Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trung tâm phong trào cách mạng thế giới dồn về nước Nga. Chế độ Nga hoàng ngày càng tàn bạo cộng với ách áp bức bốc lột nặng nề của những ông chủ tư sản và những tàn tích lạc hậu của chế độ nông nô đã làm cho đời sống người dân ngày càng nghẹt thở, cùng quẫn, tối tăm. Văn học Nga giai đoạn này luôn sát cánh để phản ánh những biến động trong xã hội. Năm 1909, Gorki cho rằng: “Nền văn học Nga mãi mãi cho đến ngày nay vẫn luôn luôn giữ được mối quan hệ mật thiết với các phong trào cách mạng“ [ 3, 248 ]. Bản thân ông với tư cách là một nhà văn, một chiến sĩ cộng sản, đã giữ được mối liên hệ đó.
Vốn ra đời trong một gia đình lao động và thuở nhỏ đã sống trong môi trường tiểu thị dân đầy rẫy những xấu xa, hủ lậu, Gorki đã sớm có tư tưởng phản kháng, chống đối lại hiện thực xã hội bất công. Trong tác phẩm đầu tiên của đời cầm bút – ” Bài ca cây sồi già”- Gorki đã tuyên bố: “tôi đến với cuộc đời để mà không thoả thuận” [ 3, 513 ]. Hình tượng nhân vật “con người dưới đáy” mà ông đã xây dựng trong những truyện ngắn của mình là một bằng chứng cụ thể cho lời tuyên bố đó.
Các nhân vật của ông không chịu buông xuôi chấp nhận số phận đau khổ của mình mà họ luôn suy nghĩ về nguồn gốc của sự nghèo khổ đã trùm lên cuộc đời họ. Họ luôn cảm thấy chán nản, bực bội khi sống trong cái xã hội đầy rẫy những bất công. Họ muốn làm một việc gì đó để thay đổi cuộc đời họ. Trong đầu họ đã dần dần hình thành những ý nghĩ về tự do, và đây cũng là bước chuẩn bị cho những ý thức phản kháng đầu tiên.
3.1. Ý thức tự do
Đối với các nhân vật của mình, Gorki đã thổi vào hồn họ những ý nghĩ ban đầu về tự do. Một tên cướp ngang tàng như Tsencase (truyện cùng tên) cũng biết triết lí hết sức đơn giản về tự do. Anh nói với Gavrila về những suy nghĩ của mình: “Người anh em ạ, cái chính trong đời sống nông dân là tự do! Anh là chủ bản thân anh: Anh có nhà của anh, túp nhà tồi tàn, nhưng là nhà của anh. Anh có đất của anh, dù là miếng đất con con đi nữa, nhưng là đất của anh! Anh là ông vua trên mảnh đất của anh!…Anh có bộ mặt của anh…Anh có thể đòi hỏi mọi người phải tôn trọng anh...” [ 8, 197 ].
Còn “Kẻ phá bĩnh” – Gvôzđiep (truyện Kẻ phá bĩnh) cũng có những ý nghĩ riêng về tự do. Anh thích đi trên con đường thoai thoải bên bờ sông vì ở đây anh “cảm thấy mình cũng giống như mọi người, cũng được tự do hít thở làn không khí thoảng mùi lá cây, cũng được đi lại một cách thoải mái và ung dung, được làm một bộ phận trong một cái gì to lớn và cảm thấy mình bình đẳng với mọi người” [ 8, 389 ].
Đó là những ý nghĩ hết sức đơn giản về tự do nhưng những ý nghĩ này sẽ tạo thành những ngọn gió đầu tiên khêu lên những tia lửa phản kháng.
3.2. Ý thức phản kháng
Khi miêu tả những nhân vật “con người dưới đáy”, Gorki không nhằm nói về sự sa đoạ, lưu manh của họ. Mà mục đích của ông là cho ta thấy được sức mạnh to lớn trong tầng lớp “dưới đáy” xã hội, “họ là tầng lớp đáng kính nhưng chẳng được ai kính trọng” [ 3, 216 ]. Ngay từ những năm đầu tiên bước vào con đường hoạt động văn hoá, Gorki đã khẳng định được mục đích và nhiệm vụ của nghệ thuật, và sau đó không lâu, nhất là khi tiếp cận với chủ nghĩa Mác, với đảng kiểu mới của Lênin thì ông đã đề ra được những luận điểm nổi tiếng: Thời đại anh hùng bắt đầu cần đến cái anh hùng; Nghệ thuật phải phản ánh “cơn phẫn nộ của nhân dân trong cuộc đấu tranh giải phóng”. Tất cả những luận điểm nổi tiếng đó điều được chứng minh trong các sáng tác của ông.
Emelian Pilai ( truyện Emelian Pilai) luôn suy nghĩ về nguồn gốc sự đau khổ của mình. Tuy không biết được nguyên nhân do đâu mà hàng triệu dân Nga lớp chết đói, lớp đi lang thang trôi dạt, nhưng anh không chấp nhận cách giải thích đơn giản là do mất mùa. Anh nói với người bạn đường của mình: ” Cậu ơi, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tớ đã đói rồi, mà có luật nào bắt như thế không? Ấy đâ-â-ây! Hắn nói phỏng? tại sao? Mất mùa à? Hắn mất mùa trong cái đầu này trước này, sau mới mất mùa ngoài đồng! Tại sao ở các nước khác không mất mùa? Tại vì người ta sinh ra có cái đầu không phải để mà gãi tai gãi gáy; Ở nước người ta biết nghĩ – thế đấy!” [ 8, 57 ]. Đó chính là mầm móng của sự phản kháng có ý thức đang hình thành trong quần chúng. Sự phản kháng ấy còn bộc lộ ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Tsencase (truyện Tsencase) trở thành một tên cướp ngang tàng và thản nhiên ăn cắp để sống ở trên bến cảng cũng là một hành động phản kháng. Anh bình thản, giễu cợt trước mặt tên lính đoan khi hắn hăm he cho anh vào còng vì tội “xoáy hai kiện vải“. Lúc tên lính chửi mắng thậm tệ thì anh lại tỏ ra như không có chuyện gì, thậm chí còn bỡn cợt, ra vẻ vui hẳn lên và thản nhiên “khẽ huýt sáo qua kẻ răng và thọc hai tay vào túi quần, vừa đi vừa ném sang hai bên những tiếng cười và những câu bông đùa, châm chọc” [ 8, 171 ]. Hành động ngang tàng và liều lĩnh của Tsencase cũng chính là một biểu hiện của sự chống đối.
Tsencase sớm nhận ra rằng số phận của những kiếp sống thấp hèn như anh đã bị tước mất quyền làm người khi sống trong cái xã hội đen tối này. Anh chua chát nói: “sẽ không ai trừng phạt người nào giết chết những người như tớ đâu. Khi nhận ra, họ còn cám ơn là đằng khác” [ 8, 211 ]. Đây chính là một biểu hiện của ý thức nhân quyền trong quần chúng.
Còn bé Lionka ( truyện Lão Arkhip và bé Lionka) thì bắt đầu sự phản kháng của mình bằng cách chống lại những thói xấu, tội lỗi của ông nó, người thân thiết duy nhất và cùng giai cấp với nó.
