|
|
A. Đại
Cương.
Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt
chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ
Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữ Nôm (
1 ) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúng ta dùng lâu đã quen, nên
danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt
đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự La
tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua
các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nó đã được sự
đóng góp của người Việt cũng như người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt
chúng ta.
Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba
thời kỳ :
* Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
* Thời kỳ xây dựng năm 1651.
* Thời kỳ phát triển từ năm 1867.
* Thời kỳ xây dựng năm 1651.
* Thời kỳ phát triển từ năm 1867.
Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc
ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu),
người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Đàng Ngoài, tại Nam Định để giảng đạo.
Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Đàng Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho
đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đến lập Giáo Đoàn Đàng Trong (Mission de
la Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo
Đoàn Đàng Ngoài (Mission de Tonkin).
Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một
trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao - Trung Quốc), vì trước kia người Bồ Đào
Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo Schangch'nan thuộc Quảng Châu, vào
khoảng năm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng
Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Đào Nha dẹp bọn cướp biển ấy,
sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Đào Nha xin phép nhà cầm quyền Trung Hoa cho
họ trú ngụ ở bán đảo Schangch'nan và Áo Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh
quyền Trung Hoa, cho đến thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Đào Nha.
Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn
sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Đào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn
làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy
có cả một Viện thần học " Madre de Dieux " (Mẹ Đức Chúa Trời).
Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang
Đàng Ngoài hay Đàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Đào Nha để
giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã có khi
họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.
B. Sự Hình
Thành Chữ Quốc Ngữ
I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ
Quốc Ngữ
Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu
nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo
hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Đông nằm
trong địa bàn truyền giáo của họ.
Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà
truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo
sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng
Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột : chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ,
tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố
Dòng Tên ở La Mã (Rome).
Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký
hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.
Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La
tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai
tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:
1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự
La Tinh có tên là : Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite
superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi,
1592.
2) Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật: Dictionarium
latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus,
Anno 1595)
Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo
mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.
Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có
thể chia ra làm 2 giai đoạn :
* Giai đoạn phiên âm.
* Giai đoạn cấu tạo câu.
* Giai đoạn cấu tạo câu.
1.- Giai đoạn phiên
âm.
Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ
xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
" Con gno muon bau tlom
laom Hoalaom chian ".
Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi
ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là : Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang
chăng ?
Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng
đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Đào Nha,
và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậy câu
trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng : "
Muốn vào đạo Thiên chúa chăng ? " Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên
Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau : " Muon bau dau Christiam chiam ? " (
Muốn vào đạo Christiang chăng ?).
Đây là câu trích trong quyển sách của
Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm
trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian
ông sống ở Đàng Trong.
Phiên âm : Nghĩa
Anam : An Nam
Tunchim : Đông Kinh
Ainam : Hải Nam
Kemoi : Kẻ mọi
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya : Quảng Nghĩa
Quignin : Qui Nhơn
Dàdèn, lùt : Đã đến lúc
Dàdèn lùt : Đã đến lúc
Scin mocaij : Xin một cái
Chià : Trà
Cò : Có
.......
Onsaij : Ông sãi
Quanghia : Quảng Nghĩa
Nuoecman : Nước mặn
Da, an, nua : Đã ăn nữa,
Da, an, het : Đã ăn hết
Omgne : Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái
Bũa : Vua
Chiuna : Chúa
Anam : An Nam
Tunchim : Đông Kinh
Ainam : Hải Nam
Kemoi : Kẻ mọi
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya : Quảng Nghĩa
Quignin : Qui Nhơn
Dàdèn, lùt : Đã đến lúc
Dàdèn lùt : Đã đến lúc
Scin mocaij : Xin một cái
Chià : Trà
Cò : Có
.......
Onsaij : Ông sãi
Quanghia : Quảng Nghĩa
Nuoecman : Nước mặn
Da, an, nua : Đã ăn nữa,
Da, an, het : Đã ăn hết
Omgne : Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái
Bũa : Vua
Chiuna : Chúa
Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng
chữ Bồ Đào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm
vài danh từ như sau :
An nam : An Nam
Sinoa : Xứ Hóa
Usai : Ông Sãi
Ungne : Ông nghè
On trũ : Ông trùm
Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Đề Lĩnh
Sinoa : Xứ Hóa
Usai : Ông Sãi
Ungne : Ông nghè
On trũ : Ông trùm
Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Đề Lĩnh
Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một
bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio
Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Đàng Trong, trong ấy có dùng vài
phiên âm :
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Ongne, Ungué : Ông nghè
Bancô : Bàn Cổ
Nuocman : Nước Mặn
Ongne, Ungué : Ông nghè
Bancô : Bàn Cổ
Đến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Đắc Lộ có viết một
lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm
:
Ainão : Hải Nam
Tunquim, Tunquin : Đông Kinh
Tunquim, Tunquin : Đông Kinh
Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La
văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã,
trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:
Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An)
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Pullocambi : ?
Dinh cham : Dinh chàm
Quanghia : Quảng Nghĩa
Quinhin : Qui nhơn
Ranran : Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ : Bến đá
Bôdê : Bồ đề
Ondelimbay : Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc : Ông Đề đốc
Unghe chieu : Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứt là không, không là nhứt
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Pullocambi : ?
Dinh cham : Dinh chàm
Quanghia : Quảng Nghĩa
Quinhin : Qui nhơn
Ranran : Ran ran ( tức là sông Đà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ : Bến đá
Bôdê : Bồ đề
Ondelimbay : Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedoc : Ông Đề đốc
Unghe chieu : Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứt là không, không là nhứt
Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Đào Nha,
đã có đến ở Đàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Đắc Lộ, cũng
ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn
gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường
trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Đàng
Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng
tường trình nầy, có các phiên âm :
Digcham : Dinh Chàm
Nuocman : Nước Mặn
Quinhin : Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa
Orancaya : ?
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin : Xá Bình ?
Bếndá : Bến đá
Bude : Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc : Ông đề đốc
Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham : Dinh Chàm
Sinóa : Xứ Hóa
Nuocman : Nước Mặn
Quinhin : Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa
Orancaya : ?
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin : Xá Bình ?
Bếndá : Bến đá
Bude : Bồ đề
Ondelimbay: Ông Đề Lĩnh Bảy
Ondedóc : Ông đề đốc
Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham : Dinh Chàm
Sinóa : Xứ Hóa
Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết
một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển
phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong
bức thư nầy gồm có:
Xán tí : Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng
Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Đắc
Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno
Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh
Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa
Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến
Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo d'Amiral,
André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên
giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ :
Sinoa : Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( nhà tạm trú)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( nhà tạm trú)
Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy
phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631.
Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự
thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm :
Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Đắc Lộ 1631)
Danh từ Ông Nghè :
Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)
2.- Giai Đoạn Cấu Tạo
Câu.
a.- Sự đóng góp của
Gasparo d'Amiral
Giai đoạn kế tiếp được coi như khởi sự từ năm
1632 với những phiên âm của Gasparo d'Amiral, trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy
vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d'Amiral rất quan
trọng, ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu dẫn sau đây cho chúng ta thấy rõ
Đắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển
Bồ Đào Nha - Annam cũng của ông, để Đắc Lộ soạn quyển tự vị "An Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh "
Để hiểu rõ điều chúng tôi vừa đề cập tới, không
gì hơn là chúng ta nhìn lại cuộc đời và vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh
hưởng của Gasparo d'Amiral đối với Đắc Lộ.
Gasparo d'Amiral sinh năm 1592 tại Bồ Đào Nha,
gia nhập Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sư dạy La văn, Triết học, Thần
Học tại các học viện và đại học Evora, Braga, Coinbra ở Bồ Đào Nha.
Năm 1623, Gasparo d'Amiral đến Áo Môn, vào tháng
10 năm 1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633 người Nhật) đến Đàng
Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với Linh mục Đắc Lộ và Pedro Marques
về Áo Môn. Ngày 18-2-1631 Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro,
Antonio de Fontes và Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Đào Nha đến cửa Bạng
(Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy mới đến Kẻ Chợ (Thăng
Long).
Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Áo Môn
còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Năm
1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tại Áo Môn,
như vậy ông đã ở Đàng Ngoài được 7 năm.
Đến năm 1641, ông được cử làm Phó Giám Tỉnh Dòng
Tên hai tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm các nước Nhật, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia,
Thái Lan và Trung Hoa - Áo Môn, Quảng Đông, Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từ
Áo Môn đi Đàng Ngoài, khi tàu đến gần đảo Hải Nam bị đắm, do đó ông bị chết đuối
vào ngày 23-12-1645.
Trong 7 năm ở Đàng Ngoài, Gasparo d'Amiral còn
để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn
tại Kẻ Chợ vào ngày 31-12-1632 nhan đề: " Annua do reino de Annam do anno de
1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias de
Japan, e China " ( Bảng tường trình hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha
André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy
hiện lưu trử tại văn khố Dòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như
sau:
Tun kim : Đông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Đàng tlão : Đàng Trong
Đàng ngoày : Đàng Ngoài
Đàng tlên : Đàng trên
Oũ nghe : Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến
nhà phũ : nhà phủ
nhà huyẹn : nhà huyện
oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng Phu Tử)
Đức laõ : Đức Long; niên hiệu Đức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua : Vua
Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo
Đức vương : Đức Vương
Chúa oũ : Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công)
Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnh quận công)
Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Đàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương : Thanh Đô Vương
Chúa triết : Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău : yêu nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Đàng Ngoằy : Đàng Ngoài
Quãng : Quảng
Tàm đàng : Tàm Đàng
Bên đoũ đa : Bên Đống Đa
tày : Tầy
lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu
Cô bệt : Cô Bệt
Tri yếu : Tri yếu
kẻ hằii : kẻ hầu
ăn dương huyẹn : An Dương huyện
coũ thằn : công thành
Thíc ca : Thích Ca ( Phật)
Phổ lô xã : Phổ lô xã
Sãy uãy : Sải vải
Hộy ăn xả : Hội An xã
huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng : Kẻ Trang
Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc : Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi : Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm
bà : bà (?)
chúa bàng : chúa Bằng
thăn khê : Thanh Khê
hàng bè : hàng Bè
hàng bút : hàng Bút
cữa nam : cửa Nam
kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng
hàng nấm : hàng nắm
đinh hàng : Đinh hàng
càii iền : Cầu Yên
hàng thuõc : hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Đô Đốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương : Ông chưởng Hương
Thầi : Thầy
đức oũ hồe : Đức ông Huề
thuyèn thũỉ : thuyền thủy
Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã
giỗ : giỗ
chặp : chạp
mă : ma
kẽ uạc : kẻ Vạc
cỗ : cỗ
oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế
tình : tình
nhũộn : nhuận
tháng : tháng
cốt bõý : cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an : Nghệ An
Bố chính : Bố chính
thuặn hốe : Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương : huyện Thanh Chương
làng cầii : làng Cầu
nhà nga : nhà nga
đậii xá : đậu xá
vàng may : Vàng May
đức bà sang phú : đức bà sang phú
oũ bà phủ : ông bà phủ
kẽ mộc : kẻ Mộc
kẽ bàng : kẻ Bàng
an nam : An Nam
Đàng tlão : Đàng Trong
Đàng ngoày : Đàng Ngoài
Đàng tlên : Đàng trên
Oũ nghe : Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến
nhà phũ : nhà phủ
nhà huyẹn : nhà huyện
oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng Phu Tử)
Đức laõ : Đức Long; niên hiệu Đức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua : Vua
Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo
Đức vương : Đức Vương
Chúa oũ : Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công)
Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnh quận công)
Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Đàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương : Thanh Đô Vương
Chúa triết : Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău : yêu nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Đàng Ngoằy : Đàng Ngoài
Quãng : Quảng
Tàm đàng : Tàm Đàng
Bên đoũ đa : Bên Đống Đa
tày : Tầy
lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu
Cô bệt : Cô Bệt
Tri yếu : Tri yếu
kẻ hằii : kẻ hầu
ăn dương huyẹn : An Dương huyện
coũ thằn : công thành
Thíc ca : Thích Ca ( Phật)
Phổ lô xã : Phổ lô xã
Sãy uãy : Sải vải
Hộy ăn xả : Hội An xã
huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng : Kẻ Trang
Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc : Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi : Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm
bà : bà (?)
chúa bàng : chúa Bằng
thăn khê : Thanh Khê
hàng bè : hàng Bè
hàng bút : hàng Bút
cữa nam : cửa Nam
kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng
hàng nấm : hàng nắm
đinh hàng : Đinh hàng
càii iền : Cầu Yên
hàng thuõc : hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Đô Đốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương : Ông chưởng Hương
Thầi : Thầy
đức oũ hồe : Đức ông Huề
thuyèn thũỉ : thuyền thủy
Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã
giỗ : giỗ
chặp : chạp
mă : ma
kẽ uạc : kẻ Vạc
cỗ : cỗ
oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế
tình : tình
nhũộn : nhuận
tháng : tháng
cốt bõý : cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an : Nghệ An
Bố chính : Bố chính
thuặn hốe : Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương : huyện Thanh Chương
làng cầii : làng Cầu
nhà nga : nhà nga
đậii xá : đậu xá
vàng may : Vàng May
đức bà sang phú : đức bà sang phú
oũ bà phủ : ông bà phủ
kẽ mộc : kẻ Mộc
kẽ bàng : kẻ Bàng
an nam : An Nam
Tài liệu thứ hai cũng soạn bằng Bồ văn tại kẻ
Chợ ngày 25-3-1637, có nhan đề: " Relacam dos Catequista da Christamdade de Tumk
e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão e China "
(Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn Đàng Ngoài và về cách thức tiến
hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa), tài liệu nầy
hiện lưu trử tại Văn Khố Hàn Lâm Viện Sử Học Hoàng Gia Madrid Bồ Đào Nha. Gồm có
một số phiên âm sau đây :
Sãy : Sãi
đức : đức
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô
thầy : thầy
định : định
nhin : Nhơn (tên)
Nghệ an : Nghệ an
lạy : lạy
tri : Tri (tên)
bùi : Bùi (tên)
Quang : Quảng (tên)
tháng : Thắng (tên)
Coũ thàn : Công Thành
Sướng : Sướng (tên)
đàng ngoài : Đàng Ngoài
già : Già (tên)
Vó : Vó (tên)
nân : Nân (tên)
lồ : Lồ (tên)
đôủ thành : Đông thành (tên)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên)
đức : đức
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô
thầy : thầy
định : định
nhin : Nhơn (tên)
Nghệ an : Nghệ an
lạy : lạy
tri : Tri (tên)
bùi : Bùi (tên)
Quang : Quảng (tên)
tháng : Thắng (tên)
Coũ thàn : Công Thành
Sướng : Sướng (tên)
đàng ngoài : Đàng Ngoài
già : Già (tên)
Vó : Vó (tên)
nân : Nân (tên)
lồ : Lồ (tên)
đôủ thành : Đông thành (tên)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên)
Trong hai tài liệu nầy, tài liệu thứ nhất có gần
400 chữ phiên âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ :
Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ
an)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay :
Các âm â ghi ă (hàng nấm)
----------- ê - e (huyẹn, hién)
----------- y - i (thầi)
----------- o - õ (bõy)
--------- âu - ăii (hầu)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay :
Các âm â ghi ă (hàng nấm)
----------- ê - e (huyẹn, hién)
----------- y - i (thầi)
----------- o - õ (bõy)
--------- âu - ăii (hầu)
Các phụ âm : ng ghi ũ (oũ)
----------------- ch - yc (bạyc)
----------------- ch - yc (bạyc)
Các dấu giọng : ? ghi ~ (cữa nam, phũ)
------------------- ~ - ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả)
------------------- ~ - ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả)
Tuy nhiên Gasparo d'Amiral cũng ghi được các âm
như ngày nay :
a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)
ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)
Có đủ dấu giọng:
không dấu (nam, đô)
� (Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)
� (Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)
Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết
ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định ... Do đó
chúng ta thấy Gasparo d'Amiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng là
điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay Gaspar Luis viết từ năm 1621,
đến tài liệu thứ nhất của Gasparo d'Amiral có khoảng cách biệt trên 10
năm.
b.- Sự đóng góp của Linh
mục Đắc Lộ.
Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người
được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân tộc
Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổ và
cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Để hiểu rõ vấn đề nầy, chúng ta cần lướt qua
tiểu sử và hành trình truyền giáo của Đắc Lộ.
Đắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tại Comtat Venaissin,
tỉnh Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiên ông gốc Do Thái. Tổ phụ của ông đã di
cư từ Tây Ban Nha sang Avignon vào giữa thế kỷ XVI, thân sinh ông là Benadin II
de Rhodes, được liệt vào hàng thân hào, nhân sĩ trong vùng.
Đắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở La Mã ngày 14-4-1612,
học tập chuyên về thần học và toán học tại học viện Saint André du Quirinal, thụ
phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cũng trong năm nầy, ông được phép sang Đông
Nam Á truyền giáo, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào Nha, rồi từ đây đáp tàu đi Áo
Môn ngày 04-4-1619, vì có ghé qua Goa (Ấn Độ) nên ông đến Áo Môn ngày 29-5-1623,
ông đặt chân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1624 tại Đà Nẳng, cùng
với các linh mục Gabriel de Mattos và một giáo sĩ Nhật.
Đắc Lộ đến cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm thuộc
Quảng Nam Dinh, nơi đây có Linh mục Francisco de Pina (sinh năm 1585 tại Bồ Đào
Nha, đến Đàng Trong năm 1617 và chết đuối ở Quảng Nam năm 1625) và Antonio de
Fontes (đến Đàng Trong tháng 12 năm 1624), tại đây Đắc Lộ học tiếng Việt với
Francisco de Pina, tháng 7 năm 1626 ông rời Đàng Trong về Áo Môn, ngày
19-3-1627, ông cùng với Linh mục Pierre Marquez đến của Bang ( Thanh Hóa), ở
đây, hai ông có yết kiến Trịnh Tráng, rồi sau đó theo chúa Trịnh ra Thăng Long,
thời gian nầy hai Linh mục lập giáo đoàn Đàng Ngoài, tháng 5 năm 1630, chúa
Trịnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ, Đắc Lộ trở về Áo Môn.
Từ năm 1630 đến năm 1640, Đắc Lộ dạy thần học ở
học viện thần học Áo Môn. năm 1640, ông được cử đến Đàng Trong làm Bề Trên, thay
thế Linh mục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam Dinh, ông ở đây cho đến ngày
3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan
Cai bộ áp dụng án trục xuất các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rời hẳn
nước Việt Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việt ở Học viện Thần Học, ngày 20-12
năm 1645 ông đáp tàu từ Áo Môn đi Âu Châu, nhằm mục đích vận động thành lập hàng
giáo phẩm Việt Nam.
Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cử Đắc Lộ làm Bề
Trên của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư. Đầu tháng 11-1655, ông đáp tàu từ
Marseille đi Ispaham thủ đô Ba Tư, và tại đây ông đã trút hơi thở cuối cùng vào
ngày 5 tháng 11 năm 1660.
Giai đoạn trước, giáo sĩ Đắc Lộ có để lại 3 tài
liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625 và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy,
ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.
Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: "
Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni,
altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur. Coeptae per
Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636 " ( Lịch sử Đàng Ngoài và
những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa
lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2 quyển, lưu
trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã.
Các chữ phiên âm trong quyển một.
Tung : Đông
kin : kinh
Annam : An Nam
Ai nam : Hải Nam
Chúacanh : Chúa Canh
Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu : Chúa ông
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô ( Thanh Đô Vương Trịnh Tráng)
uuan : vương
min : minh
bát min : bất minh
thuam : thuận
uan : văn
uu : vũ
gna ti : nhà ti
gna hien : nhà hiến
Cai phu : cai phủ
Cai huyen : cai huyện
Bua ; vua
den : đền
sin do : sinh đồ
huan cong : hương cống
tin si : tiến sĩ
tam iau : tam giáo
dạu nhu : đạo nhu (nho)
dạu thíc ; đạo thích
Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca
Sai : Sãi
sai ca : Sãi cả
lautu : Lão tử
Giô : giỗ
Cu hồn : Cô hồn
ba hon : ba hồn
Chin via : Chín vía
dum : Đồng (tên)
kin : kinh
Annam : An Nam
Ai nam : Hải Nam
Chúacanh : Chúa Canh
Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu : Chúa ông
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Đô ( Thanh Đô Vương Trịnh Tráng)
uuan : vương
min : minh
bát min : bất minh
thuam : thuận
uan : văn
uu : vũ
gna ti : nhà ti
gna hien : nhà hiến
Cai phu : cai phủ
Cai huyen : cai huyện
Bua ; vua
den : đền
sin do : sinh đồ
huan cong : hương cống
tin si : tiến sĩ
tam iau : tam giáo
dạu nhu : đạo nhu (nho)
dạu thíc ; đạo thích
Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca
Sai : Sãi
sai ca : Sãi cả
lautu : Lão tử
Giô : giỗ
Cu hồn : Cô hồn
ba hon : ba hồn
Chin via : Chín vía
dum : Đồng (tên)
Các chữ phiên âm trong quyển hai
Cửa bang : Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt : Phật
bụt : Bụt
dang : Đàng
ciiia oũ : chúa ông
ciiia ban uuan : chúa Bằng vương
ciii sai : chúa Sãi
ciii canh : chúa canh
thinh hoa : Thanh Hóa
thai : thầy
sai vai : Sãi Vãi
Che vich : kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no : Kẻ Nộ
Gne an : Nghệ An
bochin : bố chính
Rum : Rum
kiemthuong : Kiêm Thượng
Phuchen : Phục chân
cà : Cà
cã : cả
cá : cá
tlẽ : trẻ
tle : tre
Phạt : Phật
bụt : Bụt
dang : Đàng
ciiia oũ : chúa ông
ciiia ban uuan : chúa Bằng vương
ciii sai : chúa Sãi
ciii canh : chúa canh
thinh hoa : Thanh Hóa
thai : thầy
sai vai : Sãi Vãi
Che vich : kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no : Kẻ Nộ
Gne an : Nghệ An
bochin : bố chính
Rum : Rum
kiemthuong : Kiêm Thượng
Phuchen : Phục chân
cà : Cà
cã : cả
cá : cá
tlẽ : trẻ
tle : tre
Tài liệu năm 1644, Đắc Lộ viết bằng Bồ văn tại
Thanh Chiêm, nhan đề: " Relacão do glorioso Martirio de Andre Cathequista
Protomartir de Cochinchiana alanceado, e degolado em Cachão no 26 de Julho de
1644 Tendo de Idade dezanove annos " ( Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của
Thầy giảng An-Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Đàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm
ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu nầy có những chữ phiên âm và câu
phiên âm :
Ounghebo, Oũnghebo : Ông Nghè Bộ
Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den het hoy, cho
den blon doy : Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đến hết hơi, cho đến trọn
đời.
Tài liệu năm 1647, Đắc Lộ viết bằng La văn tại
Macassar ngày 4-6-1647 có nhan đề : " Alexandre Rhodes è Societate jesu terra
marique decẽ annorũ Itinerarium " ( Cuộc hành trình mười năm trên bộ, dưới biển
của Đắc Lộ thuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các phiên âm như sau:
Ciam : Chàm
Ranran : Ran ran
Ké han : Kẻ Hàn
On ghe bo : Ông nghè Bộ
ke cham : kẻ Chàm
halam : Hà Lan
Cai tlam, Caitlam : Cát Lâm
ben da : Bến đá
Qui nhin : Qui Nhơn
Nam binh : Nam Bình
Bao bom : Bầu vom
Quan Ghia : Quảng Nghĩa
Nuoc man : Nước Mặn
bau beo : Bầu Bèo (?)
liem cum ; Liêm công
Quanghia : Quảng Nghĩa
Baubom : Bầu Vom
bochinh : Bố chính
Oũ ghe bo : Ông nghè Bộ
Ranran : Ran ran
Ké han : Kẻ Hàn
On ghe bo : Ông nghè Bộ
ke cham : kẻ Chàm
halam : Hà Lan
Cai tlam, Caitlam : Cát Lâm
ben da : Bến đá
Qui nhin : Qui Nhơn
Nam binh : Nam Bình
Bao bom : Bầu vom
Quan Ghia : Quảng Nghĩa
Nuoc man : Nước Mặn
bau beo : Bầu Bèo (?)
liem cum ; Liêm công
Quanghia : Quảng Nghĩa
Baubom : Bầu Vom
bochinh : Bố chính
Oũ ghe bo : Ông nghè Bộ
Sau khi đối chiếu tiểu sử của Gasparo d'Amiral
và Đắc Lộ cùng các tài liệu phiên âm như trên, chúng ta có nhận định sau
:
1) Linh mục Gasparo d'Amiral phiên âm có tự dạng
gần với chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơn là các phiên âm của Đắc Lộ, thử so
sánh :
Tài liệu Gasparo d'Amiral 1632 : Tài liệu Đắc Lộ
1636
----------------- Thanh đô vương -------- thanh
đô
----------------- Nhà ti --------------------- gna ti
----------------- Nhà hién ----------------- gna hien
----------------- Nghệ ăn, nghệ an ------ Gne an
----------------- Bố chính ----------------- bochin
----------------- Nhà ti --------------------- gna ti
----------------- Nhà hién ----------------- gna hien
----------------- Nghệ ăn, nghệ an ------ Gne an
----------------- Bố chính ----------------- bochin
2) Gasparo d'Amiral phân biệt được một số dấu
giọng như đã vạch ra ở phần trước, trong khi Đắc Lộ lại ít dùng dấu
giọng.
3) Ngay trong cách phiên âm của Đắc Lộ, tài liệu
sau phiên âm kém hơn tài liệu trước. Trái lại, Gasparo d'Amiral phiên âm tài
liệu năm 1637 khá hơn tài liệu năm 1632.
Năm 1632, bảng tường trình của Gasparo d'Amiral
gửi cho Linh mục André Palmeiro, giám sát các tỉnh Nhật, trung Hoa lúc đó Đắc Lộ
cũng ở tại Áo Môn (1630-1640), là người tha thiết với các giáo đoàn truyền giáo
tại Việt Nam, chắc chắn Đắc Lộ có xem qua bảng tường trình nầy.
Từ năm 1638-1645 Gasparo d'Amiral ở tại Áo Môn,
như vậy họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm 1638-1640, rồi tháng 7 năm 1645 đến
20-12-1645 Đắc Lộ từ Việt Nam trở lại Viện Thần Học Áo Môn, phụ trách dạy tiếng
Việt, còn Gasparo d'Amiral đã soạn quyển Tự vựng Việt La, như vậy cả hai có thêm
thời gian ở bên cạnh nhau, lại cùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó
cho ta thấy chắc chắn Đắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparo d'Amiral về lãnh vực
tiếng Việt.
Tài liệu Đắc Lộ viết năm 1647 tại Macassar,
chứng tỏ rằng sau khi ông rời Việt Nam ngày 20-12-1645, ông vẫn chưa có được một
hệ thống phiên âm vững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay.
c.- Sự đóng góp của Linh
mục Antonio Barbosa
Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifana de
Sonza, Bồ Đào Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm 1629, ông được cử
đến truyền giáo ở Đàng Trong và đến tháng 4 năm 1636, ông có đến Đàng Ngoài
truyền giáo. Cho đến tháng 5 năm 1642, vì lý do sức khỏe, ông phải trở về Áo Môn
tịnh dưỡng. Cũng do tình trạng sức khỏe không tốt nên sau một thời gian tịnh
dưỡng, ông rời Áo Môn đi Goa và ông đã từ trần trên đường đến Goa năm
1647.
Mặc dù ngày nay Antonio không có để lại tài liệu
Quốc ngữ nào, nhưng Đắc Lộ đã cho biết : " Tôi lợi dụng công việc của các
giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d'Amiral và Antonio
Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d'Amiral
làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum -
Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của
cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để
giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y." ( 4 )
d.- Sự đóng góp của người
Việt
Dù sao, khởi thủy chữ Quốc ngữ hình thành cũng
nằm trong mục đích chánh là phương tiện truyền giáo cho các giáo sĩ thuộc Dòng
Tên ở Việt Nam. Bên cạnh các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam thời đó không nhiều thì
ít cũng có đóng góp trong lúc hai linh mục Gasparo và Antonio soạn hai quyển tự
điển của họ, điều đó tuy không có chứng cứ, nhưng theo suy luận hợp lý, cho phép
chúng ta tin như vậy.
Ngoài ra trong thời kỳ nầy còn có tài liệu của
14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốc ngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa
mô thức rửa tội, do 31 linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện Thần Học tại Áo Môn
năm 1645
Tài liệu nầy là một bản La văn do các linh mục
Dòng Tên soạn, để trả lời cho Linh mục Sebastião de Jonaya, nhan đề: " Cirra
formam Baptismi Annamico Idiomate prolatam' ( Chung quanh mô thức rửa tội bằng
thổ ngữ An Nam). Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi như sau:
" Nhin danh Cha uà con uà
Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng
muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc.- tôy là Giu ão câi trâm cũ
nghi bậi - tôy là An re Sen cũ nghi bậi - tôy là Ben tò vẫn triền cũ nghi bậi -
tôy là Phe ro uẫn nhit cũ nghi bậi - tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi - tôy là
Gi-ro-ni-mo cũ nghi bậi - tôy là I-na sô cũ nghi bậi - tôy là tho-me cũ nghi bậi
- tôy là Gi-le cũ nghi bậi - tôy là lu-i-si cũ nghi bậi - tôy là Phi-lip cũ nghi
bậi - tôy là Do-minh cũ nghi bậi - tôy là An-ton cũ nghi bậi - tôy là Giu ão cũ
nghi bậi " ( nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầy An
nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn ý làm mộy thì phải nói :
nhân danh Cha vân vân. Tôi là Giu an Cai (?) Trâm cũng nghĩ vậy - Tôi là An rê
Sen cũng nghĩ vậy - Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy - Tôi là Phê rô Văn
Nhất cũng nghĩ vậy - Tôi là An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi-rô-i-mô
cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi le cũng nghĩ vậy - Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy - Tôi
là Phi líp cũng nghĩ vậy - Tôi là Đô Minh cũng nghĩ vậy - Tôi là An ton cũng
nghĩ vậy - Tôi là Giu an cũng nghĩ vậy).
Như thế, chúng ta thấy rõ đây là một bản văn
Quốc ngữ của 14 người Việt Nam xác nhận mô thức rửa tội năm 1645 của các linh
mục Dòng Tên và đây là tài liệu cho chúng ta thấy sự đóng góp của người Việt Nam
trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
Qua so sánh, chúng ta có thể thấy rằng chữ Quốc
ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày nay khoảng 45%, và thời kỳ sáng tạo chữ
Quốc ngữ khởi đầu từ năm 1621 đến đây đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ kế
tiếp.
Tưởng cũng nên nhắc lại, từ khi khởi đầu phiên
âm cho đến khi hình thành chữ Quốc ngữ, không phải là sự ngẫu nhiên, bởi vì giáo
đoàn truyền giáo Dòng Tên trước đó đã hoàn tất việc việc La tinh hóa chữ Nhật,
để truyền giáo tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng như Việt Nam ta, thuở đó mỗi nước đều
có chữ Quốc ngữ biến chế từ chữ Hán, nước ta gọi là chữ NÔM, muốn biết chữ Nôm,
đòi hỏi người ta phải am tường chữ Hán, chữ Hán vốn đã khó học rồi thì chữ Nôm
lại càng khó hơn, chính vì thế mà các linh mục đã La tinh hóa chữ viết của Nhật
cũng như Việt Nam, để cho công việc truyền giáo của họ được dễ dàng hơn.
*
II. Thời Kỳ Xây Dựng
II. Thời Kỳ Xây Dựng
1. Khái
Quát.
Theo tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, cho đến
khi quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum của Alexandre de Rhodes
được in tại La Mã năm 1651, chữ Quốc ngữ đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn
nầy bắt đầu từ công trình của hai Linh mục Antonio Barbosa và Gasparo d'Amiral
khi hai ông biên soạn Dictionarium Lusitanum - Annamaticum và Annamiticum -
Lusitanum nhưng cả hai quyển nầy ngày nay chưa được khám phá.
Các nhà nghiên cứu cho rằng hai quyển tự điển
vừa kể, có thể đã bị thất lạc do các cuộc di chuyển văn khố Dòng Tên từ Áo Môn
qua Manila khoảng năm 1759-1760, và sau đó nhà cầm quyền Tây Ban Nha tịch thu
các tài liệu ở văn khố Dòng Tên tại Manila vào khoảng năm 1770 đem về Madrid,
nên ngày nay không tìm thấy vết tích 2 quyển tự điển nầy ở Áo Môn, Manila và ở
Madrid cũng không tìm thấy chúng.
Linh mục Thanh Lãng có cho biết tại Tòa Thánh La
Mã hiện có 2 cuốn tự điển do Linh mục Philipphé Bỉnh sao lục, không đề tên tác
giả, đó là quyển : Dictionarium Annamiticum - Lusitanum ký hiệu Borg Touch 23
dầy 288 trang và Dictionarium Lusitanum - Annamiticum ký hiệu Touch 23 dầy 324
trang.
Philipphé Rosario Bỉnh sanh tại Hải Dương năm
1759, vào chủng viện năm 1775. Được phong Thầy Cả sau khi mãn khóa học.
Ngày 20-6-1796, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Đào
Nha, tại đây ông theo dõi tình hình giáo hội và sáng tác gồm 23 tác phẩm gồm Bồ
văn, La Tinh, Nôm và Quốc ngữ, trong số ấy có tác phẩm " Truyện An-nam Đàng
ngoài chí Đàng trão ". Ông mất tại Lisbonne năm 1832.
Căn cứ vào công trình của Philipphé Bỉnh, vào
những điều của Linh mục Thanh Lãng cho biết, chúng ta có thể đi đến kết luận là
quyển Dictionarium Annamiticum - Lusitanum của Gasparo d'Amiral và Dictionarium
Lusitanium - Annamiticum của Antonio Barbosa đều có ở tại Lisbonne nơi mà
Philipphé Bỉnh đã ở và làm việc, nên ông đã sao chép lại quyển tự điển, nó cũng
chứng tỏ rằng Linh mục Đắc Lộ đã mang 2 quyển sách trên từ Áo Môn về Âu châu, có
lẽ trước tiên ông định in 2 quyển tự điển nầy, về sau ông đã dựa vào đó soạn và
in ra quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, nên 2 quyển tự điển
kia không cần thiết phải in nữa.
