Tiếp theo>>>)
2.2. Quan điểm của các học giả Việt Nam về lý luận xã hội hài hoà
Thứ nhất, về cội nguồn của xã hội hài hoà.
Trong số các nội dung chủ yếu của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, có thể nói, vấn đề xã hội hài hoà thu hút được nhiều học giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu hơn cả. Các học giả Việt Nam đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của xã hội hài hoà, như nguồn gốc lý luận và thực tiễn, nội dung, mục đích, bản chất của xã hội hài hoà, v.v.. Về nguồn gốc tư tưởng, các học giả Việt Nam đều nhất trí cho rằng, lý luận xã hội hài hoà đã kế thừa những tư tưởng hài hoà trong truyền thống văn hoá, tư tưởng của Trung Quốc, đặc biệt là tư tưởng hài hoà của Nho giáo, Đạo giáo, v.v.. Bên cạnh đó, lý luận này còn tiếp thu những thành quả lý luận của nhân loại, cụ thể là tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Có học giả cho rằng, “nếu như Tôn Trung Sơn tiếp thu được tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây để đề ra chủ nghĩa Tam dân thì tư tưởng xã hội xã hội chủ nghĩa hài hoà của Hồ Cẩm Đào đã kế thừa xã hội hài hoà của chủ nghĩa xã hội không tưởng”(13). Đánh giá một cách đầy đủ hơn về ngọn nguồn tư tưởng của xã hội hài hoà, học giả Lê Văn Toan cho rằng, xã hội hài hoà có nguồn gốc từ những tư tưởng truyền thống Trung Quốc, từ ý tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng, tư tưởng của các nhà tư tưởng phương Tây cận đại về xã hội hài hoà, từ những gợi mở lý luận của con đường thứ ba về xã hội hài hoà, lý luận về xã hội hài hoà của C.Mác và Ph.Ăngghen(14).
Trong số những cội nguồn lý luận làm nền tảng cho việc xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc nêu trên, tư tưởng xã hội hài hoà của chủ nghĩa Mác – Lênin đã được một số học giả Việt Nam nhấn mạnh(15). Có tác giả còn cho rằng, xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa làm phong phú thêm và phát triển chủ nghĩa Mác”(16).
Tóm lại, theo các học giả Việt Nam, khi đề xuất tư tưởng xã hội hài hoà, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiếp thu và kế thừa truyền thống văn hoá, tư tưởng ưu tú của dân tộc Trung Hoa, tiếp thu những tinh hoa lý luận trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, nhất là lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời kết hợp sâu sắc với thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, hiện đại hoá và cải cách mở cửa ở Trung Quốc hiện nay.
Thứ hai, đánh giá của các học giả Việt Nam về mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung của xã hội hài hoà.
Theo các học giả Việt Nam, về mục tiêu, nhiệm vụ của xã hội hài hoà, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa là “nhiệm vụ lịch sử lâu dài trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc”. Trên thực tiễn, việc xây dựng xã hội hài hoà, một mặt, “nhằm vào việc giải quyết các vấn đề nảy sinh sau gần 30 năm cải cách mở cửa ở Trung Quốc”(17); trong đó đặc biệt là các vấn đề xã hội và môi trường. Mặt khác, nhằm thúc đẩy xây dựng toàn diện xã hội tiểu khang và xã hội xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Có quan điểm còn nhấn mạnh, việc xây dựng xã hội hài hoà nhằm giải quyết những vấn đề mất cân bằng nảy sinh sau 30 năm cải cách mở cửa ở Trung Quốc.
Trên phương diện lý luận, việc xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa nhằm bổ sung hàng loạt khái niệm liên quan đến việc quyết các vấn đề xã hội(18). Khi nói xã hội hài hoà là sự bổ sung và phát triển hệ thống lý luận xây dựng xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc, điều này thể hiện ở chỗ, xã hội hài hoà là bước tìm tòi con đường tiếp tục vận dụng chủ nghĩa Mác vào thực tiễn ở Trung Quốc; bổ sung, làm cụ thể hoá cho “chiến lược phát triển ba bước” của Đặng Tiểu Bình và xây dựng “toàn diện xã hội khá giả” của thế hệ lãnh đạo do Giang Trạch Dân đứng đầu đề ra”(19).
Về nội dung của xã hội hài hoà, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã trình bày rất rõ, đó là: “dân chủ pháp trị, công bằng chính nghĩa, thành thực giữ chữ tín và thương yêu nhau, tràn đầy sức sống, ổn định có trật tự, con người chung sống hài hoà với tự nhiên”. Như vậy, trong số 6 nội dung của xã hội hài hoà, có 5 nội dung liên quan đến mối quan hệ con người – xã hội, con người với con người và một nội dung bàn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Phân tích một cách cụ thể hơn, chúng ta có thể thấy, dân chủ pháp trị, công bằng chính nghĩa là hai nội dung gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền; thành thực giữ chữ tín và thương yêu nhau nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức xã hội; tràn đầy sức sống nhấn mạnh đến khía cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần và văn hoá được nâng cao; ổn định có trật tự gắn với vấn đề quản lý của Đảng và Nhà nước và con người chung sống hài hoà với tự nhiên nhấn mạnh đến những vấn đề về môi trường. Như thế, nội dung của xã hội hài hoà đã đề cập đến các khía cạnh: chính trị, kinh tế, văn hoá, đạo đức, quản lý nhà nước và vấn đề môi trường, trong đó khía cạnh chính trị được đặt lên hàng đầu. Điều đó cho thấy, cùng với những thành tựu đã đạt được trên lĩnh vực kinh tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày càng chú ý nhiều hơn đối với vấn đề đổi mới chính trị, gắn đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế không còn là mối quan tâm hàng đầu và duy nhất hiện nay. Những nội dung của xã hội hài hoà còn cho thấy, Đảng Cộng sản Trung Quốc hiện đang chú trọng nhiều đến việc giải quyết các mối quan hệ xã hội, nhất là những mối quan hệ kinh tế, đồng thời đề cao sự ổn định xã hội, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Ngoài ra, xã hội hài hoà đó còn được các học giả Việt Nam hiểu là một xã hội mà trong đó, sự phát triển kinh tế hài hoà với sự phát triển chính trị, văn hoá, xã hội; đảm bảo sự hài hoà giữa các giai tầng xã hội, hài hoà giữa các vùng miền, giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và miền xuôi; đảm bảo Trung Quốc hài hoà và châu Á hài hoà(20). Rằng, “xã hội hài hoà” có cội nguồn từ văn hoá truyền thống của Trung Quốc, trải qua nhiều giai đoạn với những nội dung không ngừng được phát triển, gắn liền với công cuộc hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, với xây dựng xã hội toàn diện khá giả ở Trung Quốc hiện nay, với việc giải quyết các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội, con người với tự nhiên(21).
Các học giả Việt Nam còn cho rằng, việc xây dựng xã hội hài hoà ở Trung Quốc còn gắn liền với việc giải quyết vấn đề dân sinh, giải quyết vấn đề dân sinh được xem như biện pháp để tiến tới xây dựng xã hội hài hoà. Có học giả còn nhấn mạnh, “muốn xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa, thì việc trước tiên phải giải quyết vấn đề dân sinh”(22).
Thứ ba, so sánh xã hội hài hoà của Trung Quốc và chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam .
Khi nghiên cứu về xã hội hài hoà của Trung Quốc, các học giả Việt Nam thường so sánh nó với chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam và cho rằng, giữa chúng có nhiều điểm tương đồng. Chẳng hạn, có học giả cho rằng, “nếu so sánh chủ trương xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy rằng, mặc dù được diễn đạt bằng những thuật ngữ khác nhau, song nội dung của chúng có những điểm tương đồng hết sức cơ bản. Điều đó thể hiện ở chỗ, chủ trương xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc coi phát triển bền vững là một trong những nội dung quan trọng, còn chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam coi sự hài hoà là một nội dung cơ bản bao trùm của sự phát triển bền vững”. Rằng, sự tương đồng giữa xã hội hài hoà của Trung Quốc và chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam là ở chỗ, “cả chủ trương xây dựng xã hội hài hoà lẫn chiến lược phát triển bền vững đều tập trung vào chất lượng của sự phát triển, kết hợp một cách hài hoà giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội cũng như bảo vệ môi trường; coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nói tóm lại, cả hai chủ trương và chiến lược đó đều xác định vấn đề dân sinh là trọng tâm, là mục tiêu tổng quát”(23).
Thứ tư, về đặc điểm, bản chất của xã hội hài hoà.
Khi đề cập đến bản chất của xã hội hài hoà, một số học giả Việt Nam đã khẳng định hài hoà chính là sự ổn định, song đó không phải là sự ổn định chết cứng, mà là ổn định để phát triển. Rằng, xã hội hài hoà gắn liền với phát triển bền vững, “hài hoà” chứ không phải là “điều hoà”, hài hoà để phát triển ổn định hơn, bền vững hơn(24).
Ngoài ra, còn có học giả cho rằng, một trong những tính chất quan trọng của xã hội hài hoà là tính chất xã hội chủ nghĩa. “Đối với Trung Quốc, đường lối xây dựng “xã hội hài hoà” lần này được đề xuất trong bước ngoặt của quá trình chuyển đổi các thể chế kinh tế, chính trị, cũng như của quá trình hội nhập quốc tế, và “xã hội hài hoà” đó phải mang tính chất xã hội chủ nghĩa”(25).
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của các học giả Việt Nam, xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc vừa là mục tiêu, vừa là một yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, đồng thời cũng là một biện pháp quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Đóng vai trò là một biện pháp quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, xã hội hài hoà góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy sự đồng thuận xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Thứ năm, đánh giá về những thuận lợi, khó khăn của việc xây dựng xã hội hài hoà ở Trung Quốc.
Theo các học giả Việt Nam, trong bối cảnh hiện tại, khi xã hội hướng tới sự ổn định để phát triển bền vững, xây dựng xã hội hài hoà thực sự là một vấn đề lớn cần được đi sâu nghiên cứu. Đánh giá về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của xã hội hài hoà, nhiều học giả cho rằng, xã hội hài hoà là đỉnh cao của lý luận chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay. “Thực tiễn công tác lý luận những năm qua ở Trung Quốc đã chứng tỏ sức sống của lý luận này và chúng ta hoàn toàn có thể xem xây dựng xã hội hài hoà chính là mục tiêu nhất quán của Trung Quốc trong thời gian tới”(26).
Khi đề cập đến những khó khăn, thách thức của việc xây dựng xã hội hài hoà ở Trung Quốc, đa số các học giả Việt Nam đều nhận định rằng, xây dựng xã hội hài hoà là một chủ trương lớn, yêu cầu đòi hỏi rất cao. Bản thân lý luận xã hội hài hoà cũng chưa phải đã hoàn chỉnh, cần được bổ sung, hoàn thiện không ngừng. Chẳng hạn, có học giả cho rằng, “không phải một khái khái niệm, hay một lý luận nào đưa ra đều hoàn chỉnh ngay và xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa cũng vậy, nó còn đang được dần hoàn thiện và bổ sung để đi vào thực tiễn ở Trung Quốc”(27). Một số học giả lại cho rằng, Trung Quốc đã thực hiện những bước đi đầu tiên trong quá trình xây dựng xã hội hài hoà. Tuy nhiên, con đường dẫn tới mục tiêu một xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa còn gặp không ít những khó khăn, thử thách và con đường đi tới một “xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa” còn rất dài”(28). Có học giả còn chỉ rõ xã hội hài hoà của Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu tiên so với mục tiêu mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra: “Xây dựng xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc là một quá trình dài lâu, song cũng cần biết Trung Quốc đang ở vị trí nào trên chặng đường dài lâu ấy. Sự hài hoà của xã hội hài hoà cũng chia ra làm 3 bậc: cao, trung bình và thấp. Hiện tại xã hội xã hội chủ nghĩa hài hoà của Trung Quốc mới chỉ đạt tới trình độ hài hoà bậc thấp của giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa”(29).
Nói tóm lại, trong quan niệm của các học giả Việt Nam, xã hội hài hoà được xem là đỉnh cao lý luận của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, do đó việc xây dựng thành công xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa có tác động quan trọng đối với cục diện xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc và xây dựng xã hội khá giả toàn diện ở Trung Quốc hiện nay.
3. Kết luận
Qua nghiên cứu quan điểm của các học giả Việt Nam về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, có thể rút ra một số nhận xét bước đầu như sau:
Thứ nhất, tuy cũng có một số quan điểm chưa hoàn toàn đồng tình với ý kiến của các học giả Trung Quốc, song về cơ bản, quan điểm của các học giả Việt Nam đều nhất trí với ý kiến của các học giả Trung Quốc về những nội dung của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.
Thứ hai, khi nghiên cứu chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, các học giả Việt Nam hết sức quan tâm tới những bài học kinh nghiệm quý báu từ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.)
Thứ ba, ở một mức độ nhất định, các học giả Việt Nam đã đưa ra những đánh giá ban đầu đối với những đóng góp và hạn chế của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, đồng thời so sánh với lý luận đổi mới ở Việt Nam, nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai lý luận đó.(28
Một trong những đặc điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, theo chúng tôi, đó là tính chất “mở” (open), những nội dung của nó qua mỗi giai đoạn luôn được bổ sung, hoàn thiện và thể hiện bằng những chiến lược, bước đi, kế hoạch khác nhau, nhưng không mâu thuẫn với nhau mà đều thống nhất trong một chỉnh thể, trên tinh thần quán triệt tư tưởng “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn cao nhất”. Chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc là thành tựu vĩ đại mà Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc đã phải trải qua một quá trình không ngừng tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết lý luận và thực tiễn mới đạt được. Lý luận đó đã, đang và sẽ định hướng, chỉ đạo sự nghiệp cải cách mở cửa ở Trung Quốc đạt được những thành tựu quan trọng. Ở Việt Nam , việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc đã được quan tâm chú ý, song kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn. Trong thời gian tới, cùng với sự cổ vũ của hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, cùng với sự trao đổi, giao lưu học thuật ngày càng phát triển, chắc chắn việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc ở Việt Nam sẽ đạt được những thành quả to lớn hơn nữa. /.
(1) Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc. Mười năm Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (1995-2005). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr.34.
(3) Xem thêm: Nguyễn Huy Quý. “Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa - 55 năm xây dựng và phát triển” (số 5, 2004); Nguyễn Kim Bảo. “Quá trình hình thành và phát triển lý luận xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc” (số 6, 2003) và bài “Nhìn lại quá trình 55 năm phát triển lý luận kinh tế Trung Quốc” (số 5, 2004); Vũ Tiến Bảo. “Tìm hiểu bước đầu về nội hàm và ngoại diên của “văn hóa xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc”” (số 5, 1998); Nguyễn Văn Hồng. “Nhận thức về chiến lược “khoa giáo hưng quốc” xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc” (số 2, 2003), v.v..
(4) Xem thêm: Nguyễn Kim Bảo (chủ biên). Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có đặc sắc Trung Quốc (một số đột phá mới về lý luận và thực tiễn từ Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc đến nay). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; Trương Gia Long, Trần Sỹ Phán (đồng chủ biên). Chủ nghĩa xã hội hiện thực: đổi mới và phát triển. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004.
(6) Nguyễn Huy Quý. Nghiên cứu Trung Quốc học (những bài viết chọn lọc). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, tr.405.
(7) Lê Tịnh. Lý luận Đặng Tiểu Bình về xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 2, 1996.
(8) Xem: Hoàng Thế Anh (Chủ biên). Vấn đề xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.214.
(9) Xem: Nguyễn Trần Thành. Về lý luận kinh tế của chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Tạp chí Lý luận chính trị, số 7, 2002.
(10) Nguyễn Văn Dũng. Một số vấn đề về giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4, 1997.
(11) Nguyễn Văn Dũng. Sđd., tr.8.
(12) Đỗ Tiến Sâm. Tìm hiểu một số vấn đề về lý luận giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5, 2000, tr.11, 21.
(13) Trần Lê Bảo. Từ chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa hài hoà của Hồ Cẩm Đào. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 7, 2007, tr.69.
(14) Xem: Lê Văn Toan. Xã hội hài hoà: ngọn nguồn tư tưởng và nội dung hiện thực. Tạp chí Lý luận chính trị, số 9, 2008.
(15) Xem: Lê Văn Toan. Xã hội hài hoà: ngọn nguồn tư tưởng và nội dung hiện thực. Tạp chí Lý luận chính trị, số 9, 2008, tr.80 và Vũ Văn Viên. Lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Triết học, số 2, 2009.
(16) Hoàng Thế Anh (Chủ biên). Vấn đề xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.214.
(17) Hoàng Thế Anh (Chủ biên). Sđd., tr.261.
(18) Hoàng Thế Anh (Chủ biên). Sđd., tr.261.
(20) Xem: Phạm Văn Đức. Vấn đề dân sinh trong chủ trương xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Tạp chí Triết học, số 11, 2008, tr.24.
(21) Xem: Hoàng Thế Anh (Chủ biên). Sđd., tr.213-214.
(22) Hoàng Thế Anh (Chủ biên). Sđd., tr.227.
(23) Phạm Văn Đức. Vấn đề dân sinh trong chủ trương xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Tạp chí Triết học, số 11, 2008, tr.27.
(24) Vũ Văn Viên. Lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Triết học, số 2, 2009, tr.33.
(25) Nguyễn Huy Quý. Về xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Tạp chí Cộng sản, số 775, 2007, tr.88-99.
(26) Vũ Văn Viên. Lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Triết học, số 2, 2009, tr.32.
(28) Nguyễn Huy Quý. Về xây dựng xã hội hài hoà xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Tạp chí Cộng sản, số 775, 2007, tr.88-89.
(29) Trần Lê Bảo. Từ chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn đến tư tưởng xã hội hài hoà của Hồ Cẩm Đào. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 7, 2007, tr.68.