Sự phản kháng của bé Lionka diễn ra rất quyết liệt. Trong lòng nó luôn tràn ngập những mơ ước về cuộc sống bình thường, lương thiện. Nó không bao giờ chấp nhận bất cứ một sự lừa lọc, giả dối hay nhục mạ con người nào cả. Ý thức cao đẹp của nó không phải mới nảy sinh mà đã nảy sinh trong suốt quãng đường đi ăn xin của hai ông cháu: “Bao giờ cũng vậy, hễ nghe tiếng ông nó xin là nó có một cảm giác buồn buồn khó chịu thế nào ấy” [ 8, 114 ]. Khi biết đựơc sự thật ông nó chính là kẻ cắp thì ý thức phản kháng của nó càng dữ dội hơn. Trong lòng nó bổng có cái gì bùng lên, nó chửi mắng, xỉ vả hành động xấu xa của ông nó: “Ông đi ăn cắp! – Lionka thét lên và bỗng đứng phắt dậy, người run bần bật – lão già ăn cắp!…ôi giào! – rồi nắm bàn tay nhỏ bé khô khan lại, nó lay lay quả đấm trước mũi ông lão đã im bặt và lại buông mình rơi phịch xuống đất, rồi nói tiếp qua kẽ răng: – đi ăn cắp qua trẻ con…Chao ôi thật là giỏi giang! Già đời rồi mà cũng thế…xuống địa ngục rồi ông sẽ phải đền tội này!” [ 8, 127 ]. Cơn phẫn nộ của nó rất mãnh liệt và dữ dội nhưng rồi nó cũng dịu đi như trời cao cũng sẽ yên tĩnh sau cơn giông bão. “Trời tối mịt. xa xa có tia chớp loé lên, im lặng nhưng vẫn dữ dội, rồi một giây sau lại có tiếng sóng yếu ớt rền rĩ. Rồi cảnh vật lại chìm trong im lặng, một cõi im lặng tưởng chừng như vô tận” [ 8, 129 ]. Và những hạt mưa lớn bắt đầu rơi xuống, Lionka van ông nó chạy vào làng nhưng ông nó kiên quyết không vào: “Tao không vào! Mày cứ vào một mình đi…Tao không muốn mày ngồi đây…đi đi! Đi đi!” [ 8, 129 ]. Nó van ông nó để được ông tha thứ cho hành động của mình nhưng ông nó không tha thứ: “Tao không tha thứ! Tao nâng niu mày suốt bảy năm trời! Cái gì cũng vì mày…Sống cũng chỉ vì mày. Tao có cần gì đâu? Tao chết đến nơi rồi. Tao chết đây, thế mà mày bảo tao là thằng ăn cắp. Vì sao tao phải ăn cắp? Vì mày, bấy nhiêu cũng chỉ vì mày cả…Tao cố góp nhặt để nuôi mày, để mày có tiền mà sống, cho nên tao phải ăn cắp.Chúa biết hết. Chúa biết tao ăn cắp. Chúa sẽ phạt tao. Chúa chẳng tha tội cho con chó già này đâu, cái tội ăn cắp. Và chúa đã trừng phạt tao rồi. Chúa đã dùng bàn tay một thằng bé để giết chết con!…Như thế là đúng, lạy chúa! Đáng đời rồi. Chúa công bằng lắm! Chúa hãy vớt lấy hồn con…ôi!” [ 8, 129 ].
Cuộc xung đột của hai ông cháu diễn ra thật căng thẳng. Dù trong tâm hồn non nớt của bé Lionka đã loé lên những tia sáng của sự phản kháng nhưng nó còn quá yếu ớt, nó chưa đủ sức để chống lại những tội lỗi, sa đoạ của ông nó. Xung đột ấy đã dẫn đến cái chết đầy bi thảm của hai ông cháu: “Sáng hôm sau những đứa trẻ trong thôn Cô-dăc…thấy lão ăn mày hôm qua ngồi dưới gốc cây đà dương hình như bị ai đâm chết vì bên cạnh thấy vứt một con dao găm. Nhưng…té ra không phải như thế. Lão già hãy còn sống…Lão đã bị cấm khẩu, chỉ giương đôi mắt dàn dụa van xin mọi người một điều gì không rõ và cứ nhớn nhác tìm ai trong đám đông. Nhưng rồi chẳng tìm thấy gì và không được ai trả lời một câu nào. Đến chiều lão tắt thở. Người ta chôn lão…dưới gốc cây đà dương, vì cho rằng đem chôn ở nghĩa địa thì không hợp lệ: trước hết vì lão là người xứ khác, thứ hai vì lão là hạng kẻ cắp, thứ ba vì lão chết đi mà chưa được sám hối“ [ 8, 131]. Và “vài ba hôm sau người ta lại tìm thấy cả Lionka nữa. Trên một cái hố, ngoài thảo nguyên, cách làng không xa, thấy có đàn quạ lượn vòng, và khi đến xem, người ta thấy thằng bé nằm sắp dưới hố, hai tay dang rộng, mặt úp vào lớp bùn sên sết đọng lại dưới đáy hố sau trận mưa” [ 8, 132 ].
Sự phản kháng của Lionka đã cho ta thấy cậu bé đã vươn lên thoát khỏi “đáy bùn” của xã hội dù đó chỉ là một tia sáng yếu ớt.
Thấm sâu trong tâm hồn những “con người dưới đáy” này là một khả năng tiềm tàng, một ý thức đấu tranh. Sống trong cảnh tối tăm ngột ngạt, Grigori Orlôp (truyện Vợ chồng Orlôp) cảm thấy mình ngày càng bị nhấn chìm trong cái “hố” buồn tẻ và chán ngán này. Nhưng anh không buông xuôi số phận, ý thức về một lẽ sống có ý nghĩa vẫn le lói trong anh. Anh buồn đau vì cảm thấy mình “chưa từng được sống mà lại sắp chết đến nơi rồi” [ 8, 438 ]. Trận dịch như là một thử thách đối với anh, hoặc là anh sẽ bị nó dìm nghỉm xuống hoặc là anh sẽ vươn lên đấu tranh. Và Orlôp đã chọn con đường có ý nghĩa, anh nói: “Tôi không muốn sống cái lối ấy nữa – sống để ngồi chờ dịch tả đến quật tôi xuống – tôi không thích thế. Không thể để thế được!…hãy xông lên! Số phận muốn dìm anh xuống, vậy anh hãy chống lại nó, xem ai thắng ai? Đúng là một cuộc chiến tranh! Không còn cách nào khác…” Orlôp đã quyết định xin vào làm nhân viên phục vụ ở trạm y tế để cùng với những người ở đây chống lại nạn dịch tả đang hoành hành khắp nơi. Anh biết đó là việc lao vào mồm thú dữ nhưng anh sẽ đạp vào họng nó để bảo vệ sự sống cho con người. Trong cuộc đấu tranh đó anh thấy cuộc đời mình trở nên có ý nghĩa, con người mình trở nên mạnh mẽ hơn. Dù biết rằng mình sẽ ngã gục trong cuộc chiến tranh giữa “dịch tả và người” nhưng Grigori Orlôp cảm thấy tự hào về sự hi sinh ấy:
“Giả dụ như cái bệnh dịch tả ấy hoá thành người, thành một dũng sĩ…thành ngay Ilia Muroometx đi chăng nữa, anh cũng sẽ choảng nhau với nó! Hãy cùng ta sống mái một phen! Người là một sức mạnh , và ta, Orlôp cũng là một sức mạnh, nào đọ sức xem ai thắng ai? Anh sẽ bóp chết nó và chính anh cũng sẽ gục xuống…Một cây thập tự cắm trên mồ anh ở ngoài đồng và một cái mộ chí: “Grigori Anđêep Orlôp …Người đã giải phóng nước Nga ra khỏi nạn dịch tả“ [ 8, 456 ].
Trận dịch còn là một biểu tượng cho tình trạng xã hội hư hỏng và sa đoạ. Trước tình trạng ấy, những con người có ý thức như Orlôp không bao giờ chịu buông xuôi để mặc cho nó suy đồi. Mà họ sẽ vươn cao hơn, sẽ đứng lên đấu tranh, đạp đỗ cái xã hội đó để khẳng định mình, để tìm cho mình một sự sống có ý nghĩa và để giải thoát những đau khổ của con người. Dù biết rằng chấp nhận con đường đấu tranh là phải chịu hi sinh mất mát, nhưng Orlôp vẫn tràn đầy lạc quan và tự hào về điều đó.
Bao ý tưởng cao đẹp vẫn ngút cháy trong lòng anh, anh sẵn sàng làm việc với tất cả sự nỗ lực hết mình của bản thân để thực hiện được chiến công của mình. Thế nhưng cuộc sống tầm thường cứ lẩn quẩn như mớ bòng bong chất nặng trong lòng khiến anh không thể nào vượt ra thoát khỏi nó được. Sau một thời gian anh nhận thấy cuộc sống ở bệnh viện cũng là một sự tầm thường. Nó không thể trút bỏ bao dây rợ đang rối bời trong tâm hồn anh. Nó cũng không phải là một mảnh đất tốt để anh có thể gieo vào đó những hoài bảo cao đẹp và gặt hái những chiến công để trở thành anh hùng. Anh cảm nhận được sự chật chội của cuộc sống và anh đã mỉa mai người bác sĩ trong lúc giận dữ: “Ông chữa bệnh cho người ốm…còn người khoẻ thì chết vì cuộc sống chật chội” [ 8, 479 ].
Sự tù đọng của xã hội tư hữu đã đè nặng lên vai Orlôp và tâm hồn anh như cái lò xo càng bị nén thì nó càng đàn hồi mãnh liệt. Tuy nhiên sức đàn hồi của Orlôp chưa đủ sức mạnh để phá tan cái mớ bòng bong kia. Nó chỉ là một sự phản kháng tự phát, sự đấu tranh của một con người trơ trọi giữa cánh đồng xám xịt.
Để miêu tả được sự phản kháng của quần chúng lao động, giai cấp vô sản, Gorki đã phải trải qua một thời gian mới có thể thể hiện được. Đề tài mà ông đề cao hơn hết là đề tài công nhân vì nó có tính khái quát. Năm 1891 Gorki đã bắt đầu tiếp xúc với môi trường công nhân ở Tiflit nhưng đến năm 1897, lần đầu tiên trong sáng tác của Gorki mới xuất hiện hình ảnh người công nhân bắt đầu bước lên con đường đấu tranh ít nhiều có ý thức. Đó là sự phản kháng của anh thợ xếp chữ Gvôzđiep (truyện Kẻ phá bĩnh). Hắn là kẻ tinh nghịch từ thuở bé và được mệnh danh là “kẻ phá bĩnh” – anh ta từng ngồi tù vì tội bẻ khoá và thả hết bồ câu của các ông chủ tư hữu, “trong một đêm hắn bẻ hết ổ khoá của bảy chuồng bồ câu và bao nhiêu chim hắn thả hết, bao chim mồi người ta hắn đuổi bay sạch“ [ 8, 384 ]. Hắn làm như vậy là để cho vui thôi chứ không nhằm thủ đoạn hại người nào cả. Hắn lại có trò “nuôi quỷ” trong nhà bằng cách để lố kim vào chai thuỷ ngân và đặt vào lò sưởi, khi đốt thuỷ ngân chảy ra chảy khắp chai, kim va vào thành chai kêu ken két như tiếng người nghiến răng.
Gvôzđiep cũng là một người thợ thông minh tinh thông nhiều việc. Anh đã bắt đầu nhận thức được sự bất công trong xã hội, anh đã có ý muốn tố cáo chính sách bóc lột của bọn tư sản và vai trò đầy tớ của những kẻ trí thức làm tay sai cho chúng. Anh đã tố cáo chính sách giả dối của báo chí tư sản bằng cách thêm vào bài báo những dòng chữ “ngớ ngẩn”: “Nền lập pháp chủ nghĩa của ta xưa nay đối với báo chí vẫn là một đề tài để tranh luận sôi nổi…Nghĩa là để nói đủ thứ chuyện ngớ ngẩn và ngu độn” [ 8, 376 ]. Hành động ngang tàng và trâng tráo hết sức hồn nhiên của anh khi nhận tội “chính tôi” đã làm điều đó, đã khiến cho tên chủ bút tức tối, giận dữ và “đôi môi mím chặt của ông ta hứa hẹn nhiều chuyện chẳng lành” [ 8, 377 ], còn những người thợ khác thì lặng thinh “không ai ngờ là thủ phạm sẽ thú nhận một cách nhanh chóng và điềm tĩnh đến thế” [8,378]. Bao lời quát tháo và tra khảo dồn dập của ông chủ bút cũng chẳng ăn thua gì đối với Gvôzđiep “và trong đôi mắt người thợ xếp chữ ánh lên một tia lửa xấc xược“. Anh ta dõng dạc nói: “đúng thế đấy…tôi đã cố ý thêm mấy chữ ấy vào, một cách có dụng tâm” [ 8, 378 ]. Lời nói thản nhiên đó đã làm cho tên chủ bút “nổi khùng” lên, mắt long lên sòng sọc, đầy căm giận.
Đây là hành động phản kháng có ý thức của người công nhân đầu tiên trong xưởng in. Anh ta đã vạch trần những lí lẽ giả dối mà ông chủ bút thuyết lí hằng ngày, như khuyên răn mọi người phải có lòng nhân ái nhưng thực chất đó chỉ là những tờ báo “vớ vẩn” khiến cho người nghe phải phát tởm. Gvôzđiep đã vạch trần bản chất trâng tráo ấy bằng những lời lẽ đanh thép: “Toàn những câu nói bậy không biết xấu hổ là gì, Mitrypavlits ạ!…Bởi vì ông viết báo răn người ta đừng bóc lột, thế mà ở xưởng in của các ông thì sao? Tuần trước Kirya Kôp làm việc suốt ba ngày rưỡi, kiếm được băm tám hào chỉ rồi lăn ra ốm. Vợ anh ta đến toà báo lĩnh số tiền ấy, thì ông quản lí bảo là còn tiền đâu mà lĩnh, đã trừ vào số tiền phạt rồi mà vẫn chưa đủ, chị còn phải nộp thêm đồng hai nữa. Thế không phải là bóc lột là ăn cướp à? Sao ông không viết về những chế độ ấy? Còn cái thói của ông quản lí động một tí là sủa nhắng lên rồi làm tình làm tội bọn trẻ con, sao ông không cho lên báo? Ông cũng không viết được là bởi vì chính ông cũng theo chính sách ấy. Ông viết bài nói là trên đời này người ta sống khổ lắm. Tôi nói cho ông biết: sở dĩ ông phải nói những chuyện ấy chẳng qua là vì ông không biết làm cái nghề ngỗng gì khác. Có thế thôi…Cho nên những chuyện dã man diễn ra trước mũi ông thì ông chẳng thấy gì hết, còn những chuyện dã man ở đâu bên Thổ-Nhĩ-Kì thì ông kể rất tường tận. Thế mà những bài báo của ông không phải những trò vớ vẩn hay sao? Từ lâu vì xấu hổ thay cho ông tôi đã muốn chêm vào những bài báo của ông những lời chân thật. Mà còn phải nhiều nữa chứ, như vừa rồi đã ăn thua gì!” [ 8, 381-382 ].
Lời nói công khai đầy kiêu hãnh và đắc thắng của anh thợ xếp chữ – kẻ mà ông chủ bút không bao giờ nghĩ là có quyền làm việc đó – như những mũi tên châm thủng vào tim ông chủ bút, khiến ông ta “khi thì tái mặt đi, khi thì đỏ mặt lên, môi nở một nụ cười khinh bỉ, lúng túng và bệnh tật” [ 8, 382 ]. Tác phẩm có giá trị cao vì nó đã đả kích trực tiếp vào bộ máy tuyên truyền báo chí – kẻ phát ngôn của giai cấp thống trị.
Không chỉ tố cáo bản chất giả dối của giới báo chí đương thời, Gvôzđiep còn vạch trần vai trò tay sai của những kẻ trí thức, như ông chủ bút chẳng hạn. Anh ta nói với ông chủ bút: “việc làm báo mà! Nó ngốn mất của ông nửa đời người, bao nhiêu sức khoẻ của ông đều ngốn vào đấy hết. Tôi hiểu lắm chứ! Đối với ông chủ nhiệm thì có nghĩa lí gì? Ông ta chỉ xuất tiền ra làm báo, còn ông thì dốc cả bầu máu ra! Đấy như đôi mắt của ông cũng đã nướng vào đấy rồi còn gì” [ 8, 394 ].
Hơn nữa Gvôzđiep còn ý thức được sự bất công giữa con người với con người trong cuộc sống. Anh ta thấy rằng mình và ông chủ bút cũng là những người bằng vai phải lứa, là “chim cùng một tổ“, hơn nữa anh còn là người có tình cảm, có trí khôn nhưng tại sao anh luôn sống trong cảnh tối tăm, còn những người như ông chủ bút thì lại ra dáng một quí tộc. Gvôzđiep cảm thấy rằng trước mắt ông chủ bút thì anh chỉ là một con số không. Anh ta ý thức được sự khinh rẻ của ông chủ bút đối với mình: “đúng là đối với ông tôi chỉ là một chỗ trống…có tôi hay là không có tôi đối với ông cũng thế thôi – mặc kệ. Tâm hồn của tôi thì ông có cần gì? Tôi sống một thân một mình trên thế gian này và làm cho tất cả những người biết tôi đều chán ngấy lên. Bởi vì tính tôi nó cay độc, và tôi rất thích bày trò này trò khác, nhưng tôi cũng có tình cảm và cũng có trí khôn. Tôi cảm thấy nhục trong tình cảnh của tôi. Tôi thua kém ông ở chỗ nào? Chẳng qua chỉ vì công việc của tôi” [ 8, 397 ]. Câu hỏi của anh đã được ông chủ bút đáp lại: “Ở đây cần phải có một quan điểm khác“. Nhưng Gvôzđiep không chấp nhận lời giải đáp đơn giản và đầy chủ quan như thế: “Quan điểm mà làm gì? Con người phải quan tâm đến con người không phải bằng một quan điểm mà bằng tấm lòng. Quan điểm là cái gì? Tôi đang nói đến sự bất công của cuộc sống. Chả nhẽ trên một quan điểm nào đó có thể vứt tôi vào sọt rác? Thế mà tôi thật đã bị loại ra ngoài cuộc sống, tôi không có lối nào để đi vào cuộc sống…tại sao lại thế? Tại vì tôi không có học thức ư? Thế thì giả dụ như các ông – những người có học thứ c- không suy luận trên quan điểm này quan điểm nọ mà suy luận theo một cách nào khác thì các ông phải đừng bỏ quên tôi đi, kéo tôi lên với các ông từ cái nơi thấp hèn mà tôi đang mục rữa trong cảnh ngu dốt và trong tâm trạng đang hằn học của tôi chứ! Hay là – trên quan điểm thì các ông không phải làm như vậy?” [ 8, 398 ].
Những lời lẽ ấy nhìn hình thức thì không có gì mới mẻ cả vì tình trạng bất công trong mối quan hệ giữa người với người trong xã hội thì người khác đã nói nhiều và nói từ lâu rồi. Nhưng ở đây nó có cái mới, trước đây những lời lẽ ấy đều do những tên điạ chủ, giai cấp quí tộc nói ra, còn bây giờ nó do Gvôzđiep, người công nhân trong xưởng in, con người thuộc tầng lớp “dưới đáy” xã hội, thốt ra.
Đây chính là mầm mống của sự đấu tranh giai cấp. Những lời lẽ gân guốc của Gvôzđiep đã khiến ông chủ nhiệm phải thốt lên rằng: “Đảng viên xã hội phỏng?“. Thực ra qua sự phản kháng của Gvôzđiep ta cũng biết rằng anh chưa phải là một đảng viên cộng sản. Sự phản kháng của anh chỉ là sự phản kháng tự phát. Nó được nảy sinh từ trong cái hiện thực đen tối nặng nề. Chính Gvôzđiep cũng thừa nhận điều đó: “Chẳng qua vì uất ức mà tôi làm như thế. Con người ta đôi khi thấy uất đến nỗi lấy rượu mà tưới cũng không nguôi… ấy, vào những lúc như thế người ta hay bày trò chơi khăm một kẻ nào bất kì: đấm một quả vào mõm những người qua đường hay là một vố gì như thế…tôi không hối hận – cái gì đã làm rồi thì không vớt lại được nữa, nhưng có lẽ…thậm chí tôi hiểu rất rõ nữa là khác, tôi hiểu rằng vừa rồi tôi có làm hơi quá, tôi đã thiếu mức độ” [ 8, 393 ].
Nhưng xét cho cùng sự phản kháng của Gvôzđiep có ý nghĩa xã hội hơn là ý nghĩa cá nhân. Không phải là một đảng viên cộng sản nhưng anh chính là đại biểu điển hình cho lớp công nhân bắt đầu bước lên con đường đấu tranh công khai với bọn tư sản bóc lột và đó chính là ngọn lửa khởi đầu cho những tư tưởng cộng sản sau này tiến lên.
Ngòi bút của Gorki thật sự là vũ khí sắc bén chống áp bức bất công. Ông đã phát ngôn cho hàng triệu người dân đói nghèo, thất học. Ông đã nuôi dưỡng lửa thiêng và động viên các thế hệ tranh đấu để phá tan tình trạng phục tùng, chịu đựng một cách im lặng theo kiểu nô lệ. Mặc dù chưa xác định được con đường đấu tranh cụ thể, nhưng ngòi bút của Gorki đã hun đúc cho bao trái tim quả cảm để họ có một điểm tựa đầy lạc quan mà đứng lên đấu tranh trong cuộc chiến năm 1905. Tuy cuộc đấu tranh đó đã thất bại nhưng nó chính là một trận diễn tập đầy ý nghĩa để chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng Mười thắng lợi sau này.
4. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT “CON NGƯỜI DƯỚI ĐÁY” VÀ SỰ SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO CỦA MACXIM GORKI
Hình tượng nhân vật “con người dưới đáy” là một bước đột phá của văn học Nga cuối thế kỉ XIX đầu XX, là bước chuẩn bị cho sự phát triển của nền văn học mới. Nó thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn trẻ Macxim Gorki. Điều này càng thể hiện rõ hơn khi ta so sánh với một số nhà văn khác.
4.1. So với các nhà văn Tây Âu
4.1.1. Charles Dickens (1812-1870)
Trong những sáng tác đầu tay của mình, Dickens đã xây dựng hàng loạt các nhân vật thuộc tầng lớp “dưới đáy” xã hội. Đó là cậu bé ở trại tế bần Olliver Twist (tác phẩm Những cuộc phiêu lưu của Olliver Twist, năm 1837-1839), là cô bé Nen trong tác phẩm Cửa hàng bán đồ cổ, nhưng cách xây dựng nhân vật của Dickens hoàn toàn khác với cách xây dựng nhân vật của Gorki. Đó là Dickens đã sử dụng một lối kết thúc có hậu cho các nhân vật của mình còn Gorki thì không.
Olliver Twist là một đứa trẻ mồ côi, sống trong trại tế bần – một thứ nửa trại giam nửa bóc lột sức lao động của trẻ em, một hình thức mị dân tiêu biểu của xã hội tư bản Anh, Pháp…thế lỉ XIX. Olliver Twist bắt trúng thăm là phải xin thêm cháo trong buổi phát chẩn. Cậu bé nói “tôi xin thêm cháo“. Và câu nói đó đã khiến cho vị giám đốc – đang thú vị biểu diễn trò đầu bếp và phát cháo một buổi tượng trưng – phải kinh hoàng đến lạc cả giọng. Và “một trong những tín đồ trung thành của chúa” trong buổi phát chẩn đã tiên tri rằng “đứa trẻ đó rồi sẽ lên giá treo cổ thôi” vì tội xin thêm cháo. Sau đó cậu bé đã bị hất ra ngoài “mạn Luân Đôn của hạ lưu” và bị lưu manh hoá. Cậu ta giãy giụa muốn thoát khỏi các ổ lưu manh nhưng không được. Bọn cảnh sát tróc nã Olliver như rượt đuổi một con thú cùng đường, nhưng lại chẳng che chở cho em thoát khỏi bọn tướng cướp, bọn anh chị bắt em phải đi ăn cắp để cung cấp cho hang ổ của chúng. Cuối cùng cô gái lưu manh Nanxy đã đổi mạng để giúp em trốn thoát.
Còn cô bé Nen dù bị chết yểu nhưng chết trong sự thương yêu của dân làng, trong sự hối hận của người ông. Dường như chưa bằng lòng với kết thúc đó, Dickens đã bù lại bằng cách cho một nhân vật khác của truyện, một cô gái từng làm nghề đi ở có biệt hiệu là “nữ hầu tước”, do tính tình nhẹ nhõm và tốt bụng, cô đã thoát khỏi cảnh nghèo, được học hành và lấy một chàng trai vui vẻ, dễ tính vừa hưởng được món kế thừa nho nhỏ đủ mang lại hạnh phúc cho hai người.
Cách kết thúc có hậu của Dickens trong các tác phẩm của ông là nhằm đáp ứng nhu cầu thị hiếu độc giả đương thời và nó có màu sắc truyền thống trong lối kể dân gian. Hơn nữa nó phù hợp vào cái nhìn độ lượng của Dickens. Ngoài ra ông còn bị ràng buộc bởi muôn vàn sợi dây li ti vì nước Anh và nữ hoàngVictoriađã ngăn trở khiến ông không thể viết loại tiểu thuyết hoàn toàn bi thảm. Kiểu kết thúc có hậu này còn thể hiện một sự hoà hoãn, một khát vọng hoà giải trước những cuộc vật lộn giữa cái thiện và cái ác ngoài đời.
Chính vì thế mà “chúng ta luôn thấy rằng nhân vật của Dickens thiếu một cái gì đó” ( lời của Ran Fôcx ) [ 9, 567 ]. Đó là thiếu tính hiện thực khách quan, nó mang hơi thở lãng mạn có pha màu sắc của tôn giáo. Còn các nhân vật của Gorki thì không, Gorki đã xây dựng nhân vật của mình phù hợp với sự phát triển của logich thực tế cuộc sống.
Tóm lại, Dickens xây dựng các nhân vật trên không nhằm mục đích chính trị trực tiếp hay kích thích tinh thần dùng bạo lực để đấu tranh cách mạng, mà thông qua nhân vật của mình, ông muốn cho con người dịu bớt đau khổ, tăng thêm niềm tin yêu ở cuộc đời (có pha chút lãng mạn). Đó chính là một biểu hiện giới hạn tư tưởng của Dickens.
4.1.2. Honore De Balzac
Cùng viết về những con người sa đoạ trong cuộc sống nhưng cách miêu tả, xây dựng nhân vật của Balzac và Gorki cũng khác nhau.
Balzac đã viết nên bộ “nghìn lẻ một đêm của Tây Âu”, ông đã đem cả thế giới lên trang sách của mình. Nhưng chủ yếu là thế giới của những người thuộc tầng lớp trên, giai cấp tư sản và quí tộc, như: De Rastignac, Lucien Sardon, David Séchard… Balzac chưa đi sâu, khắc hoạ những hình tượng nhân vật “con người dưới đáy” như Gorki. Mặc dù Gorki đã cảm thấy “choáng ngợp” trước sự sáng tác có thể sánh ngang với đức chúa trời của Balzac, nhưng Gorki cũng đã tìm cho mình một hướng đi riêng. Đó là ông đã đi sâu và khắc họa thật đặc sắc hình ảnh những “con người dưới đáy” xã hội, điều mà Balzac chưa bao giờ nói đến trong sáng tác của mình.
Hơn nữa, Gorki và Balzac đều viết về con người sa đoạ nhưng mỗi người có một thành công riêng. Những nhân vật của Balzac hơi mang tính bi quan mặc dù giọng điệu của ông thật lạnh lùng khách quan, chỉ kể về cuộc đời và con người: “tôi chỉ là một người thư kí trung thành của thời đại còn các nhân vật của tôi mới là tác giả”. Ta thấy các nhân vật của Balzac khi rơi vào cuộc sống sa đoạ thì họ không hề có ý thức vươn lên hướng thiện để thoát khỏi cuộc sống đó mà họ luôn thách thức, nhưng đó cũng là sự đầu hàng và chấp nhận nó.
De Rastignac (tác phẩm Lão Goriot) vốn là một thanh niên có tâm hồn trong sáng, có lương tâm, từng quan niệm về một tình yêu chân thật, thanh cao. Nhưng gốc tích quí tộc của anh ta đã lôi cuốn anh từ quán trọ Voke tới những phòng khách thượng lưu của giới quí tộc. Và cái chết của lão Goriot đã giúp cho anh nhận ra bản chất của xã hội thượng lưu. Anh lên án hai cô con gái của Goriot “dẫm lên xác cha mà đi vũ hội” nhưng anh lại bị cuốn hút vào thế giới đó như con thiêu thân lao vào ánh đèn. Khi đứng trên nghĩa địa Pere Lasezer nhìn xuống Pari, anh nói: “Nào, bây giờ còn tao với mày!”. Đây vừa là lời thách thức vừa là sự chấp nhận cái xã hội “ung nhọt” đó. Và tối hôm ấy anh đã đến ăn tối nhà Nicingen và yêu phu nhân Nicingen, đó là một bằng chứng xác thực chứng minh cho sự thoả thuận của anh. Tình yêu đó là một sự giả dối, anh chỉ dựa vào đó để làm chiếc cầu nhằm xác lập địa vị trong cơ nghiệp ngân hàng nhà Nicingen.
Cũng giống như Rastignac, Lucien Sardon (tác phẩm Vỡ Mộng) cũng là một con người dễ đầu hàng. Anh là một thanh niên đẹp trai, từng ước mơ lập nghiệp bằng văn chương và gia nhập vào xã hội thượng lưu quí tộc. Tình yêu của anh với bà de Bargeton đã khiến anh rời bỏ tỉnh lẻ mà gia nhập vào giới thượng lưu ở kinh đô Pari – “cái ung nhọt đang nung mủ và bốc khói nằm trên bờ sông Seine”. Và ảo mộng tình yêu của chàng tan vỡ khi nó chạm vào thực tế. Lucien đã lên lời thách thức: “Dù thế nào, tôi cũng sẽ thắng! Tôi sẽ qua đại lộ này bằng xe bốn bánh có người hầu! Tôi sẽ chiếm được những bà hầu tước Despa!”. Lời thách thức ấy cũng là một sự chấp nhận qui tắc trò chơi của xã hội thượng lưu: “Phải có tiền bằng bất cứ giá nào…Đồng tiền là quyền lực duy nhất bắt xã hội phải quì gối”.
David Séchard (tác phẩm Vỡ Mộng), một nhân vật có tính cách độc đáo, mãnh liệt, kiên nghị và bản lĩnh nhưng cuối cùng cũng chịu sa cơ trong vòng xoáy của xã hội tư bản. Việc anh bán phát minh của mình cho bọn tư sản cũng là sự đầu hàng. Nhưng khác với Lucien Sardon, anh không bán linh hồn cho quỷ dữ, không lao vào nhập cuộc với “tấn trò đời” điên đảo, mà anh lui về miền quê làm một ông chủ trang trại. Trước “cơn lốc” dữ dội của xã hội thượng lưu, David Séchard đã từ bỏ ước mơ làm giàu chân chính bằng những phát minh của mình. Quyết định trở về quê của anh cũng chính là giải pháp duy nhất để anh cố giữ được sự lương thiện của mình sau khi đã đầu hàng trò đời nghiệt ngã của xã hội tư bản. David Séchard là một con người đầy bi kịch.
Còn các nhân vật của Gorki, dù sống trong cảnh tối tăm, sa đoạ nhưng trong lòng họ luôn cảm thấy ngột ngạt, bứt rứt. Họ không thể thờ ơ với những biến cố trong cuộc sống và không dễ dàng “thoả thuận” với nó. Họ muốn vươn lên, muốn làm một cái gì đó để thay đổi cuộc sống, để khẳng định mình. Một tên lưu manh như Tsencasơ (truyện cùng tên) vẫn là một con người hào hiệp, biết tự trọng và khinh bỉ những kẻ tham lam, những kẻ nô lệ của đồng tiền. Một anh chàng Orlôp (truyện Vợ chồng Orlôp) cùng quẫn, tăm tối vẫn không chịu chết dần chết mòn trong đời sống vô vị. Trong khi cuộc sống cộng đồng đang cần bao nhiêu việc làm có ích của mọi người và thế là anh hành động – anh đi cứu chữa những người mắc bệnh dịch dù biết rằng sẽ bị lây bệnh mà chết…Và khi kết thúc các tác phẩm, những ước muốn, những khát vọng của họ đã được nhà văn Gorki hứa hẹn một điều gì đó lạc quan hơn, tươi sáng hơn trong tương lai. Điều đó đã tạo nên những nét độc đáo riêng giữa Gorki và Balzac.
Gorki có xây dựng các nhân vật giống nhân vật của các nhà văn Tây Âu: con người sa đoạ, những đứa trẻ mồ côi nghèo khổ nhưng đây chỉ là một sự giống nhau ở việc phân loại nhân vật trên bình diện hình thức. Còn xét về bút pháp, giá trị của việc xây dựng nhân vật thì ta thấy Gorki đã thể hiện được quan niệm nghệ thuật riêng của mình, đó là quan niệm mới về “con người dưới đáy” mà các nhà văn Tây Âu chưa hề nhắc đến. Đó chính là điểm khác biệt cơ bản giữa Gorki và các nhà văn Tây Âu.
4. 2. So với các nhà văn Nga
Gorki xuất hiện khi nền văn học Nga (thế kỉ XIX) về cơ bản đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu cuộc sống. Nhưng sự xuất hiện của Gorki không phải là một sự lặp lại mà là một ánh sáng mới. Đó là ánh sáng của một ngôi sao mới xuất hiện đã sáng trên bầu trời văn học Nga với tư cách là nhà văn mở đầu dòng văn học vô sản.
Thi hào Puskin là người có công xây dựng hình tượng nhân vật “con người thừa” xuất thân từ tầng lớp quí tộc như: Onegin (tiểu thuyết Evgheni Onegin), Grinhop (tiểu thuyết Người con gái viên đại uý). Ông đã phản ánh tâm trạng buồn chán của người trí thức thượng lưu Nga trong xã hội tư bản, dưới chế độ Nga hoàng ngột ngạt. Nhưng ông chỉ dừng lại ở tâm trạng buồn đau, chán nản của họ. Dù kết thúc tác phẩm, ông cũng hứa hẹn một con đường cách mạng cho các nhân vật của mình nhưng con đường ấy còn rất mơ hồ. Onegin là người có tâm trạng chán nản, ở cuối tác phẩm tâm trạng của anh đã có thay đổi. Đó là anh đã bắt đầu nhận thức được mối liên hệ giữa lí tưởng và tình yêu. Và anh sẽ không bao giờ tái phạm những sai lầm của mình, Nhưng đó chỉ là những dự đoán mà ta có thể suy ra khi kết thúc tác phẩm. Còn Grinhop có tiến bộ hơn Onegin. Tính cách của anh ta cũng có những biến đổi trong quá trình anh tiếp xúc với Pugatsov, một lãnh tụ phản loạn, một anh hùng thất bại, sa cơ. Từ ý định ban đầu là chống Pugatsov đến cùng, dần dần Grinhop đã có thiện cảm với Pugatsov và anh đã đến chào tạm biệt khi ông ta bị treo cổ. Cuối tác phẩm, ta cũng dự đoán được rằng anh sẽ đi đến con đường cách mạng dân chủ tư sản Nga.
Liev Tolstoi có sự kế thừa tiến bộ hình mẫu nhân vật “con người thừa” của Puskin như Andrey, Pier (tiểu thuyết Chiến tranh và hoà bình), Levin (tiểu thuyết Anna Karenina)…Liev Tolstoi đã đưa các nhân vật của mình hướng đến cuộc cách mạng dân chủ tư sản Nga. Và ông đã cho họ thử nghiệm các giải pháp để cải tạo xã hội. Nhưng đó là những giải pháp mang tính lí tưởng chủ quan của riêng ông, những giải pháp ấy không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. L.Toltsoi cũng là người đầu tiên xây dựng hình tượng người nông dân Nga Karataev và lấp ló “con người bé nhỏ” – Maxlova ( tiểu thuyết Phục sinh). Trong các tác phẩm của mình, L.Tolstoi đã miêu tả được mối liên hệ giữa chiều cao tư tưởng thẩm mỹ (sự vươn tới trí tuệ lịch sử và lí tưởng nhân văn thẩm mỹ thời đại), chiều rộng sử thi của “biển cả nhân dân” (sự thức tỉnh, chuyển động và vươn mình của quần chúng đông đảo) và chiều sâu tâm lí của tính cách nhân vật. Nhưng mối liên hệ đó còn ở mức cảm tính, mơ hồ chưa phải là những quan điểm chính trị – xã hội – triết học. Còn Gorki đã thể hiện được mối liên hệ đó một cách trực tiếp.
Nhà văn Sekhov thì đi sâu sáng tạo hàng loạt các hình tượng nhân vật “con người bé nhỏ” đạt đến độ điển hình cao nhất của văn học Nga. Đồng thời, ông cũng góp phần hoàn chỉnh bức tranh văn học hiện thực phê phán Nga thế kỉ XIX. Nhưng ông vẫn chưa xây dựng được các nhân vật thuộc tầng lớp “dưới đáy” xã hội.
Những sáng tác của các nhà văn từ Puskin, Liev Tolstoi đến Sekhov và M.Gorki là một sự chuyển tiếp, là một cuộc “chạy tiếp sức” mà Gorki là vận động viên chặng cuối thế kỉ. Ông đã đóng góp vào nền văn học Nga nhiều thành tựu xuất sắc. Dễ thấy nhất là ông đã xây dựng hàng loạt các nhân vật “con người dưới đáy” với những nét tính cách đa dạng, nổi bật hơn bao giờ hết. Khó có thể tìm thấy trong những truyện ngắn của Sekhov một cậu bé Lionka (truyện Lão Arkhip và bé Lionka, một Tsencasơ (truyện cùng tên) hay một Orlôp (truyện Vợ chồng Orlôp)…với một khuôn mặt tinh thần mới mẻ, có sức lay động tâm trí độc giả đến như vậy. Khác với các nhân vật của Sekhov, các nhân vật của Gorki không cảm thấy mình bé nhỏ, chán nản, vô vọng trước cuộc sống chật hẹp, tối tăm tù túng. Trái lại, họ cảm thấy mình có nơi để đến, có một cái gì đó không cúi rạp mình, có một chiều cao để không thấy mình thấp bé, hèn hạ. Sau này, nhà văn Alexei Tolstoi sẽ cùng Gorki đi tới đích – cách mạng Tháng Mười.
Đi sau Gorki là nhà văn Xeraphimovich. Trong các tác phẩm của mình Xeraphimovich đã dựng lên những nhân vật như: kẻ tàn tật, những người thợ mỏ bé nhỏ trên băng giá và trong lòng đất…Ông đã đi sâu miêu tả cuộc sống cùng cực của nhân dân lao động. Nhưng ông muốn thông qua những số phận bi thảm của họ mà bộc lộ cảm hứng phê phán và tố cáo xã hội đương thời. Trong những hồi kí về Gorki, Xeraphimovich thuật lại rằng sau khi đọc bản thảo truyện Người thợ mỏ bé nhỏ, Gorki nhận xét: “Anh không nên quên rằng người thợ mỏ bé nhỏ đó cũng là những người công nhân! Mà những người công nhân đã làm ra tất cả những gì quanh chúng ta. Trong văn học của ta họ chỉ được miêu tả như những kẻ nghèo nàn khốn khổ…Nhà văn chỉ tỏ ra thương xót họ…Đó đâu phải là toàn bộ sự thật“. Đúng vậy, những nhân vật mà Xeraphimovich miêu tả vẫn chưa thoát khỏi “con người bé nhỏ” của văn học Nga thế kỉ XIX. Các nhân vật này chưa biết con đường để đấu tranh thoát khỏi số phận của mình. Nhà văn chưa thấy được giai cấp công nhân không chỉ bị áp bức bóc lột mà họ còn là những lực lượng hùng mạnh đang trỗi dậy quyết liệt dẫn đầu cả phong trào cách mạng đang sôi sục.
So với các nhà văn Nga thì Gorki đã có cái nhìn riêng, một quan điểm nghệ thuật riêng về con người. Ông đã phát hiện trong quần chúng lao động những hạt ngọc quí báu. Đó là khí thế sôi sục đang âm ỉ chuyển mình để chuẩn bị cho cuộc cách mạng nhằm đoạn tuyệt với chế độ Nga hoàng mục nát. Gorki rất trân trọng những hạt ngọc quí báu ấy và ông đã thể hiện lên trang sách của mình những hình tượng nhân vật “con người dưới đáy”. Việc đó đã làm cho tên tuổi của Gorki được nhiều người chú ý.
Một trong những thành công của Gorki là ông đã lấy ngay chính bản thân mình mà miêu tả thành nhân vật “tôi”, đặc sắc trong truyện. Sau cách mạng Tháng Mười, Gorki vẫn tiếp tục xây dựng hình tượng nhân vật này (trong bộ ba tự truyện Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi) nhằm bổ sung, hoàn chỉnh bộ chân dung “con người dưới đáy” của thế kỉ XIX. Nhân vật “tôi” chính là chiếc chìa khoá để ta hiểu thấu nguồn gốc thiên tài của Gorki, nắm chắc mối quan hệ vô cùng sâu sắc của ông với nhân dân, đất nước và cuộc sống. Con đường mà nhân vật này trải qua tiêu biểu cho con đường của nhiều người sống trong nước Nga cũ, mòn mỏi trong cảnh bần cùng hoá bi thảm, trong việc lao động cực nhọc. Tính cách của nhân vật “tôi” cũng là điển hình cho các khả năng phong phú của tuổi trẻ vươn lên thường gặp nguy cơ áp chế, bóp nghẹt nhưng vẫn tràn trề niềm tin, vượt mọi trở ngại trên con đường đi tìm lẽ sống. Các đặc tính của Aliôsa là: lòng biết ơn nồng nhiệt đối với bà con và những người trong nhân dân đã có lòng tốt đối với mình hoặc nhiều hoặc ít, tình thương yêu bạn nghèo cùng lứa tuổi và đau khổ hơn mình vì tàn tật, nỗi khát vọng chống lại bọn áp bức tàn bạo, tinh thần bất khuất, khắc phục khó khăn, lòng yêu lao động. Nổi bật nhất là tinh thần hiếu học, chí cầu tiến, óc quan sát tinh vi, nhìn thẳng vào sự việc để phân biệt cái tốt cái xấu. Aliôsa sống không hề thụ động mà tính cách của cậu dần dần được hình thành vững vàng trong cuộc đấu tranh chống lại những nguồn gốc xấu xa trong đời sống, trong sự khao khát hướng tới những gì tốt đẹp, công bằng và nhân đạo. Vận mệnh cá nhân của Gorki tượng trưng cho giai cấp vô sản Nga – giai cấp này nhìn bề ngoài thì thiếu văn hoá, thô lỗ và thô bạo. Nhưng được tôi luyện trong những thử thách của chiến tranh để chống lại đế chế Nga hoàng tàn bạo thì họ trở thành một lực lượng tích cực trong lịch sử. Cách xây dựng nhân vật kiểu này trong thực tế văn học Nga trước đó đã có nhiều nhà văn như: Xantưkôp Sêđrin, Liev Tolstoi…cũng đã sử dụng nhưng Gorki đã phát triển một cách sáng tạo những cái hay của truyền thống và nâng cao giá trị tư tưởng của tác phẩm lên một mức.
Đối với Gorki dù phải chịu đựng những điều khủng khiếp ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa nhưng ông không bao giờ mất lòng tin vào cuộc sống. Chính vì thế mà ông đã nhìn thấy trong cuộc sống những mầm non tốt đẹp của tương lai và vạch ra con đường của quá trình phát triển lịch sử sau này. Đó chính là một trong những nét khác nhau cơ bản của Gorki với các tác giả đương thời và trước đó. Đồng thời Gorki đã đề ra một trong những vấn đề quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa – vấn đề hình thành tính cách của con người tiêu biểu cho những mối quan hệ xã hội mới – mà sau này nhiều nhà văn khác đã kế thừa.
Có thể nói rằng những truyện ngắn hiện thực của Gorki là những tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa đầu tiên đặc sắc, làm tiền đề cho phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Bởi vì Gorki đã kiên quyết vạch trần bản chất bóc lột tàn nhẫn của chủ nghĩa tư bản và tố cáo chế độ Nga hoàng mục nát theo lập trường quan điểm của Đảng, đồng thời ông cũng khẳng định tương lai vĩ đại của dân tộc Nga. Xét về nghệ thuật miêu tả tâm hồn con người, đặc điểm tâm lí, nghệ thuật thể hiện nội tâm thì tác phẩm của Gorki có thể sánh ngang hàng với những tác phẩm ưu tú của nền văn học thế giới. Tuy nhiên trung tâm chú ý của Gorki là quá trình phát triển tư tưởng cách mạng, quá trình con người nhận thức xã hội. Đó cũng chính là cái sáng tạo mà Gorki đã góp thêm vào truyền thống văn học vẻ vang của quá khứ. Điều đó cũng khẳng định những đóng góp giá trị trong các sáng tác của ông đối với sự phát triển của nền văn học Xô viết và thế giới.
Thành công của Gorki khi xây dựng hình tượng nhân vật “con người dưới đáy” đã để lại trong mắt mọi người (kể cả các nhà văn có tên tuổi ở Nga và Tây Âu) bao nhiêu sự cảm phục và nó đã tạo cho ông một chỗ đứng riêng, vững chắc trên văn đàn văn học Nga và thế giới. Đồng thời đó cũng là những đóng góp thật giá trị và quí báu cho sự hình thành và phát triển rực rỡ của dòng văn học vô sản thế kỉ XX. ±
PHẦN KẾT LUẬN
Những truyện ngắn trên là bảy trong nhiều truyện ngắn hay và đặc sắc nhất của Gorki. Nó đánh dấu một mốc son trong nghệ thuật viết truyện ngắn và đóng góp nền tảng cho một phương pháp sáng tác mới – phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Gorki là “bậc tài hoa nghệ thuật vô cùng lỗi lạc” (Lênin), là người khai sinh chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học thế kỉ XX. Một trong những thành công tập trung nhất của ông là việc xây dựng hình tượng nhân vật “con người dưới đáy” với một quan điểm nghệ thuật mới lạ. Khi xây dựng hình tượng nhân vật này, Gorki không nhằm mục đích chính là miêu tả sự nghèo khổ, cùng cực của họ, mà mục đích chủ yếu của ông là phát hiện ở họ những phẩm chất tốt đẹp, những ý thức tiềm tàng hướng đến một cuộc cách mạng vô sản. Đúng như ông đã nói; “nghệ thuật phải phản ánh cơn phẫn nộ của nhân dân trong cuộc đấu tranh giải phóng” và hướng họ đến một điểm tựa đầy lạc quan. Đây chính là điều mà ông rất quan tâm khám phá, mô tả.
Qua các tác phẩm của mình, Gorki đã miêu tả được mối liên hệ biện chứng trực tiếp giữa chiều cao tư tưởng thẩm mỹ, chiều rộng sử thi của “biển cả nhân dân” và chiều sâu tâm lí của tính cách nhân vật. Trong đó chiều cao tư tưởng thẩm mỹ giữ vai trò chủ đạo. Hơn nữa nghệ thuật xây dựng nhân vật của Gorki đạt đến độ chính xác, sâu sắc và chân thực hơn. Con người và cuộc sống trong tác phẩm của ông hiện lên ở một tầm vóc cao lớn dưới những màu sắc mới mẻ, tươi sáng hơn.
Trong bảy truyện ngắn trên, ta thấy các sự việc, sự kiện của đời sống hằng ngày không chỉ được soi sáng, thể hiện từ góc độ đạo đức sinh hoạt mà còn chủ yếu từ góc độ chính trị – xã hội – triết học. Đọc những truyện của Gorki ta thấy được hiện thực cuộc sống nước Nga đang âm ỉ chuyển mình, và những cơn phẫn nộ của các nhân vật là bước chuẩn bị cho một cuộc cách mạng lớn lao để lật đổ chế độ tư bản – phong kiến Nga hoàng, kẻ đã đày ải hàng triệu người dân vào cảnh bần cùng.
Đi vào tìm hiểu hình tượng nhân vật “con người dưới đáy” trong một số truyện ngắn hiện thực của Gorki chúng tôi mong muốn khám phá trọn vẹn vẻ đẹp mới lạ, độc đáo của các tác phẩm. Tuy nhiên do không có điều kiện nên chúng tôi không thể đi sâu tìm hiểu đề tài này ở bình diện rộng hơn. Hi vọng rằng đến một lúc nào đó có điều kiện, chúng tôi sẽ tiếp tục để nghiên cứu đề tài này hoàn chỉnh hơn.
³
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Đỗ Hồng Chung, Nguyễn Kim Đính, Nguyễn Hải Hà…- Lịch sử văn học Nga, Nxb GD, 1997
3. Hoàng Ngọc Hiến – Văn học Xô viết những năm gần đây, Nxb Văn học, 1989
4. Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Kim Đính, Huy Liên – Lịch sử văn học Xô viết, tập 1,2, Nxb ĐH & THCN, 1982
5. Hồ Sĩ Vịnh – Gorki với văn nghệ dân gian, Nxb Văn hóa HN, 1986
6. Lê Sơn – Còn lại với thời gian (nghiên cứu tiểu luận phê bình), Nxb KHXH Hà Nội, 2001
7. Melich Nabarov (dịch) – Lịch sử văn học Xô viết, Nxb GD, 1978
8. M.B.Khrape Henkô – Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), 1978
9. Nhiều tác giả – Lịch sử văn học Nga thế kỉ XIX, Nxb GD
10. Nguyễn Hải Hà, Đỗ Xuân Hà – Văn học Xô Viết, tập 1, Nxb GD, 1897
11. Nhiều tác giả – Tự điển văn học bộ mới, Nxb Văn học Thế giới, 2003
12. Nhiều tác giả – Văn học phương Tây, Nxb GD
13. Nguyễn Thụy Ứng (dịch) – Những mẩu chuyện nước Ý, Nxb Hội Nhà văn
14. Phùng Hoài Ngọc – Giáo trình văn học Nga (Đại học An Giang, năm 2003 – Lưu hành nội bộ )
15. Tuyển tập truyện ngắn M.Gorki, Nxb Văn học Giải phóng, 1976
16. Văn học nước ngoài, Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An xuất bản, 1994)