Chọn năm 1651 là năm đánh dấu sự hoàn tất công
trình điển chế chữ Quốc ngữ, nhằm mục đích làm phương tiện truyền giáo của các
giáo sĩ Tây Phương, bởi vì chẳng những quyển tự điển Dictionarium Annamiticum
Lusitinum et Latinum được in mà còn có quyển " Cathéchismus " (Phép giảng tám
ngày), cũng được in trong năm nầy.
2. Thời kỳ soạn thảo
quyển tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - LaTinh
Cho đến nay, chưa có tài liệu nào công bố thời
gian và địa điểm Đắc Lộ đã soạn quyển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et
Latinum. Theo đoạn văn trích dịch ở trên, chúng ta biết rằng Đắc Lộ soạn quyển
tự điển nầy dựa vào công trình hai quyển tự điển của Gasparo d'Amiral và Antonio
Barbosa.
Nhưng công trình của 2 linh mục nầy không được
in ra, chưa tìm thấy bản gốc, cũng chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết thời gian
biên soạn hay hoàn tất của chúng, để từ đó có thể giúp chúng ta xác định thời
gian Linh mục Đắc Lộ soạn quyển tự điển của ông. Đặt ra vấn đề nầy để xác nhận
thời điểm, trong những giai đoạn của tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
Theo vết chân của Đắc Lộ, chúng ta biết ông có
thể soạn quyển tự điển, trong khoảng năm 1630-1640 là thời gian ông dạy thần học
ở Học viện thần học tại Áo Môn. Nhưng mà thời gian nầy không chắc Linh mục
Antonio Barbosa đã soạn xong quyển Tự điển Bồ Đào Nha - An Nam, vì thời gian
1620-1642 ông đang truyền giáo Đàng Trong rồi Đàng Ngoài, thời gian nầy Linh mục
Antonio học hỏi tiếng Việt, và từ năm 1642 đến năm 1647 ông có ở Áo Môn để dưỡng
bệnh, có lẽ thời gian nầy Linh mục Antonio đã biên soạn và hoàn tất quyển tự
điển của mình trước tháng 12 năm 1645.
Còn Linh mục Gasparo d'Amiral sau thời gian ở
Đàng Ngoài 7 năm, từ năm 1638-1645 ông ở tại Áo Môn giữ chức Viện trưởng Viện
thần học kiêm Phó Giám Tỉnh Nhật và Trung Hoa, chắc chắn thời gian nầy ông đã
phối hợp với Linh mục Antonio Barbosa để biên soạn và hoàn tất quyển tự điển An
Nam - Bồ Đào Nha.
Tóm lại các quyển tự điển An Nam Bồ Đào Nha và
Bồ Đào Nha An Nam được soạn trong khoảng 1638-1645. Vì năm 1645, Linh mục
Gasparo bị đắm tàu chết đuối và trước đó ít hôm, Linh mục Đắc Lộ đã rời Áo Môn
trở về Âu Châu, chúng ta lại biết thêm rằng, thời gian từ 3-7-1645 đến
20-12-1645 là thời gian cả 3 linh mục Đắc Lộ, Gasparo d'Amiral và Antonio
Barbosa đều có mặt tại Thần Học Viện ở Áo Môn, chắc chắn họ đã có quyết định
giao cho Đắc Lộ mang 2 quyển tự điển của họ về nhà in của Bộ Truyền giáo ở La Mã
để in, cho nên ngày nay bản gốc 2 quyển tự điển trên không tìm thấy ở Áo Môn,
Manilia hay Tây Ban Nha.
Linh mục Đắc Lộ rời Áo Môn ngày 20-12-1645, và
đến La Mã ngày 27-6-1649, có lẽ thời gian nầy ông bắt đầu soạn quyển Tự điển An
Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh, nhằm mục đích để cho các Linh mục truyền giáo ở Việt
Nam được dễ dàng hơn. Ý ấy đã được các Hồng y chấp thuận như ông đã ghi ở bài
tựa quyển Tự điển.
Vậy thời điểm Đắc Lộ soạn quyển Dictionarium
Annamaticum Lusitinum et Latinum là khoảng năm 1645- 1649, và ngày 5-2-1651
quyển nầy được Linh mục F. Piccolomineus Bề Trên Cả Dòng Tên cho phép xuất bản.
Và sau đó quyển Cathéchismus được soạn trong khoảng năm 1649 - 1651, cuốn nầy
được Linh mục L. M. Gosswinus Nickel quyền Bề Trên Cả cho phép xuất bản ngày
8-7-1651, nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo, nên trong
phiên họp các Hồng Y và giáo chủ ngày 2-10-1651 đã quyết định ra lệnh cho nhà in
của Bộ Truyền giáo ngưng in các ấn phẩm khác, để nhanh chóng in cho xong quyển
Cathéchismus.
3. Nội Dung Quyển
Dictionarium Annamaticum et Latinum
Quyển sách nầy trừ lời tựa, nó được chia thành
ba phần chính:
a. Phần I. Linguae
Annamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio ( tức là phần Ngữ Pháp
Việt Nam được soạn bằng La văn gồm 31 trang, chia thành 8 chương:
Chương I .- De literis et syllabis quibus hase
lingue constat (chữ và vần trong tiếng Việt)
Chương II.- De Accentibus et aliis signis in vocalibus dấu nhấn và các dấu)
Chương III.- De Nominibus (Danh từ)
Chương IV.- De Pronominibus (Đại danh từ)
Chương V.- De Aliis Pronominibus (các Đại danh từ khác)
Chương VI.- De Verbis (Dộng từ)
Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus (những phần bất biến)
Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaxim pertinentia (cú pháp)
Chương II.- De Accentibus et aliis signis in vocalibus dấu nhấn và các dấu)
Chương III.- De Nominibus (Danh từ)
Chương IV.- De Pronominibus (Đại danh từ)
Chương V.- De Aliis Pronominibus (các Đại danh từ khác)
Chương VI.- De Verbis (Dộng từ)
Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus (những phần bất biến)
Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaxim pertinentia (cú pháp)
b. Phần II. Dictionarium
Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina
declaratione.
Phần nầy không đánh số trang, chỉ đánh số cột,
mỗi trang chia làm 2 cột, có tất cả 900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia
thường để một vài trang giấy trắng. Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tự b (phụ âm v
ngày nay, vì có tự dạng gần giống như mẫu tự b, nên được xếp tiếp sau mẫu tự
b)
Mỗi chữ Việt được giải nghĩa theo thứ tự chữ Bồ
rồi mới đến chữ La tinh.
c. Phần III. Index Latini
sermonis.
Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột, không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ La tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinh ấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứu được chữ Việt tương ứng.
Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột, không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ La tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinh ấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứu được chữ Việt tương ứng.
Sau khi biết khái quát về quyển tự điển nầy,
chúng ta có những nhận định sau đây :
* Công trình điển chế Việt ngữ của Đắc Lộ chẳng
những đã hệ thống hóa phương pháp ghi âm ngôn ngữ Việt Nam mà còn là một tác
phẩm căn bản, để từ đó Việt ngữ được hợp lý hóa các âm thể như ngày nay.
* Dù sao thì công trình của Đắc Lộ cũng chỉ nhằm
giúp những người biết chữ La tinh hay Bồ Đào Nha học Việt ngữ, Đắc Lộ không có
công trình nào nhằm vào sự phổ biến chữ Quốc ngữ nầy cho người Việt, cũng vì thế
mà từ 1651 đến 1866, hơn 2 thế kỷ chữ Quốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các giáo
sĩ và một ít giáo dân mà thôi.
* Cho đến khi quyển " Chuyện Đời Xưa "
của Trương Vĩnh Ký ra đời năm 1866, vẫn còn ghi ở lời Tựa "... cùng là có ý
cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen. " Điều
nầy đủ chứng tỏ chữ Quốc ngữ trước đó, có mục đích giúp cho người ngoại quốc học
tiếng Việt.
* Ngày nay một số tự điển nhằm mục đích giảng
giải, phần đầu của tự điển có phần tóm lược ngữ pháp, chẳng hạn như quyển Anh
Việt, Việt Anh Tiêu Chuẩn Tự Điển của Lê Bá Kông, sự trình bày cũng giống như
hình thức trình bày ở phần đầu quyển Tự điển Việt - Bồ - La của Đắc Lộ.
4. Các Tác Phẩm Tiêu Biểu
Khác.
a. Quyển
Cathéchismus
Ngay trong năm 1651, Quyển Cathéchismus ( Phép
Giảng Tám Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưa nhất còn lại ngày nay, nó cũng
là bản văn được nhiều người biết đến, đấy là công trình của Đắc Lộ, tuy chỉ nhằm
mục đích truyền giáo, nhưng ngày nay nó đã trở thành một chứng liệu quý giá để
xác định một bản văn hoàn toàn dùng Quốc ngữ.
Cathéchismus là một quyển sách giáo lý, viết cho
người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo. Mỗi trang sách chia làm 2 cột, cột
bên trái là chữ la tinh và cột bên phải là chữ Quốc ngữ. Sách có 319 trang,
không có lời tựa.
Sách không chia từng chương, mà chia thành ngày
học, gồm có 8 ngày, cho nên còn được gọi tên là " Phép giảng tám ngày " ,
phân chia như sau :
- Ngày thứ nhất : Đạo thánh đức Chúa
Trời.
- Ngày thứ hai : Đức Chúa Trời.
- Ngày thứ ba : Đức thợ cả
- Ngày thứ tư : Những đạo vạy
- Ngày thứ năm : Một đức chúa Trời ba ngôi - Đức chúa Trời ra đời cứu thế.
- Ngày thứ sáu : Thầy thuốc cả.
- Ngày thứ bảy : Con chiên lành.
- Ngày thứ tám : Một bậc thang lên Thiên đàng.
- Ngày thứ hai : Đức Chúa Trời.
- Ngày thứ ba : Đức thợ cả
- Ngày thứ tư : Những đạo vạy
- Ngày thứ năm : Một đức chúa Trời ba ngôi - Đức chúa Trời ra đời cứu thế.
- Ngày thứ sáu : Thầy thuốc cả.
- Ngày thứ bảy : Con chiên lành.
- Ngày thứ tám : Một bậc thang lên Thiên đàng.
Sách không chia ra các tiểu mục, trong khi sao
lục để tái bản, André Marillier dựa vào nguyên tắc để chia ra các tiểu mục.
Chẳng hạn như Ngày thứ tư : Những đạo vạy :
* Con cháu ông Adam.
* Ông Noe và lụt cả
* Tháp Babel
* Nước đại minh phân ra nhiều đạo vạy
* Đạo bụt : giáo ngoài và giáo trong
* Đạo lão
* Đạo Nho : Việc thờ ông Khổng.
* Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta
* Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ
* Linh hồn ta chẳng hay chết.
* Ông Noe và lụt cả
* Tháp Babel
* Nước đại minh phân ra nhiều đạo vạy
* Đạo bụt : giáo ngoài và giáo trong
* Đạo lão
* Đạo Nho : Việc thờ ông Khổng.
* Những sự dối trá của Thích Ca về linh hồn ta
* Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ
* Linh hồn ta chẳng hay chết.
Quyển Cathéchismus là một quyển sách Quốc ngữ
được in đầu tiên vào năm 1651, nó mở đầu cho công cuộc truyền bá giáo lý Thiên
chúa giáo bằng sách Quốc ngữ tại Việt Nam.
b. Các Tài Liệu Viết
Tay
Ngày nay tại văn khố Dòng Tên ở La Mã còn có 2
tài liệu viết tay của 2 người Việt, đó là Igesico Văn Tín và Bento Thiện.
Tài liệu của Igesico Văn Tín là một lá thư viết
ngày 12-9-1659, không đề nơi chốn gửi, mà cũng không ghi tên người nhận, nhưng
do những chi tiết trong thư, người ta hiểu được là Văn Tín viết tại kẻ Vó, gửi
cho Linh mục Marini lúc đó dang ở La mã. Nội dung thư, đại ý nói về các hoạt
động truyền giáo tại kẻ Vó ( Đàng Ngoài), sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa
Trịnh trục xuất khỏi Đàng Ngoài, và bày tỏ lòng thành kính đối với Linh mục
Marini ( 5 )
Còn tài liệu của Bento Thiện gồm có một bức thư
viết tay, viết năm 1659 và một tập tài liệu. Cả hai đều lưu trử tại Văn khố Dòng
Tên ở La Mã. Về bức thư, tuy không có ghi ngày, nhưng mở đầu bức thư, ông có ghi
ngày viết là ngày lễ Daria tức là 25 tháng 10.
Ở hàng trên cùng hay dòng thứ nhất của bức thư
nầy, có ghi dòng chữ Bồ " Ao Pe Philipe Marino " ( Gửi cho cha Philipe Marino -
Marini), dòng thứ hai ghi bằng chữ La Tinh " Pax Christi " ( Bằng an chúa
Ky-tô), từ dòng thứ ba trở đi là chữ Quốc ngữ.(
6)
Nội dung bức thư nầy, ông nói về tình hình
truyền giáo tại Đàng Ngoài, cùng những lời ca ngợi của chính Bento Thiện cũng
như của những giáo dân đã nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến Linh mục
Marini.
Ngoài ra Bento Thiện cũng có đề cập tới việc
Marini nhờ ông viết một số tài liệu về Việt Nam, ông cho biết đã làm xong "
hai vở " ( 7 ), và gửi nơi Linh mục Onofre để nhờ
chuyển tới cho Marini.
Còn về tập tài liệu (hai vở) ( 8 ), nó gồm có 2 phần, phần trước gồm có : Lịch sử Việt
Nam từ khởi thủy cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh, tuy tóm lược nhưng cũng khá
đầy đủ, phần nầy gồm có 6 trang khổ 20 x 29 cm. Phần sau cũng gồm có 6 trang
cùng khổ giấy, nội dung gồm có : Ghi chép phong tục, tổ chức quan lại, thi cử,
tổ chức hành chánh, kể ra các xứ, phủ, huyện, châu, động, xã, thôn ở Đàng Ngoài
và phần cuối cùng là tín ngưỡng.
Những tài liệu nầy có chụp hình và in lại trong
quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659 của Linh mục Đỗ Quang Chính, nói chung thì
chữ Quốc ngữ viết vào thời kỳ nầy rất khó đọc, chỉ có chừng 50% là có tự dạng
giống như ngày nay.
Qua những lời lẽ viết trong thư của Văn Tín và
Bento Thiện cho chúng ta thấy rằng, sự diễn đạt bằng Quốc ngữ thời ấy không được
suông sẻ, dữ kiện nầy không thể kết luận rằng trình độ văn hóa của người viết
kém, vì Bento Thiện đã viết được lịch sử Việt Nam ... chẳng qua chữ Quốc ngữ
chưa được phổ biến, chưa có quy củ để có thể diễn đạt tư tưởng dễ dàng, trong
sáng, cho nên câu văn kém văn hoa.
5. Thời kỳ của Pièrre
Joseph Georges Pigneau de Béhaine và J. L. Tabert.
a. Pierre Joseph Georges
Pigneau de Béhaine (1741-1799)
Ông là Giám mục d'Adran, người Pháp thuộc dòng
Thừa sai, trong thời gian ở chủng viện Virampatman gần Pondichéry (Ấn Độ), ông
có nghiên cứu về Khổng Mạnh và có soạn bộ tự vị Việt - La tinh (Dictionarium
Annamatica - Latinum). Bản sao ghi năm 1772, còn lưu trử tại văn khố của hội
Thừa sai Paris. Sách chưa kịp in ra thì ông mất.
b. J. L. Tabert
(1794-1840).
Giám mục Tabert cũng thuộc dòng Thừa sai, ông có
ở Sàigòn và soạn hai quyển tự vị : Dictionarium Annamatico - Latinum và
Dictionarium Latino - Annamaticum, theo các nhà nghiên cứu như Adrien Launay,
Linh mục Lepold Cadière đều cho rằng Tabert đã dựa vào công trình của d'Adran để
soạn thảo. Quyển Dictionarium Annamatico - Latinum (Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng)
được ấn hành do nhà Serampore, Extypis J. C. Marshman năm 1838.
Đến thời kỳ nầy các phụ âm đầu bl (blõ : trở),
ml (mlòy: lời), tl (tlẽi : trẩy) vận cản /~/ (oũ : ông) đều được cải tiến như tự
dạng ngày nay.
Nói chung đến thời kỳ nầy, chữ Quốc ngữ đã hoàn
bị, hay nói khác hơn là chữ Quốc ngữ trong quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng của
Linh mục Tabert và chữ Quốc ngữ ngày nay không mấy khác biệt, và chữ Quốc ngữ
cũng chỉ là phương tiện truyền giáo, cũng giống như tình trạng trước kia, nó chỉ
được phổ biến giữa các giáo sĩ truyền giáo ở Việt Nam và một số rất ít giáo dân
người Việt.
Phải đợi đến năm 1866, năm quyển " Chuyện Đời
Xưa " của Trương Vĩnh Ký ra đời, chữ Quốc ngữ mới được phổ biến với mục đích
truyền bá cho người Việt, và phải đợi đến năm 1882, nhà cầm quyền Pháp ban hành
Nghị định, bó buộc các viên chức hành chánh xã thôn trong khắp cõi Nam Kỳ, phải
thông hiểu chữ Quốc ngữ, nó đánh dấu thời điểm chữ Quốc ngữ được sử dụng chính
thức tại miền Nam. Như vậy, từ khi manh nha cho đến khi được dùng làm văn tự
chính thức trên vùng đất thuộc địa của Pháp, chữ Quốc Ngữ phải trải qua một thời
gian trên hai thế kỷ rưỡi để hoàn thiện cấu trúc tự dạng.
C. Kết
Luận
Do các Linh mục dùng chữ Quốc ngữ, để truyền bá
đạo Thiên chúa, thực dân Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ thành công cụ cai trị. Người
miền Nam sống trên dải đất Nam Kỳ tuy mới thành lập, nhưng họ cũng đã chịu nhiều
ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng, cho nên những
người yêu nước, người bình dân chống lại việc học chữ Quốc ngữ nầy, tinh thần ấy
được ghi lại trong Ca dao:
Khuyên anh về học lấy chữ Nhu, ( 9 )
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Biết được tiến trình hình thành của chữ Quốc
ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉ có Linh mục Đắc Lộ, là người có công
sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các giáo sĩ
Tây phương vàngười Việt Nam.
Phải đợi đến những nhà văn tiền phong như Trương
Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc
truyền bá chữ Quốc ngữ, trong đó Huình Tịnh Của soạn quyển Đại Nam Quốc Âm Tự
Vị, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên
phong sau nầy về các địa hạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngay
cả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳ nầy.
Huỳnh Ái
Tông
Memoiry Day 2000
Memoiry Day 2000
Source : Hậu Giang
*
(1). Chữ Nôm là mượn
âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt.
(2). Christofora
Borri đến Đàng Trong năm 1618, ông theo Linh mục Buzomi và Pina đến lập cơ sở ở
Nước Mặn, ông rời Đàng Trong năm 1621 về Áo Môn, rồi sau đó về Âu Châu.
(3). Borri, Relation
della nuova missione delli PP. della Compania di Giesu, al regno della
Cocincina, scritta dal Padre Christoforo Borri, Milanese della medesima
Compania, Roma, 1631 ( Sự liên hệ về giáo đoàn mới của các linh mục Dòng Tên,
ghi bởi linh mục Christoforo Borri người Milan thuộc giáo đoàn nầy).
(4). Võ Long Tê, Lịch
sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sàigòn 1965 trang 192-193.
(5). Đỗ Quang Chính
Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sàigòn 1972, trang 92-98.
(6). Sách Lịch Sử Chữ
Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 100-107
(7). Bento Thiện gọi
là 2 vở, đó là 2 tập vở. Xưa kia chuyển vận Âu- Á bằng đường thủy, có lẻ sợ bị
nạn đắm tàu, nên sao thêm 1 tập, để gửi 2 chuyến tàu khác nhau, cho nên tuy 2
nhưng chúng chỉ là một, ngày nay cả 2 tập vở ấy, tồn trử tại Văn Khố Dòng Tên ở
La Mã.
(8). Sách Lịch Sử Chữ
Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 108-109 và phụ lục.
(9). Chữ Nhu là âm
Hán Việt, âm Nôm đọc là Nho, chỉ cho chữ Hán