Home » » LỊCH SỦ GIÁO DỤC VIỆT NAM (2)

LỊCH SỦ GIÁO DỤC VIỆT NAM (2)

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011 | 02:22

Ty Võ tuyển trông coi quan chế, phẩm trật, tuyển bổ, xét thưởng.
Ty Kinh kỳ riêng giám sát các võ quan cũng như các việc phòng thủ, diễn tập tại kinh thành. Công việc hầu giá khi vua đi tuần du và công nhu ở Bộ đường cũng do ty này đảm nhiệm.
Ty Trực tỉnh trông coi võ bị ở các tỉnh.
Ty Khảo công được giao việc quản lý các trạm dịch.
Xứ Binh trực là cơ quan trừ bị với nhân sự là thư lại chưa vào ngạch. Xứ này chủ yếu đảm nhiệm các việc thư tịch và khi cần thì chịu lệnh từ các ty.
Bộ Hình giữ việc luật lệnh, hình phạt án tù, ngục tụng và xét xử người phạm tội ngũ hình.

Bộ Công coi việc xây dựng thành hào, cầu cống đường sá, việc thổ mộc, thợ thuyền, tu sửa xây dựng, thi hành lệnh cấm về núi rừng, vườn tược và sông ngòi.
 
 Tranh vẽ Bộ Công thời nhà Nguyễn
Ngoài những bộ điều hành trên, triều đình còn có những cơ quan chuyên trách như:
- Hàn Lâm Viện  lo biên soạn văn thư.
- Quốc Tử Giám lo dạy dỗ đào tạo con em giới cầm quyền.
- Khâm Thiên Giám coi thiên văn, lịch pháp.
- Thái Y Viện lo việc thuốc men.
- Cơ Mật  Viện tư vấn cho vua về các việc hệ trọng...

KHÂM THIÊN GIÁM: cơ quan khoa học thời xưa ở Việt Nam do nhà vua đặt ra, có nhiệm vụ: tính lịch hằng năm, xem giờ để báo trống canh, miêu tả sắc trời và hình vật để đoán tượng trời, tính nhật thực và nguyệt thực, chọn ngày giờ tốt lành, vv. Trông coi KTG là giám chính, giám phó, linh đài lang, tất cả đặt dưới sự quản lí tối cao của một đại thần do nhà vua bổ nhiệm. KTG còn là trường đào tạo các nhân viên làm lịch và trắc nghiệm thiên văn của cả nước. Thời gian đào tạo khoảng 3 năm. 

VIỆN CƠ MẬT: tổ chức cao cấp của triều đình, có trách nhiệm bàn bạc và quyết định tất cả các việc đối nội, đối ngoại lớn bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của quốc gia, đặt dưới sự chủ toạ của vua.
Thành viên gồm bốn thượng thư đứng đầu bốn bộ quan trọng nhất, hoặc liên bộ. Bốn viên quan này thường gọi là "Tứ trụ triều đình"; khi vua vắng mặt hay còn nhỏ tuổi, bốn viên quan này sẽ kiêm giữ chức "Phụ chính đại thần" để thay mặt vua lãnh đạo đất nước.
Dưới thời Pháp thống trị, theo dụ của vua Thành Thái 27.9.1897, sáu thượng thư của sáu bộ đều là thành viên của VCM; có trách nhiệm họp bàn các công việc quan trọng của tất cả sáu bộ và làm tờ trình để vua xét, ra các đạo dụ hoặc sắc chỉ; văn bản do vua xét và kí phải được sự phê chuẩn trước của khâm sứ Pháp; khâm sứ có quyền chủ toạ cuộc họp của VCM.
Dụ 23.5.1933 của Bảo Đại quy định lại: Các thượng thư họp dưới sự chủ toạ của vua thì gọi là VCM; các văn bản như dụ sắc chỉ do VCM soạn thảo để vua kí, phải được khâm sứ duyệt y trước, các thượng thư họp dưới sự chủ toạ của khâm sứ thì gọi là Hội đồng Thượng thư.
Thái Y Viện Dưới Triều Nguyễn:

Vừa vào Phú Xuân, vua Gia Long đã cho thành lập ngay Thái Y Viện gồm ngự y (hay chánh viện), phó ngự y, y chánh, y phó, lương y, lương y ngoại khoa và y sinh cùng y sinh ngoại khoa.
Vua Gia Long đã viết "Không được cầu cúng đồng cốt, như có đau ốm, chỉ nên cầu thuốc để trị" (1803).
Đến triều vua Minh Mạng (1820-1840), hệ thống Thái Y Viện được chỉnh lại như sau: Viện Sứ là người đứng đầu Thái Y Viện, các nhân viên gồm ngự y, phó ngự y, hữu viện phán, tả viện phán, y chánh, y phó, thái y và y sinh. Vua Minh Mạng còn lập miếu Tiên Y thờ các danh y sư, mỗi năm 2 lần tổ chức tế lễ trọng thể. Bài thuốc nổi tiếng "Nhất Dạ Lục Giao Sinh Ngũ Tử" hay "Nhất Dạ Ngũ Giao Sinh Tứ Tử" (bài thuốc có đăng tại Phòng Đọc Sách, bài viết của bác sĩ Trần Đại Sỹ), minh chứng hùng hồn về công hiệu của bài thuốc là 142 người con của vua Minh Mạng.

Nhiệm vụ chính của Thái Y Viện là chăm sóc sức khoẻ của hoàng gia, các quan trong triều và sau nữa là sức khoẻ của quân lính, dân chúng.

Nhiệm vụ thứ hai là nghiên cứu và sưu tầm các bài thuốc hay, in thành sách. Các sách đã được in dưới triều Nguyễn nay còn để lại là: Liệu Dịch Phương Pháp Toàn tập của tác giả Nguyễn Gia Phan (đời vua Gia Long), Đậu Khoa Y Nạp của tác giả Trần Đức Hưng (1869 ??), Nam Thiên Đức Bảo của tác giả Lê Trác Như (1880), Y Môn Hội Anh của tác giả Bùi Văn Trung (1884), Vân Khê Y Lý Yếu Lục của tác giả Nguyễn Dịch (1885)...

Nhiệm vụ thứ ba là dạy về y học, đào tạo lương y, nâng trình độ y học lên cao hơn bằng cách gởi người đi nước ngoài học hỏi.

Cuối đời vua Tự Đức, có thêm phần Tây Y. Triều vua Đồng Khánh lập thêm bệnh viện Tây Y có bác sĩ Pháp chẩn bệnh. 
Đoàn thị Hồng Điệp sưu tầm và tổng hợp


TRĂM NĂM NHÌN LẠI CUỘC ĐÔNG DU

Chùa Nam Nhã - một di tích của phong trào Đông Du ở miền Nam, nơi lưu ngụ của Cường Để và Phan Bội Châu tại Cần Thơ năm 1906
Một thế kỷ sau nhìn lại, vào thời điểm dân tộc VN đang bước tiếp vào cuộc hội nhập rộng lớn toàn cầu, với vị thế của một quốc gia độc lập và đang tìm tòi con đường đổi mới (cũng đồng nghĩa với Duy Tân) để phát triển,
Bài học Đông Du năm xưa lại trở nên gần gũi với ý nghĩa phải biết từ bỏ tư tưởng “cầu viện” để vươn tới tư tưởng “cầu học” mới mong giữ được vị thế của một quốc gia tự chủ và phát triển.
Đông Du, một phong trào vận động cách mạng hình thành vào đầu thế kỷ 20, do các sĩ phu yêu nước mà linh hồn là Phan Bội Châu khởi xướng, nhằm đưa một thế hệ những người VN trẻ tuổi vượt biển ra nước ngoài du học, đặc biệt là sang Nhật để học hỏi tấm gương tự cường của nước Nhật và hi vọng dựa vào nước Nhật mưu cầu thoát khỏi ách thống trị thực dân và tự lập tự cường. Ai

Một thế kỷ sau nhìn lại, vào thời điểm dân tộc VN đang bước tiếp vào cuộc hội nhập rộng lớn toàn cầu, với vị thế của một quốc gia độc lập và đang tìm tòi con đường đổi mới (cũng đồng nghĩa với Duy Tân) để phát triển,
Bài học Đông Du năm xưa lại trở nên gần gũi với ý nghĩa phải biết từ bỏ tư tưởng “cầu viện” để vươn tới tư tưởng “cầu học” mới mong giữ được vị thế của một quốc gia tự chủ và phát triển.
Đông Du, một phong trào vận động cách mạng hình thành vào đầu thế kỷ 20, do các sĩ phu yêu nước mà linh hồn là Phan Bội Châu khởi xướng, nhằm đưa một thế hệ những người VN trẻ tuổi vượt biển ra nước ngoài du học, đặc biệt là sang Nhật để học hỏi tấm gương tự cường của nước Nhật và hi vọng dựa vào nước Nhật mưu cầu thoát khỏi ách thống trị thực dân và tự lập tự cường. Ai cũng thừa nhận rằng số học sinh du học đông nhất là từ Nam kỳ.
Số học sinh Nam kỳ luôn chiếm phân nửa, bằng số học sinh ở Bắc và Trung kỳ cộng lại, tất cả chừng 200 người. Và các nhà nghiên cứu cũng xác nhận rằng xuất xứ của phong trào là từ miền Bắc và miền Trung. Còn Nam kỳ tham gia muộn hơn và sự tham gia của Nam kỳ dường như đã tạo ra một bước phát triển mới cho phong trào này.
Nam kỳ vào đầu thế kỷ 20 trong ý đồ chia để trị của thực dân đã bị tách ra khỏi cơ thể của nước VN. Nó được áp dụng chế độ trực trị là thuộc địa, một phần “lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp”.
Cuộc Đông Du bắt đầu từ Bắc và Trung kỳ lan dần vào phía Nam. Cho đến khi gặp Tiểu La Nguyễn Thành - một yếu nhân của phong trào Duy Tân ở Quảng Nam, Phan Bội Châu đã nhận được một lời tư vấn quí báu: “Sự nghiệp cứu nước cần nhất là nhân tâm... có nhân tâm thì có tiền bạc. Về tiền bạc thì Nam kỳ là một tiềm năng”. Từ Nhật Bản, Phan Bội Châu viết những áng văn thống thiết: “Thương ôi Lục tỉnh Nam kỳ - Ngàn năm cơ nghiệp còn gì hay không? - Mịt mù một dải non sông - Hỡi ai, ai có đau lòng chăng ai”... (Ai cáo Nam kỳ phụ lão thư)...
Tiếng gọi cứu nước vượt qua những giới hạn ngăn cách của thực dân và nhanh chóng nhận được sự hưởng ứng ở Nam kỳ, và phong trào Đông Du nhanh chóng khai thác được nguồn lực to lớn và những phương thức tham gia rất phong phú. Gilbert Trần Chánh Chiếu không chỉ tự thân qua Hong Kong đưa người con của mình đang theo học tại đó sang Nhật giao phó cho phong trào, mà khi trở về ông còn góp một phần gia sản làm tài chính cho phong trào và còn sử dụng những tờ báo mà ông làm chủ bút như Nông Cổ Mín Đàm hay Lục Tỉnh Tân Văn để ngầm cổ vũ Đông Du.
Nguyễn Thần Hiến, một điền chủ ở Hà Tiên lên lập nghiệp ở Cần Thơ, là người chủ trương lập “Khuyến du học hội” và tự thân cùng con em xuất dương tiếp tục hoạt động cho đến khi bị thực dân bắt thì ông tuyệt thực mà chết...; Huỳnh Đình Điển quê ở Gò Công, chủ nhiều bất động sản ở Sài Gòn và Mỹ Tho, ngoài việc lập Nam Trung khách sạn, rồi Minh Tân khách sạn làm kinh tế giúp rập phong trào, còn dùng tài nghệ của một nghệ sĩ đờn ca tài tử phát triển dòng âm nhạc truyền thống này cổ vũ phong trào yêu nước; rồi Nguyễn An Khương và những đồng chí lập Chiêu Nam Lầu làm cơ sở kinh doanh đồng thời tài trợ cho con em Nam kỳ du học...
Trần Chánh Chiếu
Nguyễn Thần Hiến
Từ trái sang: Trương Duy Toản và Nguyễn Háo Vĩnh
Có thể nói phong trào Đông Du khi vào đến Nam kỳ đã tìm thấy nguồn lực của một xứ sở năng động. Sau này khi viết lại những hoạt động sôi nổi của phong trào Đông Du, Phan Bội Châu luôn nhấn mạnh đến tính cách nghĩa hiệp, trọng nghĩa khinh tài của dân Nam bộ. Phan nhận rằng: “Mỗi lần thống kê tiền bạc ở trong nước gửi ra thấy nhiều nhất là Nam kỳ... Hiện thời lưu học sinh ở Nam kỳ đông hơn nên hậu viện trông vào Nam kỳ là vậy”.
Cũng phải nói thêm rằng dân Nam kỳ hồi đó tính khí ưa phiêu lưu, nhiều nhà có của, đường giao thông lại thuận tiện nên cũng sớm bước ra ngoài với thiên hạ. Gương ông Trương Vĩnh Ký đi tiên phong là vậy. Cho nên trước khi có phong trào Đông Du, nhiều con em Nam kỳ đã được gửi sang Tàu, sang Tây học tập. Nhưng phong trào Đông Du thổi vào một luồng không khí mới gắn việc du học với mục tiêu vì nước.
Ngược lại, sự đóng góp của phong trào ở Nam kỳ mang lại một luồng sinh khí mới. Nếu con em ngoài Bắc tham gia Đông Du phần lớn xuất thân từ thế hệ những gia đình dòng dõi chống Pháp, coi Đông Du trước hết là phương cách để “cầu viện” từ bên ngoài, thì ở Nam kỳ phần lớn lại là con em những nhà khá giả, thậm chí còn vào làng Tây lấy mục tiêu hàng đầu là cầu học. Từ cầu viện đến cầu học là một bước phát triển, nó gắn kết được tư tưởng của cả hai dòng yêu nước đương thời của Phan Bội Châu nặng về bạo động và Phan Châu Trinh nặng về cải cách...
Do vậy mà sau khi bị thực dân Pháp câu kết với đế quốc Nhật quay ra đàn áp dữ dội, trục xuất các chiến sĩ Đông Du ra khỏi xứ sở một thời được hi vọng nhờ cậy ở sự “đồng chủng đồng văn”, thì phong trào xuất dương du học, đặc biệt ở Nam kỳ vẫn không hề chấm dứt. Kể từ đó cuộc Đông Du không chỉ mang ý nghĩa địa lý là hướng về nước Nhật mà còn rộng lớn hơn.
Có thể nói rằng vào đầu thế kỷ 20, dân tộc VN đã tiến hành cuộc hội nhập thứ nhất vào một thế giới ngoài Trung Hoa, trong điều kiện đất nước bị phương Tây đô hộ. Thất bại của cuộc Đông Du qua Nhật Bản đã mở ra cuộc “hậu Đông Du” đặc biệt mạnh mẽ ở miền Nam. Trong khi nhiều chiến sĩ Đông Du ở Trung và Bắc rời Nhật hướng về Trung Hoa mưu bạo loạn và gặp sự bế tắc, thì dòng Đông Du ở miền Nam vẫn tiếp tục hướng tới chân trời rộng mở hơn rất nhiều.
Những Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường... từ Nam kỳ sang đến châu Âu tìm kiếm giá trị của nền dân chủ phương Tây. Và ngay Nguyễn Tất Thành cũng tiếp bước xuất dương nhờ vào sự tài trợ của một trong những cơ sở kinh tế của phong trào Đông Du và Minh Tân của Nam kỳ là Công ty nước mắm Liên Thành (cũng là cơ sở tài chính giúp Trường Dục Thanh, Phan Thiết)... để rồi đi tới những chân trời rộng lớn hơn lớp cha anh..., để rồi trở thành nhà cách mạng hàng đầu thế kỷ 20: Nguyễn ái Quốc.
Mới đây, tại thành phố Cần Thơ, Hội Khoa học lịch sử VN cùng UBND TP tổ chức cuộc hội thảo khoa học “Phong trào Đông Du ở miền Nam”. Đây là cuộc hội thảo lần thứ tư nhân kỷ niệm 100 năm phong trào này. Các cuộc hội thảo trước đã được tổ chức tại Hà Nội, Nghệ An và Huế. Với cuộc hội thảo ở Cần Thơ, lần đầu tiên các nhà sử học bàn về chủ đề tập trung vào vùng đất Lục tỉnh xưa.
DƯƠNG TRUNG QUỐC
tuoitre.com.vn
KHUÊ VĂN CÁC VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM
Những khoa thi trong thời nhà Lý
Trong lịch sử giáo dục và khoa cử của các triều đại phong kiến Việt Nam bắt đầuphải kể đến triều Lý Thánh Tông( 1054 - 1072) với việc xây dựng Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công” năm 1070 và triều Lý Nhân Tông (1072 - 1127) với khoa thi đầu tiên tuyển Minh kinh bác học và Nho học tam trường năm 1075. Đó là viên đá tảng đầu tiên chính thức đặt nền móng cho nền giáo dục khoa cử ở nước ta.
Nói đến giáo dục khoa cử Việt Nam cũng cần phải nói tới Nho học với tiến trình hình thành và phát triển. Đã từ lâu đời, Trung Quốc cái nôi của Nho học với bao kinh điển và danh Nho uyên bác đã được truyền bá sang Việt Nam.
Thời Bắc thuộc Nho học với việc giáo dục sơ khai đã được áp dụng trên đất Giao Chỉ. Đến khi Tích Quang và Nhâm Diên nhận chức Thái thú ở Giao Chỉ và Cửu Chân đã mở lớp dựng trường dạy dân theo cách dạy của Nho học Hán tộc.
Sang thời kỳ tự chủ Ngô, Đinh, Tiền Lê tới nhà Lý, kiểu giáo dục ở nước ta mô phỏng theo cách giáo dục của các nhà Đường, Tống Trung Quốc. Xã hội Việt Nam thời kỳ này cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cung tồn tại song hành; trong đó Phật giáo chiếm vị trí cao hơn. Ở thời kỳ hoang sơ ấy, Phật giáo cũng như Đạo giáo rất gần gũi với con người không chỉ về thế giới tâm linh mà cả về thể xác của họ. Lễ nghi tôn giáo lúc đó phù hợp với tín ngưỡng dân gian của người Việt cổ. Người ta tin rằng những nghi lễ thần bí siêu hình, những câu tụng niệm của các nhà sư, những phù chú của các thày pháp là những liều thần dược công hiệu cứu khốn phò nguy, giải trừ tai nạn bệnh tật. Không phải ngẫu nhiên khi các vương triều phong kiến đầu tiên cho đến thời nhà Lý, những thư tịch tài liệu xin du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam không phải là những bộ kinh điển Nho Giáo mà là các sách kinh Phật. Điều này chính sử nước ta đã ghi về kỷ nhà Lý: “Năm Thuận Thiên thứ 9 (1018) mùa hạ tháng 6 sai Viên ngoại lang là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang nước Tống xin kinh Tam tạng”[1].
Sau đó là việc bảo quản, sử dụng truyền bá kinh sách. Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Thuận Thiên năm thứ 14 (1023) mùa thu tháng 9 xuống chiếu chép kinh Tam tạng để ở kho Đại Hưng ”[2] và “Năm Thông Thuỵ Thứ 3 (1036)”tháng 2 xuống chiếu chép kinh Đại Tạng cất ở kho Trùng Hưng”[3].
Trong thể chế quân chủ phong kiến việc bổ nhiệm thăng cấp , gia hàm cho quan tướng là điều tất yếu; Nhưng ở đầu thời Lý, song song với việc này là việc vua và triều đình đặt các cấp bậc cho giới tăng lữ và đạo sĩ. Chính sử cũng đã ghi  vào năm Thuận Thiên thứ 19 (1028): “Lấy Lương Nhậm Văn làm Thái sư, Ngô Thượng Đinh làm Thái phó”Phan Đương Liệt làm Nội thị. Đặt các cấp bậc của tăng đạo”[4].
Trong suốt thời nhà Lý chi phí ngân sách của nhà nước cho việc xây dựng không phải là nhỏ, nhưng tập trung chủ yếu cho việc xây chùa, điện, đền, cho việc đúc chuông, tạo tượng Phật và truyền bá kinh Phật. Đọc sách sử ta cũng thấy ghi rõ về việc này: “Năm Càn Phù Hữu Đạo thứ 2 (1040)” vua sai thợ tạc hơn nghìn pho tượng Phật và hơn nghìn bức tranh Phật, làm Bảo phướn một vạn lá”[5]
“Sử còn ghi nhiều về việc dựng chùa thời Lý. Như năm 1049 dựng chùa Diên Hựu. Năm 1056 dựng chùa Sùng Khánh Báo Thiên và hai chùa Thiên Phúc, Thiên Thọ. Năm 1086 làm chùa ở núi Đại Lâm. Năm 1119 khánh thành chùa Trịnh Lự. Năm 1122 khánh thành Bảo Tháp Sùng Thiện Diên Ninh chùa Đọi. Năm 1134 dựng hai chùa Thiên Ninh và Thiên Thành. Năm 1144 dựng chùa Vĩnh Long và Phúc Khánh. Năm 1161 dựng chùa Pháp Vân (chùa Dâu)”

Chùa Diên Hựu.
Đương nhiên ở thời Lý giới tăng lữ được đề cao, các hoà thượng được đặc biệt coi trọng. Họ không chỉ là những hoà thượng nổi danh mà còn tham gia vào việc triều chính và được vua cũng như triều thần sủng ái. Họ không chỉ giỏi kinh Phật mà uyên thâm cả về Nho học, y học, lý học, số học và đã có những đóng góp tích cực trong sự phát triển của xã hội phong kiến lúc đó. Tính cả kỳ trước phải kể đến tên tuổi của Ngô Chân Lưu[6], Vương Hải Thiềm[7], Từ Đạo Hạnh[8], Dương Không Lộ[9], Nguyễn Giác Hải[10] vv..
Đồng thời ở đây là sự có mặt hiển nhiên của Hoàng đế, vương công quý tộc và các quan liêu lớn nhỏ. Họ chính là sản phẩm của Nho giáo được học hành chu đáo và thực thi chế độ theo đường lối Nho gia. Song ở thời kỳ sơ khai này, khi mà Phật giáo hưng thịnh thì bản thân họ cũng phải quan tâm nhiều đến Phật giáo và hầu hết họ đều uyên thâm về giáo lý kinh Phật. Những điểm nói trên đây những tưởng không liên quan đến vấn đề giáo dục và khoa cử của thời Lý, song thực chất nó là mắt xích nối quan trọng trong sự hình thành và phát triển của giáo dục khoa cử triều Lý nói riêng và các triều đại kế tiếp nói chung.
Đầu thời Lý, Hán học chưa chiếm được địa vị độc tôn, nhưng chữ Hán đã được vua quan cũng như Tăng lữ coi trọng. Họ đã biết rằng muốn hiểu đạo Phật, rõ đạo Lão, muốn truyền bá kinh Phật cho quảng đại dân chúng thì chữ Hán chính là chiếc chìa khoá để người ta đi vào đạo Lão, đạo Phật; Việc dạy chữ Hán không thể tách rời việc truyền bá kinh điển Nho giáo. Đó là một điều có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Suốt cả quá trình phát triển của lịch sử phong kiến Việt Nam, nhất là ở thời Lý, Trần việc dạy và học về cả Tam giáo (Nho, Phật, Lão) là vấn đề cần thiết từ trường lớp tới chế độ khoa cử, cho đến khi đỗ đạt được phong chức tước. Năm 1054 Lý Thánh Tông lên ngôi, nhưng phải đến 16 năm sau khi những viên gạch đầu tiên của nền móng giáo dục khoa cử nước ta mới bắt đầu hình thành. Mùa thu tháng 8 năm Canh Tuất niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) Lý Thánh Tông bắt đầu xây dựng Văn Miếu, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử, Tứ phối[11], vẽ hình thất thập nhị hiền[12] để bốn mùa cúng tế, sai Hoàng Thái tử đến đó học tập.
Về việc đắp tượng thờ đức Khổng Tử cũng xin được nói qua đôi nét về bậc Thánh Nho này và việc thờ phụng ngài ở Trung Quốc. Khổng Tử họ Khổng tên là Khâu, tự Trọng Ni, ngài sinh năm 551 trước Công Nguyên tại nước Lỗ  (Nay thuộc phía Nam tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Thủa nhỏ nổi tiếng thần  đồng, lớn lên nghiên cứu uyên thâm đạo Thánh hiền, san định sách vở đời trước, viết sách và là người sáng lập học phái Nho giáo rồi trở thành Đạo Nho ngang  hàng với Đạo Phật và Đạo giáo. Năm 478 trước Công Nguyên, Khổng Tử qua đời, vua nước Lỗ đã cho lập miếu thờ ngài ở Khúc Phụ. Sang đời Lục triều (420 - 558) các địa phương ở Trung Quốc đã lập miếu thờ Khổng Tử. Sang thời Hán ngài được tôn vinh nhưng vẫn chưa thực hiện thàn lệ việc thờ phụng ngài. Mãi đến thời Đường, Khổng Tử mới được Đường Thái Tông tôn làm tiên thánh và đưa vào thờ ở nhà Thái học, sau đó truyền cho các châu huyện trong toàn quốc dựng  miếu thờ Khổng Tử. Sang đời Đường Huyền Tông, Khổng Tử được tôn làm Nguyên thánh Văn Tuyên vương rồi Chí Thánh Văn Tuyên vương. Về việc xây dựng Văn Miếu Quốc Tử giám không thấy trong sách sử nào ghi chi tiết cụ thể, song từ thực trạng di tích Văn Miếu Quốc Tử giám còn tồn tại đến ngày nay chúng ta cũng hình dung ít nhiều được quy mô của Văn Miếu Quốc tử giám buổi ban đầu.
Năm năm sau ngày khánh thành Văn Miếu, Lý Nhân Tông[13] người kế vị Thánh Tông đã mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử giáo dục Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi: “ất Mão Thái Ninh năm thứ 4 (1075), mùa xuân tháng 2 xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển cho vào hầu vua học”[14]. Ngay sau đó việc mở mang Quốc tử giám, quan tâm đến việc học cũng đã được Lý Nhân Tông và triều thần chú trọng. Hơn một năm sau vào mùa hạ tháng tư, Nhân Tông đổi niên hiệu làm Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ nhất, nhà vua xuống chiếu cầu lời nói thẳng và cất nhắc những người hiền lương có tài văn võ cho quản quan dân. Đồng thời chọn quan viên văn chức người nào biết chữ cho vào Quốc tử giám làm việc. Như vậy danh từ “Quốc tử giám” bắt đầu chính thức xuất hiện ghi trong sách sử, song việc xây dựng, tổ chức hoạt động như thế nào thì không thấy ghi rõ. Không chỉ mở khoa thi có tính chất quy mô như khoa thi Minh kinh bác học năm 1075, nhà Lý còn chú trọng đến việc thi tuyển lại viên làm việc ở các cơ quan trung ương cũng như địa phương theo quy cách mới ngay những năm sau đó. Sử cũ ghi “Đinh Tỵ Anh Vũ Chiêu Thắng năm thứ 2 (1077). Tháng 2 thi lại viên bằng phép viết chữ, phép tính và hình luật”[15]. Người đỗ khoa thi đầu tiên của Nho học Việt Nam được trọng dụng. Đó là Lê Văn Thịnh, ông trải giữ nhiều chức vụ, thăng đến chức Thị lang bộ Binh. Đến năm Quảng Hựu thứ nhất (1085) ông được phong làm Thái sư quyền cao chức trọng, được vua tin dùng. Nhưng đến năm Hội Phong thứ 5 (1096) Lê Văn Thịnh bị ghép vào tội mưu phản và chịu đi đày ở Thao Giang rồi mất tại đó. Điều này phải chăng ít nhiều phản ánh thực trạng xã hội và quan điểm chính trị của các vua Lý và đại thần ở thời kỳ mà Phật giáo vẫn đang hưng thịnh và Nho học buổi đầu hình thành nhưng phải nếm trải gian nan.
Khoa thi thứ hai cũng được tổ chức ở triều Lý Nhân Tông. Chính sử cũng đã ghi lại việc này “Bính Dần, Quảng Hưu năm thứ 2 (1086). Mùa thu tháng 8 thi người có văn học trong nước, sung làm quan ở Hàn Lâm viện, Mạc Hiển Tính trúng tuyển bổ làm Hàn Lâm học sĩ”[16]. Phải đến hơn một nửa thế kỷ sau các khoa thi kế tiếp mới được thực hiện.
Khoa thi thứ 3 vào năm Đại Định thứ 13 (1152) và Khoa thi thứ 4 năm Chính Long Bảo ứng thứ 3 (1165) đời Lý Anh Tông được sách sử ghi chép sơ sài chỉ mấy câu ngắn ngủi “mùa thu tháng 8 thi học sinh”. Hai mươi năm sau khoa thi kế tiếp mới được tổ chức và chính sử có ghi chi tiết hơn: “ất Tỵ Trinh Phù năm thứ 10 (1185)” mùa xuân tháng giêng thi sĩ nhân trong nước, người nào 15 tuổi mà thông thi thư thì được vào hầu học ở ngự diên. Lấy đỗ bọn Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người”[17].
Gần 10 năm sau, khoa thi cuối cùng về Nho học của triều Lý được thực hiện mà các sử gia ghi lại chép liền với việc khảo khóa các quan tướng: “Quý Sửu Thiên Tư Gia Thụy năm thứ 8 (1193). Khảo khóa các quan văn võ trong ngoài, để rõ nên giáng hay thăng. Thi các sĩ nhân trong nước để chọn người vào hầu vua học”[18]. Ở cuối thời Lý còn một khoa thi đặc biệt nữa mà một số sách sau này không thấy ghi. Nhưng tìm kỹ ở chính sử ta sẽ thấy đấy là khoa thi Tam giáo[19] được ghi vẻn vẹn mấy chữ, “ất Mão Thiên Tư Gia Thụy năm thứ 10 (1195)” thi Tam giáo, cho đỗ xuất thân”[20].
Việc khảo khóa các quan văn võ cũng được nhà Lý chú trọng chủ yếu ở thời kỳ cuối cùng của vương triều này. Như năm 1162 tiến hành khảo khóa các quan văn võ, đồng thời là việc phân loại quan chức các cấp. Năm 1179 khảo xét công trạng các quan, những người giữ chức siêng năng tài cán nhưng không có chữ nghĩa làm một loại, người có chữ nghĩa làm một loại, người tuổi cao hạnh thuần biết rõ việc xưa nay làm một loại, cứ theo thứ tự mà trao cho chức vụ trị dân coi quân khiến quan chức không lạm nhũng[21]. Việc khảo khóa các quan văn võ năm 1193 gắn liền với khoa thi cuối cùng ở năm này chứng tỏ vấn đề khảo khoá quan chức thời Lý cũng ít nhiều gắn với việc giáo dục khoa cử, nhất là ở giai đoạn đầu khi mà giáo dục khoa cử đang định hình, xây dựng và phát triển ở những vương triều tiếp nối.
Như vậy kể cả khoa thi Tam giáo, thời Lý tổng cộng có 6 khoa thi mà chính sử đã ghi sơ lược như cách ghi về một số sự kiện lịch sử khác mà sử quan phải làm. Ở đây ta muốn tìm hiểu về vấn đề tổ chức thi cử hoặc danh sách những người đỗ đạt thời Lý thì chắc chắn không tìm được lượng thông tin mà ta mong muốn; Do đó chúng ta phải tìm hiểu vấn đề này qua tài liệu thư tịch Hán Nôm và tư liệu hiện vật văn bia. Những cứ liệu này hiện nay chủ yếu được lưu giữ trong kho bảo quản Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ở tài liệu thư tịch Hán Nôm tập trung chủ yếu trong mảng sách Đăng Khoa lục qua các triều đại tính từ thời Lê sơ trở về sau. Nhưng kể cả Đăng khoa lục và thác bản văn bia, chúng ta khó có thể tìm thấy tài liệu nào ghi về việc tổ chức thi cử, cách thi cử thời Lý. Việc này không thể thực hiện được, vì tài liệu thư tịch, văn khắc Hán Nôm hiện còn chỉ ghi về các khoa thi từ thời Lê sơ đến thời Nguyễn mà tập trung vào hai triều đại nhà Lê và nhà Nguyễn. Về danh sách những người đỗ đạt thời Lý thì tài liệu Đăng khoa lục và thêm vào sự bổ sung của tư liệu văn bia, chúng ta cũng sẽ tìm ra tên tuổi những người đỗ đạt của vương triều này cho dù là không đầy đủ. Đăng khoa lục là thuật ngữ của lĩnh vực khoa cử Nho học dùng để chỉ chung loại tài liệu thư tịch ghi chép về những người đỗ đạt trong các khoa thi. Hiện nay chúng ta mới chỉ có thông tin về lịch sử biên soạn Đăng khoa lục thời Lê sơ, Lê trung hưng và thời Nguyễn.
Tuy nhiên hiện nay vẫn chưa tìm thấy bộ Đăng khoa lục nào thời Lê sơ, nên chúng tôi chỉ dựa trên sự ghi chép về vấn đề này ở một số thư tịch khác, đó là những sách được ghi vào các thời kỳ sau đó. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, BK13, tờ 39a có ghi ngày 13 tháng 4 năm Hồng Đức thứ 15( 1484) triều đình sai ban các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Đăng khoa lục vv.. cho học sinh các phủ. Sách Đăng khoa lục ở đây chắc phải là sách Đăng khoa lục của nước ta được biên soạn trong đời vua Lê Thánh Tông. Điều này hợp với ý kiến của Lê Quý Đôn ghi trong Kiến văn tiểu lục[22]. Hiện nay nghiên cứu về thư tịch tài liệu Đăng khoa lục Việt Nam đã có một vài tác giả, trong đó nổi bật là sách Nghiên cứu văn bản học Đăng khoa lục Việt Nam của TS. Nguyễn Thuý Nga[23]. Tác giả đã thống kê, nghiên cứu về Đăng Khoa lục thời Lê, chủ yếu ở thời Lê Trung hưng. Riêng Đăng khoa lục thời Lê sơ tác giả cũng khẳng định hiện nay chúng ta vẫn chưa tìm thấy bộ Đăng Khoa lục nào ở đời Lê sơ, ngoài những ý kiến như chúng ta đã nêu ở trên, “nhưng chúng ta có cơ sở để tìm thấy bộ đăng khoa lục đầu tiên lưu danh các nhà khoa bảng của nước ta đã được biên soạn vào cuối thế kỷ XV, dưới thời Lê Thánh Tông[24]”. Thư tịch đăng khoa lục dưới thời Lê Trung hưng hiện nay chúng ta còn 7 bộ sách khác nhau trong đó có 2 bộ sách in và 5 bộ sách chép tay, bao gồm 18 văn bản có ký hiệu khác nhau, về xuất xứ, quá trình truyền bản, vấn đề sao chép và tình trạng văn bản có nhiều điểm phức tạp thuộc lĩnh vực văn bản học Hán Nôm. Trước hết xin nói về những bộ sách in, trong đó có cả số ít bản chép tay với nhiều ký hiệu khác nhau. Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn giữ được 7 bản in mang các ký hiệu: VHv.2140, VHv.650/1-2, VHv.651/1-2, VHv.1651/1-2, VHv.239, A.2752/1-2, A.1387 và một bản chép tay. N
goài ra thư Viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện Viện Sử học, Thư viện quốc gia Paris còn giữ được tổng cộng 6 bản nữa. Trong số 7 bản in hiện chỉ còn một bản in duy nhất vào thời Lê Trung hưng có ký hiệu VHv. 2140. Đây là bản có nội dung ghi chép đầy đủ đáng tin cậy được coi là bản nền, sáu bản in còn lại thuộc thời Nguyễn có nhiều điểm hạn chế nhưng khắc in lại, đục bỏ chữ huý, nên dùng để đối chiếu với bản thời Lê. Những bản chép tay của Đăng khoa lục, chúng tôi liệt kê theo cách làm của TS. Nguyễn Thuý Nga. Loại này được phân làm 2 nhóm khác nhau, một có bài tựa và một không có bài tựa. - Nhóm văn bản không có bài tựa. Có 2 bản Đăng khoa lục sao bản ký hiệu A.1785 được xác định chép vào thời Chính Hoà thời Lê Trung Hưng. Lịch đại đại khoa lục ký hiệu A.2119. Được xác định chép vào thời Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hoà( 1680- 1704) - Nhóm văn bản có bài Tựa Lịch đại đăng khoa lục KH: VHv.652 được xác định chép lại vào thời Nguyễn. Đại Việt lịch đại tiến sĩ khoa thực lục KH.A.2040 được xác định chép vào cuối thời Nguyễn. Thiên nam lịch triều tiến sĩ đăng khoa lục KH: VHv.289/1 - 2 được xác định chép vào thời Nguyễn. Liệt huyện đăng khoa bị khảo, có tên đầy đủ là “Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo” Bộ sách này còn 5 bản mang ký hiệu có tên sách khác nhau. Bản A.1335 Thiên Nam lịch triều đăng khoa bị khảo được sao chép vào đời Minh Mệnh thời Nguyễn. Bản VHv. 1289 Lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo được xác định chép vào thời Nguyễn. Bản VHv. 1299. Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo quyển chi được xác định chép vào đời Tự Đức thời Nguyễn. Bản A.2176. Lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo quyển chi ngũ được xác định chép vào thời Nguyễn. Bản A.485/1-5 đóng thành 5 tập khác nhau. Trong đó tập 1, tập 2 và tập 3 với tên gọi Thiên Nam lịch triều đăng khoa lục bị khảo tập thượng, Thiên Nam lịch triều đăng khoa lục tập trung và Thiên Nam lịch triều đăng khoa lục tập hạ. Ba tập còn lại là tập 4, tập 5 và tập 6 đều có tên là Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo. Đây là bộ sách được xếp vào dạng rất khó trong công tác văn bản học, xác định niên đại. Qua tình hình biên soạn Đăng khoa lục thời Lê qua các thời kỳ như đã nói trên có thể thấy rằng sự đa dạng của Đăng khoa lục đã phát sinh những dị biệt trong nội dung ghi chép. Ngoài thư tịch Đăng khoa lục ra, rải rác trong các văn bia và tài liệu khác cũng có những thông tin liên quan đến các khoa thi và tính danh, tiểu sử sơ lược các nhà khoa bảng. So sánh Đăng khoa lục với các tài liệu này sẽ thấy có nhiều điểm dị biệt, chủ yếu ở các điều ghi chép về khoa thi, danh tính, năm sinh, học vị quê quán của người thi đỗ và hành trạng làm quan cùng chức tước được phong của họ. Trong đó thông tin được chú trọng ở đây là Danh tính và quê quán của các nhà khoa bảng. Bên cạnh tư liệu thư tịch Đăng khoa lục và các tài liệu khác thì tư liệu hiện vật Bi ký cụ thể là Bia tiến sĩ ở Văn Miếu Hà Nội là tư liệu rất quan trọng trong việc đối chiếu dị biệt tìm ra thông tin chính xác ghi về các nhà khoa bảng. Hệ thống bia Tiến sĩ được dựng đầu tiên vào niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) Thời Lê sơ do vua Lê Thánh Tông sáng lập đặt ra. Mười tấm bia được dựng truy lập cho mười khoa thi từ khoa Nhâm Tuất Đại Bảo 3 (1442) đến Hồng Đức15 (1454) kể cả sau này tổng số văn bia được dựng thời Lê sơ là 20 chiếc. Sau đó bị phá mất 9 bia chỉ còn 11 bia. Thời Mạc có dựng thêm bia Tiến sĩ ở Văn Miếu.
Đến thời Lê Trung Hưng số lượng dựng bia Tiến sĩ ở Văn Miếu được tăng rất nhiều. Tổng cộng các thời kỳ, bia Tiến sĩ ở Văn Miếu Quốc tử giám là 82 chiếc. Đó là những tư liệu hiện vật quý giá quan trọng cho ta lượng thông tin chuẩn xác bổ sung nhiều cho tài liệu thư tịch Đăng khoa lục. Như vậy dựa trên cơ sở thư tịch Đăng khoa lục, đồng thời đối chiếu với bia Tiến sĩ Văn Miếu và một số tài liệu khác chúng ta đã biết được tên họ và khoa thi đỗ của các nhà khoa bảng thời Lý. Nhưng ở đây có sự khác biệt, không thống nhất về cách ghi niên hiệu khoa thi thời Lý từ những tài liệu khác nhau. Bên cạnh đó cả việc ghi chép tên họ, quê quán và khoa thi của một số nhà khoa bảng cũng có sự khác biệt giữa các tài liệu, thậm chí có trường hợp khác hẳn với chính sử. Đây là một vấn đề phức tạp bởi vì chúng ta không thể coi một tài liệu nào là tài liệu chuẩn xác nhất trong khối thư tịch, văn bản, bi ký ghi chép về những khoa thi họ tên người đỗ đạt thời Lý. Do đó chúng tôi phải dựa vào những thống kê đã công bố ở sách “Các nhà Khoa bảng Việt Nam” và trong phần “Thông tin về họ tên nhà khoa bảng ở sách Nghiên cứu văn bản học trong đăng khoa lục Việt Nam, đồng thời tham khảo đối chiếu ở tài liệu Đăng khoa lục chữ Hán và bia Văn Miếu để giới thiệu tên họ của các nhà khoa bảng thời Lý”. Người đầu tiên thi đỗ mà chính sử ghi là Lê Văn Thịnh đỗ khoa thi Minh kinh bác học và Nho học Tam trường năm Thái Ninh thứ 4 (1075). Nhưng theo LTĐK (Bổ di) ghi người đỗ đầu khoa văn học tuấn tú thời Lý Thành Tông (1054- 1072) lại có tên là Lý Dụng Quang Đừ . Như vậy đây là khoa thi Nho học đầu tiên ở nước ta, khoa Văn học tuấn tú có phải là khoa thi Minh kinh bác học không? Lý Dụng Quang có phải là Lê Văn Thịnh không? Tài liệu nào là chính xác? Đối chiếu với văn bia Bắc Ninh( ký hiệu N0 4932 thư viện Hán Nôm) có tên là “Bắc Ninh lịch triều Đại khoa bi ký” chúng tôi thấy nội dung văn bia ghi tên họ những người đỗ Đại khoa. Dòng đầu ghi: “Lý, Thái Ninh, ất Mão khoa, Minh Kinh Bác học đệ nhất danh Trạng nguyên Lê Văn Thịnh, Gia Định, Đông Cứu, sĩ tứ Thái sư”.Dịch là: “Đời Lý, khoa ất Mão, niên hiệu Thái Ninh(1075), thi Minh Kinh bác học, đỗ đệ nhất danh trạng nguyên Lê Văn Thịnh, người xa Đông Cứu, huyện Gia Định, làm quan đến chức Thái sư”. Ở đây bia ghi về Lê Văn Thịnh đỗ Trạng nguyên là chưa chuẩn xác, vì danh hiệu Trạng nguyên mãi đến năm 1247 đời Trần Thái Tông mới được đặt. Nhưng mặt khác việc ghi tên Lê Văn Thịnh trên bia cũng chứng minh được phần nào sự thống nhất với chính sử về nhân vật này, còn nhân vật Lý Dụng Quang và khoa văn học tuấn tú đã nêu trên cần phải xem lại. Trùng với ghi chép trong chính sử, Lịch triều đăng khoa ghi Bùi Quốc Khái đỗ khoa thi năm Trinh Phù thứ 10(1185). Trong Lịch triều đăng khoa phần Biệt lục có ghi 5 người đỗ khoa thi năm Mậu Thìn Trinh Khánh 3 (?) là Phạm Công Bình, Nguyễn Viết Chất, Vương Văn Hiệu đế , Dương Chính và Phạm Tử Hư. Nhưng trong niên biểu lịch sử không có niên hiệu Trinh Khánh mà chỉ có niên hiệu Trinh Phù. Đồng thời trong chính sử lại không ghi chi tiết về tên từng người đỗ có được tư liệu đối chiếu với 5 người ghi trong Biệt lục của Lịch Triều Đăng khoa lục này. Theo các tư liệu khác như thư tịch bi ký ngoài Đăng khoa lục như Từ Liêm huyện Đăng khoa chí do Bùi Xuân Nghi biên tập KH A.506 có ghi các vị đỗ Thái học sinh thời Lý là Tô Hiến Thành người xã Hạ Mỗ huyện Từ Liêm( Hà Nội) và Đỗ Kính Tu Đự người xã Vân Canh, huyện Từ Liêm (Hà Nội). Họ tên 2 người này còn thấy ghi trong thác bản văn bia “Bản phủ tiên hiến chư đăng khoa bi”. KH: N0 778-779. Chúng ta còn tìm thấy họ tên các nhà khoa bảng trong bi ký sách địa phương chí ghi đỗ đầu khoa thi triều Lý (1010 - 1125) như Phạm Đình Lương xã An Minh huyện Chí Linh( Hải Dương) và Trần Đình Nguyên  xã Lý Dương huyện Chí Linh (Hải Dương). Sách Hải Đông chí lược (A.103) lại ghi là Trần Đăng Nguyên người Chí Linh đỗ Thái học sinh năm Chính Long Bảo ứng 3 (1165). Từ văn bia còn tìm ra thêm tên họ các nhà khoa bảng nữa là: Mạc Kiến Quang xã Lũng Động, huyện Chí Linh (Hải Dương) đỗ khoa thi Văn học năm Kỷ Tỵ niên hiệu Chính Long Bảo ứng (1162- 1173), Liêu Hiến Chương, Liêu Hiến Quang xã Hương Ngải, huyện Thạch Hà Nội Thất đều đỗ Thái học sinh triều Lý. Vũ Nghiêu xã Mộ Trạch huyện Đường An đỗ Thái học sinh triều Lý. Trong cuốn Các nhà khoa bảng Việt Nam[25] ghi về các vị khoa bảng triều Lý gồm cả quê quán năm thi đỗ cũng chỉ thấylà được 11 vị kể cả phần Biệt lục và Bổ di, xin được trích giới thiệu để thuyết minh rõ hơn về một số vị khoa bảng đã nêu ở trên hoặc chưa có tên. Lê Văn Thịnh, Người làng Đông Cứu huyện Gia Định (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Đỗ khoa Minh kinh bác học niên hiệu Thái Ninh 4 (1075) Mạc Hiển Tích người làng Lũng Động huyện Chí Linh (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Đỗ dầu các khoa chọn người tài văn học năm Bính Dần niên hiệu Quý Hựu 2 (1068) đời Lý Nhân Tông, được bổ giữ chức Hàn lâm viện học sĩ, sau thăng đến Thượng thư. Đỗ Thế Diên Đự tức Đỗ Thế Bình người làng Cổ Liêu huyện Đường Hào (nay thuộc tỉnh Hải Dương), đỗ khoa ất Tỵ niên hiệu Trinh Phù 10 (1185) đời Lý Cao Tông. Làm quan đến chức Triều nghị đại phu, Thủ Nội thư sảnh, Đồng tri quảng từ cung công sự kiêm Phán thẩm hình viện, hàm Thượng trụ quốc. Bùi Quốc Khái người xã Bình Lãng huyện Cẩm Giàng (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Đỗ khoa ất Tỵ niên hiệu Trinh Phù thứ 10 (1185). Đặng Nghiêm người làng An Để huyện Thư Trì (nay thuộc tỉnh Thái Bình) - Đỗ khoa ất Tỵ niên hiệu Trinh Phù thứ 10 (1185). Phần Biệt lục ghi đầy đủ quê quán năm đỗ của 5 người đỗ năm Trinh Khánh 3( ?) đã nêu. Phạm Công Bình người huyện Yên Lạc (nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên) đỗ thứ nhất Đệ nhất giáp khoa thi Thái học sinh năm Mậu Thìn niên hiệu Trinh Khánh 3 đời Lý Huệ Hoàng. Nguyễn Viết Chất người huyện Phượng Sơn (nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Đỗ thứ 2 Đệ nhất giáp khoa thi Thái học sinh khoa Mậu Thìn - Trinh Khánh 3 đời Lý Huệ Hoàng. Vương Văn Hiệu đế người huyện Thượng Hiền (nay thuộc tỉnh Nam Định). Đỗ thứ ba Đệ nhất giáp khoa thi thái học sinh Mậu Thìn - Trinh Khánh 3 đời Lý Huệ Hoàng. Dương Chính người huyện Thượng Phúc (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội). Đỗ đệ nhị giáp khoa thi thái học sinh năm Mậu Thìn - Trinh Khánh 3 đời Lý Huệ Hoàng. Phạm Tử Hư người xã Nghĩa Lư huyện Cẩm Giàng (nay thuộc tỉnh Hải Dương). Đỗ đệ tam giáp khoa thi Thái học sinh năm Mậu Thìn - Trinh Khánh 3 đời Lý Huệ Hoàng. Trường hợp Phạm Tử Hư còn thấy chép trong sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Phạm Tử Hư du thiên tào lục - tuý tiêu truyện). Về năm người thi trong phần Biệt lục này, theo chú thích của nhóm tác giả Ngô Đức Thọ - Nguyễn Thuý Nga - Nguyễn Hữu Mùi thì “Lý Huệ Hoàng có thể hiểu là Lý Huệ Tông (1211 1224). Nhưng triều vua này không có niên hiệu Trinh Khánh, mà năm Mậu Thìn (1208) lại thuộc triều Lý Cao Tông (1176 - 1210). Triều vua này có niên hiệu Trinh Phù mà không có niên hiệu Trinh Khánh. Vì có sự thiếu nhất trí như vậy, chưa có cứ liệu để xác minh, cho nên chỉ có thể ghi lại theo Biệt lục của LTĐK để tham khảo”[26]. Phần Bổ di của Lịch Triều Đăng khoa ghi Lý Dụng Quang chưa rõ quê quán, đỗ đầu khoa thi Văn học tuấn tú đời Lý Thánh Tông (1054 - 1072). Xét về giai đoạn lịch sử nhìn chung một số sách và bài viết đã xuất bản các tác giả thường xếp triều Lý, triều Trần làm một giai đoạn gọi là thời Lý - Trần.
Có người còn xếp thêm thời nhà Hồ gọi là thời Lý - Trần - Hồ. Cách xếp như vậy cũng hợp lý, vì đấy là những thời kỳ có thời gian rất xa so với hiện tại và hầu hết tư liệu văn hoá Hán Nôm đã bị mất mát, nhất là tài liệu thư tịch, văn bản hành chính. Trong giai đoạn Lý - Trần - Hồ thì tư liệu về thời Lý nói riêng lại càng khan hiếm. Do đó việc tìm lại tư liệu viết về vấn đề tổ chức khoa thi thời Lý là khó thực hiện được. Bên cạnh là việc tìm lại tên tuổi, quê quán của các nhà khoa bảng thời Lý cho đầy đủ cũng không phải là dễ.
Như chúng tôi đã trình bầy ở trên, dựa vào nhiều nguồn tư liệu, từ tư liệu thư tịch đến tư liệu hiện vật văn khắc, từ chính sử đến các sách đã xuất bản, chúng ta cũng mới chỉ giới thiệu sơ lược về các khoa thi đời Lý và tên tuổi, quê quán của một số nhà khoa bảng trong giai đoạn này. Việc sưu tầm tư liệu thời Lý - Trần, tìm ra thêm tên tuổi người đỗ đạt và thông tin nói về vấn đề tổ chức thi cử thời Lý là việc cần tiếp tục, đó cũng là điều mong muốn của những người làm công tác nghiên cứu Hán Nôm nói riêng và Khoa học xã hội - văn hoá nói chung.
TS. Nguyễn Công Việt
 

Khoa học và giáo dục thời Tây Sơn (1786-1802)
Khoa học và giáo dục thời Tây Sơn (1786-1802)


Chiêú Nôm- Bút tích của Nguyễn Huệ gửi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
Ngay năm 1789, sau khi vừa tiêu diệt quân Thanh, Quang Trung đã mở khoa thi Hương đầu tiên ở Nghệ An do Nguyễn Thiếp làm Chánh chủ khảo.
Sau đó Quang Trung ban bố Chiếu lập học tổ chức lại việc học hành và thi cử. Khoa cử dần dần trở thành phương thức đào tạo quan liêu quan trọng, nhưng trong buổi đầu cách tuyển dụng quan liêu chủ yếu vẫn là lối tiến cử và cầu hiền.
Trong quá trình phát triển của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Huệ rất chú ý thu nạp nhân tài, trọng dụng những sĩ phu thành tâm theo mình. Giải nguyên Trần Văn Kỷ, người huyện Hương Trà, xứ Thuận Hóa, là một sĩ phu nổi tiếng ở Đàng Trong đã sớm trở thành người bí thư riêng đắc lực và trung thành của Bắc Bình vương với chức Trung thư lệnh.

Lần ra Bắc năm 1788, Nguyễn Huệ thu dụng nhiều sĩ phu Bắc Hà như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Thế Lịch, Trần Bá Lãm, Nguyễn Nha, Đoàn Nguyễn Tuấn…
Năm 1791 Sùng Chính viện thành lập ở Nghệ An cũng tập hợp nhiều sĩ phu có tiếng như Nguyễn Thiếp, Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Định, Bùi Dương Lịch. Nhiều quan lại cũ của họ Trịnh, vua Lê vẫn được giữ những chức tước trong chính quyền mới. Trong số những sĩ phu, quan lại cũ theo Quang Trung có nhiều người tỏ ra trung thành phục vụ đắc lực cho triều đại mới như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích… Đây là lực lượng chủ yếu góp phần phát triển công tác nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn tại mảnh đất Bắc Thành – Thăng Long.

Ngô Thì Nhậm là cây bút tiêu biểu nhất dưới thời Tây Sơn của đất Thăng Long.

Ngô Thì Nhậm học rất thông minh. Ông bước vào con đường trước thuật rất sớm. Năm 16 tuổi (1761), dưới sự hướng dẫn của cha, ông đã viết công trình sử học đầu tiên, cuốn Nhị thập tứ sử toát yếu. Năm 1766, lúc 20 tuổi, ông soạn cuốn Tứ gia thuyết phả.

Cuối năm 1788, khi 29 vạn quân Thanh sang xâm chiếm nước ta, Ngô Thì Nhậm là người có công lao lớn đóng góp vào sự nghiệp đại phá quân Thanh. Sau chiến thắng oanh liệt năm 1789, Ngô Thì Nhậm được Quang Trung giao cho giữ vai trò chủ yếu trong công tác ngoại giao với nhà Thanh.

Ngô Thì Nhậm, với các loại nghiên cứu địa lí, lịch, phê bình (văn học, lịch sử), bình luận chính trị, xã hội, văn từ hành chính, thư từ bang giao… hết sức phong phú và uyên bác, đến nay còn giúp ích cho chúng ta nhiều tài liệu rất quý để tìm hiểu đánh giá các mặt kinh tế, văn hóa, triết học, ngoại giao của thời kì Lê mạt và Tây Sơn.

Nghiên cứu khoa học thời Tây Sơn trên đất Thăng Long còn phải kể tới những tên tuổi khác như: Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Cao Huy Diệu, Ngô Ngọc Du, Ninh Tốn, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Hữu Chỉnh…

Sau khi chiếm được Bắc Thành từ tay triều Tây Sơn, Gia Long không định đô ở đây mà chọn Phú Xuân (Huế) làm kinh đô của cả nước. Từ đấy, Thăng Long phải chịu một sự chuyển đổi lớn: từ địa vị là kinh đô trong gần 800 năm trước, nay là một trấn thành rồi tỉnh thành.
 GS Vũ Khiêu

Khoa học và giáo dục thời Lê - Trịnh (1533-1789)
Khoa học và giáo dục thời Lê - Trịnh (1533-1789)

Đời sống đô thị Thăng Long và sự khủng hoảng tư tưởng thời Lê – Trịnh

Dưới thời Lê Trung hưng, các chúa Trịnh tiến hành những đợt xây cất, mở rộng kinh thành Thăng Long, trong suốt thế kỉ XVII và đầu thế kỉ XVIII. Ngay trong khi tiến quân trở về kinh thành, Trịnh Tùng cho sửa hoàng thành, sai thợ làm cung điện, làm hành cung ở phía tây nam thành Thăng Long.

Đời sống văn hóa – giáo dục của Thăng Long trong thời kì này phát triển hơn trước. Các trường học đường mở nhiều hơn. Trường Quốc Tử Giám được xây dựng rộng lớn hơn trước và thường xuyên nhận vào lưu trú những học sinh đã thi Hương trúng tuyển bốn kì, gọi là Giám sinh.

Trong thời kì này, ở Thăng Long cũng có hiều trường tư do các danh nho, danh sĩ đương thời lập nên.

Trong suốt thời Lê Trung hưng, khoa thi mở nhiều, học trò thi đỗ được hậu đãi, quan lại tuyển dụng nhiều, nên người ta xô nhau đi thi, xô nhau tìm cách ra làm quan. Tình trạng thi cử ngày càng đồi bại, nhất là từ thế kỉ XVII trở đi: học sinh đua nhau mang theo bài làm sẵn vào trường thi hoặc nhờ người khác làm hộ. Đa số thí sinh dùng tiền tài, dùng thần thế để được đỗ, do đấy khoa thi nào, số người trúng tuyển không xứng đáng cũng tới quá nửa.

Do đó, chúng ta thấy phái nhà Nho từ thời Lê Trung hưng trở đi, nhất là ở thời Lê mạt, không còn có được cốt cách thanh cao, hành vi nghĩa khí nữa, mà đa số chỉ còn là một bọn biết chữ vụ lợi, xu thời mà thôi.

Sự phát triển hơn nữa của sử học

Thời kì Lê Trung hưng so với thời kì trước đã có nhiều người chú ý viết về lịch sử nước nhà hơn và đã để lại được nhiều tác phẩm và tài liệu quý giá về lịch sử. Trước hết chúng ta hãy điểm qua về phần chính sử.

Một bộ sử đầy đủ nhất là Đại Việt sử ký toàn thư hoàn thành và xuất bản năm Chính Hòa thứ 18 (1697) đời Lê Hy Tông chép từ Hồng Bàng đến Lê Gia Tông (1633-1675).

Ngoài bộ chính sử trên và ngoài bộ Hoàng Lê ngọc phổ (Tựa viết cuối đời Cảnh Hưng) và quyển Trịnh gia thế phổ dùng để đối chiếu niên đại, còn có những tác phẩm viết riêng về một thời đại, một địa phương, hay bàn về một số vấn đề lịch sử nước nhà như:

- Lê triều trung hưng công nghiệp thực lục của Hồ Sĩ Dương.

- Đại Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoàn.

- Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo của Phan Huy Ôn.

- Việt sử bị lãm của Nguyễn Nghiễm.

- Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ.

Đặc biệt, một cuốn sử viết bằng thơ xuất hiện ở thời kì này, đó là quyển Thiên Nam ngữ lục, dài hơn 8.000 câu thơ thể lục bát.

- Hoàng Lê nhất thống chí hay An Nam nhất thống chí của Ngô Thì Chí và các tác giả trong Ngô gia văn phái, chép công việc từ đời Trịnh Sâm đến lúc nhà Trịnh mất nghiệp (1787), viết theo thể Tam quốc chí diễn nghĩa, có 7 hồi và một bản tục biên 9 hồi nữa, chép tiếp từ khi Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc đến khi di hài được đem về táng ở Bàn Thạch (Thanh Hóa), trong này có chép nhiều công việc triều Tây Sơn.
 GS Vũ Khiêu

Khoa học và giáo dục thời Mạc (1527-1592)
Khoa học và giáo dục thời Mạc (1527-1592)

Chỉ sau 5 năm cầm quyền, nhà Mạc đã xây dựng được một xã hội thái bình thịnh trị: “Họ Mạc ra lệnh cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường phố. Ai vi phạm thì cho pháp ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc của nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên” (Toàn thư, tập III. Sđd, tr. 115).

Dưới triều Mạc, Thăng Long không chỉ phát triển công nghiệp mà hoạt động thương nghiệp cũng tự do hơn trước. Ngoài những chợ chính có từ các triều đại trước, triều Mạc còn cho phép những vùng phụ cận ven kinh đô được mở thêm những chợ mới, thí dụ như chợ Phù Ninh (Ninh Hiệp, Gia Lâm – Hà Nội) đã từng được mở rộng vào thời Mạc để chuyên buôn bán vải vóc và các vị thuốc Bắc.

Thăng Long hơn nửa thế kỉ (1527-1592) sống dưới thời nhà Mạc là một đô thị đang trên đà phát triển kể cả về kinh tế, kể cả về văn hóa. Với một chính sách khá cởi mở đối với thương nghiệp, nhà Mạc không đến nỗi ức thương như nhà Lê trước đó, nên đời sống Thăng Long thời này ổn định hơn, người dân kinh thành sống dễ chịu hơn.

Chỉ sau 5 năm cầm quyền, nhà Mạc đã xây dựng được một xã hội thái bình thịnh trị: “Họ Mạc ra lệnh cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường phố. Ai vi phạm thì cho pháp ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc của nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên” (Toàn thư, tập III. Sđd, tr. 115).

Dưới triều Mạc, Thăng Long không chỉ phát triển công nghiệp mà hoạt động thương nghiệp cũng tự do hơn trước. Ngoài những chợ chính có từ các triều đại trước, triều Mạc còn cho phép những vùng phụ cận ven kinh đô được mở thêm những chợ mới, thí dụ như chợ Phù Ninh (Ninh Hiệp, Gia Lâm – Hà Nội) đã từng được mở rộng vào thời Mạc để chuyên buôn bán vải vóc và các vị thuốc Bắc.

Thăng Long hơn nửa thế kỉ (1527-1592) sống dưới thời nhà Mạc là một đô thị đang trên đà phát triển kể cả về kinh tế, kể cả về văn hóa. Với một chính sách khá cởi mở đối với thương nghiệp, nhà Mạc không đến nỗi ức thương như nhà Lê trước đó, nên đời sống Thăng Long thời này ổn định hơn, người dân kinh thành sống dễ chịu hơn.
Thăng Long thời mạc, về mặt văn hóa – giáo dục cũng có bước tiến đáng ghi nhận so với thời cuối Lê sơ. Vào năm 1527, vừa mới lên ngôi, Mạc Đăng Dung đã cho thu thập các cựu thần nho sĩ của triều Lê, bổ dụng họ giữ nhiều chức vụ cao trong triều, tìm kiếm và trưng dụng nhiều con cháu các nhà công thần thế gia cho tiếp tục học tập và làm việc. Tính đến tháng 2 năm 1528, Mạc Đăng Dung đã thăng trật và phong tước cho tất cả 56 người mà hầu hết là những công thần và những người đã đỗ đạt của triều Lê.

Để cố kết nhân tâm và thu phục nhân tài, tăng cường sức mạnh cho triều đại của mình, ngay từ khi mới thay thế triều Lê, các ông vua đầu triều Mạc vẫn đề cao Nho giáo. Sử cũ cho biết: “Mùa xuân năm Bính Thân (1536), Mạc Đăng Dung sai Đông quân Tả đô đốc Khâm quận công Mạc Đình Khoa tu sửa lại trường Quốc Tử Giám”8. Và tháng giêng năm sau, Đinh Dậu (1537): “Mạc Đăng Doanh đến trường Thái Học làm lễ thích điện tế Tiên Thánh (Chu Công), Tiên Sư (Khổng Tử)9. Nhiều nhà nghiên cứu đã thừa nhận: So với triều Lê sơ, đời sống văn hóa – tư tưởng dưới triều Mạc phong phú, đa diện hơn và cởi mở hơn.

Một trong những công việc cần thiết để tạo ra đội ngũ quan liêu, làm cơ sở xã hội cho vương triều của mình là mở các khoa thi Tiến sĩ. Việc tổ chức thi cử này không ngoài mục đích xây dựng một tầng lớp phong kiến trung thành với nhà Mạc, phò tá triều Mạc tồn tại và phát triển.

Trong 65 năm (1527-1592) tồn tại với tư cách là một vương triều, đóng đô ở Thăng Long, nhà mạc đã tổ chức được 22 kì thi Hội, lấy đỗ được 485 Tiến sĩ, trong đó có 13 Trạng nguyên, và còn biết bao Hương cống, Sinh đồ, mà sử sách không ghi lại được danh tính. Trong lịch sử giáo dục khoa cử Việt Nam, sau thời thịnh đạt Lê Thánh Tông (1460-1497), thì chỉ có triều Mạc mới liên tục thực hiện được quy chế tuần tự cứ 3 năm một lần mở khoa thi Hội. Số lượng khoa thi Hội, cũng như chất lượng Tiến sĩ dưới triều Mạc cũng có thể so sánh được với thời Lê Thánh Tông. Những vị Tiến sĩ, Trạng nguyên được nhà Mạc lựa chọn phần lớn đều là những thực tài và có những đóng góp đáng kể đối với lịch sử văn hóa dân tộc, trong đó tiêu biểu hơn cả là Nguyễn Thiến, đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn (1532), Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi (1535) và Giáp Hải đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Tuất (1538).
 
Chính sách quan tâm tới giáo dục, khoa cử nho học của triều Mạc khiến cho ở kinh đô Thăng Long cũng như ở các địa phương trong phạm vi thống trị của Bắc triều một không khí học tập được đẩy mạnh. Chính cái học phong ấy đã góp phần đào tạo nên một đội ngũ trí thức khá đông đảo và công cuộc nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở đất kinh đô Thăng Long dưới triều Mạc khá hưng thịnh.
 GS Vũ Khiêu

Khoa học và giáo dục thời Lê sơ (1428-1527)
Nho giáo chiếm địa vị độc tôn và việc giáo dục, thi cử Nho học

Sang thời Lê sơ, từ đầu thế kỉ XV, Nho giáo tiến lên địa vị độc tôn, phục vụ đắc lực chế độ phong kiến tập quyền đang phát triển mạnh mẽ lúc bấy giờ, nhưng đồng thời Phật giáo và Đạo giáo vẫn được duy trì trong chừng mực có lợi cho địa vị thống trị của giai cấp phong kiến.

Tư tưởng Nho giáo thống trị ở nước ta trong thời Lê Sơ là tư tưởng triết học của phái Tống Nho, một phái chính thống do Chu Hy đứng đầu, hình thành ở Trung Quốc vào thế kỉ XI – XII.

Theo Đỗ Nhuận thì vua Lê Thánh Tông là một người rất am hiểu và tôn sùng Lý học của Tống Nho: “Về phần Lý học, hoàng thượng vừa sáng suốt vừa rộng khắp, ở trong lí lẽ phức tạp có sự phân biệt rõ ràng, nghĩa lí tinh vi sâu sắc…”. Lê Thánh Tông quan niệm “đạo là sự việc đương nhiên rõ ràng dễ biết; lí là cái lí do dĩ nhiên (tức lí do phát sinh ra sự vật – TG) huyền vi mầu nhiệm khó mà thấy được…” (Toàn thư. Sđd, tập 2, tr. 466). Đạo chính là quy luật của sự vật mà lí trí con người có thể nhận thức được, còn lí là một yếu tố tinh thần huyền bí làm khởi nguyên của mọi sự vật. Đó chính là tư tưởng triết học duy tâm của học thuyết Tống Nho.

Trong xã hội phong kiến thế kỉ XV, địa vị của tầng lớp nho sĩ được đề cao làm rường cột của Nhà nước phong kiến, làm nguồn bổ sung của bộ máy phong kiến quan liêu. Tầng lớp nho sĩ ấy do chế độ giáo dục và thi cử lấy Nho giáo làm nội dung đào tạo ra. Tài liệu học tập và đề tài thi cử đều lấy trong Tứ thư, Ngũ kinh, Tinh Lý và Bắc sử (sử trung Quốc từ đời Tống về trước – TG), đặc biệt là bộ Tứ thư, Ngũ kinh do những học giả của phái Tống Nho, nhất là Chu Hy chú giải.

Việc Nhà nước độc tôn Nho giáo, dẫn đến một hệ quả khá tích cực là việc giáo dục và thi cử Nho học được đề cao và mở rộng. Và khi tầng lớp kẻ sĩ tài danh được lựa chọn qua khoa cử càng đông đảo thì lực lượng nghiên cứu, trước tác cũng càng phát triển. Không phải ngẫu nhiên, trên cả nước nói chung và tại Thăng Long nói riêng, khoa học xã hội và nhân văn thời kì này thu được những thành tựu đáng ghi nhận. Ngay từ năm 1428, khi đất nước vừa được giải phóng, Lê Lợi đã lo tổ chức trường học làm nơi đào tạo nhân tài cho đất nước. Ông cho lập ra nhà Quốc Tử Giám ở kinh đô và các trường học ở các lộ. Con em của tầng lớp quý tộc quan liêu và một số ít con em của tầng lớp bình dân ưu tú được lựa chọn vào học ở Quốc Tử Giám gọi là Giám sinh. Năm 1429, triều đình quy định con các quan văn từ Thượng thư xuống đến thất phẩm và quan võ từ chức Đồng tri đến chức Đại đội trưởng, từ 9 đến 17 tuổi đều được vào nhà Quốc học học tập. Năm 1437, triều đình cho con cháu ngành đích của các quan văn võ từ lục phẩm trở lên đều được miễn thuế thân và mọi thứ tạp dịch, được vào học trong Quốc Tử Giám. Như vậy, Quốc Tử Giám căn bản là trường học dành riêng cho con em tầng lớp quý tộc quan lại cao cấp. Con em nhân dân phải học qua các trường lộ, qua những kì sát hạch lựa chọn mới được vào Quốc Tử Giám. Năm 1434, triều đình cho các đạo mở kì thi sát hạch cho các lộ hiệu sinh, lấy trên 1.000 người trúng tuyển, trong đó có những người trúng tuyển vào bậc nhất, bậc nhì được vào học ở Quốc Tử Giám, còn người trúng tuyển bậc ba vẫn phải học ở các trường lộ.

Mùa xuân năm 1442, triều đình mới mở khoa thi Hội đầu tiên. Khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) này có 450 người dự thi, có 33 người trúng cách. Ba mươi ba người này được vào thi Đình (hay thi Điện), do Lê Thái Tông thân ra đề thi và kết quả có 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ: Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyên Như Đổ đỗ Bảng nhãn, Lương Như Học đỗ Thám hoa; 7 người đỗ Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) và 23 người đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân, trong đó có nhà sử học Ngô Sĩ Liên. Cũng trong khoa này, lần đầu tiên triều đình định lệ xướng danh, treo bảng vàng, ban mũ áo, cấp ngựa, ăn yến và lệ vinh quy cho những người trúng tuyển để đề cao chế độ khoa cử, làm nức lòng các sĩ tử.

Vào năm Hồng Đức thứ 15 (1484), lần đầu tiên trong lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam, kể từ khoa Ất Mão (1075) đến lúc này, Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến sĩ đặt ở Văn Miếu kinh đô Thăng Long.

Trong số các bài văn bia, nổi bật hơn cả là bài văn bia khoa Nhâm Tuất năm Đại Bảo thứ 3 (1442) do Hàn lâm viện thừa chỉ Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn. Thân Nhân Trung viết: “Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thể cường dĩ long, nguyên khí nỗi tắc quốc thể nhược dĩ ô…” (Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu và càng xuống thấp…).

Vương triều Lê sơ cho dựng bia Tiến sĩ, ngoài mục đích nhằm biểu dương những người đỗ đại khoa, nhưng cũng là để cảnh tỉnh, răn đe. Điều này được Thân Nhân Trung và nhiều người khác nhắc đi, nhắc lại trong các bài văn bia do họ soạn. Trong Bài kí đề tên Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1442), Thân Nhân Trung viết: “Kẻ sĩ chốn trường ốc lầu tranh, số phận thật nhỏ bé mà được triều đình đề cao như vậy thì cái chí của họ vì tự trọng bản thân mà phải lo báo đáp. Hãy đem tên họ những người đỗ đại khoa này mà kê lại. Những người đưa văn học, chính sự tô điểm cho cảnh trị bình trong khoảng mấy chục năm trở lại đây, được quốc gia tin dùng kể cũng nhiều. Nhưng trong số đó cũng có kẻ vì hối lộ mà hư hỏng, hoặc sa ngã vào loại với bọn gian ác, là bởi vì lúc họ sống chưa được nhìn thấy tấm bia đá trinh bạch này thôi. Giả sử, hồi đó họ kịp nhìn thấy thì ắt hẳn lòng thiện sẽ tràn đầy, ý ác được ngăn chặn, đâu dám làm chuyện càn bậy. Thế thì việc dừng tấm bia đá này, ích lợi biết chừng nào. Kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà cố gắng, chứng rõ về trước, chỉ rộng về sau, một là để mài giũa danh tiết cho sĩ phu, hai là để giúp mệnh mạch cho nước nhà. Việc thánh quân làm chẳng phải ngạc nhiên, ai trông vào nên hiểu ý sâu xa đó”. Những tấm bia Tiến sĩ ấy đã làm nức lòng phấn chí biết bao sĩ tử đang miệt mài kinh sử, đua tranh trên con đường khoa cử và hiện nay còn lại như dấu vết một quá khứ thịnh đạt của nền giáo dục thi cử phong kiến.

Sử học được phát triển cao và là phần quan trọng nhất của khoa học xã hội và nhân văn thời Lê sơ

Với tinh thần “Văn - Sử - Triết bất phân”, hầu hết giới quan lại đều nắm chắc, các nhà sáng lập nên triều đại và toàn thể trí thức, đều có ý thức ghi chép lại lịch sử, thuật lại những lời nói, hành động đương thời của mình để truyền lại cho con cháu lấy đó làm bài học kinh nghiệm trong việc xử thế.
Bộ sử đầu tiên được biên soạn dưới thời Lê sơ là bộ Lam Sơn thực lục. Về tác giả của Lam Sơn thực lục còn là vấn đề đang tranh luận.

Vào cuối thế kỉ XVIII, trong Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn cho rằng Lê Lợi là tác giả Lam Sơn thực lục. Ở phần Nghệ văn chí sách Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn viết như sau: Lam Sơn thực lục, ba quyển. Vua Thái Tổ triều ta ngự chế, ghi việc từ khởi nghĩa cho đến khi bình định xong giặc Ngô.

Sang thế kỉ XX, phần lớn các nhà nghiên cứu khi tiếp xúc với Lam Sơn thực lục đã đối chiếu với các tác phẩm của Nguyễn Trãi như Văn bia Vĩnh Lăng, Bình Ngô đại cáo và dẫn ra những chỗ giống nhau giữa chúng, cho nên thống nhất ý kiến cho rằng Nguyễn Trãi mới chính là tác giả Lam Sơn thực lục.

Năm 1455, Lê Nhân Tông sai Phan Phu Tiên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên chép tiếp theo bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần. Bộ sử này gồm 10 quyển, chép lịch sử từ Trần Thái Tông (1225-1257) cho đến khi quân Minh bị quét sạch ra khỏi bờ cõi.

Năm 1479, nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo lệnh của Lê Thánh Tông biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư.

Về mặt sử liệu, Đại Việt sử ký toàn thư đã thu thập và trình bày một cách có hệ thống, theo lối biên niên, những tư liệu về lịch sử Việt Nam trong một thời kì phát triển dài từ buổi đầu dựng nước cho đến đầu thế kỉ XV.

Đại Việt sử ký toàn thư nổi bật lên một giá trị lớn lao. Đó là niềm tự hào dân tộc, là tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm sâu sắc đối với độc lập chủ quyền đất nước của tác giả bộ Quốc sử. Với tinh thần và ý thức đó, Ngô Sĩ Liên đã đi đến những nhận định tổng quát rất mực tự hào đối với lịch sử dân tộc: “Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam – Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh ra chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương” (Toàn thư – Sđd, tập 1, tr. 99).
 
Nếu Đại Việt sử ký toàn thư là tập đại thành của hai bộ sử gốc Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần, Phan Phu Tiên đầu đời Lê sơ và một vài bộ dã sử trước đó, thì Thiên Nam dư hạ tập do một nhóm nho thần đứng đầu là Thân Nhân Trung biên soạn, đã có công thu thập toàn bộ (hội) những luật lệ, chức lệnh, phép tắc, văn hàn liên quan tới chính sự (điển) của triều Lê, từ năm đầu đời Lê Thái Tổ (1428-1433) đến năm Hồng Đức thứ 14 (1438) đời Lê Thánh Tông.

Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, thời Lê sơ là thời kì độc tôn Nho giáo và Lê Thánh Tông là ông vua Nho giáo điển hình. Việc sử dụng sử học làm vũ khí tinh thần để củng cố và động viên tinh thần dân tộc học trong quần chúng nhân dân là truyền thống hình thành từ lâu đời của cái học Nho giáo. Nhưng đối với các vị vua đời Lê Sơ, nhất là với vị vua “hùng tài đại lược” Lê Thánh Tông còn bởi một lí do hết sức cấp thiết và quan trọng: Khẳng định sự hùng cường của quốc gia Đại Việt trong thế đối đầu thường xuyên với đế chế nhà Minh ở phương Bắc và thế chiến thắng tất yếu với Chiêm Thành ở phương Nam, cùng với Bồn Man, Ai Lao ở phương Tây.

Sử học dưới thời Lê sơ, đã hoàn thành xứng đáng nhiệm vụ lịch sử của nó: Góp phần không nhỏ trong việc động viên tinh thần dân tộc, củng cố tình đoàn kết từ triều đình đến dân chúng, đặt nền móng cho toàn bộ giáo dục và khoa học nhằm xây dựng quốc gia Đại Việt trở thành một quốc gia hùng cường ở Đông Nam Á vào nửa cuối thế kỉ XV.

Các thành tựu khác về khoa học và giáo dục

Dưới triều Lê sơ, thành tựu về khoa học như đã trình bày ở trên là rất lớn và phong phú. Cần phải kể tới những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực: Khoa học quân sự, tiêu biểu là những tư tưởng quân sự của Nguyễn Trãi; Y học, tiêu biểu là công trình Bản thảo thực vật toát yếu của Phan Phu Tiên; Luật học (Luật Hồng Đức); Bản đồ học (Bản đồ Hồng Đức) v.v… Dưới đây xin đi sâu phân tích hai cống hiến quan trọng dưới triều Lê sơ, đó là Luật họcBản đồ học.

Sự phát triển cao độ của chế độ phong kiến tập quyền thời Lê sơ còn đề ra yêu cầu xây dựng một bộ pháp luật hoàn chỉnh để cố định những trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị , để bảo vệ và bênh vực nền chuyên chính của giai cấp phong kiến. Bộ Quốc triều hình luật (tức Luật Hồng Đức) đã ra đời trong hoàn cảnh lịch sử ấy, nhằm đáp ứng lại những yêu cầu phát triển sang giai đoạn mới của chế độ phong kiến Việt Nam.

Bộ Luật Hồng Đức đã trải qua một quá trình xây dựng lâu dài từ thời Lê Thái Tổ, đến thời Lê Thánh Tông mới hoàn thành.

Thực ra bộ luật đó không phải do Lê Thánh Tông sáng tạo ra, cũng không phải được xây dựng riêng trong những năm Hồng Đức (1470-1497), mà là sản phẩm của một thời kì phát triển cực thịnh của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam, trong cả thời Lê sơ. Công lao của triều vua Lê Thánh Tông là đã san định các luật lệ của những triều vua trước để hoàn thành bước xây dựng bộ pháp điển ấy.

Bộ Luật Hồng Đức, sau khi được xây dựng đã trở thành pháp luật của thời Lê sơ và của các triều đại sau cho đến thế kỉ XVIII. Các triều đại phong kiến thời Lê Trung hưng (1533-1789) sau này vẫn lấy bộ Luật Hồng Đức làm quy tắc mẫu mực, chỉ sửa đổi, bổ sung thêm một số điều khoản phụ cho thích hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời mà thôi.

Bộ Luật Hồng Đức là một bộ luật điển hình, hoàn thiện nhất trong lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam. Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kĩ thuật pháp lí hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời, có những điểm tiếp cận gần với kĩ thuật pháp lí hiện đại.

Nghiên cứu về địa lí Việt Nam và sự ra đời của Bản đồ Hồng Đức

Hiện nay, trong kho sách Hán-Nôm, ta có thể thấy ít nhất 10 dị bản Bản đồ Hồng Đức được sao vẽ lại trong các sách bản đồ do người đời sau thực hiện6. Đây đều là những phiên bản được sao vẽ lại bắt nguồn từ bản gốc: Bản đồ Hồng Đức ra đời năm 1490.
 Hồng Đức Địa đồ-1490:
Bản đồ Hồng Đức là một bộ Atlas quốc gia đầu tiên của nước ta do Nhà nước phong kiến Việt Nam biên vẽ và ban hành. Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại khá cụ thể quá trình thu thập tài liệu và thời gian hoàn thành tập bản đồ hết sức quý giá này.

Tập Bản đồ Hồng Đức còn lại đến ngày nay, gồm 15 tấm bản đồ và những phần chữ viết thuyết minh, chú giải cho bản đồ.

15 tấm bản đồ đó bao gồm như sau:

+ 1 bản đồ cả nước.

+ 1 bản đồ kinh đô Thăng Long.

+ 13 bản đồ của 13 xứ thừa tuyên đương thời.

Xét về hình thức thể hiện Bản đồ Hồng Đức, kết hợp các trang bản đồ và các trang thành văn (tiếng Anh: Text). Các trang thành văn mô tả cấu trúc hành chính của mỗi thừa tuyên. Việc kết hợp như thế cũng vẫn còn thông dụng trong các Atlas ngày nay. Như vậy, nếu bỏ qua yêu cầu chặt chẽ về cơ sở toán học như Bản đồ học hiện đại, thường chiếu cố đối với các sản phẩm bản đồ cổ đại, thì Bản đồ Hồng Đức có đủ tiêu chuẩn như một Atlas địa lí chung của nước ta vào thế kỉ XV7.

Bản đồ Hồng Đức là kết quả đúc kết kiến thức địa lí và bản đồ của những thời đại trước và của những nhà sử học và địa lí học uyên bác thế kỉ XV như: Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên… Bản đồ Hồng Đức, sau khi hoàn thành được phát huy rộng rãi, được sao chép thành nhiều bản trong triều đình, ban phát cho những viên quan đứng đầu các thừa tuyên, dùng cho các tướng sĩ, và là một tài sản quý báu phục vụ cho các giám sinh học tập trong Quốc Tử Giám thời đó. Có thể khẳng định: Với việc xuất hiện của tập Bản đồ Hồng Đức dưới thời Lê Thánh Tông, ông cha ta đã có một bước tiến mới, quy củ hơn, chặt chẽ hơn trong việc quản lí nền hành chính đất nước vào cuối thế kỉ XV.
Gs. Vũ Khiêu

Văn hiến Thăng Long qua khoa học giáo dục-Khoa học và giáo dục thời Trần - Hồ (1226-1407)
Khoa học và giáo dục thời Trần - Hồ (1226-1407)

Nghiên cứu và vận dụng giáo lí Phật học

Kinh đô Thăng Long có vinh dự là mảnh đất đã sinh thành hoặc nuôi dưỡng nhiều thiền sư, nhiều nhà nghiên cứu Thiền học nổi tiếng: Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… Trần Thái Tông là người mở đầu triều đại nhà Trần, cũng là người nêu gương sáng cho việc tu tập, nghiên cứu Thiền học của vương triều Trần. Các nhà vua anh hùng nối tiếp của triều Trần, mà tiêu biểu nhất là Trần Nhân Tông, là những người sùng Phật, nghiên cứu sâu về Thiền học và khai thác những nhân tố tích cực của đạo Phật trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì thế, mà Phật giáo thời Trần mang nhiều nhân tố tích cực như: nhập thế, không giáo điều, không kinh viện, không chấp trước và còn có tính chiến đấu vì vận mệnh của Tổ quốc và lợi ích của nhân dân, đem lại cho Phật học những nét đặc trưng của dân tộc Việt Nam.


Chùa Phố Minh (chùa Tháp) ở Thành phố Nam Định, được vua Trần Thái Tông cho trùng tu năm 1262. Ảnh: tư liệu

Trần Thái Tông, nhà vua – sùng Phật kêu gọi tinh thần yêu nước, tự mình làm tướng đi đốc chiến, chỉ huy toàn dân Đại Việt đập tan cuộc xâm lược lần thứ nhất (1258) của đế quốc Mông – Nguyên. Với tinh thần đó Trần Thái Tông đã nêu lên một tấm gương sáng về sự kết hợp giáo lí Phật giáo với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

Gần 30 năm sau, đến lượt người cháu đích tôn của Trần Thái Tông – vua Trần Nhân Tông lại theo tấm gương của ông nội mình, cũng bằng chính thân mình đã làm ngọn cờ đoàn kết, lãnh đạo toàn thể dân tộc đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1988), quét sạch lũ giặc hung bạo Mông – Nguyên ra khỏi bờ cõi.

Chính “bằng bản thân mình” và bằng những tư tưởng đầy minh triết trong những trước tác về Thiền học của mình mà các ông đã khiến cho Phật giáo vốn chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực trở thành tích cực, từ “xuất thế” thành “nhập thế”, dựa vào lòng từ bi, hỉ xả mà vẫn mài sắc ý chí diệt thù cứu nước, hiểu rõ phương châm trong trường hợp nào thì “không sát sinh”, và trong hoàn cảnh nào thì phải triệt để nêu phương châm “Sát Thát”, thể hiện quyết tâm giết giặc bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên của dân chúng.

Nho giáo và việc học, việc thi Nho học

Trong các vương triều đầu tiên cho đến Lý, Trần, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, nhưng bên cạnh Phật giáo, Nho giáo vẫn được duy trì và phát triển. Nho giáo dần trở thành một nhu cầu lớn trong việc củng cố trật tự gia tộc và trật tự xã hội phong kiến.

Sang thời Trần, do yêu cầu củng cố chế độ phong kiến, bộ máy Nhà nước cần được tăng cường, chế độ khoa cử đã tổ chức quy củ để thường xuyên đào tạo những tầng lớp quan liêu sung vào bộ máy Nhà nước. Các khoa thi mở tương đối đều đặn.

Nho giáo càng ngày càng phát triển, tầng lớp sĩ nhân càng ngày càng đông đảo. Tầng lớp quan liêu này ủng hộ Nhà nước phong kiến tập trung nhưng bênh vực cho đạo Nho và bài xích đạo Phật.

Cuối thế kỉ XIII và trong thế kỉ XIV, tầng lớp sĩ phu đã chiếm được một địa vị quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Việc công kích Phật giáo càng phát triển mạnh. Những kiện tướng tấn công vào Phật giáo là Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu.

Nho giáo càng ngày càng tăng uy thế. Ngay trong hàng ngũ quý tộc tại kinh đô Thăng Long đã bắt đầu có những tư tưởng hoài nghi Phật giáo. Thế lực quý tộc có thái ấp tan rã dần. Kinh tế tự viện cũng sụp đổ. Hồ Quý Ly sa thải tăng đồ năm 1396, Phật giáo không còn ưu thế nữa.

Một yếu tố quan trọng cấu thành văn hóa Đại Việt đời Trần, hay nói một cách khác, cái để góp phần tạo nên Hào khí Đông A, đó là nền khoa học quân sự thời Trần. Đương nhiên để đánh thắng được một đội quân hùng mạnh, thiện chiến như quân Mông – Nguyên thì không thể nói khoa học quân sự thời Trần kém phát triển được. Song để nghiên cứu nền khoa học quân sự ấy không phải việc đơn giản, bởi lẽ, những tác phẩm về quân sự do các danh tướng thời Trần trước thuật hầu như không còn bộ nào.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Quốc Tuấn có soạn một bộ sách quân sự là: “Binh gia diệu lý yếu lược để dạy các tì tướng” phép dùng binh (Toàn thư. Sđd, tập 2, tr. 81). Nhưng trong bài Hịch tướng sĩ nổi tiếng của mình, được chép lại toàn văn trong Đại Việt sử ký toàn thư – Trần Quốc Tuấn lại viết: “Nay ta chọn binh pháp các nhà, soạn thành một quyển, gọi là Binh thư yếu lược” (Toàn thư. Sđd, tập 2, tr. 83). Phan Huy Chú trong Lịch triều kiến chương loại chíVăn tịch chí cho biết Trần Quốc Tuấn đã soạn sách Binh thư yếu lược và sách Vạn kiếp binh thư.

Có thể nêu lên những tư tưởng sau đây của Binh thư yếu lược: “Bậc thánh võ trị đời, đánh ở chỗ không có thành, công ở chỗ không có lũy, chiến ở chỗ không có trận. Nhẹ nhàng như mưa rơi ở trên không, dựng nên cuộc đời vô sự”. “Hòa mục có công hiệu rất lớn cho cuộc trị an. Hòa ở trong nước thì ít dụng binh; hòa ở ngoài biên thì không sợ có báo động; bất đắc dĩ mới phải phạt kẻ làm xằng. Vua tôi hòa mục thì dùng được người tài; các tướng văn tướng võ hòa mục thì làm nên công nghiệp. Tướng sĩ hòa mục khi được ban thưởng sẽ nhường nhịn nhau, nguy nan sẽ cứu nhau. Đó, hòa mục là một đạo rất hay cho việc trị nước, hành binh, không bao giờ đổi được”.

Sử học đời Trần

Đến đời Trần, việc ghi chép sử được chú trọng hơn và được tổ chức chu đáo. Tại kinh đô Thăng Long, Quốc sử viện được thành lập. Trần Tấn soạn sách Việt chí. Trần Tấn, nguyên làm chức Tả tàng, sau làm chức Hàn trưởng đời Trần Thái Tông. Nhưng bộ thông sử đầu tiên của dân tộc là do nhà sử học nổi tiếng Lê Văn Hưu biên soạn. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng Giêng năm Nhâm Thân (1272), Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện Giám tu Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại Việt sử ký, từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng lên. Vua xuống chiếu khen ngợi” (Toàn thư. Sđd, tập 2, tr. 38).

Vào cuối đời Trần, có bộ Đại Việt sử lược, tác giả khuyết danh, gồm 3 quyển.

Cũng vào thời kì cuối thời Trần, Hồ Tông Thốc có soạn Việt sử cương mụcViệt Nam thế chí. Lê Quý Đôn trong Nghệ văn chí – sách Đại Việt thông sử, Phan Huy Chú trong Văn tịch chí sách Lịch triều hiến chương loại chí đều có giới thiệu bộ Việt sử cương mục. Phan Huy Chú cho biết: “Việt sử cương mục, 10 quyển. Học sĩ cuối đời Trần là Hồ Tông Thốc soạn. Ngô Sĩ Liên khen sách chép việc cẩn thận mà có phương pháp, bàn việc xác đáng mà không rườm rà, nhưng sau binh lửa, sách ấy không còn” (Phan Huy Chú – Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd, tập 4, tr. 46). Về bộ Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc, Phan Huy Chú giới thiệu kĩ lưỡng hơn, có cả bài Tựa của tác giả: “Việt Nam thế chí: 2 quyển. Hồ Tông Thốc cuối đời Trần soạn. Quyển nhất chép thế phả 18 đời họ Hồng Bàng; quyển nhị chép thế phả của họ Triệu, sự tích có phần rõ ràng, nhưng lời văn phần nhiều kì dị, cũng có thể bổ khuyết cho sử trước” (Phan Huy Chú – Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd, tập 4, tr. 118).

Sang thời Hồ, Hồ Quý Ly là một người có đầu óc cải cách và có tinh thần dân tộc, Hồ Quý Ly chú ý đến lập trường học. Tờ chiếu lập trường năm 1307 viết:

“Đời cổ nước có nhà quốc học, ở đảng có nhà tự, ở toại có nhà tường, là để cho giáo hóa được sáng tỏ, phong tục được thuần hậu, ý trẫm vẫn rất hâm mộ. Nay thể chế (về nhà học) ở kinh đô đã đầy đủ, nhưng ở châu huyện còn thiếu, thì làm thế nào mở rộng được cái đạo dạy dân? Vậy hạ lệnh cho phủ, châu thuộc các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc và Hải Đông đều đặt một quan giáo thụ giữ về việc học, cấp cho ruộng công tùy theo thứ bậc: Nếu phủ, châu lớn 15 mẫu; phủ, châu vừa 12 mẫu, để cung vào việc học (một phần làm lễ sóc, một phần dùng vào việc học, một phần chi vào đèn sách). Quan ở lộ phải đôn đốc học quan dạy dỗ học trò, khiến cho thành tài nghệ. Mỗi lần cuối năm, phải kén chọn những người học giỏi cống vào triều, trẫm sẽ thân hành thi lại để cất nhắc bổ dụng”1.

Việc chỉnh đốn chế độ thi cử cũng như lập trường ở địa phương đều nhằm mục đích đào tạo những quan lại có năng lực hơn, thay thế cho những quan lại bất lực trong bộ máy Nhà nước mục nát từ cuối đời Trần. Chương trình thi cử có tính chất thiết thực hơn ít nhiều như bỏ phép ám tả cổ văn, thêm kì thi toán và viết chữ. Việc tuyển lựa quan liêu chặt chẽ hơn.

Hồ Quý Ly còn triệt hạ uy thế của Phật giáo. Năm 1396, Quý Ly bắt tất cả các sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục, chỉ cho những người thông kinh giáo cai quản chùa chiền.

Trong Nho giáo, Hồ Quý Ly đả kích vào Tống Nho và đặt lại một số vấn đề. Năm 1392, Hồ Quý Ly soạn sách Minh đạo, trình bày những ý kiến của mình đối với Nho giáo. Sách gồm 14 thiên, đại lược đề cao Chu Công lên trên Khổng Tử, tôn Chu Công làm Tiên thánh, Khổng Tử làm Tiên sư. Trong Văn Miếu đặt bài vị Chu Công giữa, mặt hướng nam, bài vị Khổng Tử ngồi bên, mặt hướng tây. Quý Ly lại trình bày bốn chỗ đáng ngờ trong sách Luận ngữ như Khổng Tử đến gặp Nàng Nam Tử2, Khổng Tử bị hết lương ăn ở nước Trần3, Công Sơn và Phật Hất Triệu, Khổng Tử đều muốn đến giúp4 v.v… Quý Ly cho Hàn Dũ là đạo nho (nhà nho ăn trộm) và cực lực công kích các nhà nho thời Tống, Chu Đôn Di, Trình Hiệu, Trình Di, Dương Thời, La Trọng Tố, Lý Diên Bình và Chu Hy, đối với Quý Ly thì bọn họ chỉ là những người học rộng mà tài sơ, không sát tình hình sự việc mà chỉ chăm bề cắp nhặt5.
 Gs. Vũ Khiêu

Văn hiến Thăng Long qua khoa học giáo dục-Khoa học giáo dục thời Lý (1010-1225)
Văn hiến Thăng Long qua khoa học giáo dục
Vương triều Lý, ngay từ những năm đầu thành lập đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh đô, tạo điều kiện cho việc xây dựng và củng cố chính quyền trung ương vững mạnh, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển về mọi mặt của đất nước.

Trên nền tảng kinh tế-xã hội đang được củng cố và phát triển, nhà Lý đã hết sức quan tâm đến việc nghiên cứu và giải quyết những vấn đề về xã hội và con người, trước hết là vấn đề Nhà nước và Pháp luật. Một bộ máy chính quyền hoàn chỉnh và thống nhất được hình thành trong toàn quốc, từ trung ương đến các lộ, phủ, huyện và các đơn vị cơ sở.

Các hoạt động lập pháp của Nhà nước được đẩy mạnh. Năm 1042, Lý Thái Tông cho ban bố Hình thư.

Năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Việt. Từ đây, đất nước ta dần dần đi vào thế ổn định vững chắc trên nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội. Cũng từ đây, nền văn hóa Việt Nam bắt đầu hình thành và phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần.

I. Khoa học giáo dục thời Lý (1010-1225)

Trong bước đầu xây dựng nền văn hóa, nhà Lý đặc biệt chăm lo việc giáo dục, học tập và tổ chức thi cử. Sau hơn 100 năm giành được quyền độc lập, tự chủ, vào tháng 8, mùa thu năm Canh Tuất (1070), dưới triều vua Lý Thánh Tông, Nhà nước phong kiến Việt Nam mới cho lập Văn Miếu – một hành động có tính biểu tượng cho sự thừa nhận Nho giáo của những người cầm quyền đương thời. Văn Miếu dựng xong, Lý Thánh Tông cho đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối: Phục Thánh Nhan Tử (Nhan Uyên), Tông Thánh Tăng Tử (Tăng Sâm), Thuật Thánh Tử Tư (Khổng Cấp), Á Thánh Mạnh Tử (Mạnh Kha), vẽ tranh Thất thập nhị hiền để bốn mùa cúng tế.
Điện thánh bái đường, Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Ảnh: Vũ Hưng
Năm 1075, vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học tam trường và tuyển chọn Minh kinh bác sĩ (người học rộng hiểu rõ kinh điển Nho giáo). Khoa này chọn được 10 người, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh. Đó là khoa thi Nho học đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam và Lê Văn Thịnh có vinh dự là người khai khoa của quốc gia Đại Việt.

Năm 1076, nhà Lý lại cho mở Quốc Tử Giám, ngay bên cạnh Văn Miếu, làm nơi học tập cho con em tầng lớp quý tộc quan lại. Nền đại học Việt Nam bắt đầu từ đó.

Năm 1086, triều đình mở khoa thi tuyển chọn người có tài văn học trong nước để bổ vào làm quan trong Hàn lâm viện. Mạc Hiển Tích đỗ đầu được bổ làm Hàn Lâm học sĩ. Sau đó, nhà Lý còn tiếp tục mở các khoa thi để kén chọn nhân tài vào các năm 1152, 1165, 1185 và 1195.

Như vậy, nhà Lý đã đặt những viên gạch đầu tiên vô cùng quý giá để xây dựng nền tảng vững chắc cho sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời tạo tiền đề xúc tiến và đẩy mạnh việc nghiên cứu và phát triển các hoạt động của khoa học ở Việt Nam.

Sự phát huy tính tích cực của cả Nho – Phật – Đạo ở Thăng Long

Thăng Long không chỉ là trung tâm giáo dục, đào tạo và thu hút phần lớn nhân tài của đất nước mà còn là trung tâm tiếp nhận, nghiên cứu và cải biến những trào lưu tư tưởng du nhập từ nước ngoài vào, góp phần bổ sung và nâng cao nền văn hóa và khoa học của chính dân tộc mình.

Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ lâu và đã có vai trò đáng kể trong hoạt động tư tưởng và văn hóa của nhân dân, trở thành thế giới quan và phương pháp luận cho việc nhận thức, đánh giá những hiện tượng xã hội, những hành vi của con người. Do đó, ba trào lưu tư tưởng nói trên đã góp phần hình thành và phát triển những hoạt động nghiên cứu xã hội và con người Việt Nam.

Chỗ cao cả trong đạo làm người theo tinh thần tam giáo là sự thống nhất giữa xuất thếxử thế. Dù xuất hay xử thì tinh thần Đại Việt vẫn một niềm ưu quốc ái dân, vô ngã, đứng ngoài danh lợi, đứng trên thị phi tầm thường của thế tục.

Nói không khí học thuật cũng như đời sống tư tưởng dưới triều Lý tại kinh đô Thăng Long chịu sự chi phối của tinh thần Tam giáo đồng nguyên, thì đó là một luận điểm có tính chất đại quan. Tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh, những nhà lãnh đạo quốc gia Đại Việt lúc này hay lúc khác đã tỏ rõ sự quan tâm ở những mức độ khác nhau đối với mỗi đạo phái, mà nổi bật hơn dưới triều Lý vẫn là sự quan tâm đặc biệt đối với Phật giáo.

Vào đời Lý, trên cơ sở của các phong tục tập quán Việt Nam và trên nền tảng tín ngưỡng dân gian, Phật giáo đã hòa nhập vào cuộc sống của dân tộc và được cải biến trong đó.

Thời Lý, các nhà sư đã trở thành một tầng lớp phong kiến tăng lữ có thế lực. Với vai trò là những phần tử trí thức của thời đại, họ có uy tín và ảnh hưởng trong xã hội. Họ đã mở các trường dạy học cho cả tăng sĩ và cư sĩ. Thiền sư Vạn Hạnh đã dạy Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) tại chùa Lục Tổ. Tô Hiến Thành, Ngô Hòa Nghĩa cũng được đào tạo và thụ giáo với nhà sư Trí thiền trên núi Cao Dã.

Giáo lí Phật giáo Thiền tông dưới thời Lý có nhiều mặt tích cực, rất dễ được quần chúng Đại Việt tiếp thu. Đó là tư tưởng bình đẳng bác ái của nó. Nó gặp gỡ một cách tự nhiên với tinh thần bác ái của dân tộc, phổ biến trong đời sống văn hóa của người dân lao động: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Bầu ơi thương lấy bí cùng…

Việc nghiên cứu và ứng dụng Nho giáo

Nho học và Nho giáo truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc, vào khoảng những thế kỉ đầu Công nguyên. Tuy vậy, vào thời kì này, Nho giáo chỉ mới được tiếp nhận trong bộ phận của tầng lớp cầm quyền, đại bộ phận nhân dân vẫn sống theo phong tục tập quán của dân tộc Việt có từ trước.

Đến thời Lý, để củng cố trật tự chính trị - xã hội, ổn định và phát triển sản xuất, chấn chỉnh và tăng cường bộ máy Nhà nước, triều đình đã dần dần coi trọng Nho giáo, bước đầu sử dụng Nho giáo trong việc xây dựng bộ máy quan liêu từ trên xuống. Với việc thành lập Văn Miếu, mở rộng chế độ giáo dục và thi cử, nhà Lý đã tỏ rõ sự quan tâm đến việc khuyến khích học tập tư tưởng chính trị và đạo đức Khổng – Mạnh, coi đó là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng nền văn hiến Việt Nam, vừa đào tạo những nhân tài giúp nước, vừa nâng cao trình độ kiến thức của nhân dân. Với việc xây dựng Quốc Tử Giám, Thăng Long trở thành trung tâm giáo dục Nho học lớn nhất nước ta. Thăng Long cũng là nơi sớm xuất hiện và hình thành tầng lớp trí thức Nho học tiêu biểu cho cả nước. Trên đất Thăng Long, các khoa thi được liên tiếp mở ra. Thăng Long là nơi hội tụ những tài năng từ bốn phương kéo đến. Những sách kinh điển của Nho giáo cùng nhiều sản phẩm tinh thần khác được biên soạn và in ấn từ đây và tỏa đi các nơi. Thăng Long ngày càng thể hiện vai trò là trung tâm Nho học có sức hấp dẫn và nêu gương đối với toàn quốc.

Một số tác phẩm nghiên cứu và biên soạn

Dưới thời Lý, phần lớn các nhà sư đều có hiểu biết rộng, nhiều người vừa hiểu sâu giáo lí Đạo Phật, vừa nắm vững kiến thức Đạo Nho. Vì vậy, đại bộ phận các trước tác dưới thời này là của giới tăng sĩ. Văn thơ đời Lý để lại đến ngày nay còn lại không nhiều, được tập hợp trong sách Thiền uyển tập anh và một số bia nhà Lý. Trong một không khí tràn ngập tư tưởng Phật giáo như vậy, thì những nhà nho khi trước tác cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhà chùa.

Số lượng tác gia và tác phẩm còn lại so với thực tế chắc chắn ít hơn rất nhiều. Điều đó, ngay từ cuối thế kỉ XVIII, Lê Quý Đôn cũng đã phàn nàn: “Nước ta được gọi là nước văn hiến, trên từ vua chúa, dưới đến các quan, cùng nhân dân đều có biên soạn sách vở. Bây giờ họp chung cả lại, chẳng qua chỉ còn được ngoài trăm pho sách, so với các nhà làm sách Trung Hoa, khó lòng được một phần mười… Hồi đầu thời Nghệ Tông (1370-1372), Chiêm Thành đem quân đánh ta, đốt phá, cướp bóc hầu hết. Sau đó các sách vở giấy tờ dần dần thu thập lại được. Đến đời Nhuận Hồ mất nước (1400-1427), tướng nhà Minh là Trương Phụ (1406) lấy hết sách vở cổ kim của ta gửi theo đường sông về Kim Lăng (kinh đô nhà Minh)” (Đại Việt thông sử. Nxb KHXH, H. 1978, tr. 100, 101).

Sau đây là một vài tác phẩm về khoa học xã hội và nhân văn thời Lý.

Hình thư do Lý Thái Tông “sai Trung thư sửa định, tham chước sự nghi hiện thời, chia từng loại, chép từng điều…” (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Sđd, tập 4, tr. 42) là bộ luật đầu tiên trong lịch sử dân tộc, là cái mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng bộ máy chính quyền trung ương tập quyền đã có đủ các thiết chế hoàn bị.

Tác phẩm Nam Bắc phiên giới địa đồ ra đời dưới triều Lý Anh Tông là tập bản đồ đầu tiên trong lịch sử nước ta, nó chứng tỏ ngành bản đồ học của ta đã bước đầu hình thành. Hơn nữa, nó còn là một bằng chứng cụ thể, rõ ràng về sự quan tâm tới việc hoạch định biên giới và chủ quyền quốc gia của cha ông ta, ngay từ thời mới giành được quyền độc lập, tự chủ không lâu.
Gs. Vũ Khiêu

LỊCH SỬ THI CỬ NƯỚC TA THỜI XƯA
Việt Nam cùng với Triều Tiên và Nhật Bản là những nước chịu sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Các nước này còn gọi là những nước đồng văn. Nhìn về mặt giáo dục cả ba nước Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản đều sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức của mình trong một thời gian dài lịch sử. Người Việt đã tiếp xúc và tiếp thu nền văn hóa Hán cách thụ động cũng như chủ động trong một thời gian khá dài (khoảng 10 thế kỉ). Vì chưa có chữ viết hoặc vì chữ viết chưa hoàn chỉnh nên người Việt đã tiếp thu chữ Hán làm văn tự cho mình. Nói như vậy không có nghĩa là phủ định yếu tố cưỡng ép trong việc truyền bá Hán tự vào Việt Nam. Việc học chữ Hán ở nước ta đã có từ rất sớm. Vào thời Đông Hán ở Việt Nam đã có trường dạy chữ Hán dưới sự bảo trợ của một viên Thái Thú tên là Sĩ Nhiếp. Đến thời Tùy Đường 隨唐(khoảng 581-907) đã có chế độ khoa cử cho người “An Nam”. Trong số đó có người làm đến chức tể tướng (宰相). Đến năm 939 nước ta đã hoàn toàn độc lập nhưng phải tới năm 1075 mới có khoa thi đầu tiên. Kể từ đây nước ta có khoa cử. Việc thi cử lúc này vẫn dùng chữ Hán làm văn tự học tập và ứng thí. Qua các triều đại hình thức thi cử có khác nhau và danh hiệu (học vị) cũng khác nhau.

Lều chõng đi thi

1. Triều Lý (1009-1225)
- Năm 1075 vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam trường () để chọn người minh kinh bác học ( hiểu rõ sách và học rộng). Nhà Lý không mở khoa thi theo một hạn định nào. Ngoài khoa năm 1075 nhà Lý còn tổ chức khoa thi vào các năm: 1086, 1152, 1165, 1185 và 1193.
- Năm 1195 vua Lý Cao Tông mở khoa thi Tam giáo (三教) gồm ba tôn giáo: Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
2. Triều Trần (1225-1400)
Đến thời nhà Trần việc thi cử đã có thường lệ và hai khoa thi chính: thi hương và thi hội.
- Thi Hội – Năm 1232 vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh (太學生), đặt ra tam giáp (三甲) chia các người đỗ ra làm ba bậc: đệ nhất giáp, đệ nhị giáp và đệ tam giáp. Đến năm 1247 ông đặt ra tam khôi (三魁) tức ba người đỗ đầu ở đệ nhất giáp. Tam khôi gồm: trạng nguyên 狀元 (trùm đầu), bảng nhãn 榜眼 (mắt bảng), thám hoa 探花 (thăm hoa). Năm 1304, vua Trần Anh Tông đặt thêm Hoàng giáp 黄甲 để gọi những người đỗ đầu ở đệ nhị giáp. Năm 1374, vua Trần Duệ Tông mở khoa Đình thí (thi ở sân vua) lấy tiến sĩ 進士 tên “tiến sĩ” bắt đầu có từ đây. Nhưng đến năm 1442 đời Lê Thái Tông mới chuyên dùng tên “tiến sĩ” thay cho “thái học sinh”. Năm 1396, vua Trần Thuận Tông quy định năm trước thi hương năm sau thi hội. Tên thi hội có từ đấy. Kỳ hạn thi lúc đầu là 7 năm một lần. Đến năm 1404 Hồ Hán Thương định cứ 3 năm một lần, nhưng vì hoàn cảnh chính trị nên không thực hiện được.
- Thi hương – Năm 1396 vua Trần Thuận Tông đặt ra thi hương để chọn cử nhân.
3. Triều Hậu Lê (1428-1527)
Khoa thi đầu tiên của nhà Lê được mở vào năm 1442, đến năm 1463 đời Lê Thánh Tông thực hiện lệ ba năm một khoa. Khoa thi hội năm 1442 nhà Lê tổ chức lấy tiến sĩ giống nhà Trần. Năm 1448 vua Lê Nhân Tông chia tiến sĩ thành cập đệ 及第, chánh bảng 正榜 phụ bảng 附榜. Năm 1484 vua Lê Thánh Tông đổi Tam khôi thành Tiến sĩ cập đệ 進士及弟 chánh bảng thành Tiến sĩ xuất thân 進士出身, phụ bảng thành đồng tiến sĩ xuất thân 同進士出身. Năm 1462 ông chia những người thi đỗ các kỳ thi hương thành hương cống 鄉貢(cử nhân trước) và sinh đồ 生徒. Năm 1466, ông đặt ra lệ xướng danh 唱名 (gọi tên người trúng tuyển một cách long trọng) và lệ vinh quy 荣歸 (rước về nguyên quán). Năm 1484 ông cho người khắc bia tiến sĩ đặt ở Văn miếu.
4. Triều Nguyễn
Nhìn chung nhà Nguyễn mở các khoa thi giống với nhà Hậu Lê. Khoa thi đầu tiên của nhà Nguyễn mở vào năm 1822 dưới triều vua Minh Mạng. Năm 1829, dưới bậc tiến sĩ lấy thêm phó bảng 副榜 (bảng phụ viết tên những người này, đối với bảng chánh viết tên các ông tiến sĩ). Danh hiệu phó bảng có từ đây. Năm 1828 Minh Mạng thứ 9, đổi hương cống thành cử nhân 舉人, sinh đồ thành tú tài
Thể thức và chương trình thi
Nhìn chung ngày xưa có hai kỳ thi chính: thi hương (từng vùng) để chọn lấy cử nhân ( hoặc hương cống) và tú tài (hoặc sinh đồ), thi hội chọn tiến sĩ (trước gọi là Thái học sinh) và phó bảng. Thi hương được tổ chức ở nhiều nơi. Thi hương tổ chức thành bốn kỳ, đỗ kỳ trước mới được tham dự kỳ sau. Đậu cả bồn kỳ thì được gọi là cử nhân, đậu ba kỳ gọi là tú tài. Đậu cử nhân rồi mới được thi hội. Thi hội cũng tổ chức thành bốn kỳ hay còn gọi là trường. Thi đậu cả bốn trường mới được vào thi đình. Đó là thể thức thi còn chương trình thi thì mỗi triều đại có sự thay đổ khác nhau.
- Năm 1304 vua Trần Anh Tông định như sau: kỳ đệ nhất thi ám tả, kỳ đệ nhị thi kinh nghĩa, thơ, phú; kỳ đệ tam: chiếu, chế, biểu; kỳ đệ tứ: văn sách.
- Năm 1396, vua Trần Thuận Tông bỏ ám tả, định kỳ thi thứ nhất là thi kinh nghĩa, đệ nhị thi thơ, phú còn hai kỳ sau giữ nguyễn như cũ
- Năm 1404 Hồ Hán Thương thêm vào kỳ thi thứ năm thi thư và thi toán.
- Năm 1434, vua Lê Thái Tôn định phép thi: kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa, đệ nhị thi chiếu, chế, biểu; đệ tam thi thơ, phú và đệ tứ thi văn sách.
- Năm 1832, vua Minh Mạng quy định cả thi hương và thi hội còn lại ba kỳ. Kỳ thứ nhật thi kinh nghĩa, kỳ đệ nhị thi thơ, phú và kỳ đệ tam thi văn sách.
- Năm 1850 vua Tự Đức định lại việc thi với bốn kỳ như xưa: đệ nhất: kinh nghĩa, đệ nhị: văn sách, đệ tam: chiếu, biểu, luật; đệ tứ: thơ, phú; thi đình thi một bài đối sách.
- Năm 1858, Tự Đức thứ 11, rút lại còn ba kỳ thi: Kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa; kỳ đệ nhị thi chiếu, biểu, luận; đệ tam thi văn sách.
- Năm 1876, Tự Đức 29, kỳ thi đệ nhị của khoa thi hương lại bỏ chiếu, biểu, luận mà thi thơ, phú.
- Năm 1884, Kiến Phúc năm thứ nhất, thi hương trừ ba kỳ thi trước lại thêm một kỳ thi phúc hạch, thi lược bị một bài kinh nghĩa, một bài phú và một bài văn sách.
Nhìn chung chương trình thi ngày xưa chủ yếu là thi các môn văn chương, lịch sử ít chú trong đến các môn toán, lý. Nói theo cách nói ngày nay thì ngày xưa các sĩ tử khối xã hội (văn, sử, địa) là cầm chắc phần thắng trong tay, còn các sĩ tự bên khối tự nhiên (toán, lý, hóa) khó có cửa mà vào. Chỉ trừ thời kỳ nhà Hồ là có thêm vào phần thi toán trong chương trình nhưng vì nhà Hồ tồn tại không được bao lâu nên sự đổi mới ấy cũng mất theo. Có lẽ cũng vì lý do này mà nước ta rất châm phát triển về mặt khoa học kỹ thuật. Nhìn lại ngày xưa đối chiếu lại với ngày nay ta lại thấy một cảnh nghịch lý: các học sinh lại quá chú tâm vào các môn khoa học tự nhiên mà xem nhẹ các môn khoa học xã hội. Thiết nghĩ phàm cái gì thái quá cũng đều không tốt vì “thái quá bất cập”. Hy vọng rằng qua việc tìm hiểu lịch sử thi cử cách thi của người xưa những “sĩ tử” ngày nay sẽ tìm cho mình một bài học hay một động lực nào đó để phấn đấu trên bước đường công danh để “thỏa chí tang bồng”. Với những nỗ lực của tuổi trẻ chắc chắn sẽ có những người “vinh quy bái tổ”, “bảng vàng đề danh”.
Tài liệu tham khảo:
1.Việt Nam Văn Học Sử Yếu – Dương Quảng Hàm – Bộ Quốc Gia Giáo Dục – Hà Nội – 1950.
2. Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt – Lê Đình Khẩn – NXB Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2002.
Để biết rõ hình thức làm bài thi của các kỳ thi xin các bạn xem ở bài viết sau:
Ở bài viết trước chúng ta đã biết đôi chút về lịch sử thi cử của nước ta xưa. Ta cũng đã biết về hình thức và quy định thi như thế nào. Ở bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu về thể thức làm một bài Kinh nghĩa và một bài làm mẫu cho mọi người dễ hình dung.
Kinh nghĩa là một phần thi triều đại nào cũng bắt buộc trong các kỳ khoa cử. Kinh nghĩa đen là sách. Sách được nói đến ở đây là chín quyển sách được liệt vào hạng kinh điển của nho giáo: tứ thư (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử); ngũ kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ và Xuân Thu). Kinh nghĩa là một bài văn giải thích ý nghĩa câu truyện được trích ra từ những quyển sách nói trên. Người làm bài phải thay lời cho người xưa mà giải thích cho rõ ràng. Chính vì thế mà nó còn có tên là tinh nghĩa 精義 (tinh: làm cho rõ). Bài văn kinh nghĩa muốn làm cho hay phải thông hiểu các sách kinh điển nói trên. Có thể nói đây là một cách học từ chương, không phát huy được khả năng sáng tạo của những thế hệ đi sau. Cách làm một bài kinh nghĩa có nhiếu lối nhưng lối thông dụng nhất là lối bát cổ 八股(tám vế). Lối này là một lối biền văn có vần mà không có đối. Một bài kinh nghĩa làm theo lối bát cổ có các phần như sau :
1. Phá đề: mở bài, 2 câu.
2. Thừa đề: nối theo câu phá, vài ba câu Lời mình nói, không phải đối.
(Từ đoạn này trở về sau, người viết phải thay lời của người xưa mà nói).
3.Khởi giảng: nói khơi mào đại ý của đề bài (có thể đối hoặc không).
(Cuối đoạn này có một vài câu chuyển ý nối với đoạn trên đặt xuống đầu đoạn dưới gọi là lĩnh mạch, không đối).
4. Khai giang: mở ý đầu bài (có 2 vế đối nhau).
(Cuối đoạn này có một câu hoàn đề nhắc lại câu đề bài).
5. Trung cổ: giải thích thật rõ đề bài (có 2 vế đối nhau). Bát cổ (tám vế)
6. Hậu cổ: nghị luận, mở rộng ý của đề bài. (có 2 vế đối nhau)
7. Kết cổ hoặc kết tị: đóng ý đề bài lại (có 2 vế đối nhau)
(Ghi chú 4,5,6,7: Bát cổ (tám vế))
(Cuối đoạn này có một vài câu thắt đề bài lại, gọi là thúc đề hay kết thúc, không phải đối)
Sau đây là một bài kinh nghĩa làm mẫu cho mọi người tiện đối chiếu và tham khảo.
Đề bài: Mày về nhà chồng, phải kính phải răn, chớ trái lời chồng.
(Chú kinh Lễ: Vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử).
BÀI LÀM
(Phá đề) – Khuyên con giữ đạo làm dâu, bà già nghĩ đã đến lắm làm vậy.
(Thừa đề) – Phù con dại cái mang, lẽ xưa nay vốn thế. Khuyên con phải kính trọng chồng, há chẳng phải đạo lắm ru.
(Khởi giảng) – Mẹ đưa con ra cửa: ý nghĩ rằng: Trong phối định ba giường đạo cả, thực là muôn hóa chi theo ra; mà hôn nhân hai họ giao vui, há để một lời chi trách đến,
(Lĩnh mạch) – Mẹ đưa con ra, mẹ càng nghĩ lắm, con ạ.
(Khai giảng, vế trên) – Con, con mẹ, mà dâu, dâu người vậy. Hoặc lời ăn lời nói chi ra tuồng, tức lành đồn xa, dữ đồn xa, ai bảo rằng con chi còn nhỏ.
(Khai giảng, vế dưới) – Dâu, dâu người, mà con, con mẹ vậy. Hoặc trong cửa trong nhà chi có chuyện, tức yêu nên tốt, ghét nên xấu, rối trách mẹ chi không răn.
(Hoàn đề) – Về nhà chồng, phải kính phải răn, chớ có trái ý chồng, con nhé.
(Trung cổ, vế trên) – Lúc ở nhà nhờ mẹ nhờ cha, về nhà chồng nhờ chồng nhờ con nhé. Khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời, chớ bắt chước người đời xỏ chân lỗ mũi chi lăng nhăng. Nhủ này con, nhủ này con: đi đến nơi, về đến chốn, việc nhà việc cửa cho siêng năng; hỏi thì nói, gọi thì thưa, thờ mẹ thờ cha cho phải lễ. Kính lấy đấy! Răn lấy đấy! Liệu học ăn, học nói, học gói, học mở; khi anh nó hoặc ra xô xát chi lời, cũng tươi, cũng đẹp, cũng vui, cũng cười, chớ như ai học thói nhà ma, mà con cà con kê chi kể lể.
(Trung cổ, vế dưới) – Lúc ở nhà là mẹ là con, về nhà chồng là dâu là con nhé. Khôn cho người rái, dại cho người thương, chớ bắt chước người thế mặc áo qua đầu chi khủng khỉnh. Nghe chưa con, nghe chưa con: ăn có nơi, nằm có chốn, lời ăn nết ở ra tuồng; gọi thì dạ, bảo thì vâng, thờ cha thờ mẹ cho phải đạo. Kính vậy thay! Răn vậy thay! Chớ cậy khôn, cậy khéo, cậy duyên, cậy tài; khi anh nó hoặc nổi bầng bầng khí sắc, thì lạy thì van thì lễ phép, đừng học chi những tuồng đĩ thõa, mà hoặc dây mơ rễ má chi lôi thôi.
(Hậu cổ, vế trên) – Đời có kẻ xem chồng như đứa ăn đứa ở, thậm đến điều mày tớ chi khinh. Chẳng biết rằng: ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng người. Chẳng suy, chẳng nghĩ, lại điều cả vú lấp miệng em, sao chẳng biết xấu chàng hổ ai chi lý. Mẹ khuyên con giữ đạo cương thường, khôn hèn cũng chịu, hay dở cũng đành, chớ hoặc sinh vênh vểnh chi môi; khi anh nó giận sinh xằng, mẹ con ắt phải mắc bèo trôi chi tiếng.
(Hậu cổ, vế dưới) – Đời có kẻ giận chồng mà đánh đòn con cái, thậm đến điều mày tao chi quá. Chẳng biết rằng: khôn ngoan cũng thể đàn bà, tuy rằng vụng dại cũng là đàn ông. Bạ ăn bạ nói, lại ra điều múa rìu qua mắt thợ, sao chẳng biết già đòn non nhẽ chi cơ? Mẹ khuyên con giữ nết thảo hiền, vọt roi cũng chịu, yêu thương cũng nhờ, chớ hoặc lộ xầm xầm chi mặt; khi anh nó nói dai càng thêm chuyện, cha con phải mang vớ cọc chi cười.
(Kết cổ) – Con ơi. Nhập gia tùy tục, mẹ nhủ con đạo chi thường; xuất giá tòng phu, con phải giữ nhà chồng chi phép.
(Thúc đề) – Thôi mẹ về.
Lê Quý Đôn
Chúng ta thấy làm một bài kinh nghĩa đòi hỏi phải có sự hiểu biết về Kinh, Thư. Người viết phải biết vận dụng những lý lẽ cho phù hợp với câu ra ở đề bài. Đồng thời vẫn tỏ cho mọi người thấy cái tài của mình thông qua cách chọn từ ngữ trong các vế đối của bài viết.
Tài liệu tham khảo: Văn học Việt Nam – Dương Quảng Hàm – Bộ Quốc Gia Giáo Dục – Hà Nội – 1961.
Xuân Vi ĐH3C1
Sưu tầm 

ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC VÀ HỘI TRUYỀN BÁ CHỮ QUỐC NGỮ
Trường Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời vào tháng 3 năm 1907 tại số nhà 4 phố Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội do nhà sĩ phu yêu nước Lương Văn Can làm Hiệu trưởng - nay vừa tròn 100 năm (3-1907/3-2007).
Trước Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT), vào cuối thế kỷ 19, ở Bắc Kỳ đã thành lập Hội Trí Tri ngày 1-4-1892 ở số nhà 59 phố Hàng Đàn-nay là 47 Hàng Quạt do toàn quyền Pôn Đu-me (Paul Doumer) đứng đầu cùng 19 người Pháp và 108 người Việt mà đa số là người có địa vị, quyền thế. Nếu như Hội Trí Tri được thành lập để thu hút các tầng lớp trí thức Nho học và Tây học, đẩy mạnh truyền bá tiếng Pháp-đề tài thường thiên về ngôn ngữ văn học, phong tục tập quán, vệ sinh, khoa học thường thức… thì trường Đông Kinh Nghĩa Thục thường tổ chức sinh hoạt, học tập tuyên truyền về lịch sử nước nhà, về địa lý, toán học, cách trí, vệ sinh… Đặc biệt ban cổ động, tuyên truyền của trường lại hô hào mọi người dân Việt Nam phải có lòng yêu nước, nhớ đến cội nguồn con Rồng, cháu Tiên, phải biết đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lấy nhau, đào tạo những con người có ích cho đất nước, dùng hàng nội hóa, bài trừ mọi hủ tục mê tín dị đoan. Ngoài việc chống tư tưởng lạc hậu, Đông Kinh Nghĩa Thục còn mạnh dạn đưa ra đường lối tư sản tiến bộ, noi gương Nhật Bản và nền văn minh Âu Tây. Để truyền bá tư tưởng học thuật mới, Đông Kinh Nghĩa Thục rất chú trọng tới việc học chữ Quốc ngữ và làm cho chữ Quốc ngữ được phát triển, dần dần thay thế cho chữ Nho, chữ Nôm khó học.Tư tưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục lúc đó tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, chống thực dân, góp phần thức tỉnh đáng kể vào phong trào yêu nước cách mạng hồi đầu thế kỷ XX là phong trào Đông Du và Duy Tân. Ảnh hưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng có tiếng vang, khơi dậy trong lòng dân chúng Việt Nam một tinh thần yêu nước, đổi mới. Thống sứ Bắc Kỳ vội vã gửi công văn số 9, tháng 11 năm 1907 lên phủ Toàn quyền Đông Dương. Chỉ vài ngày sau đó, Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, tổ chức bị tan rã, các hội viên bị bắt, bị tù đày. Các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền là những người chủ trì Đông Kinh Nghĩa Thục đều bị bắt. Sau 8 năm tù, cụ Lương Văn Can được trả tự do ngày 25-11-1921.
Mặc dù trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, tổ chức của phong trào bị đàn áp, tan rã nhưng phong trào học chữ Quốc ngữ khá rầm rộ ở Hà Nội, Hà Đông, có nội dung học tập tiến bộ, thiết thực và có nhiều đổi mới trong các biện pháp tuyên truyền vận động, tổ chức học vụ vẫn là những kinh nghiệm rất quý báu để chống nạn thất học gắn liền với nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng sau này do Hội Truyền bá học chữ Quốc ngữ-gọi tắt là Hội Truyền bá Quốc ngữ (TBQN) được thành lập ngày 25-5-1938 mà Hội trưởng là cụ Nguyễn Văn Tố, một nhà học giả uyên bác. Sau này khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, cụ được Quốc hội khóa 1 nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa bầu làm Trưởng ban thường trực Quốc hội (tức là Chủ tịch Quốc hội).Thành quả học chữ Quốc ngữ do trường Đông Kinh Nghĩa Thục tổ chức tuy còn mới mẻ và rất hạn chế do nhà trường Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ tồn tại được một thời gian rất ngắn nhưng thứ chữ vừa dễ học, dễ đọc, dễ nhớ, vừa tiện lợi, lại chuẩn xác, dần dần trở thành chữ viết chính thống của quốc gia được các tầng lớp trí thức đầu thế kỷ XX như các nhà học giả Huình Tịnh Của, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố… tiếp tục phát động công cuộc cách mạng chữ viết này. Dòng chảy của chữ Quốc ngữ đã được khơi thông và đúng lúc này, tuy Hội Truyền bá Quốc ngữ được phép công khai hoạt động nhưng nhà cầm quyền Pháp không ngớt gây nên những khó khăn trở ngại liên tục… nhằm hạn chế kết quả hoạt động của Hội.
Nhớ lại thời kỳ đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: “Đi học là đi làm cách mạng”. Hội TBQN đã kế tiếp, ươm mầm để chữ Quốc ngữ được phát triển rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Và chỉ đến sau ngày Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, sau ngày Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, Bác Hồ vô vàn kính yêu khai sinh ra ngành Bình dân học vụ (8-9-1945) và “… hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ (sắc lệnh số 20 ngày 8-9-1945). Các “Chiến sĩ diệt dốt”, những “Vô danh anh hùng” (lời Bác Hồ đề tặng) đã quyết tâm hăng hái thực hiện lời hịch “Chống nạn thất học” mang chữ Quốc ngữ tới khắp hang cùng, ngõ hẻm và đã tạo nên những kỳ tích, những mốc son trong lịch sử văn hóa nước nhà, vang dội cả thế giới. “Ăn quả, nhớ người trồng cây”, đó là đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam. Chữ Quốc ngữ mà Đông Kinh Nghĩa Thục đã gắng công vun trồng, khơi nguồn, nay đã 100 năm, tuy trải qua lắm thác ghềnh, đã nở rộ hoa thơm kết trái quả ngọt, là một nhân tố rất quý giá góp phần thúc đẩy từng bước đi lên của cách mạng, của xã hội Việt Nam.
NGUYỄN THÌN XUÂN

Võ Trường Toản với sự nghiệp giáo dục
Cụ Võ Tường Toản, một chí sĩ yêu nước, một nhà giáo lớn của Việt Nam thế kỷ XVIII, là người có công lao to lớn đối với sự nghiệp giáo dục nước nhà. Những học trò của cụ đều là những bậc nhân tài, lỗi lạc.
Qua nhiều tư liệu tham khảo, sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” và trên bia chí còn lưu lại: “… Tiên sinh tính Võ, huý Trường Toản. Tiên thế hoặc vân Quảng Đức chi Thanh Kệ nhơn; hoặc vân Gia Định chi Bình Dương nhơn, kỳ uyên nguyên sở tự mỹ đắc nhi tường …” (… Tiên sinh họ Võ, tên húy Trường Toản, đời ông bà trước nói là người Thanh Kệ – Quảng Đức, hoặc nói là người Bình Dương – Gia Định, đầu mối sâu xa từ nơi đâu kia chưa thể hiểu biết rõ được …). Có thể nguồn gốc tổ tiên của cụ là người miền Trung, di dân vào Nam khoảng năm 1623, là năm mà người Việt chính thức vào Đồng Nai – Gia Định. Đã vậy, không ai cũng như không tài liệu nào còn lại cho biết cụ sinh vào ngày, tháng, năm nào. Theo nhà nghiên cứu Phan Kim Huệ thì cụ kết duyên cùng bà Thục Thận và hạ sinh được một người con gái nhưng không may bị bệnh và mất lúc còn ấu thơ.
Khu di tích mộ Võ Trường Toản (Ảnh Ngọc Thạch)

Cụ Võ Trường Toản học rộng, tài cao, thông đạt kim, cổ. Học lực của cụ dầy dặn, đầy đủ, chất thật, có thuật nghiệp uyên thâm, thông đạt; có lúc về quê mở trường dạy học, đã đào tạo nhiều nhân tài lỗi lạc như Ngô Tùng Châu (môn sinh đạo cao nhất); bực thượng hạng Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm; bậc nhân sĩ là ông Chiêu, ông Trúc, nhà ẩn dật, … Các ông ấy đều gặp hồi phong vận, thời trung hưng, cả thảy đều nên công nghiệp lớn trong đời. Cụ chủ trương lấy lối học “nghĩa lý để giáo hoá”, khi giảng cụ nói: “Sách đại học một nghìn bảy trăm chữ, vỡ ra gồm vô số sự vật, tóm lại còn hai trăm chữ, lại tóm nữa thì một chữ cũng không”; và căn dặn học trò “cần thấu triệt nội dung của cuốn sách, chứ không nên học vẹt từng câu, từng chữ”. Cách dạy ấy thường gọi là “tri ngôn dưỡng khí” (tri ngôn là hiểu lời, dưỡng khí là nuôi dưỡng khí phách, muốn có được khí phách phải tập nghĩa, tức là làm việc nghĩa cống hiến hết mình).
Cụ Võ không ham danh lợi, không thích ra làm quan với cả Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn. Ẩn dật với chính quyền mà không ẩn dật với xã hội, cốt để mở trường dạy học cho nhiều người đỗ đạt làm quan lớn, không làm quan to thì cũng có đạo lý làm người trong cuộc sống đương thời.
Ba nhà văn, thơ nổi tiếng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh đã để lại những tác phẩm nổi tiếng và được in thành sách Gia Định “Tam Gia thi tập”; các công trình khoa học sử, địa gồm “Gia Định thành thông chí” (Trịnh Hoài Đức), “Đại Việt thống nhất dư địa chí” (Lê Quang Định), Nghệ An phong thổ ký (Ngô Nhân Tịnh và chủ biên Bùi Dương Lịch).
Do ảnh hưởng đạo lý làm người trong lối sống và phong cách giáo dục của cụ, các chí sĩ yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, … luôn luôn giữ tròn tiết tháo khi nước nhà bị xâm lược.
Ngày mồng 9 tháng 6 năm Nhâm Tý (27-7-1792), Cụ Võ Trường Toản mất tại làng Hoà Hưng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Lúc mất, không còn con nhưng mọi người vì mến mộ ân đức của cụ, các học trò đều tôn kính như một người cha, vua thì cảm mến tiếc thương ban cho tước hiệu cao quý khắc vào bia mộ và một đôi liễn truy điệu:
 “Triều hữu huân danh, bán thuộc Hà phần cựu học
 Trời Nam phong giáo, để khâm Nhạc Lộc dư uy”
 (Nghĩa là: Bậc huân danh của triều đình, một nửa thuộc về lớp cựu học ở Hà phần, phong giáo chốn đầu Nam, ai cũng phục cái uy lớn của Nhạc Lộc).
Khi ba tỉnh miền Đông Nam kỳ rơi vào tay thực dân Pháp (05-6-1862), cụ Phan Thanh Giản cùng Nguyễn Thông – Hiệp trấn tỉnh An Giang, Phan Hữu Chánh chọn ngày 15-12-1865 cải táng di hài của cụ Võ cùng vợ, con từ làng Hoà Hưng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định về làng Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Mộ được xây bằng xi măng, kiểu “mã ngựa” trên gò đất cao theo hướng Đông Bắc trông về Tây Nam. Năm 1867, cụ Phan Thanh Giản có soạn bài văn bia chí và mướn thợ khắc trước mộ Võ tiên sinh, nhưng không may, đất nước lúc bấy giờ lại lâm vào cảnh loạn lạc, thợ khắc bỏ dở. Đến năm 1872, bia mộ mới được ông Trương Ngọc Lang cho thợ làm hoàn tất.
Khu mộ cụ Võ Trường Toản thuộc xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre được Bộ Văn hoá Thông tin ra quyết định số 95-1998-QĐ/BVHTT công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 24-01-1998.
Được sự chấp thuận của lãnh đạo tỉnh và Sở Văn hoá Thông tin Bến Tre, ông Trần Văn Lộc - Hiệu trưởng trường Võ Trường Toản tại TP HCM đã vận động phụ huynh học sinh đóng góp kinh phí trùng tu, tôn tạo để khu di tích được trang nghiêm, kính cẩn như hôm nay.
Cụ Võ Trường Toản đã để lại cho đời một sự nghiệp giáo dục rất uyên thâm, tinh túy, hung đúc lòng tiết nghĩa vững chắc cho cách sống và cách hành sự vì lợi ích của dân tộc, của đất nước mà đến nay vẫn không lạc hậu, lỗi thời. Mong rằng, phương pháp đó mãi là nền tảng vững chắc cho sự nghiệp giáo dục hôm nay và mai sau.
Trước tác của cụ Võ Trường Toản hầu như đều bị thất lạc, chỉ còn bài “Hoài cổ phú” dài 24 câu với bút pháp cổ điển. Tác giả muốn ký thác vào đây một tâm sự về đời, về cuộc sống mà tác giả đã chứng kiến trong giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Để tri ân công lao đóng góp của bậc tiền bối tài hoa, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã chọn ngày mùng 9 tháng 6 (âl) hàng năm làm lễ kỷ niệm ngày mất của Cụ. Nhân ngày nhà giáo Việt Nam 20-11 Sở giáo dục – Đào tạo tổ chức trao giải thưởng “ Võ Trường Toản” cho các thầy, cô giáo (hệ mầm non, bậc tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) đạt thành tích xuất sắc trong học tập. Từ năm 2005 đến nay đã có 60 giáo viên được nhận giải thưởng và nhiều học sinh khối lớp 9 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng được trao giải thưởng mang tên cụ.
 
Sưu tầm
Chữ Nôm
Theo các nhà nghiên cứu, chữ Nôm hình thành và phát triển từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX trên cơ sở chữ Hán của người Trung Quốc. Trong suốt quãng thời gian này, chữ Nôm là công cụ duy nhất hoàn toàn Việt Nam ghi lại lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Người Việt sáng tạo ra chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt...
Người Việt sáng tạo ra chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt, tiếng Tày, tiếng Dao tạo thành các văn tự Nôm Việt, Nôm Tày, Nôm Dao. Cứ liệu sớm nhất về chữ Nôm là bài văn khắc trên quả chuông Vân Bản năm 1076, thời nhà Lý, thế kỷ XI. Ban đầu, chữ Nôm thường dùng để ghi tên người, tên đất, nhưng càng về sau, chữ Nôm càng trở nên phổ biến và tìm thấy ý nghĩa trong đời sống văn hóa của đất nước. Dưới thời nhà Hồ thế kỷ XIV, nhà Tây Sơn thế kỷ XVIII, chữ Nôm đã từng có xu hướng sử dụng trong các văn bản hành chính. Chỉ tính riêng ở lĩnh vực văn học Việt Nam, chữ Nôm đã có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo nên một nền văn học rực rỡ xuyên suốt nhiều thế kỷ.

Từ chữ Nôm, nền văn học Việt Nam sinh ra ba thể loại độc đáo

Từ chữ Nôm, nền văn học Việt Nam sinh ra ba thể loại độc đáo của riêng Việt Nam là Truyện thơ Nôm Lục Bát, Ngâm Khúc (song thất lục bát) và Hát Nói (trong ca trù). Tác phẩm thuần Nôm sớm nhất còn lưu giữ được là “Thiền Tông Bản Hạnh” thời Trần thế kỷ XIII-XIV. Các tác phẩm chữ Nôm như “Quốc Âm thi tập” của Nguyễn Trãi – danh nhân văn hóa thế giới (1380-1442), “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn (thế kỷ XVIII) bản dịch của Đoàn Thị Điểm, “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1766-1820) – danh nhân văn hóa thế giới... đã vươn tới đỉnh cao trong nền văn học Việt Nam. Các tên tuổi như Hồ Xuân Hương (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX), Bà Huyện Thanh Quan (thế kỷ XIX)... cùng các tác phẩm truyện Nôm Tày, các khúc hát giao duyên của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc đã tô điểm thêm cho vườn hoa văn học Việt Nam thêm nhiều sắc mới...

90% thư tịch Nôm chưa từng được dịch sang chữ quốc ngữ...

Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt hiện đang lưu giữ hàng trăm ngàn đơn vị tư liệu chữ Nôm ở nhiều mảng lĩnh vực: văn học, tư tưởng, triết học, ngôn ngữ, luật pháp, đạo đức... Những tư liệu chữ Nôm này rất có giá trị trong việc nghiên cứu đời sống của người Việt thời xa xưa. Tuy nhiên, chữ Nôm ngày nay chưa được đánh giá đúng với giá trị của nó, rất ít người học, người sử dụng. Giáo sư Ngô Thanh Nhàn, Phó Chủ tịch Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm Hoa Kỳ cho biết: “Hiện trên thế giới chỉ còn khoảng 100 người đọc và viết thành thạo chữ Nôm trong lúc trên 90% thư tịch Nôm chưa từng được dịch sang chữ quốc ngữ. Một bộ phận không nhỏ tư liệu chữ Nôm còn lưu lạc trong dân gian dưới nhiều dạng sách vở, hoành phi, câu đối, bia, chuông...”. Để giải quyết vấn đề này, cần thiết phải truyền dạy chữ Nôm cho thế hệ trẻ cũng như dịch các tác phẩm chữ Nôm ra chữ Quốc ngữ. Điều đó sẽ không chỉ giúp cho người Việt mở mang tri thức mà còn góp phần đáng kể trong việc đưa văn hóa Việt Nam đến với kho tàng văn hóa, văn minh thế giới.
Sưu tầm 

trường học đổi mới đầu tiên ở Hà Nội


Từ giữa năm 1906 dân phố Hàng Đào thấy các nhà nho có tên tuổi đương thời như phó bảng Hoàng Tăng Bí, cử nhân Dương Bá Trạc, tú tài Lê Đại, huấn đạo Nguyễn Quyền… thường xuyên lui tới nhà cụ cử Lương Văn Can ở số nhà 4 cùng phố. Lại có cả các vị thanh niên Tây học danh tiếng như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn… chẳng biết các vị bàn việc gì, chỉ biết là tới tháng 3/1907 ngôi nhà số 10 có treo biển Đông Kinh nghĩa thục (ĐKNT) và bắt đầu chiêu sinh. Đông Kinh là tên cũ của Hà Nội, nghĩa thục là trường làm việc nghĩa.

Học viên tới tấp ghi tên nhập học, đủ lứa tuổi, đủ tầng lớp, nhà nho thì tới học chữ Pháp, chữ quốc ngữ; thanh niên thì tới học chữ Pháp và cả chữ Hán, có riêng một lớp cho nữ. Ban đầu chỉ có ba lớp, khoảng 100 học viên, đến tháng 5/1907 khi có giấy phép chính thức đã lên đến ngàn người, phải mở tám lớp. Có thể nói ĐKNT là nhà trường kiểu mẫu của tình yêu nước của dân tộc Việt Nam trong điều kiện và hoàn cảnh lịch sử lúc đó.

Trường do Lương Văn Can làm Thục trưởng và Nguyễn Quyền làm Giám học, có 4 ban: Giáo dục, Tài chính, Tu thư và cổ động.

Ban Giáo dục gồm ba tổ: Việt văn, Hán văn, Pháp văn. Các cụ Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc… dạy Hán. Các ông Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Bùi Đình Tá… dạy Việt và Pháp văn. Có hai nữ giáo viên dạy chữ Pháp và quốc ngữ cho học sinh gái.

Ban Tài chính xây dựng quỹ cho nhà trường lúc đầu không có tiền, nhưng được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, quỹ mỗi ngày một dồi dào. Nguồn cung cấp chính cho quỹ nhà trường là các người thường trợ là những người có con em theo học ở đây và lạc trợ là những người hảo tâm giúp đỡ nhà trường. Nhờ đó trường có thể cấp học bổng cho học viên.

Ban Cổ động có nhiện vụ truyền bá những tư tưởng mới, dưới hai hình thức: diễn thuyết và bình văn. Trong số những diễn thuyết có tiếng lúc bấy giờ là Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Lương Trúc Đàm… Hai hình thức này thu hút được đông đảo thính giả Hà Nội và được phản ánh lại trong hai câu thơ:

Buổi diễn thuyết người đông như hội
Kỳ bình văn khách tới như mưa

Ban Tu Thư có nhiệm vụ biên tập các loại tài liệu vừa để cho học viên học tập, vừa để cổ động cho ĐKNT, vừa để hô hào cải cách. Biên tập chính có Lương Văn Can, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu, Ngô Đức Kế… Chương trình dạy không nhằm đi thi Hương thi Hội mà lúc này vẫn còn, ngược lại bao gồm những kiến thức mới của phương Tây mà các cụ tiếp thu qua sách báo đổi mới của Trung Quốc, từ lý thuyết dân chủ tư sản của các nhà tư tưởng Pháp, Nhật, Trung Quốc v.v… Rồi những kiến thức về địa lý mới, về khoa học thường thức (khi đó gọi là môn Cách trí). ĐKNT chú trọng soạn những bài giảng theo quan điểm đào tạo những con người hữu dụng cho đất nước chứ không phải để đào tạo những người giúp việc như chủ đích các trường học của thực dân.

Ngoài việc chống tư tưởng phong kiến, lạc hậu, tuyên truyền những tư tưởng dân chủ tư sản tiến bộ của các nước châu Âu, ĐKNT đặc biệt chú trọng phổ biến chữ quốc ngữ thay thế cho chữ nho và dịch các sách ngoại ngữ ra chữ quốc ngữ.

ĐKNT nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể là phát triển văn hóa làm lợi khí để đẩy mạnh hoạt động thực nghiệp làm cho nước giàu dân mạnh. Muốn vậy, mọi người phải “hợp quần” tức như bây giờ nói là đoàn kết. Một bài giảng với nhan đề Chiêu hồn nước có đoạn:

Khuyên nhau lấy chữ đồng bào
Lấy câu ích quốc, lấy điều lợi dân
Đường bảo chủng, nghĩa hợp quần
Trị cường thế ấy, duy tân thế này

ĐKNT thấy rằng muốn bảo chủng tức bảo vệ giống nòi, muốn tự cường đổi mới thì hợp quần là rất cần. Có đoàn kết mới thể hiện lòng yêu nước yêu dân. ĐKNT hoạt động như vậy nên ảnh hưởng tỏa ra nhiều nơi. Gần Hà Nội thì có Mai Lâm nghĩa thục ở Hoàng Mai, Ngọc Xuyên nghĩa thục ở Tứ Liên… Ở Bắc Ninh, Hưng Yên… các nhà nho tiến bộ cũng lấy chương trình ĐKNT về dạy ở quê hương.

Thực dân Pháp lúc đầu còn tỏ thái độ chấp nhận đối với ĐKNT nhưng sau thấy xu hướng chính trị bộc lộ ra như vậy, gây được ảnh hưởng lớn trong nhan dân nên vội vã đàn áp.

Tháng 12/1907, thực dân Pháp đóng cửa nhà trường và tìm cách đầy ải các thành viên ĐKNT ra Côn Đảo.

Như vậy, ĐKNT là một phong trào yêu nước xuất hiện ở Bắc Kỳ vào thế kỷ XX, tiếp thu các nền văn hóa tiến bộ Âu, Á đương thời lấy trường học hợp pháp làm trung tâm để mở rộng phạm vi ra nhiều nơi. Hoạt động của ĐKNT mở ra ở nhiều lĩnh vực nhưng nổi bật nhất là đoàn kết các tầng lớp nhân dân, hoạt động văn hóa, giáo dục, xã hội. ĐKNT đã chống lại những cái lạc hậu của xã hội phong kiến đang là những trở lực ngăn cản sự tiến bộ của dân tộc.

Một trăm năm đã qua nhưng dấu ấn và những đóng góp của ĐKNT vào tư tưởng của nhân dân Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung là không thể phai nhạt.
Sưu tầm 

Những thay đổi về giáo dục ở Hà Nội
Trước khi Pháp xâm lược, ở toàn cõi Bắc Kỳ có hai trường thi Hương, một ở Hà Nội (cho thí sinh các tỉnh Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hoá…), một ở Nam Định (cho thí sinh các tỉnh Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương…). Từ năm 1879, trường thi Hà Nội (nay là khu vực Thư viện Quốc gia) bị quân đội Pháp chiếm đóng. Thế là sau đấy tất cả Bắc Kỳ đều thi ở Nam Định. Việc thi hương tại đó còn kéo dài tới năm 1915 thì bãi bỏ. Hết các ông cử ông tú Hán học.

Tuy nhiên, để phục vụ cho bộ máy cai trị, thực dân ngay những ngày đầu chiếm đóng đã mở những cơ sở giáo dục để đào tạo thông ngôn phiên dịch rồi các trường tiểu học để tạo nguồn nhân lực mới.

Sau khi chiếm Hà Nội, thực dân bắt tay ngay vào tổ chức việc giáo dục. Đầu năm 1885, tướng Bờrie đờ Lin quyết định lập một trường tiểu học Pháp-Việt đầu tiên của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ, đặt tại Hà Nội. Trường này dạy cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ lẫn chữ Pháp. Giáo viên gồm một giáo viên người Pháp và một giáo viên người Việt.

Năm 1886, với toàn quyền PônBe, thực dân chủ trương có một kế hoạch giáo dục quy mô hơn. Một trường thông ngôn ra đời ngày 27/1/1886. Lúc đầu trường đặt ở phố Hàng Chiếu, sau chuyển lên đình An Thọ vốn xưa thuộc phường Yên Phụ nên gọi là trường Yên Phụ (nay là trường cấp 2 Mạc Đĩnh Chi).

Cũng trong năm 1886, Pôn Be lập “Hàn lâm viện Bắc Kỳ”. (Viện này do Pôn Be làm chủ tịch, một số quan lại và một số người có bằng tú tài trở lên làm hội viên. Cũng như trường hoàng gia mà thực dân Pháp lập ra ở Huế trong năm ấy cho con cái hoàng thân và các quan, mục đích của viện này là truyền bá tiếng Pháp trong tầng lớp đó.

Năm 1887, thực dân Pháp mở trường tiểu học nữ sinh ở Hà Nội. Đến năm 1898, cả Hà Nội có 3 trường tiểu học nam, 1 trường tiểu học nữ. Cũng năm này, thực dân mở ở Hà Nội một trường kỹ nghệ công nghiệp gọi là trường Bách nghệ để đào tạo những thợ rèn, thợ mộc, thợ điện mà chúng cần đến trong công cuộc khai thác thuộc địa của chúng.

Qua đầu thế kỷ XX, năm 1902 thực dân Pháp cần có những người phụ tá cho công tác y tế của chúng ở Đông Dương nên quyết định mở trường Y-Dược ở Hà Nội. Giám đốc của trường là bác sĩ Yécsanh (Yersin).

Năm 1903 mở trường Hậu bổ đào tạo quan lại. (Năm 1912 đổi là trường Sĩ hoạn và tới 1917 đổi là trường Pháp chính).

Ngày 14/11/1905, thực dân Pháp lập Nha học chính Đông Dương và ngày 9/5/1906 chúng lập Hội đồng cải tổ giáo dục bản xứ. Thời gian này thực dân Pháp phải chú trọng đến cải tổ công tác giáo dục của chúng là để lừa bịp, ngăn cản phong trào Đông Du. Đến năm 1907 để đối phó với sự ra đời của Đông Kinh nghĩa thục, mặc dù cố gắng thực dân cũng chỉ mở tại Hà Nội có 8 trường tiểu học Pháp Việt gồm 1800 học sinh, số trường đó vẫn không đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân Hà Nội. Cho tới tận khi chế độ thực dân cáo chung (1945) Hà Nội cũng chỉ có thêm vài trường tiểu học công lập, tất cả gồm 10 trường nam và 2 trường nữ. Do vậy có nhiều trường tiểu học tư thục đã được mở nhưng bị thực dân o ép nên không phát triển. Về cấp trung học, ngoài trường Xa-rô dành cho học sinh Pháp và con em người Việt giới thượng lưu, có mỗi một trường trung học bảo hộ (trường Bưởi, nay là Chu Văn An) dành cho học sinh Việt Nam mở năm 1908. Ngoài ra có trường Cao đẳng tiểu học EPSI (nay là Phan Đình Phùng) chỉ dạy đến hết đệ tứ niên để thi cao đẳng tiểu học. Nếu muốn thi tú tài thì phải học trường Bưởi. Có một trường Cao đẳng tiểu học dành cho nữ sinh Việt Nam là trường Đồng Khánh (nay là Trưng Vương)… Có thể kể thêm trường Phêlích Phô dành cho nữ sinh người Pháp. đấy là tất cả các trường trung học công lập ở Hà Nội. Do vậy, một số trường trung học tư thục đã được mở. Nổi tiếng có một thời là Hồng Bàng, Gia Long Văn Lang, Hoài Đức (dành cho nữ sinh) và đặc biệt có trường Thăng Long (ở phố Ngõ Trạm) nơi có nhiều thày giáo và học sinh hoạt động cách mạng.

Về giáo dục cao đẳng - đại học thì ngay trong khi Đông Kinh nghĩa thục đang hoạt động, nhìn thấy yêu cầu về học vấn của nhân dân Hà Nội (và cả nước) cùng là ảnh hưởng của phong trào Duy Tân của Nhật kích thích tinh thần cầu học là bất lợi cho chúng nên ngày 1/11/1907, toàn quyền Đông Dương đã ký lệnh mở “Đông Dương cao học cục” tức một loạt trường đại học. Trường này chia làm ba ngành: văn chương, luật và khoa học. Tiêu chuẩn của những người vào học là đã tốt nghiệp ở trường Sátxơlu Lôba ở Sài Gòn hoặc các cử nhân tú tài cũ đã biết tiếng Pháp. Mục tiêu cụ thể của trường này là đào tạo những nhân viên có trình độ văn hoá giúp cho chúng trong công việc củng cố chính quyền thực dân cũng như để giúp cho chúng đẩy mạnh công cuộc khai thác Đông Dương như chúng đã thú nhận: “Trường đại học Đông Dương không nhằm mục đích nào khác là đào tạo những cán bộ có khả năng và học thức để trở thành những người giúp việc cần thiết cho bộ máy hành chính và cho những người thực dân trong những yêu cầu lớn lao về tổ chức và phát triển của Đông Dương”.

Danh từ đại học mà thực dân Pháp đặt ra chỉ để mua chuộc, lừa bịp, chứ trong thực tế nội dung cuả nó không phải là đại học.

Cho nên, sau khi vấp phải ý thức dân tộc mạnh mẽ chống đối với ách thống trị của chúng trong lĩnh vực giáo dục mà nhà trường Đông Kinh nghĩa thục là tiêu biểu, thực dân Pháp hoảng sợ vội vã đóng cửa trường học này vào quãng đầu năm 1908. Từ đó tới tận năm 1917, chúng không dám bàn tới việc mở trường đại học nữa. Và ở quãng thời gian tương đối lâu dài này cũng là thời gian chúng mò mẫm, rút kinh nghiệm để tổ chức một nền giáo dục ở thuộc địa thích hợp với quyền lợi thống trị của chúng.

Năm 1917, trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, một mặt để lừa bịp và dụ dỗ nhân dân Đông Dương góp thêm người và của cho chúng đánh quân Đức, một mặt khác do nhu cầu của chúng để chuẩnh bị cho cuộc khai thác Đông Dương lần thứ hai, thực dân Pháp mở lại đại học ở Hà Nội.

Nhưng phải tới năm 1918, với thông tư ngày 20/3/1918 của toàn quyền Xa-rô, thực dân Pháp mới có một chính sách giáo dục rõ ràng ở Đông Dương, đặt những nguyên tắc cơ bản cho đường lối giáo dục của chúng ở một xứ thuộc địa dưới hai chế độ giáo dục: giáo dục Pháp và giáo dục Pháp-Việt. Chế độ giáo dục Pháp rập theo khuôn mẫu các trường bên Pháp, chủ yếu dành cho học sinh Pháp. Chế độ giáo dục Pháp –Việt trong thực tế chỉ là sự áp dụng chế độ giáo dục Pháp trong điều kiện và hoàn cảnh của một xứ thuộc địa, dành riêng cho học sinh người Việt. Cả hai chế độ giáo dục đó đều phải giảng dạy bằng tiếng Pháp và gặp nhau ở chương trình đại học chung. Năm 1924, toàn quyền Méc-lanh chủ trương giáo dục theo bình diện. Với chủ trương đó, số học sinh thi tiểu học bị đánh rớt một nửa để hạn chế số học sinh trung học.

Với Xa-rô và Méc-lanh, chính sách giáo dục của thực dân Pháp cho Hà Nội và chung cho toàn Đông Dương đã rõ ràng. Nó kìm hãm đa số nhân dân trong vòng thất học và chỉ nhằm đào tạo một số người cần thiết giúp việc cho chúng.
Tổ chức đại học ở Hà Nội

Năm 1917, tổ chức đại học ở Hà Nội có những trường: Y – Dược, Thú y, Luật và Hành chính, Sư phạm, Nông lâm, Công chính, Thương mại. Năm 1922, chúng lập thêm hai trường: trường Khoa học thực hành và trường Thương mại thực hành. Trường Khoa học thực hành gồm 5 ban (công chính, hoá, kỹ nghệ, điện mỏ, địa chính) nhằm đào tạo nhân viên chuyên môn cho công cuộc khai thác Đông Dương lần thứ hai của thực dân Pháp. Trường Thương mại thực hành, thời gian học 2 năm, nhằm bổ túc cho sinh viên trường Thương mại. Năm 1924, thực dân Pháp bỏ trường đại học Luật và Hành chính mà thay thế bằng trường Cao đẳng Đông Dương (École des hautes études indochinoise) chương trình gồm có: luật và hành chính, kinh tế xã hội, ngôn ngữ.

Cho tới 1925, tổng số sinh viên tốt nghiêp các trường đại học ở Hà Nội rất là ít ỏi:

Y dược: 231
Thú y: 83
Luật: 163
Sư phạm: 70
Canh nông: 49
Công chính: 308
Khoa học thực hành: 12
Thương mại thực hành: 28

(Dẫn theo Lịch sử Thủ đô Hà Nội – Nxb Sử học – H., 1960)

Tới tận niên khoa 1938 – 1939 trở về sau, một mặt do nhu cầu những viên chức giúp việc cho chúng trong tình hình mới của cuộc đại chiến thế giới thứ hai kết hợp với ý định của bọn thực dân không muốn cho học sinh Việt Nam sang Pháp, một mặc khác để gây ảnh hưởng chính trị cho chúng chống lại ảnh hưởng của phát xít Nhật, số lượng sinh viên dần dần có tăng hơn trước nhưng cũng không là bao.

Năm Số sinh viên các trường đại học ở Hà Nội
1938 – 1939: 457
1939 – 1940: 573
1940 – 1941: 602
1941 – 1942: 834
1942 – 1943: 1.050
1943 - 1944: 1.575

(Xuất xứ như trên)

Một điểm cần chú ý là sau khi phát xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp có tỏ vẻ quan tâm đến việc cải cách chương trình đại học hơn. Năm 1941, chúng mở trường Cao đẳng khoa học ở Hà Nội. Nhưng thực chất của sự cải cách nói trên, theo bức điện tín của toàn quyền Đờcu gửi cho Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp ngày 12/8/1941 thì chỉ là “sự thay đổi danh từ chứ không cải cách gì về tổ chức” nhằm mục đích “gây ảnh hưởng và uy tín của ngành đại học đối với nhân dân Đông Dương và các cường quốc”. Cũng trong thời kỳ này, thực dân Pháp có mở rộng phạm vi giảng dạy của một số trường cao đẳng như trường Mỹ thuật, trường Luật… nhưng cũng chỉ là nhằm dáp ứng nhu cầu của chúng hoặc gây ảnh hưởng cho chúng mà thôi.
Sưu tầm 

Việc Học Hành Thi Cử Ngày Xưa
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved