Home » » LUẬN NGỮ KHỔNG TỬ -8

LUẬN NGỮ KHỔNG TỬ -8

Written By kinhtehoc on Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011 | 00:44

  1. 16.  季氏 Quí thị 


第十六篇 thiên 16. 
14 bài
16. 1
季氏将伐颛臾。冉有,季路见於孔子曰:季氏将有事於颛臾.
孔子曰:求!无乃尔是过与?夫颛臾,昔者先王以为东蒙主, 且在城邦之中 ,是社稷之臣也。何以伐为?.
冉有曰:夫子欲之,吾二臣者皆不欲也..
孔子曰:求!周任有言曰:陈力就列,不能者止, 危而不持, 而不扶,则将焉用彼相矣?且尔言过矣,虎兕,龟玉毁,是谁之过与?.
冉有曰今夫颛臾,固而近。今不 ,后世必为子孙忧..
孔子曰:求!君子疾夫舍曰欲之而必为之辞。丘也闻有国有家者,不患寡而患不均,不患贫而患不安。盖均无,和无寡,安无 倾。夫如是,故远人不服,则修文德以来之。既来之,则安之。今由与求也,相夫子,远人不服而不能来也,邦分崩离析而不能守也;而谋动干戈於邦内。吾恐季孙 ,不在颛臾,而在萧墙之内也 
Quý thị thương phạt Chuyên Du. Nhiễm Hữu, Quí Lộ kiến ư Khổng tử viết: “Quí thị thương hữu sự ư Chuyên Du”.
Khổng tử viết: “Cầu (tức Nhiễm Hữu), vô nãi nhĩ thị quá dư ? Phu Chuyên Du, tích tích tiên vương dĩ vi Đông Mông chủ, thả tại thành bang chi trung hĩ, thị xã tác chi thần dã. Hà dĩ phạt vi ?
Nhiễm Hữu (Cầu) viết: Phu tử dục chi, ngô nhị thần giả giai bất dục dã.
Khổng tử viết: Cầu, Chu Nhiệm hữu ngôn viết: “Trần lực tựu liệt, bất năng giả chỉ, nguy nhi bất trì, điên nhi bất phù, tắc thương yên dụng bỉ tướng hĩ ? Thả nhĩ ngôn quá hĩ, hổ hủy xuất ư hiệp, khưu ngọc hủy ư độc trung, thị thùy chi quá dự ?”.
Nhiễm Hữu viết: Kim phu Chuyên Du, cố nhi cận ư Phí. Kim bất thủ, hậu thế tất vi tử tôn ưu.
Khổng tử viết: Cầu, quân tử tật phu xá viết dục chi nhi tất vi chi từ. Khâu dã văn hữu quốc hữu gia giả, bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an. Cái quân vô bần, hòa vô quả, an vô khuynh.Phu như thị, cố viễn nhân bất phục, tắc tu văn đức dĩ lai chi. Ký lai chi, tắc an chi. Kim Do dự Cầu dã, tướng phu tử, viễn nhân bất phục nhi bất năng lại dã, bang phân băng li tích nhi bất năng thủ dã, nhi mưu động can qua ư bang nội. Ngô khủng quí tôn chi ưu, bất tại Chuyên Du, nhi tại tiêu tường chi nội dã.
 Họ Quý chuẩn bị chinh phạt nước Chuyên Du. Nhiễm Hữu, Quý Lộ đến gặp Khổng tử, nói: “Họ Quý sắp gây sự với nước Chuyên Du”. Khổng tử nói: Nhiễm Cầu, đây không phải sai lầm của ngươi ư? Đối với nước Chuyên Du, thiên tử đã giao cho họ chủ trì lễ tế ở núi Đông Mông, thuộc lãnh thổ nước Lỗ, vì sao lại đánh nước Chuyên Du?”.
 Nhiễm Hữu nói: Đây là do họ Quý muốn chinh phạt, hai chúng con là cấp dưới đều không muốn vậy.
 Khổng tử nói: Nhiễm Hữu, quan chép sử Chu Nhiệm từng nói : “có thể tận lực làm bề tôi thì giữ chức vụ, nếu không tận lực được thì nên thôi chức”. Nếu người chủ gặp nguy hiểm mà không giúp, thấy chủ sắp ngã mà không đỡ, quan chức như các ngươi có tác dụng gì ? Vả lại các ngươi nói sai quá rồi, giữ chuồng mà để con hổ, con trâu xổng chuồng, kẻ giữ tráp mà để ngọc quí mai rùa bị hư hỏng trong tráp là lỗi tại ai ?”.
 Nhiễm Hữu nói: Tường thành của nước Chuyên Du kiên cố lắm, hơn nữa lại ở gần ấp Phí, bây giờ không chiếm lấy, sẽ để mối lo cho con cháu về sau.
 Khổng tử nói: Nhiễm Hữu, người quân tử ghét nhất là không dám trực tiếp nói ra tham muốn của mình mà lại tìm cớ khác. Ta từng nghe nói, vua chư hầu có nước, quan đại phu có nhà chẳng buồn vì dân ít, mà buồn vì của cải phân phối không đều, không sợ nghèo mà sợ không yên ổn. Của cải chia công bằng thì dân không nghèo nữa. Dân yên ổn thì không cảm thấy người ít, nước yên sẽ không còn ngả nghiêng nữa. Nếu biết người nơi xa (láng giềng) không qui phục thì phải biết sửa văn đức của mình làm cho họ phục mà đến. Họ đến rồi thì nghĩ cách cho họ được yên… Hiện nay trò Do và trò Hữu phụ tá họ Quý, biết người ở xa không qui phục mà chẳng biết cách làm họ đến, nước nhà phân rẽ mà không biết cách bảo toàn, lại còn muốn binh đao… Ta sợ nỗi lo của họ Quý không phải ở nước Chuyên Du, mà ở trong nội bộ vậy.

16. 2
孔子曰:“天下有道,则礼乐征伐自天子出;天下无道,则礼乐征伐自诸侯出。自诸侯出,盖十世希不失矣;自大夫出,五世希不失矣;陪臣执国命,三世希不失矣。天下有道, 则政不在大夫。天下有道,则庶人不议”
Khổng tử viết: Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự thiên tử xuất;  Thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự chư hầu xuất. Tự chư hầu xuất, cái thập thế hy bất thất hĩ; Tự đại phu xuất, ngũ thế hy bất thất hĩ; Bồi thần chấp quốc mệnh, tam thế hy bất thất hĩ. Thiên hạ hữu đạo, tắc chính bất tại đại phu. Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị.
 Khổng tử nói: Thiên hạ có đạo thì lễ nhạc và hiệu lệnh chinh phạt đều ở trong tay thiên tử. Thiên hạ vô đạo thì lễ nhạc và hiệu lệnh chinh phạt ở trong tay vua chư hầu. Quyết định của vua chư hầu làm ra quá lắm tồn tại được 10 đời thì mất nước. Quyết định của đại phu làm ra chỉ truyền đi nhiều lắm được 5 đời thì mất nước. Quyết định do gia thần làm ra được truyền không quá 3 đời thì mất nước.
Thiên hạ có đạo thì người dân bình thường chẳng có điều gì phải bàn luận.

16. 3
孔子曰: 禄之去公室五世矣,政逮大夫四世矣,故夫三桓之子孙微矣
Khổng tử viết: Lộc chi khứ công thất ngũ thế hĩ, chính đãi ư đại phu tứ thế hĩ, cố phu tam hoàn chi tử tôn vi hĩ.
Khổng tử nói: Lộc không còn ở triều đình (Lỗ quốc) 5 đời rồi, chính quyền trong tay đại phu đã 4 đời. Vậy con cháu ba nhà đại phu (họ Quí, Mạnh, Thúc) hiện nay đang lúc suy sụp rồi.
16.4
孔子曰: 益者三友,损者三友.友直,友谅,友多闻,益矣。友便辟,友善柔,友便侫,损矣
Khổng tử viết: Ích giả tam hữu, tổn giả tam hữu. Hữu trực, hữu lượng, hữu đa văn, ích hĩ.
Hữu tiện tịch, hữu thiện nhu, hữu tiện vọng, tổn hĩ.
Bạn có ich gồm ba loại: bạn ngay thẳng, bạn thành thực, bạn có kiến thức sâu rộng.
Bạn có hại cũng ba loại: Bạn giả bộ uy nghi, bạn khéo chiều chuộng, bạn ưa siểm nịnh.
16.5
孔子曰:“益者三乐,损者三乐。乐节礼乐,乐道人之善,乐多贤友,益矣。
乐骄乐,乐佚游,乐晏乐,损矣”
Khổng tử viết: Ích giả tam lạc, tổn giả tam lạc. Lạc tiết lễ nhạc, lạc đạo nhân chi hỉ. Lạc đa hiền hữu, ích hĩ. Lạc kiêu nhạc, lạc dật du, lạc yến lạc, tổn hĩ.
Điều thích thú có ích gồm ba loại: Thích nghi thức lễ phép, thích nói điều hay của kẻ khác, thích có nhiều bạn hiền.
 Sự thích thú có hại cũng gồm 3 thứ: Thích nhạc ủy mị, ru ngủ, nhố nhăng. Thích chơi bừa bãi phóng túng Thích yến tiệc say sưa quá độ.
16.6
孔子曰:侍君子有三愆:言未及之而言谓之躁,言及之而不言谓之隐,未见颜色而言谓之瞽.
Khổng tử viết: Hầu ư quân tử hữu tam khiên: ngôn vị cập chi nhi ngôn vị chi táo, ngôn cập chi nhi bất ngôn vị chi ẩn, vị kiến nhan sắc nhi ngôn vị chi cổ.
Khổng tử nói “Ngồi hầu chuyện người quân tử có thể mắc 3 sai lầm này. Chưa đến lúc nói đã tranh nói, gọi là hấp tấp. Đến lúc nói lại không chịu nói là người giấu diếm. Không nhìn sắc mặt của người quân tử mà cứ thao thao bất tuyệt là kẻ mù quáng”.
 16.7
孔子曰: 君子有三戒:少之时,血气未定,戒之在色;及其壮也,血气方刚,戒之在斗;及其老也,血气既衰,戒之在得
Khổng tử viết: Quân tử hữu tam giới: thiếu chi thì, huyết khí vị túc, giới chi tại sắc; cập kì tráng dã, huyết khí phương cương, giới chi tại đấu; cập kì lão dã, huyết khí kí suy, giới chi tại đắc.
Khổng tử nói: Quân tử có ba việc phòng ngừa. 1. Lúc nhỏ tuổi huyết khí chưa ổn định phải tránh ham nữ sắc. 2. Khi đã trưởng thành huyết khí đã thịnh vượng phải phòng ngừa tính ham tranh đấu 3. Khi về già huyết khí suy nhược, cần tránh tính tự đắc ham được hơn người khác
 16.8
孔子曰: 君子有三畏:畏天命,畏大人,畏圣人之言。小人不知天命而不畏也,狎大人,侮圣人之言
Khổng tử viết: Quân tử hữu tam úy. Úy thiên mệnh. Úy đại nhân. Úy thánh nhân chi ngôn. Tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất úy dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn.
 Khổng tử nói:
Quân tử có ba điều sợ. Sợ mệnh trời. Sợ bậc đại nhân. Sợ lời nói của thánh nhân.
Tiểu nhân không biết thiên mệnh nên không sợ, coi nhờn đại nhân, khinh lời thánh nhân.
 16.9
孔子曰:生而知之者,上也;学而知之者,次也;困而学之,又其次也;困而不学,民斯为下矣.
Khổng tử viết: Sinh nhi tri chi giả, thượng dã. Học nhi tri chi giả, thứ dã. Khốn nhi học chi, hựu kì thứ dã. Dân tư vi hạ hĩ .
Khổng tử nói:(Có ba loại người). Sinh ra đã biết đạo lí là người bậc trên cùng. Học rồi mới biết đạo lí là bậc thứ  nhì. Gặp khó khăn mới chịu đi học là bậc thấp hơn, người kém nhất.
 16.10
孔子曰:君子有九思:视思明,听思聪,色思温,貌思恭,言思忠,事思敬,疑思问,忿思难,见得思义
Khổng tử viết: Quân tử hữu cửu tư: Thị tư minh, thính tư thông, sắc tư ôn, mạo tư cung, ngôn tư trung, sự tư kính, nghi tư vấn, phẫn tư nan,  kiến đắc tư nghĩa.
 Khổng tử nói: Quân tử có 9 điều lo nghĩ  
1. Khi nhìn, phải xem cho kĩ .
2. Khi nghe, phải biết chắc đã nghe thông tỏ.
3. Khi chưa rõ việc gì, cần tìm người hỏi.
4. Sắc mặt khi đối đãi giao tiếp có ôn hòa không.
5. Thái độ giao tiếp với người đã cung kính chưa
6. Nói chuyện với người có trung thực không.
7. Làm việc với người đã nghiêm túc chưa.
8. Khi giận dữ phải nghĩ đến hậu hoạ, khó khăn về sau.
9. Khi thấy mối lợi, nghĩ xem có phạm vào điều bất nghĩa không

16.11
子曰:见善如不及,见不善如探汤。吾见其人矣,吾闻其语矣。隐居以求其志,行义以达其道。吾闻其语矣,未见其人也.
Tử viết: Kiến thiện như bất cập, kiến bất thiện như thám thang. Ngô kiến kỳ nhân hĩ. ngô văn kỳ ngữ hĩ. Ẩn cư dĩ cầu kỳ chí, hành nghĩa dĩ đạt kỳ đạo. Ngô văn kỳ ngữ hĩ, vị kiến kỳ nhân dã.
Khổng tử: Nhìn thấy người thiện như theo chẳng kịp, thấy kẻ bất thiện thì như rờ tay phải nước sôi. Ta đã nhìn thấy người như vậy, nghe người xưa nói như thế. Đi ở ẩn để giữ trọn cái chí của mình, làm việc nghĩa để đạt được cái đạo của mình. Ta đã nghe người xưa nói vậy nhưng chưa thấy người nào như vậy.

16.12
齐景公有马千驷,死之日,民无德而称焉。伯夷叔齐饿死首阳之下,民到今称之。其斯之谓与?
Tề Cảnh công hữu mã thiên tứ, tử chi nhật, dân vô đức nhi xứng yên. Bá Di, Thúc Tề ngạ tử ư Thủ Dương chi hạ, dân đáo ư kim xứng chi.Kỳ tư chi vị dự ?
Vua Tề Cảnh công có nghìn cỗ xe bốn ngựa. Ngày vua chết, dân chúng chẳng thấy ngài có đức hạnh gì để ca tụng. Bá Di, Thúc Tề chịu chết đói dưới chân núi Thủ Dương để lại đạo đức ngày nay dân chúng vẫn ca tụng. Những người ấy chẳng phải như vậy sao ?

16.13
陈亢问伯鱼曰:“子亦有异闻乎?”. 对曰:“未也。尝独立,鲤趋而过庭。曰:‘学诗乎?’对曰:‘未也’。‘不学诗,无以言。’鲤退而学诗。 他日又独立, 鲤趋而过庭。曰:‘学礼乎?’.对曰:‘未也’。‘不学礼,无以立。’. 鲤退而学礼。闻斯二者”. 陈亢退而喜曰:“问一得三。闻诗,闻礼,又闻君 子之远其子也” .
Trần Cao vấn ư Bá Ngư viết: “Tử diệc hữu dị văn hồ? Đối viết: Vị dã. Thưởng độc lập, lý xu nhi quá đình. Viết: “Học thi hồ?”. Đối viết: Vị dã. Bất học thi, vô dĩ ngôn. Lý thoái nhi học thi. Tha viết hựu độc lập, lý xu nhi quá đình. Viết: “Học lễ hồ?”. Đối viết: “Vị dã. Bất học lễ, vô dĩ lập. Lý thoái nhi học lễ. Văn tư nhị giả. Trần Cao thoái nhi hỉ viết: “Vấn nhất đắc tam.Văn thi, văn lễ, hựu văn quân tử chi viễn kỳ tử dã”.
Trần Cao hỏi Bá Ngư (con Khổng tử): Nghe thầy dạy có điều gì lạ không ? Bá Ngư trả lời: Chưa thấy. Một hôm cha tôi đứng một mình, tôi nhẹ nhàng đi qua sân. Cha tôi hỏi: Đã học Kinh Thi chưa ? Tôi đáp: con chưa học. Cha nói: Không học Kinh Thi biết gì mà nói chuyện. Sau tôi lui về học Kinh Thi. Lại hôm khác, cha tôi cũng đứng một mình tôi lễ phép đi qua, cha tôi lại hỏi “đã học kinh Lễ chưa ?”. Tôi thưa rằng chưa học. Cha tôi bảo: Không học kinh Lễ thì không có cách gì lập thân. Sau đó tôi học kinh Lễ… Đó, tôi chỉ nghe thấy hai việc này.
 Trần Cao trở về vui mừng nói: Mình hỏi một việc mà biết được ba việc, đó là phải học Kinh Thi, kinh Lễ,  lại biết rằng bậc quân tử đối với con cái cũng không thân cận hơn hay dạy dỗ đặc biệt hơn.
 16.14
邦君之妻,君称之曰夫人, 夫人自称曰小童;邦人称之曰君夫人, 称诸异邦曰寡小君; 异邦人称之亦曰君夫人。
Bang quân chi thê, quân xưng chi viết phu nhân, phu nhân tự xưng viết tiểu đồng; Bang nhân xưng chi viết quân phu nhân, xưng chư dị bang viết quả tiểu quân; dị bang nhân xưng chi diệc viết quân phu nhân.
Vợ vua chư hầu gọi là “phu nhân”, phu nhân tự xưng mình là “tiểu đồng”. Người dân gọi các bà là “quân phu nhân”. Vua xưng với vua nước bạn là “quả tiểu quân”, người nước khác vẫn gọi vợ vua là “quân phu nhân”.
(Chú thích: Phu còn có nghĩa phù (giúp đỡ), vợ là người giúp đỡ chồng (phu nhân).
Quả: ít đức, lời khiêm tốn, như xưng “quả nhân”, gọi phụ nữ góa chồng là “quả phụ” với ý nghĩa ấy. Khổng tử coi trọng thuyết chính danh nên nhắc nhở học trò xưng hô chuẩn mực).

Hết thiên 16


  1. 17.  阳货  Dương Hóa
第十七篇thiên  1725 bài
17.1
阳货欲见孔子,孔子不见,归孔子豚。孔子时其亡也,而往拜之,遇诸涂。谓孔子曰:“来!予与尔言”。曰:“怀其宝而迷其邦,可谓仁乎?”. 曰:“不可”。“好从事而亟失时,可谓知乎?”.曰:“不可,日月逝矣,岁不我与”。孔子曰:“诺,吾将仕矣。”
Dương Hóa dục kiến Khổng tử, Khổng tử bất kiến, qui Khổng tử đồn. Khổng tử thời kỳ vong dã, nhi vãng bái chi, ngộ chư đồ. Vị Khổng tử viết: “Lai ! Dư dự nhĩ ngôn”. Viết: Hoài kỳ bảo nhi mê kỳ bái, khả vị nhân hồ? Viết: Bất khả. Hảo tòng sự nhi cức thất thì, khả vị tri hồ? Viết: Bất khả. Nhật nguyệt thệ hĩ, tuế bất ngã dự. Khổng tử viết: Nặc ngô thương sĩ hĩ.
Dương Hóa muốn gặp Khổng tử nhưng ông tránh mặt. Dương Hoá để lại một con lợn luộc làm quà biếu. Khổng tử nhân dịp Dương Hóa đi vắng, đến nhà bái tạ. Không ngờ hai người gặp nhau giữa đường. Dương Hóa nói, lại đây ta có chuyện muốn nói với ông. Dương Hóa hỏi: “Có đạo đức nhưng mặc cho quốc gia mê muội, có thể gọi là người có nhân được không?”. Khổng tử đáp: Không thể. Dương Hóa lại hỏi: Thích làm quan nhưng lại luôn bỏ lỡ thời cơ, có thể gọi là người trí được không? Khổng tử đáp: Không thể.. Dương Hóa lại nói: Ngày tháng trôi qua không bao giờ trở lại, tuổi chẳng đợi chờ ta. Khổng tử nói: Được, ta ra làm quan vậy.
(Chú thích: Dương Hóa là gia thần của họ Quý giữ chức đại phu, muốn đưa Khổng tử ra làm quan. Khổng tử không muốn giúp Dương Hóa làm loạn trong tình thế nước Lỗ đang suy vi vô đạo…)
17.2
子曰:性相近也, 习相远也。
Tử viết: Tính tương cận dã, tập tương viễn dã.
Khổng tử nói: Khi mới sinh ra, tính nết người ta gần giống nhau, về sau tập quán khác nhau nên tính tình sẽ khác xa nhau.
(Chú thich:Vấn đề bản tính con người có nhiều quan điểm khác nhau: Lão tử cho rằng bản tính người có thiện có ác, cùng tồn tại tương tác lẫn nhau. Tuân tử cho rằng bản chất con người là ác, phải có sự giáo dục thì mới cải được cái ác thành thiện. Hàn Phi tử cực đoan nhất, cho là bản tính con người là rất ác, chỉ có hình phạt mới ngăn ngừa được phần nào… Khổng tử cho rằng bản tính con người vốn không khác nhau mấy, chỉ vì tập phải những thói quen khác nhau (hoàn cảnh khác nhau) và được giáo dục khác nhau nên khác xa nhau. Sách Tam tự kinh do Vương Ứng Lân (1223-1296) thời nhà Tống biên soạn có câu “Nhân chi sơ/ tính bản thiện/ Tính tương cận ; tập tương viễn” đã đi theo quan điểm Khổng tử)
17·3
子曰:唯上知与下愚不移。
Tử viết: Duy thượng trí dữ hạ  ngu bất di.
Khổng tử nói:  Chỉ có bậc thượng trí (trí tuệ cao nhất) và bậc hạ ngu (ngu hết cỡ) là không thể thay đổi được.
(Lời bàn: vậy là hầu hết mọi người đều có thể thay đổi, bởi có mấy ai thuộc hai bậc nói trên !. Khổng tử thật lạc quan, có niềm tin vào sự tiến bộ của con người).

17.4

子之武城, 闻弦歌之声。夫子莞尔而笑,曰:“割鸡焉用牛刀?”. 子游对曰:“昔者偃也闻诸夫子曰:‘君子学道则爱人,小人学道则易使也’” 。 子曰:“二三子!偃之言是也。前言戏之耳” 。
Tử chi Vũ Thành, văn huyền ca chi thanh. Phu tử hoàn nhĩ nhi tiếu, viết: “Cát kê yên dụng ngưu đao ?”. Tử Du đối viết: Tích giả yển dã văn chư phu tử viết: “Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dịch sử dã”. Tử viết: Nhị tam tử !Yển chi ngôn thị dã. Tiền ngôn hí chi nhĩ.
Khổng tử đến ấp Vũ Thành, nghe tiếng đàn tiếng hát. Khổng tử mỉm cười nói: Giết gà sao phải dùng dao mổ trâu? Tử Du thưa rằng: “Trước con nghe thầy giảng rằng quân tử học đạo sẽ yêu người, tiểu nhân học đạo dễ sai khiến”. Khổng tử liền nói: Này các ngươi, trò Yển (Tử Lộ) nói phải đấy. Ta chỉ nói đùa đó thôi.
(Lời bàn: Tử Lộ cai trị ở ấp Vũ Thành, cho dân học nhạc tức là học đạo. Ý Khổng tử nói dân đen cần chi dùng nhạc lễ để giáo hóa)
17·5
公山弗扰以费畔,召,子欲往。子路不悦,曰:“末之也已,何必公山氏之之也”。
子曰:“夫召我者,而岂徒哉?如有用我者,吾其为东周乎?”
Công Sơn Phất Nhiễu dĩ Phí bạn, triệu, tử dục vãng. Tử Lộ bất duyệt, viết:  Mạt chi dã dĩ, hà tất Công Sơn thị chi chi dã”. Tử viết: Phu triệu ngã giả, nhi khải đồ tai ? Như hữu dụng ngã giả, ngô kỳ vi Đông Chu hồ ?
Công Sơn Phất Nhiễu giữ đất Phí gây chính biến, mời Khổng tử đến giúp. Khổng tử muốn đi. Tử Lộ không vui nói “Không có chỗ đi thì thôi, sao phải đến chỗ Công Sơn Phất Nhiễu ?”. Khổng tử trả lời: “Người gọi ta đâu phải để ta ngồi không. Nếu dùng ta thì ta sẽ làm cho đạo nhà Chu ở phương Đông phục hưng được”.
 (Chú thích: Công Sơn Phất Nhiễu định nổi loạn ở đất Phí, lúc đầu Khổng tử sốt sắng định đi để thuyết phục họ theo lễ nhà Chu…Sau xét kỹ thấy Công Sơn nhiều lỗi lầm khó cải hoá nên không đi nữa… Khổng tử cũng biết nghe lời can ngăn của học trò vậy)
 17.6
子张问仁孔子。孔子曰:“能行五者天下为仁矣”。请问之。曰:“恭,宽,信,敏,惠。恭则不侮,宽则得众,信则人任焉,敏则有功,惠则足以使人” 。
Tử Trương vấn nhân ư Khổng tử. Khổng tử viết: Năng hành ngũ giả ư thiên hạ vi nhân hĩ. Vị vấn chi.Viết: “Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhậm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân.
Tử Trương hỏi về đạo nhân. Khổng tử nói: Làm được 5 điều mới gọi là người nhân.
Tử Trương xin giải thích. Khổng tử nói: Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan dung thì được lòng người, tín thực thì được tin cậy, mẫn cán thì có công, ban ân huệ thì dễ sử dụng người.
17·7
佛肸召,子欲往。子路曰:昔者由也闻诸夫子曰:‘亲其身为不善者,君子不入也。’佛肸以中牟畔,子之往也,如之何?”. 子曰:“然,有是言 也。不曰坚乎,磨而不磷;不曰白乎,涅而不缁。吾岂匏瓜也哉?焉能系而不食?”
Phật Hật triệu, Tử dục vãng. Tử Lộ viết: Tích giả do dã văn chư phu tử viết: “Thân ư kỳ thân vi bất thiện giả, quân tử bất nhập dã. Phật Hật dĩ Trung Mâu bạn, Tử chi vãng dã, như chi hà ?. Tử viết: “Nhiên, hữu thị ngôn dã. Bất viết kiên hồ, ma nhi bất lân; Bất viết bạch hồ, niết nhi bất truy. Ngô khải bào qua dã tai ? yên năng hệ nhi bất thực ?
Phật Hật mời thầy, Khổng tử muốn đi. Tử Lộ nói: Ngày trước con nghe thầy giảng người quân tử không đến chỗ kẻ tự làm điều xấu. Nay Phật Hật làm loạn chiếm cứ Trung Mâu, thầy lại muốn đi, sao như vậy? Khổng tử nói: “Đúng ta đã nói vậy. Nhưng một vật cứng không thể mài mòn được, một vật trắng không thể nhuộm đen được. Lẽ nào ta chỉ như cái quả bầu khô treo lên, mà không để người ta ăn được sao ?
(Lời bàn: Khổng tử nghĩ  là có thể cải hóa Phật Hật nên muốn đi giúp… Nhưng sau biết rằng Phật Hật không thể thay đổi nên lại không đi)
17· 8
子曰:“由也,女闻六言六蔽矣乎?”。 对曰:“未也”。“居,吾语女。好仁不好学,其蔽也愚;好知不好学, 其蔽也荡;好信不好学,其蔽也贼;好直不好学,其蔽也绞;好勇不好学,其蔽也乱;好刚不好学,其蔽也狂” 。
Tử viết:  Do dã, nhữ văn lục ngôn lục tế hĩ hồ ?. Đối viết: Vị dã. “Cư, ngô ngữ nhữ. Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế dã ngu; Hiếu tri bất hiếu học, kỳ tế dã đãng; Hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế dã tặc; Hiếu trực bất hiếu học, kỳ tế dã giảo; Hiếu dũng bất hiếu học. Kỳ tế dã loạn; Hiếu cương bất hiếu học, kỳ tế dã cuồng.
Khổng tử nói: Này trò Do, ngươi đã được nghe về 6 đức tốt bị che lấp chưa? Tử Lộ đáp: Dạ chưa. Khổng tử bảo: Ngồi xuống, ta nói cho nghe. Ham đức nhân mà không học, gặp cái xấu che lấp là ngu muội. Thích trí tuệ mà không học, gặp cái xấu là phóng đãng. Trọng chữ tín mà không học, gặp tệ xấu là tổn hại. Ưa tính ngay thẳng mà không học, gặp cái xấu che khuất là nóng nảy. Ham đức dũng mà không học hỏi, gặp thói xấu là phản loạn. Tính cương quyết mà thiếu học hỏi, gặp cái xấu là thành cuồng bạo.
17·9
子曰:“小子何莫学夫诗。诗,可以兴,可以观,可以群,可以怨。迩之事父,远之事君;多识鸟兽草木之名” 。
Tử viết: Tiểu tử hà mạc học phu thi. Thi, khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân; Đa chí ư điểu thú thảo mộc chi danh.
Khổng tử nói: Sao các trò không học Kinh Thi ? Học Thi có thể hưng khởi tâm trí (trí tưởng tượng), có khả năng quan sát, hòa hợp quần tụ với người khác, hiểu đúng về oán hận. Gần thì biết đạo thờ cha mẹ, xa hơn thì biết thờ vua; Lại còn biết tên nhiều loài chim thú cỏ cây nữa.
 (Chú thích: gọi tắt quan điểm về thơ của Khổng tử là “Hưng, quan, quần, oán”)

17·10

子谓伯鱼曰:“女为《周南》,《召南》矣乎?人而不为《周南》,《召南》,其犹正墙面而立也与?”
Tử vị Bá Ngư viết: Nhữ vi “Chu Nam”, “Triệu Nam” hĩ hồ? Nhân nhi bất vi “Chu Nam”
“Triệu Nam” kỳ do chính tường diện nhi ; lập dã dự ?
Khổng tử nói với con là Bá Ngư: Con đã học hai bài Chu Nam và Triệu Nam chưa? Người nào không đọc hai bài ấy thì như đứng úp mặt vào vách tường vậy.
 (Chú thích: Đó là hai nhóm bài ca dao trong Kinh Thi, sưu tầm ở đất Chu Nam và Triệu Nam, nói về đạo lý tu thân và tề gia)
17·11
子曰:礼云礼云,玉帛云乎哉?乐云乐云,钟鼓云乎哉?
Tử viết: Lễ vân lễ vân, ngọc bạch vân hồ tai ? Nhạc vân nhạc vân, chung cổ vân hồ tai?
Khổng tử nói: Lễ có nghĩa phong phú (vân vân), phải chăng chỉ là tơ lụa ngọc quí ! Nhạc cần sự hòa hợp chứ phải đâu chỉ là chuông với trống !
(Lời bàn: Nói đến lễ, hãy chú ‎ ý tinh thần, không nên trọng vật chất. Nhạc không chỉ là nhạc cụ mà là sự hài hòa)
17·12
子曰:色厉而内荏,譬诸小人,其犹穿窬之盗也与?
Tử viêt: Sắc lệ nhi nội nhẫm, thí chư tiểu nhân, kỳ do xuyên du chi đạo dã dư ?
Khổng tử nói: Kẻ bề ngoài uy nghi mà bên trong yếu ớt thì cũng như tiểu nhân thôi, cũng như kẻ đào tường khoét vách ăn trộm vậy.
17·13
子曰:“乡愿”, 德之贼也。
Tử viết: “Hương nguyện”, đức chi tặc dã.
Khổng tử nói: Loại người giả bộ thật thà chất phác, kì thực là kẻ hại đạo.
 17·14
子曰:道听而涂说,德之弃也。
Tử viết: Đạo thính nhi đồ thuyết, đức chi khí dã.
Khổng tử nói: Cái lối nghe chuyện ngoài đường rồi nói chuyện giữa đường, ấy là bỏ mất cái đức vậy.
 (Lời bàn: Khổng tử nhắc nhở không nên tin những lời xuyên tạc, vu vơ. Nghe rồi chớ bàn cãi, người ta nghe thấy lại còn chê cười cho)
17·15
子曰:“鄙夫可与事君也与哉?其未得之也,患得之。既得之,患失之。苟患失之,无所不至矣” 。
Tử viết: Bỉ phu khả dự sự quân dã dự tai? Kỳ vị đắc chi dã, hoạn đắc chi. Ký đắc chi, hoạn thất chi. Cẩu hoạn thất chi, vô sở bất chí hĩ.
Khổng tử nói: Kẻ thô bỉ lại có thể cùng ta thờ vua được ư? Khi chưa có địa vị thì cố chạy chọt, khi được rồi thì chỉ sợ mất chức vị. Lo sợ mất chức nên chẳng có việc gì xấu mà kẻ ấy không dám làm.
17·16
子曰:“古者民有三疾,今也或是之亡也。古之狂也肆,今之狂也荡;古之矜也廉,今之矜也忿戾;古之愚也直,今之愚也诈而已矣” 。
Tử viết: Cổ giả dân hữu tam tật, kim dã hoặc thị chi vong dã. Cổ chi cuồng dã tứ, kim chi cuồng dã đãng; Cổ chi căng dã liêm, kim chi căng dã phẫn lệ; Cổ chi ngu dã trực, kim chi ngu dã tác nhi dĩ hĩ.
Khổng tử nói: Người xưa có ba tật xấu, có lẽ đời nay không còn nữa…
Kẻ cuồng vọng xưa còn ở mức thấp, nay thì cuồng vọng vô hạn độ.
Kẻ kiêu căng xưa còn liêm chính, nay thì còn vô lễ liều lĩnh.
Người ngu dốt xưa còn có ngay thẳng, ngu thời nay đến mức biết gian trá lừa đảo nữa.
17·17
子曰:恶紫之夺朱也,恶郑声之乱雅乐也,恶利口之覆邦家者。
Tử viết: Ố tử chi ký chu dã, ố Trịnh thanh chi loạn Nhã dã, ố lợi  khẩu chi phúc bang gia giả.
Khổng tử nói: Ta ghét sắc tía cướp mất sắc đỏ, nhạc nước Trịnh lấn át nhạc Nhã, ghét kẻ bẻm mép làm bại hoại nước nhà.
 (Chú thích: Sắc đỏ là chính thống, sắc tía/ tím là pha tạp, bất chính…Âm nhạc nước Trịnh hồi Xuân thu là thứ nhạc hạ lưu, dâm loạn… Theo ý Khổng tử, nghe ca khúc của một nước có thể thấy được xã hội ấy tốt hay xấu).

17·18
子曰:“予欲无言”。子贡曰:“子如不言,则小子何述焉?”。子曰:“天何言哉?四时行焉,百物生焉,天何言哉?”
Tử viết: Dư dục vô ngôn. Tử Cống viết: Tử như bất ngôn, tắc tiểu tử hà thuật yên? Tử viết:  Thiên hà ngôn tai? Tứ thì hành yên, bách vật sinh yên, thiên hà ngôn tai?
Khổng tử nói: “Ta chẳng muốn nói gì nữa”.
Tử Cống thưa: “Thầy không nói nữa thì chúng con biết đi truyền bá gì nữa”.
Khổng tử bảo: “Trời có nói gì đâu ! Bốn mùa vẫn vận hành trôi chảy, muôn vật sinh trưởng, trời có nói gì đâu !”.
(Lời bàn: Khổng tử muốn nói rằng cứ chịu khó quan sát thế giới mà hiểu được qui luật, mặt khác nhìn vào những tấm gương sống mà noi theo)
17·19
孺悲欲见孔子,孔子辞以疾。将命者出户,取瑟而歌,使之闻之。
Nhũ Bi dục kiến Khổng tử, Khổng tử từ dĩ tật. Thương mệnh giả xuất hộ, thủ săt nhi ca, sử chi văn chi.
Nhũ Bi muốn gặp Khổng tử, thầy cáo bệnh không tiếp. Khi người truyền lệnh bước ra khỏi phòng, Khổng tử liền gảy đàn sắt, có ý‎ cho Nhũ Bi nghe thấy.
(Chú thích: Nhũ Bi trước là học trò thầy Khổng, sau có lẽ trở thành kẻ xấu nên thầy không muốn tiếp. Nhưng thầy cố ý cho y biết thầy không bệnh, mà dạy y một bài học không lời, rằng thầy chê trách Nhũ Bì và không muốn dạy nữa).
17·20
宰我问: “三年之丧,期已久矣。君子三年不为礼,礼必坏; 三年不为乐,乐必崩。旧谷既没,新谷既升,钻燧改火,期可已矣”。子曰:“食夫稻, 衣夫锦,女安乎?”.曰:“安”。 “女安则为之。夫君子之居丧,食旨不甘,闻乐不乐,居处不安,故不为也。今女安,则为之!” 。宰我出,子 曰:“予之不仁也!子生三年, 然后免夫父母之怀,夫三年之丧,天下之通丧也。予也有三年之爱夫其父母乎?”
Tể Ngã  vấn: “Tam niên chi tang, kỳ dĩ cữu hĩ. Quân tử tam niên bất vi lễ, lễ tất phôi; Tam niên bất vi nhạc, nhạc tất băng. Cựu cốc ký một, tân cốc ký thăng, toàn toại cải hỏa, kỳ khả dĩ hĩ”.
Tử viết: Thực phu đạo, y phu cẩm, ư nhữ an hồ? Tể Ngã viết “An”.
Tử viết: Nhữ an tắc vi chi. Phu quân tử chi cư tang, thực chỉ bất cam, văn nhạc bất lạc, cư xứ bất an, cố bất vi dã. Kim nhữ an, tắc vi chi”.
Tể Ngã xuất, Tử viết: “Dữ chi bất nhân dã ! Tử sinh tam niên, nhiên hậu miễn ư phụ mẫu chi hoài, phu tam niên chi tang, thiên hạ chi thông tang dã. Dữ dã hữu tam niên chi ái ư kỳ phụ mẫu hồ ?
Tể Ngã hỏi: Để tang ba năm, như thế quá lâu ! Ba năm quân tử không ôn tập việc lễ, lễ sẽ phôi pha. Ba năm không luyện nhạc, nhạc quên hết. Lúa cũ ăn hết, lúa mới đã chín (một năm) những thứ cây để đánh lửa cũng dùng hết rồi.
Khổng tử hỏi: Ăn gạo thơm, mặc áo gấm (trong lúc để tang) ngươi có an tâm không ?  Tể Ngã đáp: An tâm.
Khổng tử bảo: Ngươi an tâm thì cứ làm vậy đi. Quân tử để tang ăn không biết ngon, nghe nhạc mà không vui, ở đâu cũng thấy bất an, lí do để tang (ba năm) là vậy. Nay ngươi thấy an tâm thì cứ làm đi.
 Tể Ngã về rồi, Khổng tử nói: Ta cho rằng Tể Ngã là kẻ bất nhân. Anh ta sinh ra ba năm mới có thể rời khỏi cánh tay ẵm bồng của cha mẹ, thiên hạ đều để tang ba năm. Chẳng lẽ Tể Ngã không được cha mẹ ẵm bồng ba năm sao ?
 17·21
子曰:饱食终日,无所用心,难矣哉!不有博奕者乎?为之, 犹贤乎已。
Tử viết: Bão thực chung nhật, vô sở dụng tâm, nan hĩ tai ! Bất hữu bác dịch giả hồ ? Vi chi, do hiền hồ dĩ.
Khổng tử nói: Người nào suốt ngày chỉ biết ăn no ở không, chng bận tâm việc gì, thật khó làm nên. Sao chẳng biết chơi cờ bạc ? Thà làm việc ấy còn hơn ngồi không.
(Lời bàn: Có lẽ Khổng tử không nên xúi người đánh bạc, chỉ nên chơi cờ giải trí thôi. Hay là thời cổ đại, đánh bạc chưa tai hại như bây giờ ?)
17·22
子路曰:“君子尚勇乎?”.子曰:“君子义以为上。君子有勇而无义为乱,小人有勇而无义为盗。”
Tử Lộ viết: Quân tử thượng dũng hồ? Tử viết: Quân tử nghĩa vi thượng. Quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa vi đạo.
Tử Lộ nói: Quân tử có chuộng “dũng” không?
Khổng tử đáp: Quân tử xem nghĩa là trên hết.  Quân tử có dũng mà bất nghĩa thì làm loạn, tiểu nhân có dũng mà bất nghĩa thì làm trộm cướp.
17·23
子贡曰:“君子亦有恶乎?”。子曰:“有恶。恶称人之恶者,恶居下流而讪上者, 恶勇而无礼者,恶果敢而窒者”。曰:“赐也亦有恶乎?”。“恶徼以为知者,恶不孙以为勇者,恶讦以为直者” 。
Tử Cống viết: Quân tử diệc hữu ố hồ ? Tử viết: Hữu ố. Ố xứng nhân chi ố giả, ố cư hạ lưu nhi san thượng giả, ố dũng nhi vô lễ giả, ố quả cảm nhi trất giả. Viết: Tứ dã diệc hữu ố hồ ? Ố kiếu dĩ vi tri giả, ố bất tôn dĩ vi dũng giả, ố kiết dĩ vi trực giả.
Tử Cống hỏi: Người quân tử có ghét ai không? Khổng tử nói: Có ghét. Ghét kẻ đi nói xấu người khác, ghét cấp dười gièm pha cấp trên, ghét người dũng mà không giữ lễ, ghét người quả quyết mà không thông hiểu lý lẽ. Ngươi nói xem có ghét ai không?
Tử Cống đáp: Con ghét kẻ hay rình mò người khác mà tự nhận người trí, ghét kẻ thiếu khiêm tốn mà nhận mình là dũng, ghét người bới móc chuyện riêng tư người khác mà tự nhận mình ngay thẳng.
(Lời bàn:  Tử Cống ghét ba loại người nhưng e rằng bậc quân tử không được ghét người nên mới hỏi thầy).
17·24
子曰: 唯女子与小人为难养也,近之则不孙,远之则怨。
Tử viết: Duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã, cận chi tắc bất tôn, viễn chi tắc oán.
 Khổng tử nói: Chỉ có phụ nữ và tiểu nhân là khó dạy nhất, gần gũi thì họ thiếu tôn kính, cách xa thì họ oán giận.
 (Lời bàn: Quan điểm này thực khó được phụ nữ chấp nhận. Chả trách người ta bảo cụ Khổng phong kiến coi rẻ phụ nữ. Nhưng đó chỉ là trải nghiệm riêng của Khổng tử)
17·25
子曰:年四十而见恶焉,其终也已。
Tử viết: Niên tứ thập nhi kiến ố yên, kỳ chung dã dĩ.
Khổng tử nói: Kẻ bốn chục tuổi còn làm điều ác thì không thể tốt được nữa.
Hết thiên 17


  1. 18.  微子 Vi Tử
第十八篇 thiên 18
11 bài
18.1
微子去之,箕子为之奴,比干谏而死。孔子曰:“殷有三仁焉” 。
Vi Tử khứ chi, Cơ Tử vi chi nô, Tỷ Can gián nhi tử. Khổng tử viết: Ân hữu tam nhân yên
Vi Tử từ quan ra đi, Cơ Tử bị giáng làm nô bộc, Tỷ Can vì can ngăn vua mà bị xử tội chết. Khổng tử nói: Nhà Ân chỉ có ba người ấy là người nhân.
(Chú thích: Cuối triều Ân, vua Trụ tàn bạo ăn chơi trác táng lại tàn hại các trung thần như Vi Tử, Tỷ Can, Cơ Tử…)
18.2
柳下惠为士师,三黜。人曰:“子未可以去乎?”.曰:“直道而事人,焉往而不三黜?枉道而事人,何必去父母之邦?”
Liễu Hạ Huệ vi sĩ sư, tam truất. Nhân viết: Tử vị khả dĩ khứ hồ ? Viết: Trực đạo nhi sự nhân, yên vãng nhi bất tam truất ? Uổng đạo nhi sự nhân, hà tất khứ phụ mẫu chi bang.
Liễu Hạ Huệ làm quan, chức sĩ sư, ba lần bị giáng chức. Có người nói: Sao ông chưa bỏ đi ? Liễu Hạ Huệ đáp: Tôi đem đạo chính trực đi phục vụ người thì ở đâu mà chẳng bị cách chức ba lần như trước đây? Làm vậy là uổng phí đạo phục vụ người, lại còn xa rời đất nước cha mẹ tôi đang ở.
 (Chú thich: Liễu Hạ Huệ quan nước Lỗ thời Xuân thu, bị vua bạc đãi nhưng vẫn kiên trì làm việc vì ông tin rằng mình phục vụ nhân dân chứ không phục vụ nhà vua…)
18.3
齐景公待孔子曰:“若季氏,则吾不能;以季,孟之间待之”。
曰:“吾老矣,不能用也”  孔子行。
Tề Cảnh Công đãi Khổng tử viết: Nhược Quý thị, tắc ngô bất năng; Dĩ Quý, Mạnh chi gian đãi chi. Viết: Ngô lão hĩ, bất năng dụng dã.  Khổng tử hành
Vua Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng tử, nói: Đãi như (vua Lỗ) đãi họ Quý (đại phu), ta không làm được; Chỉ đãi như họ Quý tiếp họ Mạnh (quan sĩ) thì ta làm được. Lại nói tiếp: Ta già rồi, không thể dùng ông được nữa. Nghe vậy, Khổng tử liền dời khỏi nước Tề.
 18.4
齐人归女乐,季桓子受之,三日不朝。孔子行。
Tề nhân qui nữ lạc, Quý Hoàn tử thụ chi, tam nhật bất triều. Khổng tử hành.
Nước Tđưa tặng mỹ nữ làm vui, Quý Hoàn tử nhận quà, triều đình ba ngày liền không họp. Khổng tử liền dời bỏ nuớc Lỗ.
 (Chú thích: Quý Hoàn tử là quan đại phu nước Lỗ, quyền lực chỉ dưới vua, có thói lộng quyền)

18.5
楚狂接舆歌而过孔子曰:“凤兮凤兮!何德之衰?往者不可谏,来者犹可追。已而已而!今之从政者殆而 !”。 孔子下,欲与之言, 趋而辟之,不得与之言。
Sở cuồng Tiếp Dư ca nhi quá Khổng tử viết: Phượng hề Phượng hề ! Hà đức chi suy ? Vãng giả bất khả gián, lai giả do khả truy. Dĩ nhi dĩ nhi ! Kim chi tòng chính giả đãi nhi!”. Khổng tử hạ, dục dự chi ngôn. Xu nhi tịch chi, bất đắc dự chi ngôn.

Cuồng sĩ nước Sở tên Tiếp Dư đi qua xe Khổng tử, hát rằng: “Phượng hoàng ơi, phượng hoàng ơi ! Vì sao đức nhân suy đến thế ? Việc đã qua không thể ngăn cản, việc sắp tới có thể còn kịp. Thôi đi, thôi đi ! Làm quan ngày nay nguy lắm đó”.
 Khổng tử xuống xe, định nói thì anh kia bỏ đi, khiến ngài không thể tiếp chuyện.
(Chú thích: Theo tín ngưỡng xưa, khi thấy phượng hoàng hay kỳ lân xuất hiện là báo điềm lành cho đất nước…Tiếp Dư có ý nhắn bảo Khổng tử không nên làm chính trị nữa)
18.6
长沮,桀溺耦而耕。孔子过之,使子路问津焉。
长沮曰:“夫执舆者为谁?”。子路曰:“为孔丘”。曰:“是鲁孔丘与?”.
曰:“是 也”。曰:“是知津矣。”. 问於桀溺。桀溺曰:“子为谁?”.
曰:“为仲由”。曰:“是孔丘之徒与?”. 对曰:“然”。曰:“滔滔者天下皆是也,而谁以易之 ?且而与其从辟人之士也,岂若从辟世之士哉?”耰而不辍。子路行以告。夫子怃然曰:“鸟兽不可与同群,吾非斯人之徒与而谁与?天 下有道,丘不与易也” 。
Tràng Thư, Kiệt Nịch ngẫu nhi canh. Khổng tử quá chi, sử Tử Lộ vấn tân yên.
Tràng Thư viết:  Phu chấp dư giả vi thùy ?Tử Lộ viết: Vi Khổng Khâu.
Viết: Thị  Lỗ Khổng Khâu dữ ? Viết: Thị dã ?
Viết: Thị tri tân hĩ. Vấn ư Kiệt Nịch. Kiệt Nịch viết: Tử vi thùy ?
Viết: Vi Trọng Do. Viết: Thị Khổng Khâu chi đồ dữ ?
Đối viết: Nhiên. Viết: Thao thao giả thiên hạ giai thị dã, nhi thùy dĩ dịch chi ? Thả nhi dự kỳ tòng tịch nhân chi sĩ dã, khải nhược tòng tịch thế chi sĩ tai ? Ưu nhi bất chuyết. Tử Lộ hành dĩ cáo. Phu tử vũ nhiên viết: Mã thú bất khả dự đồng quần. Ngô phi tư nhân chi đồ dữ nhi thùy dự. Thiên hạ hữu đạo, Khâu bất dự dịch dã.
Tràng Thư và Kiệt Nịch đang làm ruộng cùng nhau, Khổng tử đi qua đó, bảo Tử Lộ tới hỏi thăm đường đến bến đò. Tràng Thư hỏi Tử Lộ: “Người cầm cương ngựa  kia là ai?”. Tử Lộ đáp: “Là thầy Khổng Khâu”. Tràng Thư hỏi lại: Có phải Khổng Khâu nước Lỗ không ? Tử Lộ nói phải. Tràng Thư hỏi tiếp: Thế thì Khổng Khâu đã biết bến đò rồi… Tử Lộ hỏi Kiệt Nịch. Kiệt Nịch hỏi: Ngươi là ai ? Tử Lộ trả lời: Tôi  là Trọng Do. Kiệt Nịch hỏi lại: Có phải là học trò của Khổng Khâu nước Lỗ không ? Trả lời : Phải. Kiệt Nịch nói: Thiên hạ loạn lạc như nước chảy cuồn cuộn rồi, Khổng Tử sẽ cùng ai thay đổi được đây? Ngươi đi theo kẻ sĩ chỉ lo tránh kẻ vô đạo, không thể bằng chúng ta là kẻ sĩ tránh đời? Nói rồi Kiệt Nịch vẫn tiếp tục làm ruộng. Tử Lộ đành phải quay về xe thưa lại với Khổng tử.
 Khổng tử nghe rồi ngậm ngùi thở dài nói: Loài chim và loài thú không thể cùng họp bầy. Nếu không sống chung với người đời thì ta biết sống với ai ? Nếu thiên hạ có đạo, Khổng Khâu này không cần phải thay đổi nữa.
 (Chú thích: Tràng Thư và Kiệt Nịch là bậc hiền sĩ bỏ đi ở ẩn. Khổng tử không đồng ý với họ, nói mình là con người thì phải giúp người cùng loài).
18.7
子路从而后,遇丈人,以杖荷蓧。子路问曰:“子见夫子乎?”.丈人曰:“四体不勤,五谷不分,孰为夫子?”. 植其杖而芸。子路拱而立。止子路宿, 杀鸡为黍而食之。见其二子焉。明日,子路行以告。子曰:“隐者也” 。使子路反见之。至,则行矣。子路曰:“不仕无义。长幼之节,不可废也;君 臣之义,如之何其废之?欲洁其身,而乱大伦。君子之仕也,行其义也。道之不行,已知之矣。”
Tử Lộ tòng nhi hậu, ngộ trượng nhân, dĩ trượng hà điệu. Tử Lộ vấn viết: Tử kiến phu tử hồ ? Trượng nhân viết: Tứ thể bất cần, ngũ cốc bất phân, thục vi phu tử? Thực kỳ trượng nhi vân. Tử Lộ củng nhi lập. Chỉ Tử Lộ túc, sát kê vi thử nhi thực chi. Kiến kỳ nhị tử yên. Minh nhật, Tử Lộ hành dĩ cáo. Tử viết: “Ẩn giả dã”.Sử Tử Lộ phản kiến chi. Chí, tắc hành hĩ. Tử Lộ viết: Bất sĩ vô nghĩa. Trưởng ấu chi tiết, bất khả phế dã; Quân thần chi nghĩa, như chi hà kỳ phế chi ? Dục khiết kỳ thân, nhi loạn đại luân. Quân tử chi sĩ dã; Hành kỳ nghĩa dã. Đạo chi bất hành, dĩ tri chi hĩ.
Tử Lộ đi theo thầy, lạc lại sau, gặp một lão trượng cầm cây gậy quảy cái cuốc. Tử Lộ hỏi: Cụ có thấy thầy tôi không? Lão trượng đáp: Tay chân chả siêng năng, không phân biệt được năm giống lương thực, biết ai là phu tử thầy ngươi?! Nói xong cắm cây gậy xuống đất, bắt đầu làm cỏ. Tử Lộ cung kính đứng chờ bên cạnh. Sau đó lão trượng mời Tử Lộ nghỉ lại đêm ấy, mổ gà làm cơm đãi khách, lại cho hai con ra chào Tử Lộ. Ngày hôm sau, đuổi kịp Khổng tử, Tử Lộ thuật lại chuyện. Khổng tử nghe xong bảo: Đây là một ẩn sĩ, rồi bảo Tử Lộ quay lại thăm một lần nữa.
 Đến nơi thì cụ già đi vắng rồi. Tử Lộ nói nhắn (với người nhà): “Không làm quan là không hợp đạo nghĩa. Lễ tiết của người lớn với trẻ nhỏ đã không thể vứt bỏ thì đạo nghĩa vua tôi sao lại có thế bỏ đi ? Chỉ muốn giữ thân mình trong sạch, như vậy là làm loạn đại luân. Quân tử làm quan để thực hiện nghĩa vua tôi. Còn việc hành Đạo không thể thực hiện thì đã biết trước rồi”.
(Lời bàn: Cụ già có ý trách thầy trò Khổng tử đã không thực hành đạo được thì sao chẳng ở nhà làm ruộng. Tử Lộ nêu ra cái chí quân tử, coi nghĩa vua tôi là đại luân (luân lý lớn nhất) làm trọng, cũng như trong gia đình, nghiã cha con không thể bỏ, phải ra cống hiến cho đất nước).
18.8
逸民:伯夷,叔齐,虞仲,夷逸,朱张,柳下惠,少连。子曰:“不降其志,不辱其身,伯夷、叔齐与?”. 谓柳下惠,少连,“降志辱身矣,言中伦, 行中虑,其斯而已矣”,谓虞仲,夷逸,“隐居放言,身中清,废中权”。 “我则异於是,无可无不可”。
Dật dân: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên. Tử viết: Bất hàng kỳ chí, bất nhục kỳ thân, Bá Di, Thúc Tề dự ? Vị Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên hàng chí nhục thân hĩ, ngôn trung luân, hành trung lự, kỳ tư nhi dĩ hĩ. Vị Ngu Trọng, Di Dật, hàng cư phóng ngôn, thân trung thanh, phế trung quyền. Ngã tắc dị ư thị, vô khả vô bất khả.
Những người đi ở ẩn có: Bá Di, Thúc Tề, Ngu Trọng, Di Dật, Chu Trương, Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên.
Khổng tử nói: “Không chịu hàng phục, không chịu thân nhục có Bá Di, Thuc Tề. Nói về Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên: dù phải chịu hàng, chịu nhục thân nhưng lời nói của hai vị hợp luân lý, hành động có cân nhắc, hai ông chỉ có thế mà thôi. Nói về Ngu Trọng, Di Dật, ẩn cư tránh đời nói năng phóng túng, giữ được danh trong sạch, hợp lẽ quyền biến. Ta khác mấy người này, không cái gì có thể, chẳng cái gì mà không thể”.

18.9
大师挚适齐,亚饭干适楚,三饭缭适蔡,四饭缺适秦,鼓方叔入於河,播鼗武入於汉,少师阳,击磬襄入於海。
Đại sư Chí đích Tề, á phạn Can đích Sở, tam phạn Liễu đích Thái, tứ phạn Khuyết đích Tần, cổ Phương Thúc nhập ư Hà, bá đào Vũ nhập ư Hán, thiếu sư Dương, kích khánh Tương nhập ư hải.
Quan thái sư tên Chí chạy sang nước Tề, quan á phạn tên Can chạy sang nước Sở, quan tam phạm tên Liễu bỏ sang nước Thái,. Quan tứ phạn tên Khuyết chạy qua nước Tần. Người đánh trống tên Phương Thúc chạy về vùng sông Hoàng Hà, người đánh trống con tên Vũ lánh đến vùng sông Hán. Thiếu sư tên Dương, người gõ khánh tên Tương chạy về miền biển.
 (Chú thích: Thời kỳ này nước Lỗ suy bại, nhân tài bỏ nước ra đi)
18.10
周公谓鲁公曰:君子不施其亲,不使大臣怨乎不以。故旧无大故,则不弃也。无求备於一人。
Chu Công vị Lỗ Công viết: Quân tử bất thí kỳ thân, bất sử đại thần oán hồ bất dĩ. Cố cựu vô đại cố, tắc bất khí dã. Vô cầu bị ư nhất nhân.
Chu Công nói với Lỗ Công: Quân tử không nên bỏ quên người thân, không nên làm đại thần oán hận vì không được trọng dụng. Lão thần nếu không có lỗi lớn thì không nên ruồng bỏ họ. Không nên yêu cầu mỗi con người phải hoàn hảo.
 18.11
周有八士:伯达、伯适、仲突、仲忽、叔夜、叔夏、季随、季娃。
Chu hữu bát sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quý Tùy, Quý Oa.
Nhà Chu có tám hiền sĩ: Bá Đạt, Bá Quát, Trọng Đột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quý Tùy, Quý Oa.
 (Chú thích: Đây là 4 cặp sinh đôi do bốn bà mẹ hạ sinh, trở thành tám hiền tài trụ cột của nhà Chu).
Hết thiên 18


  1. 19.  子张 T Trương
 第十九篇 thiên 19
25 bài
19·1
子张曰:士见危致命,见得思义,祭思敬,丧思哀,其可已矣。
Tử Trương viết: Sĩ kiến nguy trí mệnh, kiến đắc tư nghĩa, tế tư kính, tang tư ai, kỳ khả dĩ hĩ.
Tử Trương nói: Kẻ sĩ khi gặp việc nguy dám hi sinh tính mệnh, thấy mối lợi thì nghĩ đến nghĩa,  cúng tế với lòng thành kính, để tang thì đau thương, làm được vậy mới là kẻ sĩ.

19·2
子张曰:执德不弘,信道不笃,焉能为有?焉能为亡?
Tử Trương viết: Chấp đức bất hoằng, tín đạo bất đốc, yên năng vi hữu ? Yên năng vi vong ?
Tử Trương nói: Giữ được đức mà không biết phát huy, tin phục đạo lý mà không kiên định làm theo. Có người ấy thì ích lợi gì ? Không có người ấy thì hại gì ?
19·3
子夏之门人问交於子张。子张曰:“子夏云何?”.对曰:“子夏曰:‘可者与之,其不可者拒之’ 。”子张曰:“异乎吾所闻:君子尊贤而容众,嘉善而矜不能。我之大贤与,於人何所不容?我之不贤与,人将拒我,如之何其拒人也?”
Tử Hạ chi môn nhân vấn giao ư Tử Trương. Tử Trương viết: Tử Hạ vân hà? Đối viết: “Tử Hạ viết: Khả giả dự chi, kỳ bất khả giả cự chi”. Tử Trương viết: “Dị hồ ngô sở văn. Quân tử tôn hiền nhi dung chúng, gia thiện nhi căng bất năng. Ngã chi đại hiền dự, ư nhân hà sở bất dung ? Ngã chi bất hiền dự, nhân thương cự ngã, như chi hà kỳ  cự nhân dã ?
Học trò của Tử Hạ hỏi Tử Trương về việc giao tiếp bạn bè.
Tử Trương hỏi lại: Thầy Tử Hạ đã nói thế nào ?
Học trò  Tử Hạ đáp: Có thể kết giao thì kết giao, không thể thì cự tuyệt.
Tử Trương nói: Điều ta từng nghe thì lại khác. Quân tử tôn trọng người hiền và dung nạp người bình thường, khen người hoàn thiện nhưng cũng thương cho người yếu kém. Nếu ta là bậc đại hiền thì sao ta không thể dung nạp họ ? Nếu ta không phải bậc hiền tài, người khác có thể cự tuyệt ta, làm sao ta có thể cự tuyệt họ ?

19·4
子夏曰: 虽小道,必有可观者焉,致远恐泥,是以君子不为也 。
Tử Hạ viết: Tuy tiểu đạo, tất hữu khả quan giả yên, trí viễn khủng nệ, thị dĩ quân tử bất vi dã.
Tử Hạ nói: Dù là việc nhỏ cũng có nghĩa lý cần xem xét, Nhưng nếu cố tìm ý nghĩa cao xa của việc nhỏ thì cũng trở ngại, khó lòng. Người quân tử chẳng làm như vậy.
19·5
子夏曰:日知其所亡,月无忘其所能,可谓好学也已矣。
Tử Hạ viết: Nhật tri kỳ sở vong, nguyệt vô vong kỳ sở năng, khả vị hiếu học dã dĩ hĩ.
Tử Hạ nói: Mỗi ngày biết thêm điều chưa biết. Mỗi tháng quên đi những điều đã biết. Như vậy gọi là người ham học.
19·6
子夏曰;博学而笃志,切问而近思,仁在其中矣。
Tử Hạ viết: Bác học nhi đốc chí, thiết vấn nhi cận tư, nhân tại kỳ trung hĩ.
Tử Hạ nói: Học rộng mà chuyên tâm điều nghiên cứu, hỏi điều thiết thực, nghĩ tới việc gần, đức nhân ở trong ấy vậy.
19·7
子夏曰:百工居肆以成其事,君子学以致其道。
Tử Hạ viết: Bách công cư tứ dĩ thành kỳ sự, quân tử học dĩ trí kỳ đạo.
Tử Hạ nói: Thợ ngành nghề phải ở lại nơi làm việc mới hoàn thành tốt công việc. Quân tử phải chuyên tâm nghiên cứu mới nắm chắc đạo lý.
19·8
子夏说:小人之过也必文。
Tử Hạ thuyết: Tiểu nhân chi quá dã tất văn.:
Tử Hạ nói: Kẻ tiểu nhân thấy mình làm sai thì tìm cách che đậy.
19·9
子夏曰:君子有三变:望之俨然,即之也温,听其言也厉。
Tử Hạ viết: Quân tử hữu tam biến: Vọng chi nghiễm nhiên, tức chi dã ôn, thính kỳ ngôn dã lệ.
Tử Hạ nói: Quân tử có ba điều biến đổi: trông xa thấy trang nghiêm, đến gần thấy ôn hòa, nghe lời nói thấy nghiêm khắc, chính xác.

19·10
子夏曰: 君子信而后劳其民; 未信,则以为厉己也.信而后谏;未信,则以为谤己也.
Tử Hạ viết: Quân tử tín nhi hậu lao kỳ dân; Vị tín, tắc dĩ vi lệ kỷ dã. Tín nhi hậu gián; Vị tín, tắc dĩ vi  báng kỷ dã..
Tử Hạ nói: Quân tử làm quan sao cho dân tin cậy, sau đó mới khiến cho họ làm việc khó nhọc. Nếu dân chưa tin đã vội sai khiến họ làm, họ sẽ cho là mình làm hại họ. Với người bậc trên, phải đạt được lòng tin trước, sau mới can gián, nếu không người trên cho rằng mình chê trách họ.
19·11
子夏曰:大德不逾闲,小德出入可也。
Tử Hạ viết: Đại đức bất du nhàn, tiểu đức xuất nhập khả dã.
Tử Hạ nói: Việc lớn thì không được vượt qua giới hạn, việc nhỏ thì có thể thêm bớt một ít.
 (Lời bàn:  Việc lớn cần phải làm chính xác, không được tùy tiện thêm bớt)
19·12
子游曰:“子夏之门人小子,当酒扫,应对,进退则可矣,抑末也。本之则无,如之何?” 子夏闻之,曰:“噫,言游过矣!君子之道,孰先传焉?孰后倦焉?譬诸草木,区以别矣。君子之道,焉可诬也?有始有卒者,其惟圣人乎?”
Tử Du viết: Tử Hạ chi môn nhân tiểu tử, đương sái tảo, ứng đối, tiến thoái tắc khả hĩ, ức mạt dã. Bản chi tắc vô, như chi hà? Tử Hạ văn chi, viết: Ôi, ngôn Du quá hĩ ! Quân tử chi đạo, thục hậu quyện yên, thục tiên truyền yên? Thí chư thảo mộc, khu dĩ biệt hĩ. Quân tử chi đạo, yên khả vu dã ? Hữu thỉ hữu tốt giả, kỳ duy thánh nhân hồ ?
Tử Du nói: Học trò của thầy Tử Hạ vảy nước quét dọn giỏi, đối đáp nhanh, đi lại đúng phép, chỉ có cái ngọn vậy thôi. Còn cái gốc chưa học được. Học như thế sẽ ra sao?
Tử Hạ nghe vậy, nói: “Ôi, thầy Tử Du sai rồi!  Đạo quân tử phải đem cái ngọn dạy trước, việc gốc truyền sau. Học trò như cỏ cây có phân biệt lớn nhỏ, đạo dạy học của người quân tử sao có thể tùy tiện. Dạy điều mở đầu mà biết được kết cục, chẳng phải chỉ có thánh nhân mới được vậy ư?
19·13
子夏曰:仕而优则学,学而优则仕。
Tử Hạ viết: Sĩ nhi ưu tắc học, học nhi ưu tắc sĩ.
Tử Hạ nói: Làm quan dư thì giờ thì nên học thêm. Người có học thì đi làm quan.
 (Lời bàn: Khi làm quan giỏi vẫn không ngừng học hỏi, học giỏi rồi thì đi làm quan giúp đời)
19·14
子游曰:丧致乎哀而止。
Tử Du viết: Tang trí hồ ai nhi chỉ.
TDu nói: Việc tang lễ thể hiện lòng thương xót là được rồi.
19·15
子游曰:吾友张也为难能也,然而未仁。
Tử Du viết: Ngô hữu Trương dã vi nan năng dã, nhiên nhi vị nhân.
TDu nói: Bạn ta là Tử Trương làm được những việc mà người khác khó làm được, nhưng vẫn chưa phải là người nhân.
(Lời bàn: Người nhân còn phải khiến cho người khác cũng làm được như mình)
19·16
曾子曰:“堂堂乎张也,难与并为仁矣” 。
Tăng tử viết: Đường đường hồ trương dã, nan dự bính vi nhân hĩ.
Tăng tử nói: Đúng rồi, Tử Trương là con người dung mạo đường hoàng uy nghi nhưng khó cùng người khác làm việc nhân.
(Lời bình: Tử Trương tài giỏi nhưng khá kiêu ngạo, tự mãn)
19·17
曾子曰:吾闻诸夫子,人未有自致者也,必也亲丧乎。
Tăng tử viết: Ngô văn chư phu tử, nhân vị hữu tự trí giả dã, tất dã thân tang hồ ?
Tăng tử nói: Ta nghe thầy Khổng dạy rằng người chưa đem hết tình cảm ra làm việc khác nhưng trong việc tang cha mẹ lại không thể đem hết tình ra hay sao ?
 19·18
曾子曰:吾闻诸夫子,孟庄子之孝也,其他可能也;其不改父之臣与父之政,是难能也 。
Tăng tử viết: Ngô văn chư phu tử, Mạnh Trang tử chi hiếu dã, kỳ tha khả năng dã; Kỳ bất cải phụ chi thần dư phụ chi chính, thị nan năng dã.
Tăng tử nói: Ta nghe thầy Khổng khen đức hiếu của Mạnh Trang tử, rằng những điều khác người ta có thể làm theo được, còn cái việc Mạnh không thay đổi bề tôi và phép cai trị của cha thì thiên hạ khó làm theo.
(Chú thích: Mạnh Trang tử là con Mạnh Hiếu tử, một trong ba dòng họ quan đại thần nước Lỗ thời ấy (họ Mạnh, họ Qu‎í, họ Thúc). Khi được kế nhiệm địa vị của cha, Mạnh Trang tử có hiếu nên không thay đổi những việc cha từng làm, mà kế thừa điều hay của cha).
19·19
孟氏使阳肤为士师,问诬曾子。曾子曰:“上失其道,民散久矣。如得其情,则哀矜而勿喜” 。
Mạnh thị sử Dương Phu vi sĩ sư, vấn ư Tăng tử. Tăng tử viết: Thượng thất kỳ đạo, dân
tán cửu hĩ. Như đắc kỳ tình, tắc ai căng nhi vật hỉ.
Họ Mạnh bổ nhiệm Dương Phu làm quan sĩ sư coi việc hình pháp. Dương Phu đến hỏi ý kiến thầy mình là Tăng tử. Thầy Tăng nói: Người cấp trên lỗi đạo, nhân tâm li tán lâu rồi. Khi xét xử hiểu được tình thật của phạm nhân thì nên thương họ, đừng lấy làm vui mừng.
19·20
子贡曰:纣之不善,不如是之甚也。是以君子恶居下流,天下之恶皆归焉。
Tử Cống viết: Trụ chi bất thiện, bất như thị chi thậm dã. Thị dĩ quân tử ố cư hạ lưu, thiên hạ chi ác giai quy yên
Tử Cống nói: Những điều bất thiện của vua Trụ không đến nỗi như thiên hạ nói. Người quân tử rất ghét ở chung với đám hạ lưu, vì mọi điều xấu trong xã hội đều đổ dồn về chỗ họ.
(Lời bàn: “Hạ lưu” là đám người dồn cặn như rác rưởi cuối dòng nước chảy. Đám này thường nói xấu tất cả những gì họ muốn. Vua Trụ có xấu xa nhưng kẻ hạ lưu thường dậu đổ bìm leo nói thêm vào. Tử Cống đòi hỏi sự công bằng ngay cả đối với kẻ xâu).
19·21
子贡曰:君子之过也,如日月之食焉。过也,人皆见之;更也,人皆仰之。
Tử Cống viết: Quân tử chi quá dã, như nhật nguyệt chi thực yên. Quá dã, nhân giai kiến chi; Canh dã, nhân giai ngưỡng chi.
Tử Cống nói: Sai lầm của người quân tử như nhật thực và nguyệt thực, ai cũng nhìn thấy. Quân tử sửa chữa lỗi được rồi thì ai cũng vẫn ngưỡng mộ.
19·22
卫公孙朝问於子贡曰:仲尼焉学? 子贡曰:文武之道,未坠於地,在人。贤者识其大者,不贤者识其小者,莫不有文武之道焉。夫子焉不学?而亦何常师之有?”
Vệ Công Tôn Triều vấn ư Tử Cống viết: Trọng Ni yên học ? Tử Cống viết: Văn vũ chi đạo, vị trụy ư đị̣a, tại nhân.Hiền giả chí kỳ đại giả, bất hiền giả chí kỳ tiểu giả, mạc bất hữu văn vũ chi đạo yên. Phu tử yên bất học? Nhi diệc hà thường sư chi hữu?
Đại phu nước Vệ là Công Tôn Triều hỏi Tử Cống: “Khổng tử học với ai vậy?”. Tử Cống nói: Đạo của vua Văn Vương, vua Vũ Vương bị chôn vùi dưới đất vẫn còn lưu lại trong dân gian. Người hiền tài học thì biết việc rộng lớn, người thường học được việc nhỏ. Đạo của hai vua chỗ nào cũng có. Thầy tôi không chỗ nào không học, cần gì phải có một thầy nào !
 19·23
叔孙武叔语大夫於朝曰:“子贡贤於仲尼”。子服景伯以告子贡。子贡曰:“譬之宫墙,赐之墙也及肩,窥见室家之好。夫子之墙数仞,不得其门而入,不见宗庙之类,百官之富。得其门者或寡矣。夫子之云,不亦宜乎!”
Thúc Tôn Vũ Thúc ngữ đại phu ư triều viết: Tử Cống hiền ư Trọng Ni. Tử Phục Cảnh Bá dĩ cáo Tử Cống. Tử Cống viết: Thí chi cung tường, tứ chi từng dã cập kiên, khuy kiến thất gia chi hảo. Phu tử chi tường số nhận, bất đắc kỳ môn nhi nhập, bất kiến tông miếu chi loại, bách quan chi phú. Đắc kỳ môn giả hoặc quả hĩ. Phu tử chi vân, bất diệc nghi hồ !
Thúc Tôn Vũ Thúc nói với các vị đai phu trong triều nước Lỗ rằng: “Tử Cống có đạo đức tài năng hơn hẳn Khổng tử”. Tử Phục Cảnh Bá nói lại với Tử Cống.
 Tử Cống nói: “Lấy bức tường làm thí dụ vậy. Tường nhà tôi chỉ cao bằng vai, ai nhìn vào có thể thấy hết những cái tốt đẹp trong nhà. Còn bức tường của thầy tôi cao đến mấy thước, nếu không tìm được cửa vào thì không thể thấy được kiến trúc tráng lệ đa dạng bên trong. Chỉ có ít người tìm được cửa vào. Thúc Tôn Vũ Thúc nói như thế thật chẳng thích hợp.

19·24
叔孙武叔毁仲尼。子贡曰;“无以为也!仲尼不可毁也。他人之贤者,丘陵也,犹可逾也;仲尼,日月也,无得而逾焉。人虽欲自绝,其何伤於日月乎?多见其不知量也”。
Thúc Tôn Vũ Thúc hủy Trọng Ni. Tử Cống viết: Vô dĩ vi dã ! Trọng Ni bất khả hủy dã. Tha nhân chi hiền giả, khâu lăng dã, do khả du dã; Trọng Ni. Nhật nguyệt dã, vô đắc nhi du yên. Nhân tuy dục tự tuyệt, kỳ hà thương ư nhật nguyệt hồ ? Đa kiến kỳ bất tri lượng dã.
Thúc Tôn Vũ Thúc chê Khổng tử. Tử Cống nói: Làm thế chả có ích gì. Không thể làm mất uy tín của thầy tôi được! Tài đức của người khác ví như cái núi nhỏ, có thể vượt qua được. Còn tài đức của Khổng tử cao xa như mặt trăng mặt trời, chẳng có ai qua được. Ai đó muốn đoạn tuyệt với đạo của thầy tôi thì cũng chẳng hại gì được mặt trăng mặt trời. Chê trách như thế chỉ chứng tỏ ông ta không biết lượng sức mình mà thôi.
19·25
陈子禽谓子贡曰:“子为恭也,仲尼岂贤於子乎?”.子贡曰:“君子一言以为知,一言以为不知,言不可不慎也。夫子之不可及也,犹天之不可阶而升也。夫子之得邦家者,所谓立之斯立,道之斯行,馁之斯来,动之斯和。其生也荣,其死也哀,如之何其可及也?”
Trần Tử Cầm vị Tử Cống viết: Tử vi cung dã, Trọng Ni khải hiền ư tử hồ? Tử Cống viết: Quân tử nhất ngôn dĩ vi tri, nhất ngôn dĩ vi bất tri, ngôn bất khả thận dã. Phu tử chi bất khả cập dã, do thiên chi bất khả giai nhi thăng dã. Phu tử chi đắc bang gia giả. Sở vị lập chi tư lập, đạo chi tư hành, nỗi chi tư lai, đông chi tư hòa. Kỳ sinh dã  vinh, kỳ tử dã ai, như chi hà kỳ khả cập dã ?
Trần Tử Cầm nói với Tử Cống: Anh quá khiêm tốn và cung kính với thầy Khổng tử đó thôi. Khổng tử chắc gì đã hơn anh ?
Tử Cống nói: Người quân tử nói ra một câu khiến người ta có thể hiểu rõ anh ta thông minh hay ngu dốt, vì vậy phải thận trọng khi nói. Chúng ta không thể đuổi kịp thầy như là không thể bắc thang trèo lên trời vậy. Thầy chúng ta nếu được nắm giữ một nước thì sẽ như lời cổ nhân: “Gây sinh kế cho dân thì dân tự hiểu lễ mà làm, hướng dẫn dân thì dân tự đi theo, săn sóc an ủi dân thì dân sẽ qui thuận, cổ vũ dân thì dân nhất định đồng tâm hiệp lực”. Khi sống, thầy chúng ta được mọi người tôn vinh, chết được nhân dân thương xót. Như thế còn ai theo kịp được thầy chúng ta?
Hết thiên 19
  1. 20.  尧曰 Nghiêu viết
第二十篇 thiên 20
05 bài
20.1
尧曰:“咨!尔舜!天之历数在尔躬,允执其中。四海困穷,天禄永终”.
舜亦以命禹。
Nghiêu viết: Tư, nhĩ Thuấn ! Thiên chi lịch sác tại nhĩ cung, doãn chấp kỳ trung. Tứ hải khốn cùng, thiên lộc vĩnh chung. Thuấn diệc dĩ mệnh Vũ.
Vua Nghiêu nói: Hỡi ngươi Thuấn, mệnh trời đã định đến lúc ngươi nối ngôi của ta, hãy thành thực chấp hành đạo trung chính. Dân bốn biển (mà) khốn cùng thì lộc trời ban cho ngươi cũng hết. Vua Thuấn (sau này khi nhường ngôi cho vua Vũ) cũng truyền lại mệnh ấy.
20.2
曰:“予小子履,敢用玄牡,敢昭告於皇 皇后帝:有罪不敢赦.帝臣不蔽,简在帝心。朕躬有罪,无以万方;万方有罪,罪在朕躬”.
Viết: “Dư tiểu tử Lý, cảm dụng huyền mẫu, cảm chiêu cáo ư hoàng hoàng hậu đế:
Hữu tội bất cảm xá. Đế thần bất tế, giản tại đế tâm”.
Trẫm cung hữu tội, vô dĩ vạn phương; Vạn phương hữu tội, tội tại trẫm cung.
Khấn rằng:“Kẻ tiểu tử này (1) tên Lý, dám dùng bò đực đen để tế lễ, khẩn cầu Trời vô cùng tôn kính rằng: Kẻ có tội (2), con không dám tha. Con không che giấu người hiền đức làm thần tử của Trời, chỉ vì con làm theo lòng Trời. Nếu trẫm có tội, xin đừng để lụy đến dân chúng bốn phương, nếu dân bốn phương có tội thì đó là tội của trẫm”.
[Chú thích:
(1) Vua Thành Thang nguyên tên là Lý.
(2) Vua Kiệt nhà Hạ tội nặng, bị vua Thành Thang trừng phạt.
Trong đoạn văn trên, vua Thành Thang thay đổi xưng hô, từ “tiểu tử” (con) sang “trẫm” nhưng đối tượng nghe vẫn là Trời (Đế) đồng thời hướng về cử tọa gồm: quan chức dân chúng tham dự tế lễ cùng nghe.
20.3
周有大赉,善人是富。“虽有周亲,不如仁人。百姓有过,在予一人”.
谨权量,审法度,修废官,四方之政行焉。兴灭国,继绝世,举逸民,天下之民归心焉。所重:民,食,丧,祭。宽 则得众,信则民任焉。敏则有功,公则说。
Chuhữu đại lại, thiện nhân thị phú. “Tuy hữuChuthân, bất như nhân nhân. Bách tính hữu quá, tại dư nhất nhân”...Cẩn quyền lượng, thẩm pháp độ, tu phế quan, tứ phương chi chính hành yên. Hưng diệt quốc, kế tuyệt thế, cử dật dân, thiên hạ chi dân qui tâm yên.
Sở trọng dân: thực, tang, tế. Khoan tắc đắc chúng,  tín tắc dân nhiệm yên. Mẫn tắc hữu công, công tắc duyệt.
Nhà Chu (sau khi diệt được vua Trụ) xuất của cải chia cho dân, người hiền trở nên giàu có. (Khi đem quân đánh vua Trụ, vua Chu Vũ vương thề rằng):“Tuy (vua Trụ) có nhiều người thân họ Chu, chẳng bằng (ta có) nhiều người nhân đức. Nếu trăm họ mắc tội, lỗi chỉ tại một người (là ta) thôi”… (Vua Vũ vương) định lại cân,dụng cụ đo lường và phép tắc luật lệ, dùng lại những quan chức bị (nhà Trụ) bãi bỏ, cai quản bốn phương thông suốt. Khôi phục lại những nước chư hầu đã bị diệt, cho người nối tiếp những dòng họ bị đứt quãng. Mời kẻ hiền sĩ ẩn dật ra làm việc, người trong thiên hạ hết lòng qui phục.
(Vua Vũ vương) coi trọng ba việc của dân là: lương thực, tang lễ và tế tự. Khoan dung ắt được dân ủng hộ, trung tín thành thực được dân dựa vào mình. Cần mẫn làm việc thu được công lao, công bằng sẽ làm vui lòng người.
20.4
子张问孔子曰:“何如斯可以从政矣?”.
子曰:“尊五美,屏四恶,斯可以从政矣”.
子张曰:“何谓五美?”.
子曰: 君子惠而不费,劳而不怨,欲而不贪,泰而不骄,威而不猛”.
子张曰:“何谓惠而不费?”.
子曰:“因民之所利而利之,斯不亦惠而不费乎?择可劳而劳之,又谁怨?欲仁而得仁,又焉贪?君子无众寡,无 大小, 无敢慢, 斯不亦泰而不骄乎?君子正其衣冠,尊其瞻视,俨然人望而畏之, 斯不亦威而不猛乎?”.
子张曰:“何谓四恶?”.
子曰:“不教而杀谓之虐;不戒视成谓之暴;慢令致期谓之贼;犹之与人也,出纳之吝谓之有司。”
Tử Trương vấn Khổng tử viết: Hà như tư khả dĩ tòng chính hĩ ?.
Tử viết: Tôn ngũ mỹ, bính tứ ố, kỳ khả dĩ tòng chính hĩ.
Tử Trương viết:  Hà vị ngũ mỹ ?.
Tử viết: Quân tử huệ nhi bất phí, lao nhi bất oán, dục nhi bất tham, thái nhi bất kiêu, uy nhi bất mãnh.
Tử Trương viết: Khả vị huệ nhi bất phí ?
Tử viết: Nhân dân chi sở lợi nhi lợi chi, tư bất diệc huệ nhi bất phí hồ ? Trạch khả lao nhi lao chi, hựu thùy oán ? Dục nhân nhi đắc nhân, hựu yên tham ? Quân tử vô chúng quả, vô đại tiểu, vô cảm mạn, tư bất diệc thái nhi bất kiêu hồ ? Quân tử chính kỳ y quan, tôn kỳ chiêm thị, nghiễm nhiên nhân vọng nhi úy chi, tư bất diệc uy nhi bất mãnh hồ ?
Tử Trương viết: Hà vị tứ ố ?
Tử viết: Bất giáo nhi sát vị chi ngược, bất giới thị thành vị chi bạo; mạn lệnh trí kỳ vị chi tặc; do chi dự nhân dã, xuất nạp chi  lận vị chi hữu tư.
Tử Trương hỏi Khổng tử: Như thế nào mới làm được quan chính trực ?
Khổng tử nói: Biết tôn trọng 5 việc tốt, loại trừ 4 việc xấu, có thể làm quan chính trực.
Tử Trương hỏi tiếp: Thế  nào là 5 việc tốt ?
Khổng tử đáp: Quân tử làm ân huệ cho dân mà không hao tổn tiền bạc, bảo dân làm viêc khó nhọc mà dân chẳng oán ghét, ham muốn mà không tham lam, trang trọng mà không kiêu ngạo, uy nghiêm mà không hung bạo.
Tử Trương lại hỏi: Thế nào là làm ân huệ mà không hao tiền bạc?
 Khổng tử nói: Thuận theo lợi của dân mà hướng dẫn họ làm lợi, như thế là ân huệ cho dân mà không tốn tiền. Chọn việc đáng làm vào lúc thích hợp, đúng mùa vụ, thời tiết, đôn đốc dân làm việc khó nhọc, như thế thì có ai lại oán ghét mình ? Ham muốn làm việc nhân đức mà được điều nhân sao gọi là tham lam ?! Quân tử làm việc không kể việc lớn nhỏ đều không dám coi thường, vậy là trang trọng mà không ngạo mạn. Quân tử áo mũ chỉnh tề, ánh mắt nghiêm túc khiến người khác nhìn thấy nể sợ, đó là uy nghiêm mà không hung bạo.

20.5
孔子曰:不知命,无以为君子也;不知礼,无以立也;不知信,无以知人也.
Khổng tử viết: Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã ; Bất tri lễ, vô dĩ lập dã; Bất tri tín, vô dĩ tri nhân dã.
Khổng tử nói: Không biết mệnh trời thì không thể làm người quân tử. Không biết lễ thì không thể tự lập thân. Không biết chữ tín thì không hiểu được người.
[ Lời bàn: Khó nhất là làm sao biết được mệnh trời ! Mệnh trời là thời cơ chăng ? Liệu có nhà tiên tri nào báo trước? Tuy nhiên, người quân tử hãy tự mình làm hai điều sau (tín, lễ) coi như hai điều kiện tiên quyết / điều kiện cần.
Chữ Lễ là cội nguồn cảm hứng nghiên cứu, du thuyết và dạy học của Khổng tử, kết thúc Luận ngữ cũng là chữLễ, thêm Tín và Mệnh ].
Hết


BÀI TẬP NGHIÊN CỨU LUẬN NGỮ
Tóm tắt nội dung của các bài theo từng chủ đề sau:
  1. Việc học
  2. Về chữ Hiếu
  3. Về chữ Lễ
  4. Về chữ Nhân
  5. Về đạo Quân tử
  6. Về 2 chữ Trung, Thứ
  7. Về đạo Trung dung
  8. Về thuyết Chính danh
  9. Về làm vua
  10. Về làm quan
  11. Về tình bằng hữu
  12. Về việc tang
  13. Về âm nhạc
  14. Về thơ
  15. Về hội họa
  16. Về giải trí
  17. Về nỗi niềm thất vọng của Khổng tử
  18.  Bạn thử chỉ ra những điểm bất cập thời đại của Khổng tử thể hiện trong Luận ngữ.
PHN
Phụ lục
                             SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TRUNG QUỐC
I. Từ thượng cổ đến nhà Tần (thời cổ đại)
1. Thời thượng cổ, còn gọi là Tam hoàng, Ngũ đế (thần thoại)
2. Thời tiền sử: ba vua Nghiêu, Thuấn, Vũ  (theo truyền thuyết)
3. Vua Vũ lập ra quốc gia đầu tiên: nhà Hạ / Hoa Hạ (tk 21- 17 tr.CN), chế độ nô lệ, bỏ bầu cử, bắt đầu cha truyền con nối…
Nhà Ân là giai đoạn cuối cùng của nhà Hạ. Đời cuối là vua Kiệt mê nàng Muội Hỉ, tàn ác, bị lật đổ, nhà Thương (Thang) nổi lên thay thế.
4. Nhà Thương: Vua Thành Thang đổi mới mạnh mẽ. Đời cuối là vua Trụ mê nàng Đắc Kỉ, tàn bạo hủ bại. Nô lệ theo thủ lĩnh họ Chu nổi dậy khởi nghĩa, lật đổ nhà Thương, lập ra nhà Chu, lập ngôi hoàng đế, cai quản chư hầu.
5. Nhà Chu từ thế kỷ 11 tr CN đến thế kỷ 3 tr CN, gồm 2 giai đoạn:
5.1.Tây Chu: Thế kỷ 11 đến năm 778 tr.CN, có hơn 1000 nước chư hầu. Vua Chu Bình Vương mê nàng Bao Tự, chư hầu bất phục…nhàChu suy giảm quyền lực
5.2. Đông Chu: 770 đến 256 tr.CN, thủ đô dời từ Tây sang phía Đông.
gồm hai giai đoạn:
            Xuân Thu: 770 – 455 tr CN, bước vào chế độ sơ kỳ phong kiến. Hình thành 100 chư hầu, 14 nước lớn, rồi đến 5 nước xưng bá vương (ngũ bá: Trịnh, Tấn, Tần, Tề, Triệu) ngày càng lộng quyền lấn át hoàng đế nhàChu.
            Chiến quốc: 455-221 tr.CN, bảy nước bá vương (thất bá tranh hùng) gồm Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần, Yên.
Cuối cùng, nhà Tần đánh bại 6 nước bá vương, lên ngôi hoàng đế thay nhà Chu, thống nhất đất nước năm 221 tr.CN.
 II. Từ nhà Hán đến Mãn Thanh (thời trung đại)
Nhà Hán (Tây Hán 206 tr. CN đến năm 24, còn gọi Tiền Hán, thời Đông Hán
(năm 25 đến 220) còn gọi Hậu Hán và Tam quốc (220-280).
Ngụy Tấn (265-420)
Bắc triều: Ngụy Tấn (420-581)
Namtriều: lục quốc Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Ngô.
Tùy (581-617)
Đường (618-907)
Ngũ đại thập quốc (907-960)
Tống (BắcTống,NamTống  960-1279)
Nguyên (1271-1368)
Minh (1368-1644)
Thanh (1644-1911) Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Hàm
Phong, Đồng Trị, Từ Hi, Quang Tự, Phổ Nghi.
III. Từ Cách mạng Tân Hợi đến nay (thời hiện đại)
Trung Hoa dân quốc, từ 1911 đến năm 1949 chuyển ra đảo Đài Loan .
Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, từ ngày 1.10.1949.
                                                                                          Biên giả
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 论语Luận ngữ , nguyên văn Hán ngữ
     汉文词典 Hán văn từ điển
http://www.fjdh.com/Article/HTML/Article_20051026083127.html
http://hanyu.iciba.com/a/20090610/17.shtml 3.4.2010
http://xz.zzedu.net.cn/CMS/Article/300/20070108134700/index.htm ngày 7.8.2010
http://www.ccnt.com.cn/wisdom/rujia/lunyu/lunyu3.htm 5.92010
2. 四书Tứ thư, Dương Hồng, Nhiệm Đại Viện, Lưu Phong, Vương Thành Trung chú giải 2002, An Huy nhân dân xuất bản xã, Trung Quốc.
3. Tứ thư, Trần Trọng Sâm, Kiều Bách Vũ Thuận, 2003, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
TRI ÂN
Trân trọng cảm ơn quý đồng nghiệp đã giúp tổ chức và hoàn thành bản thảo
Trần Thể (Chủ nhiệm khoa Sư phạm)
Trần Tùng Chinh (Ths.Trưởng BM Ngữ văn)
Ngô Thị Minh Hiếu (Ths Ngữ văn Hán Nôm)
Nguyễn Thanh Phong (Nghiên cứu sinh thạc sĩ Ngữ văn Trung Quốc tại Đài Loan)
10. 5.2011
Biên giả
ngoc1951@gmail.com


(1 ) Ngôn: lời nói, tự nói ra… Ngữ: đáp lại, thuật lại, có ý nghĩa, hay. Luận ngữ: Lời nói hay để bàn luận.
(2) Thi hào Nguyễn Du viết cả một truyện thơ về chữ hiếu (đặt bên chữ tình, chữ trung) tựa là Đoạn trường tân thanh, tục gọi Truyện Kiều. Nguyễn Du vẫn đặt chữ Hiếu lên đầu. Nhưng thầy Đồ Chiểu viết trong Lục Vân Tiên “Trai thời trung hiếu làm đầu” (trung trước- hiếu sau). Sinh thời, Hồ Chí Minh viết lời dặn chiến sĩ trên lá quân kỳ “Trung với nước, hiếu với dân”, sau này quân đội tự  ý đổi thành “Trung với Dảng, hiếu với dân…”.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved