Mùa xuân - mùa khởi đầu cho một năm, mùa sinh sôi nảy nở của vạn vật, cỏ cây...Giữa tiết trời ấm áp ấy, lòng người phơi phới rủ nhau đi hội, hành hương về cội nguồn, vui chơi và cầu mong cho mùa màng tốt tươi, con người hạnh phúc.
Lễ hội ở nước ta thật đa
dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt
Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng
bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những
vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên
tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế... Với tư tưởng uống nước nhớ
nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích,
công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay
hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của
mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một
thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân.
|
Bởi phần lớn các lễ hội ở
Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng nhớ người có công với nước trong
chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trò vui chơi ở lễ hội thường mang nhiều
tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: thi bắn nỏ, đấu vật (hội Cổ Loa) đấu
vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam Định), thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng
đồng bào dân tộc phía Bắc) v.v...ở các lễ hội của bà con dân tộc Tây Nguyên, lễ
hội đâm trâu được coi như tiêu biểu nhất. Trong lễ hội này, ngoài nghi lễ đâm
trâu hiến tế hấp dẫn, ly kỳ còn có trò múa khiên, ném lao, đấu
gậy.
Các trò vui chơi giải trí ở
lễ hội còn bao gồm những hoạt động văn hoá, xã hội khác như thi hát Quan họ, thi
thổi cơm, chọi gà, dệt vải, đấu vật, đánh đu... Đặc biệt nhất là thi đánh đu,
không chỉ xuất hiện trong dịp lễ hội lớn mà còn là một trò vui chơi dân dã trong
những ngày Tết ở khắp các làng xã.
|
Ngày xuân, người ta thường
đi chơi đông hơn bình thường. Kẻ đi xa, người đi gần, trang phục lộng lẫy, hân
hoan phấn khởi làm cho không khí đầu xuân càng thêm rạo rực. Có lẽ ai cũng muốn
dành ít thời gian để vãn cảnh thiên nhiên đất trời, tận hưởng bầu không khí
trong lành với mùa xuân tươi đẹp. Họ đến với các di tích lịch sử, danh thắng,
đền, chùa để tham dự các lễ hội truyền thống. Chỉ tính riêng tháng Giêng cũng đã
có biết bao nhiêu lễ hội tưởng nhớ các vị anh hùng dân tộc, những người có công
chống giặc ngoại xâm như: Hội Đống Đa, kỷ niệm chiến thắng của vị anh hùng dân
tộc Nguyễn Huệ và tưởng niệm các chiến sĩ vong trận trong đại chiến thắng Đống
Đa vào ngày 5-1. Hội đền An Dương Vương (Cổ Loa Hà Nội) ngày 6-1 tưởng niệm Thục
Phán người có công dựng nước Âu Lạc, xây thành Cổ Loa; Hội đền Cửa Suốt (Quảng
Ninh) tưởng niệm Trần Quốc Toản có công đánh đuổi giặc Nguyên, hội đền Hạ Lôi
(Mê Linh) tưởng niệm Hai Bà Trưng, hội "Cơm hòm" ở Phổ Yên, Thái Nguyên ngày 6
tháng Giêng kỷ niệm người đàn bà vô danh thời Hậu Lê có công bày mưu đánh giặc
Minh...
|
Cũng vào thời điểm này, du
khách bốn phương về hội Hoa Vị Khê (Nam Định) từ ngày 20 đến ngày 30 tháng Giêng
để chiêm ngưỡng hoa, cây cảnh của làng nghề truyền thống Vị Khê, hội du xuân lễ
bái cầu mong một năm mới thịnh vượng ở núi Bà Đen (Tây Ninh). Đặc biệt vào mùa
này, du khách đổ lên núi Yên Tử dự lễ hội chùa, vãn cảnh hùng vĩ của đất nước và
thử thách lòng thành của mình. Đến Hòa Bình để được xem hội Chơi hang, hội Xên
bản, Xên mường của người Thái; lên Sơn La cùng thả hồn vào những cánh rừng ban
trắng trong ngày hội hoa ban, đi chơi núi, du thuyền độc mộc trên thắng cảnh hồ
Ba Bể. Ngoài ra, người Tày, Nùng Tây Bắc còn có hội Lồng Tồng, người Dao có hội
Tết Nhảy, người Mông có hội Sắc bùa, hội chơi núi chơi xuân, người Khơ me Nam Bộ
có hội mừng năm Mới...
Sự phong phú của lễ hội ở
Việt Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc nhưng cũng vừa là một trong những sản
phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Tết Nguyên đán (Tết Cả)
là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay,
là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới; giữa một chu kỳ vận hành của đất trời,
vạn vật cỏ cây. Tết Nguyên đán Việt Nam từ buổi "khai thiên lập địa" đã tiềm
tàng những giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên,
vũ trụ qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông và quan niêm "ơn trời mưa nắng phải thì"
chân chất của người nông dân cày cấy ở Việt Nam... Tết còn là dịp để mọi người
Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ
đạo lý (ăn quả nhờ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng ...
Ông Táo hay thần bếp là
người mục kích sự làm ăn của mọi nhà. Theo tập tục hàng năm ông Táo phải thu xếp
lên trời vào ngày 23 tháng chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc
Hoàng. Bởi thế nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm
đạm bạc tiễn đưa "ông Táo ". Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu
tiên của Tết Nguyên đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà
cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những
nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết.
Cùng với tranh (tranh dân
gian, câu đối), hoa quả là yếu tố tinh thần cao quý thanh khiết của người Việt
Nam trong những ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa Ðào, miền Nam có hoa Mai, hoa
Ðào, hoa Mai tượng trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam.
Ngoài cành Ðào, cành Mai, mấy ngỳa tết người ta còn "chơi" thêm cây Quất chi
chít trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn,
hạnh phúc...
Tết trên bàn thờ tổ tiên
của mọi gia đình, ngoài các thứ bành trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm
ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít),
hồng, quất. Còn ở miền Nam, mân ngũ quả là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh,
nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho
ý niệm khát khao của con người vì sự đầy đủ, sung túc. Ngày Tết, dân tộc ta có
nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái
lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ... Từ trẻ tới già ai ai cũng biết, sau đây là
một vài phong tục đáng được duy trì phát triển.
Tống cự nghênh tân: Cuối năm
quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn
dẹp nhà thờ, lau giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi
bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.
Con cháu trong nhà từ phút
giao thừa trở đi ddược nhắc nhở không được nghịch nghợm, cãi cọ nhau, không nói
tục chửi bậy... anh chị, cha mẹ cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai
cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều tốt
lành.
Hái lộc, xông nhà, chúc tết,
mừng tuổi: Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh
khoẻ, thành đạt hơn năm cũ. Nhiều nhà tự đi hái lộc ở chốn đình chùa, nơi tôn
nghiêm về nhà, tự xông nhà hay dặn trước người "nhẹ vía" mà mình thích đến xông
nhà. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng dè dặt, chưa dám đến nhà ai
sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay lại đổ tại
mình "nặng vía". Chính vì vậy, sáng mùng Một lại ít khách.
Sau giao thừa có tục mừng
tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà cha mẹ. Ông bà cũng chuẩn bị
ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè
thân thích. Lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, những người năm
cũ gặp rủi ro thì động viên nhau "tai qua nạn khỏi"hay "của đi thay người"nghĩa
là trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Nhưng nhìn chung
trong những ngày đầu năm, người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc
xấu xa.
Phong tục ta ngày Tết việc biếu quà Tết, tỏ ân nghĩa tình cảm, học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu, quà tết không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: không có quà ngại không đến...
Phong tục ta ngày Tết việc biếu quà Tết, tỏ ân nghĩa tình cảm, học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu, quà tết không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: không có quà ngại không đến...
Ở nước ta, vào dịp đầu xuân
thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thất tuần, bát tuần, cửu tuần... tính theo
tuổi mụ. Ngày Tết ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rãnh rỗi, con cháu tụ tập
đông vui.
Cũng vào dịp
đầu Xuân, người có chức tước khai ấn, học trò, sĩ phu khai bút, nhà nông khai
canh, người buôn bán mở hàng lấy ngày. Sĩ, Nông, Công, Thương "Tứ dân bách nghệ"
của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thông, làm ăn suôn
sẻ. Sau ngày mùng Một, dù có mải vui tết cũng chọn ngày "Khai nghề", "Làm lấy
ngày". Nếu như mùng Một tốt thì chiều mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì giao
thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay xấu. Ngườu thợ
thủ công nếu chưa ai thuê nướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình một sản
phẩm, một dụng cụ gì đó. Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ
đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi
chơi xuân.
Cờ bạc: Ngày xưa các gia
đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượi chè nhưng
trong dịp tết, nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì
người bố cho phép vui chơi. Tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ
tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Ðến lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như
hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn hoá
vàng.
Vì sao có tục kiêng hót rác
đổ đi trong ba ngày Tết: Trong "Sưu thần ký" có chuyện người lái buôn tên là Âu
Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thuỷ thần cho một con hầu tên là Như Nguyên, đem
về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mùng Một Tết, Âu Minh đánh
nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó
kiêng không hót rác ngày Tết.
Tết Thượng nguyên (tết
nguyên tiêu) vào đúng Rằm tháng Giêng - ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Tết
này phần lớn tổ chức tại chùa chiền, vì Rằm tháng Giêng còn là ngày vía của Phật
tổ. Thành ngữ "Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng" xuất phát từ đó.
Sau khi đi chùa mọi người về nhà họp mặt cúng gia tiên và ăn cỗ.
Rằm tháng Bảy theo tín
ngưỡng là ngày xá tội vong nhân, nghĩa là bao nhiêu tội nhân ở dưới âm phủ ngày
hôm đó đều được tha tội. Bởi vậy trên dương thế mọi gia đình đều làm cỗ bàn, đốt
vàng mã cúng gia tiên và đồng thời cúng những linh hồn bơ vơ không được ai chăm
sóc. Người ta cũng thả chim lên trời, thả cá xuống sông, để làm điều phúc
đức.
* Tục
cúng cháo
Xưa, tại các
cầu quán, đình chùa, đều có tổ chức "cúng cháo" để cúng các cô hồn không ai cúng
giỗ. Các tư gia, ngoài lễ cúng Thổ Công, cúng gia tiên cũng có cúng cháo cho các
cô hồn. Họ bày cúng ở trước cửa nhà. Ðồ lễ đặt trên một cái mẹt thường gồm có
cháo hoa, những nắm cơm nhỏ, hoa quả, bánh bỏng, trầu cau, xôi chè cùng với đồ
mã, vàng hương. Mọi người tin rằng các cô hồn những cô nhi yểu vong, những người
chết đường chết chợ, những người chết không ai biết, không ai cúng giỗ sẽ đến
hưởng lễ cúng làm phúc trong ngày "xá tội vong nhân" này.
Lễ cúng tại đình, chùa, cầu
, quán, tổ chức có quy mô hơn. Ở những nơi này, cháo được múc ra những bồ đài lá
mít cắm ở hai bên đường trước lễ đài. Ðồ mã cùng trái cây và đồ lễ cũng nhiều
hơn. Ngoài ra còn có một nồi cháo lớn. Khi cúng lễ xong những người nghèo đem
liễn tới xin cháo, các mục đồng và trẻ con xô nhau vào cướp những hoa quả, bánh
trái, tục gọi là cướp cháo. Những vàng mã được đem hoá và có khi có tụng kinh để
cầu siêu độ cho những vong hồn vô thừa tự.
* Tục
đốt mã
Tục đốt mã từ
bên Trung Hoa truyền sang ta. Nguyên đời xưa dùng đồ bạch ngọc để cúng tế. Ðời
sau, vì bạch ngọc đắt và hiếm, người ta dùng tiền để thế cho bạch ngọc. Những
tiền này cúng xong đều bỏ đi, rất phí tổn. Trước sự phí phạm này, vua Huyền Tôn
nhà Ðường ra lệnh dùng tiền giấy thay cho tiền thật.
Những thoi vàng, thoi bạc
giấy được cúng thay cho vàng bạc thật, những hình đồng tiền vẽ trên giấy được
cúng thay cho tiền quan. Ðến đời vua Ðường Thế Tôn, quan Từ tế sứ, lo việc tế tự
là Vương Dữ, đã cho cúng toàn tiền giấy rồi đốt đi. Về sau, từ đời Ngũ Ðại, có
thêm tục cúng quần áo, mũ và đồ dùng bằng giấy. Ta theo ảnh hưởng đó, cũng có
tục đốt mã.
Tết Hạ nguyên vào Rằm hay
mồng Một tháng Mười. ở nông thôn, Tết này được tổ chức rất lớn vì đây là dịp nấu
cơm gạo mới của vụ vừa xong - trước là để cúng tổ tiên, sau để thưởng công cầy
cấy.
Chùa Hương và
động Hương Tích là danh lam nổi tiếng của Việt Nam thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ
Ðức, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 70km.
Chùa Hương là một tập hợp
nhiều động, nhiều chùa trong một tổng thể cấu trúc kết hợp vừa thiên nhiên vừa
nhân tạo bao gồm núi, đồi, hang, động, suối rừng, chùa tháp...
Lễ hội chùa Hương kéo dài từ
6 tháng giêng đến hết tháng 3 âm lịch. Du khách có thể đi bằng đường bộ theo
hành trình Hà Nội - Hà Ðông - Vân Ðình - Hương Sơn hoặc từ thị xã Phủ Lý ngược
dòng sông Ðáy lên Bến Ðục - Yến Vĩ - Hương Sơn
Theo tâm thức
của người Việt Nam Hương sơn được coi là cõi Phật. Chùa Hương là nơi thờ Phật Bà
Quan Âm. Ngày 6 tháng giêng là ngày khai hội, có tổ chức múa rồng ở sân đền
Trình, bơi thuyền múa rồng trên dòng suối Yến.
Hội trải rộng trên 3 tuyến,
tuyến Hương Tích, tuyến Tuyết Sơn và tuyến Long Vân. Hội chùa đông nhất từ 15
đến 20 tháng 2 (chính hội). Ðường núi từ chùa Ngoài vào chùa Trong lúc nào cũng
tấp nập từng đoàn người lên lên, xuống xuống.
Trảy hội chùa Hương không
chỉ đi lễ Phật mà còn là có dịp thưởng ngoạn cảnh đẹp của biết bao hình sông thế
núi, có cơ hội nhận biết bao công trình lớn nhỏ đặc sắc của di tích Hương Sơn đã
trở thành si sản văn hoá của dân tộc.
Trung thu là giữa mùa thu,
Tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào đúng giữa mùa thu tức là vào rằm
tháng Tám âm lịch. Tết Trung Thu là tết của trẻ em.
Ngay từ đầu tháng, Tết đã
được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo,
bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn
hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ
giấy.
Trẻ em đón tết có đèn xếp,
đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống... sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn
ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm
tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt.
Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có
cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.
* Thi
cỗ và thi đèn
Trong ngày Tết Trung Thu
người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát,
múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh của các bà
các cô. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Nhiều gia
đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông tiến sĩ giấy đặt
ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông
trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ lúc đã khuya.
* Hát
Trống quân
Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc.
Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc.
* Múa
Sư tử (múa lân)
Vào dịp Tết
Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người ta thường múa Lân vào hai
đêm 14 và 15. Ðám múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy
và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài
bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có
thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Ðám
múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các
tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên
lấy.
Trẻ em thì thường rủ nhau
múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh
giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền.