LẠI NGUYÊN ÂN
Trước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.
Tôi hiểu, điều anh nói gắn với cả một hướng nghiên cứu lý giải rất có triển vọng, song, khi ấy tôi còn chưa quên là chính mình từng có một bài viết dài ký bút danh Tam Vị đăng Tạp chí Văn học (số 3/1991) (1) trong đó đã triển khai sự phân tích lý giải dựa trên sự mặc định rằng những sáng tác thuộc hiện tượng kể trên (thơ Hồ Xuân Hương) là chỉ gắn với một con người có thực, một nhân thân xã hội duy nhất.
Tuy vậy, với thời gian, tôi càng thấy hiện tượng trên và những hiện tượng văn học tương tự có thể và cần được tiếp cận và soi rọi từ những góc độ khác.
1. Có thể tạm thời nói rằng các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến điều sẽ bàn tới trong bài này đều là đề xuất của học thuật Nga. Tôi muốn nói đến hai thuật ngữ của giới học giả Nga mà tôi dịch là “mê hoặc” và “mặt nạ tác giả”.
Quả vậy, chữ Nga, “mê hoặc” là [mistifikacija], “mặt nạ tác giả” là [maska avtorskaja], tuy đều có gốc từ Latin, nhưng ở ngành nghiên cứu văn học Âu Mỹ hầu như không thấy sử dụng khái niệm và thuật ngữ tương đương, trong khi đó, theo giới nghiên cứu Nga thì những bậc tiền bối của họ đã nêu ra khái niệm và thuật ngữ này với những kiến giải lý thuyết từ những năm 1910; tất nhiên chất liệu nghiên cứu của họ không chỉ là thực tiễn văn chương Nga mà còn là đời sống lịch sử văn chương nhiều nước khác.
“Mê hoặc” văn chương được dùng để trỏ một loạt biện pháp nghệ thuật-văn hóa với những quy mô khác nhau. Mức rộng nhất, ở cấp độ văn cảnh văn học, “mê hoặc” văn học trỏ trường hợp những tác phẩm mà tác quyền tinh thần (quyền đứng tên tác giả ở tác phẩm) được cố ý gán cho một hoặc những người khác, có thật hoặc hư cấu, hoặc cố ý gán cho sáng tác dân gian. Sự “lừa phỉnh”, “mạo danh” này (vốn là một trong những hàm nghĩa của từ mystification) thao túng được, – tức là có hiệu lực thực sự – đối với công chúng và các thiết chế văn học đương thời (nhà xuất bản, giới phê bình…); để đạt được hiệu quả ấy, sự mê hoặc đòi hỏi phải tạo ra được một bút pháp, một văn phong, một kiểu sáng tác nào đó cho “ngụy tác giả” (tác giả giả) kia.
Ta dễ nhận thấy “mê hoặc” ngược với “đạo văn” (plagiat): kẻ ‘đạo văn’ vay mượn (đúng ra là chiếm đoạt) ngôn từ của người khác mà không viện dẫn tác giả, còn người ‘mê hoặc’ thì gán ngôn từ của mình cho kẻ khác. ‘Đạo văn’ là một dạng trộm cắp, trước sau vẫn chỉ là loại hành vi xã hội chứ không thể có ý nghĩa thẩm mỹ, nội dung của nó là chiếm hữu thành quả sáng tạo của người khác, nó cần được xử lý bằng pháp luật hoặc lên án bằng dư luận xã hội. ‘Mê hoặc’ khác xa với loại hành vi vụ lợi đơn thuần, nó tạo ra những hiệu ứng về văn hóa, thẩm mỹ khác thường, vì vậy đã từng được không ít nghệ sĩ theo đuổi, đồng thời cũng được giới nghiên cứu ghi nhận, tìm hiểu như một hiện tượng văn hóa thẩm mỹ.
“Mê hoặc” cũng khác biệt rõ rệt so với “ngụy tác” (falsification): kẻ ngụy tác, tức là làm giả những tác phẩm nào đó (được biết là đã từng có nhưng đã mất, thường là của thời trước) với mục đích trục lợi (chẳng hạn, một bạn hàng của Guttenberg là I. Fust đã bán những bản Kinh Thánh Mainz ở Paris đắt gấp ba lần, mạo xưng rằng đó là theo các bản chép tay), hoặc cố ý xuyên tạc các sự kiện lịch sử hoặc tiểu sử nhân vật lịch sử. (Khỏi phải dẫn chứng tài liệu nước ngoài, giới nghiên cứu ở ta cũng đã từng va chạm những bản sách được rao là “sách cổ mới phát hiện”, liên quan đến một kiến trúc bên hồ Trúc Bạch).
Văn chương nhân loại từng trải qua giai đoạn mà công chúng không cần biết các tác phẩm là của ai, của ai cũng chẳng thành vấn đề, vì công chúng sử dụng tác phẩm không phải trả tiền, cũng không buộc phải giữ nguyên trạng ‘văn bản’ như khi được sáng tác ra lần đầu; đó chính là trạng thái của văn chương truyền miệng, – đối với văn chương này phạm trù tác giả không hiện diện, đồng thời ‘văn bản’ cũng không định hình. Đến giai đoạn văn chương viết cũng thường là lúc các tác phẩm đều gắn với tác giả, việc sử dụng tác phẩm đi liền với trả thù lao, tôn trọng tác quyền (bỏ tiền để mua sách, nêu tên tác giả và tác phẩm khi đối chiếu, trích dẫn, không thay đổi câu chữ của nguyên tác khi sao chép, v.v…). Chính trạng thái tác quyền đã làm nảy sinh những “tác quyền giả mạo”, gồm: mê hoặc (mistification), ký tên giả (pseudonyme), đạo văn (plagiat), ngụy tác (falsification), trong số này, nếu mê hoặc và ký tên giả chỉ làm phức tạp nhưng gây thêm thú vị cho hiện tượng văn chương, còn đạo văn và ngụy tác lại là những xâm phạm và giả trá cần phát hiện và phòng chống kịp thời.
Các học giả Nga nêu ra một số ví dụ về mê hoặc văn chương trong đời sống văn học châu Âu. Chẳng hạn, khoảng năm 1760-1763, James Macpherson (1736-96) cho xuất bản những tác phẩm lãng mạn mà ông gán tên tác giả cho bard (ca nhân kiêm thi sĩ) Ossian, thuộc tộc người Celt, tương truyền sống ở vào thế kỷ III. Một ví dụ khác là nhà thơ Pháp P. Mérimée (1803-1870) vào năm 1825, cho xuất bản những vở kịch ký một cái tên bịa đặt là Clara Gazul, nữ diễn viên Tây Ban Nha; năm 1827 ông lại cho xuất bản tập thơ La Guzla, mạo danh là của một nghệ nhân người Serbia tên là Iakinf Maglanovich (sự mạo danh này được tin là thật đến nỗi ở Nga năm 1835 chính thi hào A. S. Pushkin đã tuyển 11 bài từ tập thơ kể trên vào một tập sách do ông soạn nhan đề ‘Những bài ca vùng tây Slave’).
Một loại biểu hiện khác của “mê hoặc”, cũng ở cấp độ văn cảnh văn học, là khi cả một nhóm nhà văn cùng viết và ký bằng một bút danh chung, tạo ra vẻ thống nhất của một “gương mặt”, một “văn phong” duy nhất nào đó. Đây là trường hợp thường xảy ra với các thể tài hài hước, trào phúng, châm biếm, được thể hiện bằng các tiểu phẩm nằm trong những chuyên mục nhất định của ấn phẩm định kỳ (báo chí). Các học giả Nga nêu một ví dụ khá tiêu biểu là, trong những năm 1850-1860 ở Nga, dưới bút danh Kozma Prutkov là các tác phẩm đăng trên tờ Sovremennik (Người cùng thời) của ba nhà văn: Aleksey Konstantinovich Tolstoi (1817-1775) cùng hai anh em nhà Zhemchuzhnikov là Aleksey Mikhailovich (1821-1908) và Vladimir Mikhailovich (1830-1884). Bút danh chung này được coi như một thứ “mặt nạ” trong sinh hoạt văn hóa, văn học; Kozma Prutkov được thể hiện như một kẻ tầm thường, hẹp hòi, thiển cận, mù mờ, xoàng xĩnh, lại lên mặt là nhà thơ, – đã trở nên tiêu biểu cho cả một nước Nga quan liêu thời Nikolai đệ Nhất (2).
Ở cấp độ hẹp hơn, – có thể tạm gọi là cấp độ thi pháp, – là khi mê hoặc được sử dụng trong nội bộ từng tác phẩm, mà đặc tính chung là tác giả thực của tác phẩm (con người xã hội có nhân thân thực, làm nghề sáng tác văn học, người đã viết ra tác phẩm ấy) đem gán tác quyền cục bộ cho một số những ai đó (người thật hoặc hư cấu) ở những phần nhất định của tác phẩm. Các phần đó thường được đưa vào tác phẩm theo kiểu ghép dựng, trích dẫn, làm như đó là tư liệu thật (nhật ký, thư từ, thậm chí cả một tác phẩm để lại của người quá cố…). Bạn đọc có thể cảm nhận rõ một kiểu tác phẩm như thế, với bản dịch tiểu thuyết Ông hoàng đen (The Black Prince, 1973)(3) của nữ văn sĩ Anh Iris Murdoch (1919-1999), trong đó phần chính của tác phẩm được mặc định như là tự truyện của nhân vật chính, kèm theo cuốn ‘tiểu thuyết’ ấy là các bài viết riêng của mấy nhân vật khác (mà hành động của họ được cuốn ‘tiểu thuyết’ kia mô tả) nói về quan hệ của mình với nhân vật chính; ngoài ra ở đầu và cuối sách còn có ‘lời người xuất bản’ ghi chú việc ‘công bố’ thiên truyện này: người này cho biết mình được nhân vật chính kia trao cho toàn quyền đối với tác phẩm để lại của anh ta.
Chính là để “mê hoặc”, “thao túng” công chúng, nhất là ở cấp độ văn cảnh văn hóa-văn học, các nhà văn đã dùng đến “mặt nạ tác giả”.
“Mặt nạ tác giả”, như ta thấy, là biện pháp chính để thực hiện “mê hoặc”.
Có thể định nghĩa ngắn gọn: “Mặt nạ tác giả” là phương thức mà nhà văn dùng để che dấu nhân thân thật của mình nhằm tạo ra ở độc giả một hình ảnh tác giả khác, – khác với hình ảnh thật, con người thật. Các học giả Nga cho rằng “mặt nạ tác giả” đã được sử dụng trong văn chương Nga từ thế kỷ XIII; sang đầu thế kỷ XIX, “mặt nạ tác giả” như một hiện tượng mỹ học-văn học và văn hóa-nghệ thuật đã được phát triển bởi A. S. Pushkin, là người, – theo xác định của học giả V. I. Tjupa, – trong “Những câu chuyện của ông Belkin”, đã phát triển “biệt danh (pseudonyme) thành cả một hình tượng nghệ thuật”.(4) Nhóm nhà văn đứng sau cái tên Kozma Prutkov kể trên cũng sử dụng nó như “mặt nạ tác giả” theo cách thức tương tự. Ở đầu thế kỷ XX, “mặt nạ tác giả” được ưa dùng trong bộ phận văn học được xem là “thế kỷ Bạc” của văn chương Nga (tức là mức phồn vinh chỉ xếp sau “thế kỷ Vàng”: văn chương Nga thế kỷ XIX), bộ phận này phát triển gắn với xu hướng tiền phong, hiện đại chủ nghĩa (modernizm); những năm cuối thế kỷ XX lại thấy “mặt nạ tác giả” được sử dụng trong sáng tác của các nhà văn Nga như N. Glazkov, Ven. Erofeev, O. Grigoriev, V. Pelevin.
Về mặt lý thuyết, người ta cho rằng hồi thập niên 1910 ở Nga đã xuất hiện những ý đồ đầu tiên, ví dụ của M. A. Voloshin, nhằm lý giải “mặt nạ tác giả”. Sau đó, chính Ju. N. Tynjanov đã đề nghị xem hình tượng tác giả như là “mặt nạ”. Lý luận độc đáo về “mặt nạ tác giả” đã hiện diện trong những bài báo của nhà phê bình I. A. Gruzdev, một người gần gũi với “Hội nghiên cứu ngôn ngữ thơ’ (OPOJAZ, Petrograd, 1910) và trường phái hình thức Nga. Từ đầu những năm 1920, quan niệm “mặt nạ tác giả” đã được hiệu chỉnh bởi M. M. Bakhtin, ông xem “mặt nạ tác giả” là một trong những dạng thức quan hệ qua lại giữa tác giả và độc giả, giữa tác giả và nhân vật. Vào nửa cuối thế kỷ XX, mỹ học chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernizm) có một sự lý giải khác hẳn về “mặt nạ tác giả”: xem nó là nguyên tắc kiến tạo của văn phong trần thuật ở văn chương hậu hiện đại. Ở văn xuôi hư cấu hậu hiện đại Âu Tây, theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, “mặt nạ tác giả” có khi lại còn quan trọng hơn so với chính tác giả. Sở dĩ có tình trạng ấy, vẫn theo các nhà nghiên cứu Nga, là do chỗ, chiều hướng phát triển văn hóa-nghệ thuật nhân loại từ vài thế kỷ trở lại đây, – dưới các dấu hiệu của những xu hướng barocco, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện đại, – đã làm gia tăng cái cảm quan xem thế giới như là sự sáng tạo ngôn ngữ. Khi mà những “mê hoặc văn chương” nghiêng hẳn về phía đùa cợt, diễu nhại thì các tác giả dường như cũng không yêu cầu độc giả phải tin vào tính “đích thực” của họ; nói cách khác, độc giả không cần phải tin rằng tác giả của những tác phẩm, nhất là tác phẩm hậu hiện đại, là những con người có thực.
Trở lên là sự thuyết minh vắn tắt về các khái niệm “mê hoặc văn chương” và “mặt nạ tác giả”.
(Còn nữa)
L.N.A
(252/02-2010)
——————-
(1) Tam Vị: Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương // Tạp chí Văn học, Hà Nội, 1991, s. 3, tr. 21.(2) Xem các mục từ mistifikatija [= mê hoặc] do L. I. Timofeev và S. V. Turaev soạn trong Từ điển thuật ngữ nghiên cứu văn học (Slovar’ literaturovedcheskikh terminov, Moskva: ‘Prosveschenie’ 1974, tr. 218); mục từ mistifikacii literaturnye [= văn chương mê hoặc] do A. L. Grisunin soạn trong Từ điển bách khoa văn học (‘Literaturnyj Enciklopedicheskij slovar’, Moskva: Sov. Enc. 1987, tr. 222) và do I. L. Popova soạn trong sách ‘Bách khoa văn học, thuật ngữ và khái niệm’ (Literaturnaja Enciklopedija terminov I ponjatja, Moskva: NPK ‘Intelvak’ 2001, cột 553 – 555).