Home » » VẬN MỆNH CỦA HỌC THUYẾT MÁC ...(Tiếp theo)

VẬN MỆNH CỦA HỌC THUYẾT MÁC ...(Tiếp theo)

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011 | 03:52

Bây giờ, chúng ta chuyển sang vấn đề thứ hai – quan niệm của C.Mác về con đường vận động tiếp theo của văn minh. Đây là vấn đề về số phận, tương lai của học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội. Việc lý giải vấn đề nan giải và hệ trọng này đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận, tiếp cận với học thuyết về chủ nghĩa xã hội như một sản phẩm của văn hóa phương Tây thời đại công nghiệp. Với tư cách một trào lưu tư tưởng, học thuyết ấy đã và vẫn đang biểu thị những kỳ vọng đối với nền văn minh công nghiệp từ phía văn hóa đã hình thành ở phương Tây kể từ thời Cổ đại. Với cách tiếp cận như vậy, chúng ta thấy, tự do và bình đẳng là những giá trị căn bản đối với nền văn minh nhân loại tới mức mà dường như, tất cả mọi học thuyết xã hội đều xoay quanh chúng. Học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội không phải là một ngoại lệ. Thậm chí, có thể nói, giải quyết vấn đề này một cách thỏa đáng, tức là thực sự theo tinh thần của học thuyết Mác, đòi hỏi phải hiểu đúng thực chất của học thuyết Mác, qua đó và từ đó mới có thể giải quyết được vấn đề vận mệnh, tương lai của chủ nghĩa xã hội.
Như đã rõ, nhiều nền văn hóa dân tộc đã hình thành ở phương Tây trong giai đoạn lịch sử này. Nhưng, tất cả chúng đều có chung một mục đích là hướng tới con người như “thước đo của vạn vật”. Định hướng nhân văn này của văn hóa phương Tây cũng đã trở thành cội nguồn cho sự phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, có thể nói, C.Mác hoàn toàn có lý khi gọi chủ nghĩa cộng sản là “chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị”(2), là sự kế tục và kết thúc truyền thống nhân văn của văn hóa châu Âu.
Như đã rõ, trung tâm điểm đối với chủ nghĩa xã hội là sở hữu xã hội. Có thể gắn chủ nghĩa xã hội với nhiều đặc trưng, như chủ nghĩa nhân văn, công bằng xã hội, v.v., nhưng đó chỉ là lời nói, nếu không làm sáng tỏ sở hữu xã hội là gì. Thật ngạc nhiên khi chúng ta thường bắt gặp quan điểm cho rằng, sở hữu xã hội xuất hiện khi tất cả là của chung! Tập trung mọi phương tiện sản xuất vào tay đa số hay vào tay tất cả là đủ để coi sở hữu như vậy là sở hữu xã hội! Vậy điều gì cản trở sự tập trung như vậy trên mọi giai đoạn của lịch sử? Tại sao lại cấm xã hội hóa tất cả mọi thứ (thí dụ như vật dụng cá nhân)?
Câu trả lời quen thuộc cho câu hỏi trên là: xã hội hóa tư liệu sản xuất trong điều kiện phân công lao động xã hội là có thể về mặt pháp lý, nhưng bất hợp lý về mặt kinh tế, vì những phương tiện đó không được mọi người, mà được các nhóm người riêng biệt sử dụng. Tư tưởng này là xác đáng, song từ nó lại suy ra rằng, không phải mọi tư liệu sản xuất đều có thể và cần phải trở thành đối tượng xã hội hóa. Bước chuyển sang sở hữu xã hội đòi hỏi một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, nghĩa là cần phải cải biến không hẳn là chủ thể, mà chủ yếu là khách thể của sở hữu. Không phải tất cả mọi thứ đều có thể trở thành đối tượng xã hội hóa - đó là thực chất của học thuyết về sở hữu xã hội. Chỉ thay thế chủ thể tư nhân bằng chủ thể tập thể hoàn toàn không làm thay đổi bản chất của sở hữu.
Chủ thể tập thể cũng có thể là chủ thể tư hữu, như các hình thức đa dạng của công ty cổ phần. Tư hữu được đặc trưng không phải bởi số lượng chủ thể, mà bởi tính chất riêng tư của của cải nằm trong quyền sử dụng của nó, bởi ranh giới giữa cái của mình và cái của người khác. Cơ sở của tư hữu (cá thể hay nhóm) là sự phân chia tài sản xã hội ra thành các bộ phận. Phân chia là bản chất đích thực của tư hữu. Nó làm nảy sinh mơ ước về sự phân chia bình đẳng trong lĩnh vực phân phối của cải vật chất và dịch vụ. Mơ ước này đã trở thành nguyên nhân làm xuất hiện các học thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng. Khi tất cả mọi thứ đều trở thành của chung, thì mỗi người đều có thể hy vọng nhận được một phần của cải xã hội như nhau. Nguyên tắc phân chia vẫn được giữ lại ở đây, nhưng nó, một mặt, được lý giải như nguyên tắc phân chia bình quân; mặt khác, được chuyển từ lĩnh vực sản xuất vào lĩnh vực thu nhập và tiêu dùng cá nhân. Bình đẳng trong sung túc là mục đích và mơ ước cao cả nhất của chủ nghĩa xã hội như vậy. Cũng có thể gọi nó là bình đẳng trong no ấm. Mơ ước về nó là một điều hoàn toàn tự nhiên.
Chúng ta không thể nói đó là sự hão huyền của mơ ước này? Mọi hình thức phân chia bình đẳng đều không dẫn tới bình đẳng đích thực, vì ở mỗi người luôn có sự khác nhau. Và, bản thân khả năng phân chia bình đẳng cũng rất đáng nghi ngờ (do bản tính của những người gánh vác công việc phân chia). Thậm chí, phân phối “theo lao động” từng được coi là hình thức tối cao của công bằng xã hội cũng vẫn là “tàn dư” của “quyền bất bình đẳng” được chủ nghĩa tự do bảo vệ, của quyền cho phép mỗi người chỉ sở hữu những gì tự mình làm ra bằng lao động của mình. Nhưng, không thể cào bằng lao động của người này với lao động của người khác cả về lượng, lẫn về chất. Vậy bình đẳng ở đây là gì?
Phân phối “theo nhu cầu” cũng không giải quyết được vấn đề bình đẳng, thậm chí cả trong điều kiện dư thừa của cải vật chất. Sống theo nguyên tắc “lấy gì mình thích” chỉ có thể có trong truyện cổ tích; và không phải ai cũng có thể làm được như vậy cả trong truyện cổ tích. Nhu cầu của con người có giới hạn hay không và khi nào xã hội có thể đáp ứng được tất cả mọi nhu cầu? Trạng thái “hoàn toàn thỏa mãn” là trạng thái không thể tồn tại. Mọi nhu cầu vật chất của con người đều đòi hỏi phải có sự phân chia, mà bất kỳ sự phân chia nào cũng bao hàm yếu tố bất bình đẳng.
Vậy, phải chăng mơ ước về bình đẳng là hy vọng hão huyền? Nghĩ như vậy là đơn giản nhất, nhưng nó lại ẩn chứa hàng loạt hệ quả, mà một trong số đó là chối bỏ tự do, vì không có tự do thiếu bình đẳng. Nếu vậy, nền văn hóa châu Âu cùng với việc tìm kiếm tự do cá nhân – tự do của mỗi người là tự do của mọi người – còn có giá trị gì nữa.
Ở đây, vấn đề là ở chỗ, không phải sự chối bỏ bình đẳng, mà nhận thức khác về nó mới là giải pháp thỏa đáng. Và, chính nó đã được C.Mác đưa ra trong quan niệm của ông về chủ nghĩa xã hội. Không nên hiểu bình đẳng là bình đẳng của mọi người trong phân chia của cải vật chất, quyền sở hữu theo lao động, theo nhu cầu, v.v., mà phải hiểu nó là quyền của con người trở thành cái mà bản tính người làm cho nó trở thành như vậy. Nếu không phải sự dư thừa, thì một sự đầy đủ nhất định, đương nhiên, là cần thiết cho bất kỳ người nào. Nhưng, không một sự đầy đủ nào tự nó có thể đảm bảo bình đẳng, tự do hoàn toàn. Ngược lại, chạy theo sự đầy đủ, con người thường phải hy sinh cả bình đẳng lẫn tự do. Mọi người chỉ trở nên tự do và bình đẳng khi bắt đầu sống theo thước đo của cá tính mà, như đã biết, không ngang bằng với bộ phận, mà ngang bằng với chỉnh thể. Khi mỗi người ngang bằng với chỉnh thể, thì tất cả mọi người đều bình đẳng.
Quan niệm như vậy về bình đẳng đã cho thấy trước một thái độ khác đối với sở hữu. Với tư cách tư nhân, con người luôn cần đến phần của cải xã hội mà nó biến thành khách thể sử dụng riêng tư; còn với tư cách cá nhân tự do, con người cần đến toàn bộ của cải và trước hết là những gì được loài người tạo ra trên bình diện văn hóa. Và, đây có thể coi là công thức về sở hữu xã hội; nó đòi hỏi không phải sự phân chia của cải ra thành các bộ phận thuộc về những người khác nhau, mà đòi hỏi quyền của mỗi người được sở hữu toàn bộ của cải đó. Không một sự phân chia nào dẫn đến bình đẳng; bình đẳng chỉ có thể là những người sử dụng một cách cá thể toàn bộ của cải đã được tạo ra.
Con đường dẫn đến bình đẳng thực sự đi qua sở hữu xã hội, song sở hữu này được hiểu không phải là sở hữu của mọi người về một cái gì đó, mà là sở hữu của mỗi người về tất cả. Giữa hai quan niệm này có một sự khác biệt mang tính nguyên tắc. Nếu tự do của mỗi người là điều kiện cho tự do của mọi người, thì sở hữu của mỗi người (đối với toàn bộ của cải) là điều kiện cho sở hữu của mọi người, cho sở hữu xã hội. Sở hữu xã hội không phải là sở hữu không có trách nhiệm cá nhân, không phải ngay lập tức thuộc về mọi người và do vậy, không thuộc về một người riêng biệt nào, mà là sở hữu thuộc về mỗi người và cũng do vậy, thuộc về mọi người. Khác với chủ nghĩa tự do là chủ nghĩa tuyên bố bình đẳng của mọi người chỉ có trong quyền sở hữu (do vậy, phân chia họ tuỳ theo mức độ sở hữu thực tế), chủ nghĩa xã hội đặt ra vấn đề bình đẳng của họ đối với bản thân sở hữu, khi mà mỗi người đều là chủ sở hữu toàn bộ của cải.
Nhưng, liệu của cải có thể hoàn toàn thuộc về mỗi người mà không làm phương hại đến người khác, không bị giảm bớt do mỗi người đều sử dụng và do vậy, với tư cách khách thể sở hữu, không đòi hỏi phân chia ra thành các bộ phận? Thứ của cải như vậy, đương nhiên, chỉ có thể là điều kiện và tư liệu lao động mà, xét về bản chất, là “của chung”, là cái mà mỗi người đều có quyền sử dụng như nhau và đều cần đến chúng. Khách thể được xã hội hóa không thể là tư liệu lao động bị phân chia, được sử dụng trong các ngành sản xuất khác nhau, mặc dù có thể xã hội hóa chúng về mặt pháp lý. Sở hữu xã hội không phải là ở đó. Sở hữu xã hội chỉ là sở hữu những gì mà thiếu chúng, lao động của mỗi người là không thể. Điều kiện chung như vậy cho lao động trong sản xuất hiện đại là khoa học, là tri thức khoa học. Đúng là không thể tư hữu hóa khoa học, biến nó thành khách thể chiếm hữu tư nhân, chia ra thành các bộ phận. Về thực chất, khoa học (và văn hóa nói chung) có thể trở thành tài sản cá nhân của mỗi người mà không xâm phạm đến quyền sở hữu nó của mọi người. Do vậy, chỉ có khoa học mới trở thành khách thể được xã hội hóa.
Thế nhưng, bản thân sự tồn tại của khoa học vẫn chưa đủ để sở hữu xã hội xuất hiện. Sự xuất hiện này chỉ trở nên có thể khi khoa học thực sự có được chức năng là lực lượng sản xuất cơ bản, trực tiếp của xã hội, còn việc hợp nhất con người với tri thức trở thành nhân tố chủ yếu của quá trình sản xuất. Sản xuất mà trong đó, khoa học giữ vai trò quyết định, được C.Mác gọi là sản xuất “khoa học”, khi ông (phân biệt nó với sản xuất phân xưởng – nhà máy), còn giờ đây, chúng ta gọi là sản xuất hậu công nghiệp, sản xuất thông tin, v.v.. Theo C.Mác, chỉ ở đâu mà khoa học, hay như ông nói, “tri thức xã hội phổ biến” trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”(3) góp phần làm giảm tối đa lao động trực tiếp của công nhân, biến nó thành nhân tố thứ yếu so với lao động phổ biến, thì ở đó mới xuất hiện khả năng hiện thực để chuyển sang sở hữu xã hội, tức là sở hữu của mỗi người về toàn bộ của cải xã hội do lao động khoa học tạo ra, hơn nữa, bản thân khoa học là thứ của cải chủ yếu đó.
Theo nghĩa rộng hơn, cần phải hiểu sở hữu xã hội là sở hữu về toàn bộ văn hóa. Nó bao gồm tất cả những gì phục vụ cho sản xuất không những ra của cải vật chất dưới hình thức tự nhiên và tiền tệ, mà còn sản xuất ra bản thân con người với tư cách “tư bản cơ bản”. Bên cạnh khoa học và nghệ thuật, khách thể của sở hữu xã hội còn là giáo dục, là các hệ thống thông tin, các hình thức hoạt động trí tuệ và sáng tạo, các hình thức giao tiếp. Sở hữu chúng biến con người thành thực thể giàu có không phải về mặt vật chất hay tiền của, mà về mặt tinh thần; và của cải của con người sẽ là sự phát triển nhân cách riêng của mình. Xét từ góc độ này, sở hữu xã hội không hẳn là phạm trù kinh tế, mà chủ yếu là phạm trù văn hóa; nó biểu thị quan hệ của con người với các điều kiện tồn tại cá thể, chứ không phải tồn tại tư nhân. Tư tưởng về sở hữu như vậy biểu thị xu hướng chuyển tiếp lịch sử không phải sang kinh tế tự do (thị trường), trong đó cá thể riêng biệt là chủ nhân công việc, là tư bản hay đơn giản, là sức lao động riêng tư của mình, mà chuyển sang tự do khỏi kinh tế, tự do cho phép mọi cá thể phát triển một cách tự do, không phụ thuộc vào các chức năng và vai trò kinh tế của mình.
Chúng ta một lần nữa lại nhận thấy sự khác biệt căn bản giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tự do ở đây. Bảo vệ chế độ tư hữu, chủ nghĩa tự do góp phần thúc đẩy hiện đại hóa nhanh chóng xã hội phương Tây, sự thịnh vượng kinh tế của nó, sự gia tăng phúc lợi của đa số xã hội. Song, dẫu sao nó vẫn không thể giải quyết đến cùng vấn đề bình đẳng của mọi người, tức là tự do của họ. Tự do trong điều kiện thống trị của chế độ tư hữu cũng được phân chia theo tỷ lệ giống như tư bản. Con người ở đây tự do tuỳ theo số lượng của cải của mình và không tự do tuỳ theo mức độ nghèo nàn của mình. Ở đây, không phải văn hóa, mà quy mô sở hữu tư nhân mới là thước đo về tự do. Tự do của tư nhân rất khó có thể được gọi là tự do cá nhân đích thực. Kiên định nó, chủ nghĩa tự do có địch thủ là chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội đưa một thước đo nữa – thước đo văn hóa – vào quá trình hiện đại hóa xã hội.(3)
Với chủ nghĩa xã hội, tự do và bình đẳng chỉ có thể đạt tới được không phải trong lĩnh vực kinh tế dựa trên phân công lao động và chế độ tư hữu, mà ở bên ngoài nó – bên ngoài tính tất yếu kinh tế. Thực tế này gây ra nhiều phản ứng gay gắt chống lại học thuyết xã hội chủ nghĩa. Song, ít có ai lại cố gắng làm sáng tỏ học thuyết ấy đã xem xét bước chuyển tiếp đó như thế nào. Vấn đề ở đây không phải là phủ định sự cần thiết phát triển kinh tế, đây là một điều thực sự không tưởng và tai hại, mà là sự hiện diện một cội nguồn khác của sự phát triển đó so với lao động trực tiếp và bị phân chia của công nhân. Chủ nghĩa tư bản biết rất rõ nguồn gốc ấy và sử dụng nó một cách rộng rãi. Theo C.Mác, “tư bản có xu hướng làm cho sản xuất mang tính chất khoa học, còn đối với lao động trực tiếp thì nó hạ thấp xuống chỉ còn là một yếu tố của quá trình sản xuất”(4); và khi được áp dụng vào quá trình sản xuất, khoa học dần làm thay đổi tính chất của sở hữu. Việc hợp nhất con người với tri thức trong quá trình lao động không thể được tiến hành theo nguyên tắc tư hữu, vì tri thức không thể phân chia được, nó là sở hữu chung của mọi người. Bước chuyển sang sở hữu xã hội là hệ quả không phải của việc thủ tiêu chế độ tư hữu, quốc hữu hóa và tước đoạt nó bằng bạo lực, mà là hệ quả của sự phát triển sản xuất đạt tới trình độ khoa học.
Do vậy, chúng ta không nên xem xét quan hệ của sở hữu xã hội với sở hữu tư nhân theo nguyên tắc phủ định lẫn nhau. Trong Tư bản, C.Mác đã chỉ rõ, khi sử dụng lao động của công nhân làm thuê, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân”; còn khi phủ định chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa, sở hữu xã hội “khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa”, tức không phải đơn giản là phủ định chế độ tư hữu, mà là “sự phủ định cái phủ định”(5). Như vậy, có thể nói, theo C.Mác, đó là sự phủ định chế độ tư hữu về khách thể (khách thể của sở hữu xã hội không phải là bộ phận, mà là toàn bộ của cải xã hội) và phục hồi chế độ tư hữu về chủ thể (mỗi người đều trở thành chủ sở hữu). Rằng, vốn là sở hữu chung về khách thể và sở hữu cá thể về chủ thể, sở hữu xã hội duy trì và tái tạo phẩm chất tích cực của chế độ tư hữu (khi phủ định mặt tiêu cực của nó – các bên không bình đẳng) với tư cách “điều kiện tất yếu để phát triển nền sản xuất xã hội và cá tính tự do của bản thân người lao động”(6).
Ở đây, chúng tôi muốn lưu ý một yếu tố quan trọng nữa để thấu hiểu bản chất của sở hữu xã hội và lý do làm cho nó đồng nghĩa với tự do và bình đẳng trong học thuyết xã hội chủ nghĩa. Với tư cách “lao động xã hội phổ biến”, cái thay thế dần lao động trực tiếp của công nhân, khoa học dần làm giảm đáng kể “thời gian lao động” và làm tăng đáng kể “thời gian nhàn rỗi xã hội”, tức thời gian “dùng vào việc phát triển chính bản thân họ” (người công nhân - Đ.M.H) và đến lượt mình, với tư cách lực lượng sản xuất lớn nhất, họ tác động ngược trở lại sức sản xuất của lao động và qua đó, “tạo ra khả năng rộng rãi để phát triển một cách hoàn toàn đầy đủ lực lượng sản xuất của từng người, do đó cũng là của xã hội”(7). Và, theo C.Mác, “thời gian nhàn rỗi xã hội” là thời gian mà con người sử dụng để giáo dục và tự giáo dục bản thân, để nhận được thông tin mới, để hoàn thiện những năng lực của mình. Cùng với việc hình thành “sức sản xuất của khoa học”, thời gian ấy trở thành thời gian chủ yếu làm gia tăng của cải xã hội, thành cơ sở đích thực cho sản xuất của toàn thể xã hội. Qua đó, sở hữu xã hội phù hợp với sự tồn tại của con người trong khuôn khổ “thời gian nhàn rỗi xã hội”, tức thời gian con người thực sự hợp nhất với khoa học và văn hóa. Sở hữu xã hội không đơn giản kéo theo mức độ phúc lợi vật chất cao, khắc phục bần cùng và nghèo đói, mà còn dẫn tới mức độ tự do mới về chất của con người (chuyển sang “vương quốc của tự do”), tức tự do khỏi tính tất yếu lao động về mặt kinh tế. Tự do như vậy không đơn giản có nghĩa là “có”, mà còn có nghĩa là trở thành Người.
Từ đó, có thể nói, quan niệm sai trái là quan niệm về sở hữu xã hội như sự xã hội hóa tất cả mọi thứ, mọi của cải. Chỉ nên xã hội hóa những gì phục vụ cho sự phát triển tự do của con người, cho sự tồn tại của nó trên phương diện văn hóa. Chủ nghĩa xã hội chỉ đưa ra khẩu hiệu và đặt ra mục đích như vậy. Nó chỉ xuất phát từ chỗ cho rằng, quyền lực của tư hữu và của đồng tiền không phải là vô hạn, không được mở rộng sang lĩnh vực tinh thần là nơi nó phải đối diện với một quyền lực khác – quyền lực văn hóa. Sở hữu xã hội chính là hình thức, phương thức tồn tại của con người trong “vương quốc của tự do” nằm ngoài tất yếu kinh tế, tồn tại với tư cách cá nhân. Đây là cái nhìn mang đậm sắc thái nhân văn của C.Mác về chủ nghĩa xã hội với tư cách lịch sử đích thực của loài người, như “vương quốc của tự do” và như một chế độ xã hội mà trong đó, con người chủ yếu tồn tại với tư cách thực thể văn hóa.
Cho dù có ai đó đã khẳng định tính chất “không tưởng” của chủ nghĩa xã hội, song tất cả những gì đang diễn ra trong thế giới văn minh hiện đại lại đưa chúng ta đến kết luận rằng, định hướng nêu trên vẫn thực sự cấp bách và có ý nghĩa thực tiễn. Thực tiễn ở các nước phương Tây phát triển cho thấy sự cáo chung đang đến gần của thời đại công nghiệp để chuyển sang một giai đoạn phát triển văn minh mới. Dựa trên những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại đang làm giảm đáng kể số lượng công nhân lao động chân tay và làm thay đổi về chất thành phần của sức lao động. Những người sử dụng không hẳn là chân tay, mà chủ yếu là đầu óc – những năng lực trí tuệ và tri thức – trong quá trình lao động bắt đầu đóng vai trò quyết định. Quá trình vô sản hóa xã hội thời đại công nghiệp hóa đang nhường chỗ cho quá trình trí thức hóa xã hội, đặt những người lao động trí óc lên hàng đầu trong quá trình sản xuất. Đúng như C.Mác dự đoán, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu, thành cội nguồn chủ yếu của của cải; còn việc hợp nhất con người với tri thức thì đang trở thành nhân tố chủ yếu để nâng cao năng suất và chất lượng lao động. Sự hợp nhất như vậy, một mặt, làm tăng tỷ lệ sở hữu xã hội (tức sở hữu về kết quả “lao động xã hội phổ biến”) trong hệ thống quan hệ kinh tế; mặt khác, làm thay đổi căn bản vai trò và ý nghĩa của “thời gian nhàn rỗi xã hội” trong cơ cấu của sản xuất xã hội. “Thời gian rỗi xã hội” ngày càng biến thành thời gian cơ bản để sản xuất ra của cải xã hội và hơn nữa, biến bản thân con người, cá tính của nó thành của cải cơ bản. Đó là gì nếu không phải là những yếu tố cấu thành chủ nghĩa xã hội mà C.Mác đã từng nói đến. Chính C.Mác đã nói đến sự ra đời những mầm mống của chủ nghĩa xã hội ở trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Và, dự đoán này của C.Mác là chính xác. Chúng ta không được lãng quên điều đó, vì chính nó cho thấy sức sống và tương lai sáng lạn của chủ nghĩa xã hội trong sự vận động lịch sử tiếp theo của loài người: loài người văn hóa thay thế cho loài người văn minh. Chính vì vậy mà chúng ta có thể nói, tương lai của loài người thuộc về chủ nghĩa xã hội./.


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.628.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.167.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.46, ph.II, tr.372.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,t.46, ph.II, tr.221.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,t.23, tr.1059, 1060.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.1057.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd.,t.46, ph.II, tr.375
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved