Home » » ĐÂU LÀ SỰ THẬT LỊCH SỬ?

ĐÂU LÀ SỰ THẬT LỊCH SỬ?

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011 | 02:17

ĐÂU LÀ SỰ THẬT LỊCH SỬ?
HÀ VĂN THÙY

Trong bài viết của mình*, ông Trần Kinh Nghị đưa ra định đề không thể bàn cãi: Lịch sử cần sự thật!  Nhưng vấn đề đặt ra là lịch sử nào? Bởi lẽ, lịch sử thường là những sự kiện xảy ra trong quá khứ xa rồi được sử gia đời sau viết lại! Lấy gì đảm bảo các sử gia, ngay cả ông tổ của ngành sử phương Đông là Tư Mã Thiên, không sai lầm? Phải chăng những cuốn sử mà tác giả dùng làm cứ liệu cho bài viết như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Sử Trung Quốc (Nguyễn Hiến Lê), Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim)… đã phản ánh đúng sự thật?

Sự thật là, tất cả các sách sử hiện có đều dựa trên thuyết Đa trung tâm về nguồn gốc con người, cho rằng loài người được sinh ra từ bốn khu vực: Đông Nam Á, Đông Á, Tây Á và châu Phi. Theo thuyết này thi tại Đông Á, con người xuất hiện từ chân dẫy Thiên Sơn rồi di chuyển dần xuống phía Nam. Do vậy nền văn minh cũng lan tỏa từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Và như một hệ quả tất yếu, khoảng hơn 1000 năm TCN, tổ tiên tộc Việt ra đời ở phía nam Trường Giang, hàng nghìn năm sau tộc Hán!
Những hiểu biết như vậy đang yên ngủ trong những cuốn sử của các đại học danh tiếng nhất thế giới! Và giới sử gia của chúng ta cũng yên ngủ như vậy trong kiến thức của mình! Đấy là tri thức vững chắc của thế kỷ XX. Và tác giả Trần Kinh Nghị cũng ngồi trên quan niệm lịch sử cũ mèm và sai lầm đó.
Tôi buộc lòng phải thưa lại như sau:

Nhưng sang thế kỷ này, khi công nghệ gen được đưa vào khám phá lịch sử, từ những trung tâm di truyền học nổi danh thế giới như Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ (National Geographic) (1), Đại học Oxford Anh quốc (2)…đã phát hiện rằng, loài người được sinh ra từ nơi duy nhất là Đông Phi, khoảng 160.000 năm trước. Từ cái nôi chung này, con người đã lan tỏa ra toàn thế giới. Ngày 29 tháng 9 năm 1998, sau mười năm nghiên cứu bằng số tiền 1.000.000 đô-la tài trợ của Quỹ Phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc, Giáo sư gốc Hán Y. Chu của Đại học Texas bang Huston Hoa Kỳ và cộng tác viên trong Dự án Đa dạng di truyền người Trung Quốc (Chinese Human Genome Diversity Project), đã công bố: “Khoảng 70.000 năm trước, người tiền sử đã từ châu Phi men theo bờ biển Ấn Độ Dương tới Việt Nam. Khoảng 50.000 năm trước, người từ Việt Nam tới châu Úc và chiếm lĩnh các đảo ngoài khơi Đông Nam Á. Khoảng 40.000 năm trước, khi khí hậu bớt lạnh, người từ Việt Nam lên khai phá Trung Quốc và khoảng 30.000 năm trước, vượt eo Bêrinh sang châu Mỹ.” (3)                                        Từ năm 2004, khi nhận được thông tin này qua tờ báo của người Việt ở nước Mỹ, tôi đã dành toàn bộ thời gian để tìm hiểu về thời tiền sử của tộc Việt. Sau hơn năm năm, cùng với ngót trăm bài viết công bố trên báo mạng và báo giấy,  hai cuốn sách Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn Học, 2007) và Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn Học, 2008) cùng về đề tài đã được xuất bản.                                                                                                   Để bạn đọc dễ dàng tiếp cận vấn đề, tôi tóm lược nghiên cứu của mình trong bài Nhìn lại năm năm tìm về nguồn cội, đăng trên Văn hóa Nghệ An số tháng Mười năm 2010 và nhiều trang báo mạng.
Những điều cốt lõi của lịch sử Đông Á như sau:
I. Sự hình thành dân cư Đông Á
Nói cho cùng, lịch sử của một vùng đất là lịch sử hình thành và phát triển của khối dân cư chính yếu từng sinh sống trên vùng đất đó. Từ nguyên lý trên, muốn tìm hiểu lịch sử Đông Á, phải nghiên cứu quá trình hình thành dân cư của nó. Cho tới nay, Đông Á từng xuất hiện những nhóm dân cư chính sau:
1. Người Việt cổ.
Khoảng 70.000 năm trước, hai đại chủng Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo bờ biển Nam Á tới miền Trung và Bắc Việt Nam. Tại đây họ hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ, trong đó chủng Indonesian là đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Người Việt cổ di cư sang Úc và chiếm lĩnh các hải đảo Đông Nam Á. Họ cũng di cư về phía tây, chiếm đất Miến Điện và Ấn Độ. Khoảng 40.000 năm trước, khi khí hậu phía bắc bớt lạnh, người Việt cổ lên khai phá đất Trung Hoa, sau đó tới Sibeira rồi vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ. (4)
2. Người Mongoloid
Cho tới cuối thế kỷ trước, việc người Mongoloid có mặt ở tây bắc Trung Quốc và đất Mông Cổ là điều bí hiểm. Nhưng sau này, nhờ nghiên cứu của Ballinger (5), ta biết, trong dòng Mongoloid di cư tới Việt Nam, có những nhóm riêng rẽ theo hành lang phía tây lên định cư ở Tây Bắc Trung Quốc, trở thành chủng Mongoloid phương Bắc. Từ săn bắt hái lượm, sau thời kỳ Băng Hà, họ chuyển sang đời sống du mục.
3. Người Ngưỡng Thiều
 Có thể sớm hơn ít nhiều, nhưng muộn nhất là khoảng 6000 năm TCN, tại vùng hoàng thổ sông Hoàng Hà có sự tiếp xúc và hòa huyết tự nhiên giữa người Việt nông nghiệp và người Mông Cổ du mục. Từ đó chủng Mogoloid phương Nam được sinh ra trong cộng đồng Việt. Lịch sử biết tới chủng này với tư cách là chủ nhân của văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều vào năm 1921. Lúc đầu được cho là nơi phát tích của văn hóa Hán nhưng sau đó được xác nhận là từ giai đoạn Hòa Bình sớm đưa lên. (4)
4. Người Hà Mẫu Độ
Khảo cổ học cũng phát hiện ở vùng cửa sông Chiết Giang, văn hóa Hà Mẫu Độ, nền văn hóa nông nghiệp rất phát triển, có tuổi khoảng 6000 năm TCN. Chủ nhân của văn hóa này là người Mongoloid phương Nam. Chưa có tài liệu nào cho biết nguồn gốc của người Hà Mẫu Độ. Tôi cho rằng, trước đó, khi đất Trung Quốc còn đóng băng, có những nhóm nhỏ Mongoloid từ Việt Nam đi theo bờ biển Đông tới định cư ở vùng cửa sông Dương Tử. Khoảng  6000 - 7000 năm TCN, người Việt nông nghiệp mở rộng vùng phân bố, đã tới đây. Tại đây họ gặp gỡ và hòa huyết với người Mongoloid, sinh ra chủng Mongoloid phương nam. Với thời gian, người Mongoloid phương Nam trở thành chủ thể của vùng và làm nên văn hóa Hà Mẫu Độ.(6)
5. Người Việt hiện đại
Cho tới thiên niên kỷ IV TCN, trên địa bàn Đông Á, người Việt cổ (Australoid) chiếm khoảng 60-65% nhân số thế giới, là chủ nhân nền văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ nhất hành tinh.(4)
Khoảng 2600 năm TCN, người du mục Mông Cổ vượt Hoàng Hà chiếm đất của người Việt. Liên quân Việt của Đế Lai và Lạc Long Quân thất bại. Đế Lai hy sinh. Lạc Long Quân cùng đoàn quân dân Việt theo Hoàng Hà ra biển xuống phía Nam, đổ bộ vào vùng Nghệ Tĩnh. Do cùng nòi giống và ngôn ngữ, đoàn thuyền nhân được người tại chỗ đón nhận rồi Hùng Vương được tôn làm vua như trong truyền thuyết. Những người Ngưỡng Thiều trong đoàn di tản mang gen Mongoloid phương Nam, hòa huyết với người bản địa, sinh ra những người Mongoloid phương Nam mới. Đồng thời cũng do biến loạn, người di cư phương Bắc xuống nhiều hơn, trong đó có cả người Hà Mẫu Độ, khiến cho số người mang gen Mongoloid phương Nam tăng lên. Kết quả là tới khoảng 2000 năm TCN, phần lớn dân cư Việt Nam chuyển hóa thành người Mongoloid phương Nam, được khoa học gọi là người Việt hiện đại. (4)
 
6. Quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á.
Trong thế kỷ trước, nhân chủng học xác nhận rằng có quá trình chuyển hóa di truyền dân cư Đông Á từ nhóm loại hình Australoid sang Mongoloid phương Nam mà nguyên nhân “hoặc do di cư hoặc do đồng hóa.” Với những tư liệu mới do di truyền học cung cấp, ta có thể tin rằng, do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ mà người Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ mang gen Mongoloid phương Nam chạy loạn tới khu vực Đông Nam Á. Tại đây họ hòa huyết với người bản địa, chuyển hóa di truyền phần lớn dân cư Đông Nam Á sang chủng Mongoloid phương Nam. Quá trình này hoàn tất khoảng 2000 năm TCN. (4)
7. Sự hình thành người Hán
Người Hán là tộc người có số lượng lớn nhất Đông Á nhưng nguồn gốc họ từ đâu vẫn chưa có lời đáp. Tri thức truyền thống cho rằng, người Hán được hình thành từ lâu tại phía nam dải Thiên Sơn, sau đó di cư vào lưu vực Hoàng Hà. Tài liệu Trung Quốc mới nhất nói, người Hán thuộc chủng Á-Âu, từ phương Tây sang (6). Điều này không đúng. Vì nếu vậy, người Hán phải mang bộ gen Á-Âu như người Ấn Độ. Việc người Hán thuộc chủng Mongoloid phương Nam bác bỏ ý tưởng này. Theo tôi, sự hình thành người Hán như sau:
Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người lai Mongoloid phương Nam, tự gọi là Hoa Hạ. Quá trình lai giống diễn ra theo phản ứng dây chuyền. Do số lượng người Mông Cổ ít, người Việt quá đông nên sau vài ba thế hệ, người lai (Hoa Hạ) trở thành chủ thể của đất nước các vương triều Hoàng Đế, cho tới thời Thương, Chu. Trong khi đó, vây quanh Trung Quốc là những quốc gia Việt như Ba, Thục ở phía tây; Việt, Ngô, Sở ở phía đông. Phía nam là Văn Lang. Với thời gian, các quốc gia Việt này – chủ yếu do tiếp xúc với người Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ - cũng chuyển hóa di truyền sang Mongoloid phương Nam, tức là đồng chủng với người Hoa Hạ. Vào thế kỷ III TCN, khi nhà Tần thôn tính nước Thục và nước Sở, đã sáp nhập khối người Hoa Hạ với khối người Việt –  đều thuộc chủng Mongoloid phương Nam - vào trong một nhà nước. Khi dựng nước, Lưu Bang tiếp thu cương thổ, thể chế và dân cư nhà Tần. Vốn là người Việt của nước Sở, ông lấy tên Hán Thủy của quê mình đặt cho vương triều. Vốn xưa, tên sông Hán Thủy được đặt theo tên của bộ tộc Hán. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Thành (7), thì Hán, Hàn, Hon, Hòn là những danh xưng của người Việt ở những địa phương khác nhau. .  Người Trung Quốc từ sau thời nhà        Nguyên, được gọi là người Hán. Như vậy, trên thực tế, Hán là tên gọi của một nhóm người Việt hiện đại.
II Sự hình thành văn hóa Đông Á

Văn hóa được hình thành do hoạt động của con người trong thời gian và không gian. Vì vậy, từ nghiên cứu dân cư cho thấy sự hình thành văn hóa Đông Á như sau.
Trung tâm và động lực làm nảy sinh và phát triển của văn hóa Đông Á là người Việt cổ tại Hòa Bình. Được hình thành khoảng 60.000 năm trước trên đất Việt Nam (có lẽ đúng hơn là tại đồng bằng Hainanland mà ngày nay là thềm Biển Đông?) người Việt cổ thuộc nhóm loại hình Australoid đã lan ra chiếm lĩnh phần lớn châu Á. Muộn nhất là 15.000 năm trước, từ Hòa Bình, người Việt cổ mang công cụ Đá Mới, giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó… cùng tư tưởng nông nghiệp phổ biến khắp khu vực Đông Á và tiểu lục địa Ấn Độ.
Ngoài những vật thể vô cùng giầu có của nền văn minh nông nghiệp mà ta đã biết, người Việt cổ sáng tạo văn hóa phi vật thể sau:
1. Kinh Dịch.
2. Chữ viết.
Theo lý thuyết, tôi cho rằng, với một quần thể dân cư đông đúc (trên 60% nhân số thế giới vào thiên niên kỷ IV TCN), sống định cư trên địa bàn rộng mênh mông, trong thời gian dài, người Việt cổ phải có chữ viết từ rất sớm. Văn bản trên bình trà Bán Pha 2 (8) có tuổi 12.000 năm chứng minh điều này. Ở thời điểm đó đã có văn bản hoàn chỉnh thì chắc rằng, chữ viết (ký tự) phải được sáng tạo từ trước nữa.
3. Văn hóa Việt Nho (hay Nguyên Nho).
Gần nửa thế kỷ trước, nhờ giải mã những huyền thoại, truyền thuyết Việt, Giáo sư Kim Định (9) phát hiện ra văn hóa gốc của tộc Việt là Việt Nho với những yếu tố sau:
- Quan niệm về vũ trụ hài hòa: tham thiên, lưỡng địa.
Vũ trụ được tạo thành từ hai yếu tố Âm và Dương. Âm và Dương hội tụ trong con số 5, là con số vũ trụ. Trong khi văn minh du mục vận hành theo tỷ lệ bốn Dương, một Âm thì văn hóa nông nghiệp vận hành theo tỷ lệ ba Dương hai Âm. Trong khi phương Tây đẩy thế giới phát triển quá nóng, khiến Dương cực thịnh, Âm cực suy, dẫn tới mất cân bằng và sụp đổ thì Việt Nho chủ trương một thế giới hài hòa.
- Quan niệm nhân sinh: Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh.
Trong  ba yếu tố làm nên vũ trụ là Thiên, Địa và Nhân thì Việt nho quan niệm con người là chủ thể. Vì là chủ thể nên con người phải giữ quan hệ cực kỳ hài hòa (thái hòa) với thiên nhiên và đồng loại. Cũng vì vậy, con người không duy vật cũng không duy tâm mà là con người tâm linh, sống trong cõi đời nhưng cảm thông, linh ứng với các yếu tố siêu nhiên.
- Đạo của người Việt: An vi
Đạo lớn của người Việt là An vi. Không duy vật tranh giành mối lợi. Không vô vi tiêu cực lánh đời mà sống tích cực, sống hết trách nhiệm của mình với nhân quần, xã hội, vì sự an hòa, an lành trong cuộc sống cũng như tâm hồn.
- Xã hội bình sản.
Tài sản, sở hữu là quyền tối quan trọng, quyết định sự sống của con người. Để tránh việc có những người quá giàu (kẻ ăn không hết) và người quá nghèo (kẻ lần không ra), người Việt chủ trương xã hội bình sản. Thời cổ, là cơ chế tỉnh điền. Sau này là chế độ công điền.
Kết luận
Như vậy là, nhờ vận dụng thành tựu mới nhất của khoa học nhân loại vào giải mã những tư liệu khảo cổ, nhân chủng, văn hóa, lịch sử… hiện có, chúng ta đã khám phá ra toàn bộ lịch sử của nòi giống Việt. Đấy là lịch sử vĩ đại. Từ châu Phi sau chặng đường dài, đặt chân lên đất Việt 70.000 năm trước, nhờ điều kiện sống thuận lợi, tổ tiên chúng ta đã sinh sôi và lan tỏa ra mọi miền Trái đất, khai phá châu Á, châu Đại Dương và châu Mỹ. Cũng từ Việt Nam, tổ tiên ta sáng tạo văn hóa Đá Mới và nông nghiệp. Không chỉ góp phần nuôi sống phần lớn nhân loại, người Việt còn sáng tạo nền văn hóa rực rỡ, giầu tính nhân bản.
Trong một bài công bố trước đây, tôi có viết: “Tất cả văn hóa vật thể và phi vật thể trên đất Trung Hoa trước 2600 năm TCN đều là sản phẩm của tộc Việt.” Nói như vậy, là có ý cho rằng, sau cuộc xâm lăng của người Mông Cổ, văn hóa Việt bị tiêu diệt. Nay với hiểu biết mới, suy ngẫm lại, thấy là chưa hoàn toàn chính xác. Sự thật là, cho tới thế kỷ III TCN, bên cạnh nhà nước Trung Hoa vẫn còn những cường quốc của người Việt: Ba, Thục ở phía tây, Việt, Ngô, Sở phía đông và phía nam là Văn Lang. Trong những nước này, văn hóa Việt rất phát triển như tượng đồng Ba, Thục; trống đồng Văn Lang; đỉnh đồng nước Sở và nghề rèn kiếm nước Việt… Văn học nước Việt, nước Sở cũng có những tác phẩm nổi tiếng…Chỉ tới giữa thế kỷ III TCN, khi nhà Tần diệt các nước Ba, Thục và Sở, một bộ phận quan trọng đất đai, dân cư và văn hóa Việt mới bị sáp nhập Trung Quốc. Tuy vậy, do sức sống nội tại của mình, ngay trong lòng các đế chế Trung Hoa, dù bị áp lực đồng hóa mạnh, văn hóa Vịệt vẫn được bảo tồn, thể hiện rõ nhất trong phong tục tập quán và tiếng nói. Cho đến nay, các tộc Việt ở Nam Trung Quốc vẫn giữ tiếng nói Việt và có tới 20% tiếng địa phương không có ký tự bằng chữ vuông.
Từ hơn 2000 năm trước, sau khi chiếm đất của người Việt, các vương triều Trung Hoa xây dựng nền chính thống Hoa tộc và viết cuốn sử của nhà nước Trung Quốc. Đó là một lịch sử dựa trên sự cướp đoạt những thành tựu văn hóa của tộc Việt, đồng thời xuyên tạc và chôn vùi những gì không thể đồng hóa được.
Do những biến động như vậy, người Việt sống trong đất Trung Hoa cũng như tại Việt Nam không biết lịch sử, văn hóa đích thực của mình.
Nay, nhờ tri thức khoa học nhân loại, người Việt không chỉ tìm lại cội nguồn mà cả lịch sử cùng nền văn hóa vĩ đại của nòi giống.
Có một điều mà nhiều người chúng ta phân vân: Thế nào là văn hóa Hán? Thế nào là văn hóa Việt? Trước đây, nghe theo lời Khổng Tử, phần đông cho rằng người Hán sống bằng kê và lúa mạch nên thuộc văn hóa trồng khô, còn người Việt ăn gạo nên thuộc văn hóa lúa nước… Nay, khi biết được rằng, người Hán và người Việt là cùng một chủng tộc, và cùng phát triển trên nền văn hóa vĩ đại của tổ tiên Việt cổ, thì theo thiển ý, nếu có sự khác nhau giữa văn hóa Hán và Việt thì đó là yếu tố du mục đậm hơn nơi người Hán do quá trình lịch sử tiếp xúc nhiều hơn với dân du mục. Trong khi đó người Vịệt còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa nông nghiệp nên khoan hòa, thuần hậu hơn.
Một điều khác, vô cùng ý nghĩa mà tôi ngộ ra là: Từ công xã nguyên thủy tới tư bản không phải là lộ trình lịch sử chung của nhân loại! Đó chỉ là con đường của phương Tây, của văn minh du mục duy lợi, cạnh tranh khốc liệt, cướp đoạt thiên nhiên và áp bức đồng loại. Trong khi đó, phương Đông nông nghiệp với
àhơn 60% nhân loại di theo tiến trình lịch sử riêng, từ công xã nguyên thủy   quân chủ (không có chế độ nô lệ), trong sự tương thân tươngàcộng đồng làng xã  ái giữa con người và hài hòa với thiên nhiên. Hơn 300 năm nay, chủ nghĩa tư bản, bằng sức mạnh man dại, đã phá hoại phương cách sống đó và lôi toàn nhân loại theo con đường đầy tội ác của nó. Để chống lại chủ nghĩa tư bản, cứu thế giới, Marx đưa ra lý thuyết cộng sản. Ngược với chủ nghĩa tư bản dựng trên hai cột trụ: tư hữu và chuyên chế của giai cấp hữu sản, chủ nghĩa cộng sản dựng trên hai cột trụ: phi tư hữu và chuyên chính vô sản. Như vậy,về bản chất, chủ nghĩa cộng sản là âm bản của chủ nghĩa tư bản và cùng nằm trong phạm trù văn minh du mục! Kết quả là sau gần thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ! Sụp đổ là tất yếu! Do thiếu tri thức lịch sử phương Đông, không hiểu biết văn minh nông nghiệp, Karl Marx đã sai lầm khi cho rằng nhân loại chỉ có lựa chọn giữa tư bản và cộng sản. Khi phát hiện lại lịch sử và văn hóa phương Đông, ta khám phá ra rằng, nhân loại không chỉ có hai con đường tư bản hay cộng sản mà trong quá khứ không xa, một bộ phận lớn nhân loại đi trên con đường của văn minh nông nghiệp!
Khi đang viết những dòng này thì tôi gặp thông tin đáng lo trên tờ Nhà kinh tế (The Economist): “Cho tới năm 2060 sẽ có khoảng 60%  các nền kinh tế thế giới lâm vào gánh nặng nợ nần, chạm tới giới hạn cuối cùng là rơi vào bãi rác (junk)” (10)
Có cách nào cứu nhân loại? Phải chăng đây là lúc thế giới chuyển sang quỹ đạo của văn minh nông nghiệp với “tham thiên lưỡng địa”, “Nhân chủ, Thái hòa, Tâm linh” với đạo An vi? Phải chăng đó chính là đặc điểm của thời đại chúng ta? Với việc tìm lại con đường của văn minh nông nghiệp, với quyết tâm của nhân loại trong điều kiện toàn cầu hóa, với nguồn vốn cùng khoa học, công nghệ tích lũy được, con người có những điều kiện để tự cứu mình. Phải chăng đó là thông điệp quan trọng nhất mà chúng ta nhận được từ lịch sử của tộc Việt?

*http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that

Tài liệu tham khảo

1. Hillary Mayell.  The Journey of Man: A Genetic Odyssey của Spencer Wells đăng trên National Geographic, 21 tháng 1 năm 2003: http://search.msn.com/results.aspx?srch=106&FORM=AS6&q=Hillary+Mayell+-+Documentary+Redraws+Humans                                                                                                 
2. Stephen Oppenheimer. Out of Eden Peopling of the World  www.bradshawfoundation.com. và Journey of Mankind the Peopling of the World http://www.bradshawfoundation.com/journey/                                                                 
3. Chu JY, et al. Genetic relationship of populations in China. Proceedings of the National Academy of Science (USA) 1998; 95: 11763-11768.                                                                      
4. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học H. 2008                                        
5. S.W. Ballinger& đồng nghiệp: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130 Tr.139-45                                                           6. Zhou Jixu. Cội nguồn văn minh ở Trung Quốc.Tạp chí Sino-Platonic Papers Đại học Pennsylvania. Number 175 December, 2006                                                                                 
 7. Đỗ Thành. Chữ Nôm-
字喃
Cổ Xưa và Ý Nghĩa Của *Viêṭ*   http://newvietart.com/index4.667.html                                                                                                                                          
 8. Hà Văn Thùy. Bản thông điệp 12000 năm của tổ tiên người Việt. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.                                                                                                                       
  9.Kim Định. Việt lý tố nguyên. An Tiêm, Sài Gòn, 1970                                                 
10. The Economist. S & P: 60% TRÊN TỔNG SỐ CÁC NỀN KINH TẾ SẼ PHÁ SẢN VÌ VỠ NỢ, BIẾN THÀNH " BÃI RÁC " TRONG 50 NĂM TỚI http://phamvietdaonv.blogspot.com/2010/10/moi-nguoi-viet-nam-ang-ganh-57864-no.html#more






Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved