt kia ra cho bõ ghét.
Nhưng lại nghĩ "mình đã thất thân với người ta rồi, nghĩa là thực tế đã làm vợ
người ta ". Cho nên ngấm nguýt thì cứ ngấm nguýt nhưng cuối cùng cũng đồng ý cho
cưới cheo đàng hoàng. Họ thành vợ thành chồng, dắt díu nhau đi chỗ này chỗ khác,
cuối cùng đậu lại ở thị xã Hải Dương... Cho đến hôm nay , người con gái ấy lại
thêm một lần đau nữa như vừa bị cưỡng hiếp lại vừa bị phản bội. Trong những lời
rền rĩ xót xa ,bà ấy cứ đay đi đay lại cái câu " mày mà không cưỡng hiếp tao cái
lần ấy thì không đời nào tao thèm lấy cái mặt mày...".Ấy vậy, nhưng sau cơn tức
giận, bà ấy vẫn tha thứ cho chồng, vẫn ăn ở với chồng đến trọn đời mãn kiếp như
lời thề trước Chúa trong ngày lễ thành hôn.
Từ hôm sau, chúng tôi cảm thấy rất
sượng sùng và không thoải mái nữa.Trên đường đi học, tôi tâm sự với một bạn học
cùng lớp là Nguyễn Văn Nghĩa nhà ở ngay trong xóm Đền Mẫu. Nghĩa thoải mái bảo
ngay "Hay là các cậu đến ở nhà tớ, nhưng để tớ về hỏi qua bố mẹ đã". Chỉ vài hôm
sau Nghĩa đã bảo chúng tôi "Bố mẹ tớ đồng ý rồi, các cậu dọn đến mà ở". Thế là
chúng tôi chuyển đến trọ ở nhà Nghĩa, số nhà 24 trong xóm Đền Mẫu cách nhà trọ
cũ cũng không xa.
Ông bố Nghĩa là một người
trông rất mất cân đối. Đầu to, cằm bạnh, má hóp mà thân hình lại thấp bé nhẹ
cân. Trông sức vóc ông ấy thì có vẻ loẻo khoẻo yếu ớt lắm nhưng lại phải làm một
công việc khá vất vả là bốc vác tre nứa lá. Sáng nào cũng thấy ông ấy mặc bộ
quần áo cũ nhàu nát, đội chiếc mũ lá đã tuột vành, thất thểu đi làm và trưa
chiều lại trở về nhà với một dáng vẻ rất mệt nhọc. Tính nết ông ấy thì lại càng
khó chịu hơn. Đi vắng thì thôi, chứ hễ về nhà là ngồi vào bàn rượu. Bữa rượu của
ông ấy thường lai rai suốt buổi trưa, suốt buổi tối. Mà hễ ngồi vào bàn rượu là
ông ấy lè bè chửi bới, kể hành kể tỏi, hành hạ vợ con. Những lúc ấy, ở trong cái
nhà này người ta chỉ còn nghe thấy mình ông chủ nói, mình ông chủ chửi. Vợ con
và cả chúng tôi nữa đều dãn cả ra xa và im thin thít không ai dám ho he hóc
hách. Vậy mà cũng chẳng mấy khi được yên thân. Hình như hôm nào ông ấy cũng tìm
ra được một thứ tội tình của vợ, của con để mà hành hạ. "Giái nhớn đâu?" "Dạ! Bá
bảo gì con ạ" "Vào đây tao bảo". Rồi một tay ông ấy giữ tay "Gái nhớn", một tay
cúi xuống lấy dép, bắt đầu lè bè hỏi tội "Làm sao hôm nay con lợn sề bỏ cám?"
"Dạ con biết làm sao được ạ" " Này thì không biết này, không biết này". Mỗi
tiếng "không biết này" như thế được kèm theo với một chiếc dép đập vào mặt, vào
đầu. "Gái nhớn" cứ việc mà kêu khóc xin tha. Nhưng chỉ đến khi nào ông ấy chán
tay hoặc đuối sức thì mới thôi đòn. Cũng tương tự như thế, hôm thì đến lượt "Gái
con đâu ?-" Vì sao mày để em ngã sưng tím cả mặt mày lên?". Hôm lại đến lượt
"Thằng Nghĩa đâu?- Mày vác mặt đi đâu mà tối sẫm mới về ?". Sau khi đã hành con,
ông ấy lại chuyển sang hành vợ. " Còn cái con đĩ già kia nữa. Mày tưởng mày đảm
đang lắm đấy phỏng?" " Thôi thôi ông ơi, nào tôi có dám nhận tôi là người đảm
đang đâu? Ông yên đi cho tôi nhờ". " A, con này láo, mày lại dám chặn họng ông à
?". Thế là ông ấy sấn đến, lôi bà ấy ra, túm tóc, bạt tai, đấm đá...cho đến
chán, đến mệt...Thật tình, chúng tôi chẳng thấy " bà chủ" có lỗi gì với "ông
chủ"cả . So với ông chủ thì bà chủ hơn hẳn về mặt hình thức. Bà ấy người cao
ráo, sáng sủa, da trắng, tóc dài, môi son cắn chỉ. Suốt ngày bà ấy đã lam lũ bán
rau ngoài Chợ Lớn. Chỉ buổi tối " bà chủ" mới ở nhà. Có lẽ vì mệt nhọc và sợ
chồng nên thường bà ấy chỉ nằm yên ở trên giường. Nhưng cây muốn lặng, gió lại
chẳng muốn đừng. Không mấy tối bà ấy không bị chồng chửi mắng, đánh
đập.
Cuối năm học 1958-1959,
chúng tôi tốt nghiệp cấp 2 cả. Ông anh tôi xin đi học Sư phạm. Nghĩa xin được
một công việc bán thuốc tân dược trên Tây Bắc. Chỉ còn mình tôi xin thi lên cấp
3. Trong dịp này tôi gặp Hà Đình Vĩnh người thôn Văn Thai. Vĩnh rủ tôi đến trọ
cùng với hắn ở trong xóm sau Phố Bắc Sơn. Ngày ấy chưa có những lò luyện thi vào
cấp 3 như bây giờ. Gia đình cho chúng tôi đi trọ là để có thời gian mà tự ôn
thôi, chứ ở nhà quê, mùa vụ công việc nhiều, thì học hành và ôn tập làm sao
được. Vì thế mà tiếng là đi học thi nhưng chúng tôi cũng nhàn nhã và tự do lắm.
Chủ nhật, chúng tôi thường rủ nhau cuốc bộ về Văn Thai chơi. Cũng có lần tôi rủ
Vĩnh về Chí Linh chơi, nhưng Vĩnh bảo: "Chân tớ ngắn lắm, không đi xa được.
Nhưng thi xong, nếu đỗ tớ nhất định sẽ về". Thi xong chúng tôi lại ngong ngóng
mong đến ngày báo kết quả. Rồi ngày đó cũng đến. Thí sinh các ngả đổ về đứng
chật kín cái sân nhỏ trước cửa phòng thí nghiệm. Thày Trần Hữu Hùng, Hiệu trưởng
nhà trường ra công bố danh sách học sinh trúng tuyển chính thức gồm 190 em và
một bản danh sách dự khuyết gồm 40 em. Tôi đã nghe có tên tôi trong danh sách
trúng tuyển chính thức rồi, nhưng cuối buổi vẫn cố nán lại để xem trực tiếp bản
danh sách một lần nữa cho mục sở thị. Tôi cũng cố tìm trong danh sách dự khuyết
xem có Hà Đình Vĩnh hay không, nhưng đều không có. Tôi về nhà trọ thì Vĩnh đã
khăn gói về quê ngay rồi. Chắc Vĩnh buồn lắm nên không ở lại để chia tay nhau
lần cuối. Cũng từ đó tôi mất hẳn liên lạc với Hà Đình Vĩnh. Tròn 40 năm sau, hè
năm 1999, đi coi thi tốt nghiệp phổ thông ở trường Tuệ Tĩnh, tôi mới có dịp qua
làng Văn Thai. Nhớ tới người bạn cũ, Tôi hỏi thăm một cô gái đang phơi rạ ở bên
đường. Cô gái bảo " Bác ấy bây giờ công tác ở xa lắm, chỉ thỉnh thoảng mới về
quê thôi".
Vào trường cấp 3 tôi được
phân vào lớp 8D. Năm ấy nhà trường mới làm thêm được một dãy nhà học bằng tranh
tre nứa lá gồm 12 gian ngăn chia thành 4 phòng học. Dãy nhà học ấy kéo dài suốt
từ gốc đa tới gần hết chiều dài khuôn đất của nhà trường. Các vách ngăn được
ghép bằng gỗ ván để khi cần có thể tháo ra cho các lớp thông luôn với nhau thành
một hội trường lớn. Những ngày đầu chúng tôi được tập trung học chính trị ở cái
hội trường lớn này. Thày Trần Hữu Hùng, hiệu trưởng nhà trường trực tiếp giảng.
Thày Hùng giảng rất rõ ràng khúc triết. Thỉnh thoảng thày lại kết thúc câu giảng
bằng cụm từ "có phải không?". Cứ mỗi lần như thế, khuôn miệng thày lại như cười
nhưng đôi mắt thày thì nghiêm lạnh nhìn ra khắp lượt. Bọn học trò chúng tôi vừa
thích lại vừa sợ. Đôi khi cũng cười rộ lên nhưng rồi lại im ngay nghe thày
giảng. Trong bài giảng hôm ấy, thày Hùng có nói đến triết học Mác-Lê nin, đến
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử...
Học trò lớp 8D đa số là các
bạn ở Ninh Giang và Tứ Kỳ. Các bạn thị xã cũng khá đông, nhưng cùng lớp cũ với
tôi chỉ còn có Nguyễn Khắc Hồng, Nguyên Thị Út, Nguyễn Văn Sáu và Lê Đức Ban.
Tôi vẫn trọ ở nhà bạn Nghĩa cũ. Vì còn một mình nên cũng buồn. Buổi sáng lủi
thủi đi học một mình. Chỉ thỉnh thoảng ra đến Ngã Sáu mới gặp Hồng và Út. Nhưng
nghe đồn các hắn có tình ý với nhau nên cũng ngại nhập bọn. Còn Sáu thì đặc biệt
khác đời. Rất ít khi hắn nhập bọn đi với bạn bè. Hôm nào, tôi cũng thấy hắn
sivin gọn gàng, tay trái cắp một cái cặp da đã cũ, cúi đầu, cắm cổ, chân bước rõ
dài, tay vung rõ mạnh, sáng:đi một mạch đến trường; trưa: đi một mạch về nhà.
Chúng tôi thì khác. Buổi sáng, vì xuất phát đi từ những điểm khác nhau, vả lại
đứa nào cũng lo đến lớp cho kịp giờ, nên cũng ít tụ vạ. Nhưng buổi trưa thì
khác. Chính những con đường đã gom chúng tôi lại với nhau. Trên con đường từ lớp
về nhà, ngoài Hồng, Út cũ ; xuất hiện thêm hai nhân vật mới: một tay cao kều
người Bình Giang và một tay loắt choắt da vàng nghệ người Tứ Kỳ. Đó là hai nhân
vật mà chỉ ít ngày, ít tháng sau sẽ cùng với tôi thành "người một nhà" và gắn bó
với nhau suốt đoạn đời học ở cấp 3.
Tay người cao kều ấy chính
là Phạm Đình Tiến. Hắn người thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang. Hắn
có một bà cô (chị bố) lấy chồng ở thị xã, cũng ở ngay trong xóm Đền mẫu này, rất
gần chỗ nhà tôi trọ. Hắn ở một mình mà tôi cũng ở một mình. Hắn muốn có bạn trọ
cùng cho vui mà tôi cũng đang muốn chuyển chỗ trọ cho đỡ buồn. Thế là hắn rủ tôi
sang trọ cùng. Cố nhiên là tôi phải sang hỏi "hai bác". Bác gái không nói gì,
thế nào cũng được. Còn bác giai thì có băn khoăn về khoản nấu ăn của chúng tôi.
Hai bác không thể cho chúng tôi ăn chung với gia đình là lẽ đương nhiên. Nhưng
Tiến là cháu để tách ra ăn riêng thì không hay mà Tiến ăn với gia đình để mình
tôi ăn riêng cũng thấy bất tiện. Những điều băn khoăn ấy của người lớn lại chẳng
là gì với chúng tôi cả. Chúng tôi đang rất ngại ăn chung với gia đình mà chỉ
thích nấu ăn riêng. Trong suốt những năm tháng đi trọ học có bao giờ chúng tôi
ăn chung với gia đình nào đâu. Ở đâu chúng tôi cũng chỉ tự thổi nấu lấy ăn. Mà
bữa ăn của đám "hàn nho" chúng tôi ngày ấy đơn giản lắm. Thành phần chính là một
bò (khoảng 3 lạng) gạo luộc. Cái gọi là thức ăn chỉ là một mớ rau luộc. Nước
chấm cũng tự pha chế lấy. Một dúm muối với một thìa nước rau khoắng đều lên thế
là đã có một bát nước mắm ngon rồi. Chỉ thỉnh thoảng lắm mới có thêm khoản thịt
kho đậu, hoặc tôm rang, cá kho...Đó là những bữa có thể coi là "cải thiện". Các
món xào, món nấu ...đều nằm ngoài thực đơn. Nhưng đang ở tuổi ăn, tuổi lớn nên
chúng tôi ăn gì cũng ngon, và không biết bao nhiêu cho đủ. Vì thế mà có lần tôi
mới tức cảnh mấy câu thơ:
Tiêu chuẩn trên
cho bữa một bò
Đói thì không đói chẳng ra no
Nửa chừng xuân đánh vừa ngon
thẻm
Nhai vã càng ngon chả thiết giò.
Ấy vậy mà bài thơ cũng thành "có vấn
đề" và tác giả của nó cũng phải xem xét về mặt tư tưởng ? Có lẽ vì có thày đã
hiểu chữ "Tiêu chuẩn trên cho" kia là ám chỉ Đảng và Nhà nước. Nhưng thực tế
Đảng và Nhà nước lúc đó đã cho chúng tôi một chút "tiêu chuẩn" vật chất nào cụ
thể đâu? Chỉ có bố mẹ cho tiền và cho gạo. Có tiêu chuẩn định lượng hẳn hoi.
Gạo, mỗi bữa 1 bò, ngày 2 bò, cứ thế mà đong đổ vào ruột tượng mà vác đi. Tiền,
đủ chi mua rau mắm và các khoản đóng góp..."Tiêu chuẩn trên cho" trong bài thơ
của tôi chỉ là chỉ bố mẹ thôi, chứ Đảng với Nhà nước gì ở đây mà "bất mãn" với
"chống đối", mà "ảnh hưởng tư tưởng nhân văn giai phẩm"?
Ở thời ấy lòng người dân
hãy còn rộng rãi lắm, nhưng vật chất thì lại quá eo hẹp. Vì thế mà tôi và Tiến
cứ nài nỉ "hai bác"cho tự thổi nấu lấy ăn. Có lẽ vì đó là một phương án rất thực
tế, cho nên ngần ngừ thì có ngần ngừ nhưng cuối cùng "hai bác" cũng đồng
ý.
Còn tay người loắt choắt da
vàng nghệ kia chính là Nguyễn Văn Vỵ. Hắn người thôn La Tỉnh, xã Tây Kỳ, huyện
Tứ Kỳ. Không hiểu sao, hắn lại hỏi trọ ở một nhà mãi tận xóm Bảo Sài. Từ Bảo Sài
phải đi qua một quãng đồng nữa mới tới xóm Đền Mẫu. Có lần tôi đến chỗ hắn trọ,
thấy cũng khá chật chội, mà đường thì xa và những ngày mưa còn lầy lội nữa. Cũng
có lần hắn đến chỗ chúng tôi. Hắn mặc bộ quân áo âm lịch, quần còn đang sắn,
chắc là vừa mới phải lội nước lên, tay cầm một bọc to. Vào đến nơi, hắn mở ra,
toàn là những đồ chơi gấp giấy, do chính tay hắn gập. Nhiều thứ lắm: tầu bay,
tầu bò, tầu chiến... rồi con ngỗng, con gà, con chó...Hắn quả là một người rất
khéo tay . Tôi phục hắn lắm. Vì về khoản này thì tôi vụng thối. Tình thân của
chúng tôi cũng đậm dần lên và ít lâu sau thì tôi và Tiến lại xin với " hai bác"
cho Vỵ đến trọ cùng. Bộ ba Tiến-Tuân-Vỵ hình thành từ giữa năm lớp 8, khoảng
cuối năm 1959, đầu năm 1960 gì đó.
Nhà "hai bác" chỉ có hai vợ
chồng già, không có con. Nghe nói đâu là tại bác giai. Thời trai trẻ, bác đi làm
bồi tầu, cũng lênh đênh khắp năm châu bốn biển rồi làm sao ấy mà vô sinh. Lúc ấy
bác giai đang làm ở Tổng kho cấp 2 và cũng sắp đến tuổi nghỉ hưu. Mái đầu húi
cao đã bạc trắng , nhưng nước da hồng hào, dáng đi hơi nhanh. Bác thường hay nói
to và giật giọng nên mọi người cũng hơi ngài ngại, cho là bác khó tính. Thực ra
bác cũng chỉ là một người vô tâm và phổi bò thôi, không nghĩ ngợi nhiều và cũng
chẳng có ác ý gì với ai. Bác gái trông lặng lẽ và buồn bã hơn. Có lẽ, một người
phụ nữ không được làm mẹ, càng về già thì nỗi cô đơn càng mênh mông. Vì thế mà
ánh mắt của bác trông héo hắt lắm. Bác rất dễ tủi thân và hay sụt sịt khóc.
Ngoài nghề làm ruộng, bác gái còn có nghề dán vàng thoi. Chắc đây cũng là một
nghề gia truyền của gái làng Châu Khê .Vì tôi thấy bác còn có một cô em gái, góa
chồng sớm, thỉnh thoảng vẫn xuống chị, và hai chị em cứ kí cách gấp bẻ dán vàng
ở trong buồng. Cô em trông cao to trắng trẻo hơn cô chị và cũng có vẻ hồn nhiên
hơn. Thỉnh thoảng tôi lại thấy bác ấy ngẫu hứng hát ngâm một câu ca dao. Toàn là
những câu ca dao quen thuộc cả thôi. Hình như cứ ngẫu hứng bắt gặp câu nào thì
bác ấy lại ngâm hát câu ấy: "Chàng ơi phụ thiếp làm chi / Thiếp như cơm nguội đỡ
khi đói lòng...Kim vàng ai nỡ uốn câu / Người khôn ai nỡ nói nhau nặng
lời..."
Năm 1960, miền bắc hoàn
thành hợp tác hóa nông nghiệp. Tố Hữu có những câu thơ viết về phong trào ấy cực
hay: "Dân có ruộng dập dìu hợp tác / Lúa mượt đồng ấm áp làng quê..." Đọc những
câu thơ ấy, tôi mê lắm. Mê thơ và mê luôn cả cuộc sống ở nông thôn nữa. Tôi chỉ
muốn có dịp được trở về quê hương tham gia xây dựng hợp tác xã góp phần đưa nông
thôn mình tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Tôi chả để
ý gì đến tình hình thực tế cả. Tôi đâu có biết rằng, so với thời còn cá thể, gia
đình chúng tôi những năm đó thu nhập rất thấp và chúng tôi cũng đang chịu đói
lây, phải bữa cơm, bữa cháo. Chúng tôi mua được một cái phích, vỏ ken bằng cật
nứa. Buổi sáng, trước khi đi học, bỏ mấy nắm gạo vào đấy rồi đổ nước sôi vào là
trưa về mỗi đứa sẽ có vài lưng cháo húp. "Bác gái" thương chúng tôi đói thường
để dành thêm cho chúng tôi, hôm thì một bát ngô rang, hôm thì mấy củ khoai luộc.
Thế là trưa nào đi học về chúng tôi cũng thi nhau cấm cúc nắm ngô rang, hoặc nhá
khoai luộc, trước khi húp cháo. Vậy mà vẫn vừa ăn, vừa trao đổi chuyện trò, vui
như tết. Có lần đúng dịp "rằm tháng bẩy", ba chúng tôi cuốc bộ về La Tỉnh thăm
nhà Vỵ. Ông bố Vỵ đau dạ dày khá nặng, người gầy yếu, nhăn nhó, mặc bộ quần áo
gụ, nằm ềm ệp trên cái phản kê ở giữa nhà. Mẹ vị, mặc cái quần lửng, chiếc áo vá
cũ kỹ, nhưng người còn tỉnh táo, nhanh nhẹn. Hôm ấy, bác hí húi nấu bánh đúc, ăn
với nộm rau muống. Bác bảo ở đây có tục ngày rằm tháng bẩy phải ăn bánh đúc nộm
rau muống. Lúc ấy thì chúng tôi chẳng nghĩ gì, bác nói sao cũng tin vậy. Nhưng
về sau, thì đôi lúc, chúng tôi cũng ngờ rằng, chúng tôi đã về đúng vào lúc nhà
Vỵ hết gạo. Lần về nhà Tiến thì đàng hoàng hơn. Bố Tiến có nghề sửa chữa xe đạp
ở phố Kẻ Sặt. Người ông trông cũng bé nhỏ và yếu ớt. Mẹ Tiến làm nông nghiệp ở
làng Châu Khê, trông cao và đen khỏe hơn chồng. Cái cao đen của Tiến là do "gen"
của mẹ. Làng Tiến có đường lát gạch. Nhà Tiến có sân gạch tường bao kín đáo.
Phía sau nhà, có một vườn chuối. Có lẽ cũng mới tân nên chỉ thấy những cây chuối
đơn đang vươn những tầu lá khép gần tới nhau. Trong ba chúng tôi thì có lẽ nhà
Tiến khá hơn cả. Nên hôm ấy chúng tôi được chiêu đãi một bữa cơm thịt gà hẳn
hoi. Chỉ có nhà tôi là không bạn nào về. Có lẽ vì tôi mời cũng chưa nhiệt tình
và các bạn thì cũng ngại vì biết tôi đang phải sống với mẹ kế.
Năm sau, thì thêm Đảo và
Khiêm cũng đến trọ ở xóm Đền Mẫu. Nhà Đảo và Khiêm trọ cũng rất gần nhà chúng
tôi và cũng chỉ có hai ông bà già. Ông, làm nghề đạp xích lô còn bà, thì ở nhà
nội trợ. Đảo trước trọ ở mãi xóm Miễu tận Hải Tân bây giờ. Còn Khiêm trọ ở đâu
tôi không rõ. Cuối năm lớp 8, trong buổi lễ tổng kết năm học Đảo trình diễn một
tiết mục "Violon ống bơ" do Đảo tự sáng chế mà hay cực kỳ. Từ đó Đảo thành danh
"Nghệ sĩ violon ống bơ". Đảo có cái khuôn mặt tròn to, cái mũi sư tử và một nụ
cười rất thoải mái. Trông hắn cười tôi hay liên tưởng đến ông "Phỗng cười" vì nó
cũng hể hả và thoải mái như thế. Khiêm thì khác hẳn. Hắn ăn nói ấp úng hơn và
cái cười cũng thường nhăn nhở nửa vời, không thoải mái lắm. Năm chúng tôi hay đi
về cùng nhau. Nhất là cuối năm lớp 10, thời kỳ ôn thi , thì còn hay rủ nhau ra
tận cầu Phú Lương tận dụng ánh sáng của những ngọn đèn cầu mà ôn tập. Nhưng
trước hôm thi vài hôm thì chúng tôi nghỉ hẳn. Chúng tôi rủ nhau đi chơi khắp
xung quanh thị xã để cho nhẹ đầu mà vào thi cho tỉnh táo. Những buổi đi chơi
cuối khóa ấy còn có sự góp mặt của Hồng và Mai nữa.
Chúng tôi còn rất nhiều kỷ
niệm ở cái xóm Đền Mẫu ấy: những buổi đi làm thuê trong công trường xây dựng nhà
máy sứ Hải Dương; những buổi chiều đi câu tôm ngoài Cầu Cất...kể làm sao cho hết
được. Nhưng từ khi ra trường tôi không có dịp về đây nữa. Tiến cũng mất liên lạc
với tôi từ khi hắn đi Tây Bắc. Sau này lại nghe tin Tiến về Viện nghiên cứu cơ
khí gì gì đó, rồi mất vì bệnh lao phổi.Thế là từ buổi chia tay tôi cũng không
còn có dịp nào gặp lại được Tiến cả. Cái hình ảnh lưu giữ lâu nhất trong tôi về
Tiến lại là một hình ảnh hài hước. Lần ấy Tiến xuống bếp bắc cơm. Sân thì thấp
mà nền bếp thì cao mà cửa bếp cũng lại thấp. Hắn từ dưới bước lên vô tình va vào
cái đầu kèo đau điếng. Hắn ngồi thụp xuống sân, tay ôm đầu, miệng dở cười dở mếu
chịu đựng cơn đau. Thấy hắn thế, phản ứng tự nhiên của chúng tôi là phì cười.
Sau, tôi còn làm thơ trêu hắn:
Người cao chỉ
tội cái thân còm
Xuống bếp lên nhà cứ phải
khom
Đầu kèo mấu cột coi chừng đấy
Không tránh mau là có mẻ
om.
Với Vỵ thì sau còn liên lạc dài dài một chút. Những năm học đại học
thỉnh thoảng chúng tôi vẫn sang thăm nhau. Năm 1969, Vỵ còn cất công về tận Chí
Linh chơi với tôi ở trường sơ tán. Nhưng sau đó thì lại mất liên lạc cho mãi tới
buổi họp lớp ngày 18/10/2009 mới gặp lại nhau. Năm 2001, có một lần đưa con gái
ra thi vào trường Cao đẳng Sư phạm, trong khi chờ con thi, tôi có đi lang thang
vào khu Đền Mẫu cũ. Tôi hỏi thăm và gặp lại được người bạn Nghĩa năm xưa. Nghĩa
bán thuốc trên Tây Bắc đến tận khi nghỉ hưu mới về lại Hải Dương ở. Nghĩa vẫn ở
cái khuôn đất cũ nhưng bây giờ đường lối mở mang khác trước nên tôi chẳng nhận
ra được gì nữa. Tôi hỏi thăm đến "gái nhớn", "gái con", đến "cô Dương" , "chú
Bình", những em ruột của Nghĩa, đều đã trưởng thành và riêng tây cả. Tôi không
hỏi đến nhà "hai bác" vì biết "hai bác" đã thành người thiên cổ từ lâu rồi.
Nhưng vì thế mà tôi càng thêm nhớ "hai bác"... và cái mùi thơm của ngô rang ,
cái vị ngọt của khoai lang luộc dường như lại phảng phất bay về...
Chí Linh 4/5/2010
Đỗ Đình
Tuân