.
Latest Post
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGHỆ THUẬT. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGHỆ THUẬT. Hiển thị tất cả bài đăng

Lý thuyết nghệ thuật hậu hiện đại (1)

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012 | 22:45


Lý thuyết nghệ thuật hậu hiện đại (1)

Như Huy dịch
Nguồn: chương 11 trong "Nghệ thuật của kỷ nguyên hậu hiện đại" [ Art of the Postmodern Era], Iving Sandler, Westview Press xuất bản 1998, USA.

----

Phương cách tạo ra các hình ảnh của hình ảnh của John Baldessari, Richard Prince và những nghệ sỹ khác trong cuộc triển lãm “Các hình ảnh" [Pictures] - đã gợi hứng không chỉ cho Douglas Crimp và Craig Owens mà còn cho cả những phê bình gia nghệ thuật khác, tức những người viết cho tuần san phê bình nghệ thuật mang tên October [ tháng Mười] , xuất bản từ năm 1976. Tuần san này đề cao mỹ học hình ảnh (pictures asthetic) như bộ phận của nhiệm vụ mà nó phát động nhằm chống lại chủ nghĩa hình thức [formalism] và chủ nghĩa hiện đại [ modernism] cũng như sử dụng các ý niệm hậu hiện đại và những cách tiếp cận rút ra từ trước tác của Rolan Barthes, Jacques Derrida, Michael Foucault, Jean Baudrillard, Jacques Lacan hay những trí thức Pháp khác - trong vai trò là vũ khí của nó (1)

Chủ nghĩa hình thức từng có những kẻ thù ghê gớm trong thập kỷ 60, khi nó thống trị lý thuyết nghệ thuật. Song trong thập niên tiếp theo, nó thậm chí còn bị tấn công với cường độ mãnh liệt hơn bởi một thế hệ của các nghệ sỹ, phê bình gia, nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật mới xuất hiện. Cuộc tấn công mới này khởi đầu vào đầu thập kỷ 70, khi một nhóm phê bình và sử gia nghệ thuật cấp tiến cùng nhau thành lập một hội nghệ thuật mới (New Art Assocation ) đối lập với hội nghệ thuật trường ốc (College Art Association). Nhóm này đã công bố bức thư ngỏ như sau;

“…Chúng tôi chống lại cái huyền thoại về sự trung tính của nghệ thuật

Chúng tôi từ chối dạng kinh nghiệm thẩm mỹ chỉ đem lại những kinh nghiệm thẩm mỹ xa hơn, bởi chúng tôi tin rằng có một mối dây liên kết mạnh mẽ giữa tưởng tượng thẩm mỹ và tưởng tượng xã hội.

Chúng tôi từ chối coi nghiên cứu nghệ thuật như một hành vi tách biệt khỏi những mối quan tâm khác của con người

Chúng tôi chống lại sự quy giảm nghệ thuật thành một vật thể dành cho sự tư biện và thành một món trang sức hào nhoáng

Chúng tôi chống lại việc phân chia giả tạo trong nghiên cứu nghệ thuật theo những quy tắc khác nhau như - nhân học , lịch sử, v.v.… , và sự ngăn ngừa nghệ thuật khỏi các đề tài xã hội. Chúng tôi chống lại sự phân khu vực nhận thức, tức điều sẽ che giấu đi hậu quả thực tế của những di sản văn hóa của chúng ta thông qua việc cung cấp ý thức hệ cổ vũ cho kết cấu có tính giai cấp, phân cấp và phân biệt chủng tộc của xã hội chúng ta …”(2)

Tuyên ngôn của hội nghệ thuật mới đã được lập thức vào thời điểm cao trào của cuộc chiến tranh VN, và nó phản ánh sự dấn thân chính trị của các học giả trẻ, tức những người đặt câu hỏi về các tiên kiến nền móng tồn tại ngầm ẩn trong mọi nguyên tắc trí tuệ. 

Sự lập vấn này, hay lý thuyết phê phán này - như rồi nó sẽ được gọi như thế - có thể được coi là di sản của thuyết cấp tiến thuộc thập kỷ 60 – nhưng ở đây, nó đã rút khỏi học thuyết hành động chính trị để đi vào diễn ngôn hàn lâm. Những chủ đề được các lý thuyết gia phê phán đặt ra rồi sẽ thống trị nghị trình lịch sử nghệ thuật và phê bình nghệ thuật suốt gần hai thập kỷ sau. 

Dĩ nhiên là các phê bình gia theo chủ nghĩa hình thức, do Greenberg và nhóm của ông dẫn đạo, đã bác bỏ cách tiếp cận trên. Họ tiếp tục nhấn mạnh rằng tác phẩm nghệ thuật là một vật thể biệt lập và do đó, các phê bình gia phải chú ý vào những đặc tính hình thức của vật thể ấy và bỏ qua những chủ đề ngoại vi. Nghệ thuật không nên bị hạ cấp vào việc minh họa cho lịch sử xã hội hay lý thuyết phê phán. Sự nghiên cứu phải đặt trọng tâm vào việc trình bầy tỉ mỷ những thành tố thẩm mỹ nơi các tác phẩm có tính cá nhân, cũng như vào chất lượng của chúng- dẫu cái chất lượng ấy khó có thể được minh định rạch ròi. Những nhà hình thức luận còn gièm pha các phê bình gia buộc nghệ thuật phải tuân theo lý thuyết khi chê bai những phê bình gia ấy thiếu cảm năng để trải nghiệm các chiều kích thị giác và xúc giác của nghệ thuật, và vì thế, áp đặt một trật tự và giới hạn ngoại thẩm mỹ lên nghệ thuật, tức những gì đẩy họ xa khỏi tác phẩm và dẫn họ đến việc phán đoán sai về chúng. Điều tối quan trọng ở đây là, bức tranh chỉ là bức tranh mà thôi. Ai có thể không công nhận chân lý ấy? Như lá thư viết cho tạp chí New York time: “ [Việc nhấn mạnh đến lý thuyết trong nghệ thuật] giống như việc một hội nghị của các quan hoạn công bố rằng trên đời này chẳng bao giờ có cái gọi là thỏa mãn tình dục” [3] 

Nhiều nhà hình thức luận cũng thừa nhận rằng các trông đợi và sự thiên ái trong nghệ thuật phần nào đó bị điều kiện hóa bởi các tình huống xã hội và chúng cần phải được khảo sát, song họ cũng đòi hỏi rằng nghệ thuật phải được xem xét chủ yếu trong vai trò thuần túy nghệ thuật. Một số nhà hình thức luận thậm chí còn thừa nhận rằng chất lượng thầm mỹ phần nào đó sinh ra từ một nền văn hóa cụ thể, từ lịch sử và những tiên kiến của nền văn hóa ấy về những gì nó coi là có giá trị. Song tựu chung tất cả những người này đều khăng khăng về sự tồn tại của chất lượng thẩm mỹ, rằng ta có thể chiêm ngưỡng nó mà không hề chịu sự tác động của nền văn hóa mà trong đó, nghệ thuật được tạo ra, rằng chất lượng thẩm mỹ ấy có thể siêu vượt lên khỏi các quan tâm chính trị học và giai cấp của bất kỳ nơi chốn hay thời gian nào, và rằng, ở trường hợp hoàn hảo nhất của nó – chất lượng thẩm mỹ thậm chí có thể sở hữu sự quyến rũ có tính phổ quát. 

Tuy nhiên có vẻ ngày càng ít dần đi các phê bình gia, học giả và trí thức trẻ lắng nghe sự thuyết phục của các nhà hình thức luận. Thay vào đó, những người này đã thấy ra cái khe sâu không thể lấp đầy giữa các phê bình gia nghệ thuật quan tâm đặc biệt tới những gì chỉ tồn tại trong phạm vi tác phẩm nghệ thuật; những yếu tố hình thức, - với những phê bình gia nghệ thuật nhìn xa hơn tới những văn cảnh xã hội, chính trị , kinh tế . Những văn cảnh mà trong đó nghệ thuật xuất hiện và phục vụ cho các định chế thuộc văn cảnh ấy. Các lý thuyết gia nghệ thuật chú tâm cụ thể tới giai cấp và giống, tức những gì họ coi là đã ngầm ẩn tạo hình hài cho nghệ thuật. Họ chuyển sự chú ý về mặt phê bình của mình từ tác phẩm nghệ thuật cụ thể sang văn cảnh xã hội của tác phẩm ấy, đòi hỏi rằng chỉ có thể hiểu được nghệ thuật nhờ việc khảo sát các tình huống ngoại thẩm mỹ mà trong phạm vi các tình huống ấy, nghệ thuật được sản tạo và trưng bày. Trên hết, họ khẳng quyết rằng, những gì cần khảo sát trong nghệ thuật phải là điều mà nghệ thuật tái hiện [chứ không phải bàn thân nghệ thuật-ND]. Sự tái hiện ở đây được định nghĩa như là sự phức hợp của hình ảnh và văn bản, mà qua đó, một xã hội tái hiện bản thân– có nghĩa là các hình ảnh và văn bản đã thấm sâu vào chúng ta đến mức không ai nghĩ đến việc đặt câu hỏi về chúng. Việc ứng xử với tác phẩm nghệ thuật như thể một dạng văn bản dẫn đến một diễn ngôn về sự tái hiện. Thay vì tập trung vào yếu tính độc nhất của vật thể nghệ thuật, các lý thuyết gia nghệ thuật quan tâm tới các văn cảnh đa bội của nó, tới vô số tầng nghĩa của nó, tới tính liên văn bản của nó, và đặc biệt hơn cả, tới các khách hàng của nó, tới các mối quan tâm về giai cấp mà nó phục vụ, và tới mối quan hệ của nó với nền văn hóa đại chúng. Điều này dẫn tới tính đa dạng đáng kể trong những lối tiếp cận của của lý thuyết gia nghệ thuật. Họ phân tích nội dung nghệ thuật từ các góc độ thường xuyên xung đột với nhau như học thuyết Mác-xít, Nữ quyền luận, lịch sử (chứ không phải lịch sử nghệ thuật), xã hội học, tâm phân học, ký hiệu học, và ngôn ngữ học. Dù xung đột với nhau, song điểm chung quan trọng nhất của các cách tiếp cận này nằm ở việc; tất cả chúng đều nhìn nhận nghệ thuật ở góc độ [là công cụ] tái hiện, chứ không phải ở các chủ đề hình thức của nghệ thuật [4] 

------
1-Jeremy Gilbert-Rolfe đã rút khỏi tạp chí sau số thứ 3

2-Thư ngỏ của Hội Nghệ Thuật Mới, tháng 9, 1970, trong "chính trị học", tạp chí Art Forum, tháng 11, 1970, tr.39

3-L.S.Kleep," Những lá thư độc giả", New York Time Magazine, Mar., tháng 10 năm 1991, tr.16

4-Xem Sara Day, " Lịch sử nghệ thuật: Thảm họa hay những chân trời mới: giống nòi các chiến binh mới của lịch sử nghệ thuật" [Art History: Crisis or New Horizons: Art History's New Warrior Breed" , Art International, số Mùa xuân 1989, tr. 78-89

BAO GIỜ CHO ĐẾN THÁNG MƯỜI

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 7 tháng 3, 2012 | 23:19

Khi còn nhỏ tôi đã xem phim này, sau đó năm nào cũng xem lại, cảm xúc tuy thay đổi nhưng vẫn thấy thú vị. Còn nhớ khi tôi hơn 10 tuổi, xem phim lần đầu, tới đoạn Duyên cùng người chồng ra miếu đốt diều, cảm giác gai người. (Lưu Danh Khách)


Người gửi: Lưu Danh Khách
Trước kia, khi truyền hình Việt Nam chưa tràn ngập quảng cáo, game show, phim truyền hình Hàn, Trung... năm nào, đến hẹn lại lên, nhà đài lại phát "Bao giờ cho đến tháng Mười" mỗi dịp lễ.
Khi còn nhỏ tôi đã xem phim này, sau đó năm nào cũng xem lại, cảm xúc tuy thay đổi nhưng vẫn thấy thú vị. Còn nhớ khi tôi hơn 10 tuổi, xem phim lần đầu, tới đoạn Duyên cùng người chồng ra miếu đốt diều, cảm giác gai người. Rồi đoạn Duyên đi chợ Âm, gặp người chồng mà không chạm vào nhau được cứ ám ảnh tôi mãi.
Lớn lên một chút, ngày lễ chiếu phim này, tôi thường ngồi nhà xem mà không đi chơi với bạn bè anh chị, mọi người thường trêu tôi mê Lê Vân. Hình ảnh Duyên gầy ngồi bên bờ ao khỏa tay xuống nước, mái tóc dài, hàm răng trắng đều, cánh tay thon thả (diễn viên múa mà) mãi mãi là hình ảnh thật đẹp không thể quên vì nó đó là nét đẹp đặc trưng của người phụ nữ VN lúc ấy.
Đến tuổi yêu, có người bạn gái gửi thư cho tôi trong đó có dẫn câu thơ của giáo Khang (Hữu Mười đóng): Bao giờ cho đến tháng mười / Lúa chín trên cánh đồng giông bão. Ý cô bạn tôi là, tháng mười dù có giông có bão, nhưng lúa vẫn chín tốt, nên dù chúng tôi có chút hiểu lầm nhưng rồi tình yêu cũng sẽ chín. Rốt cục chuyện yêu đương chúng tôi cũng chẳng tới đâu, cái kết lơ lửng như chính bộ phim vậy, mà cũng chẳng sao, tình chỉ đẹp khi còn dang dở!
Và khi đã vào đời, biết được mặt trái của nó, thì các chi tiết “đời thường” của bộ phim như vụ sửa thơ của giáo Khang (lúa chín trên cánh đồng năm tấn), hay cảnh ông anh “cán bộ” rửa xe đều gây cho tôi cảm giác thích thú, nó mang lại nhiều màu sắc cho bộ phim. Cha mẹ tôi thường ngạc nhiên khi tôi lớn đùng mà vẫn “xem đi xem lại” bộ phim cũ rích đó, và người thường buồn phiền vì thấy mắt tôi đỏ hoe sau mỗi lần xem lại.
Vì hơn hết ông đã đưa người xem vào các cung bậc đau khổ, sức chịu đựng và bi kịch của thân phận con người từ thấp tới cao. Từ cảnh Duyên ngất trên đò, bi kịch dần tăng lên, từ những lời hỏi ngây thơ của con trẻ, tới lo lắng của ông bố chồng bệnh nặng, từ lời bàn tán của bọn trẻ học sinh giáo Khang, tới lời móc máy của bà chị chồng, cảnh nhà vui vẻ nghe thư của người đã chết (thày Khang viết thay) tới cảnh Duyên mơ gặp chồng trong ngày xá tội vong nhân, khó có thể cầm được nước mắt, vì nỗi đau của Duyên ngày một chồng chất.
Có người nói đoạn hát chèo dài quá, làm để cho Tây xem, tôi lại thấy không thể cắt ngắn được hơn, thực đúng là cảnh đoạn trường, từ cổ tới kim nỗi khổ của những người đàn bà trên mảnh đất chiến tranh liên miên này không khác nhau là mấy.
Và khi bi kịch tới đoạn cao trào, ông bố chồng hấp hối, lại một lần nữa ta thấy sự cao tay của ông Đặng khi cho nhân vật đồng đội gặp ông bố trong giờ phút lâm chung, khiến Duyên lại thấy mình có lỗi, nước mắt của nàng dồn nén bao lâu nay chợt bung ra thành những tiếng nức nở, không gì có thể sầu thảm hơn thế. Ôi ông Đặng Nhật Minh , ở xứ này ngoài ông ra còn ai có thể làm được như vậy… Về phương diện lấy nước mắt của khán giả họa chăng chỉ có cô Kim Cương có thể so sánh mà thôi!
Tôi là kỹ sư, làm việc suốt ngày bên máy móc. Mỗi lần xem phim thường ước mơ trở thành một đạo diễn điện ảnh. Tôi nghĩ bộ phim này sẽ là giáo trình tốt cho các đạo diễn Việt Nam, vì ta thấy rất nhiều các kỹ thuật khác nhau, những chi tiết độc đáo, các thủ pháp nghệ thuật có thể bắt gặp trong nhiều phim của Đông Âu thời trước.
Dàn diễn viên cũng tuyệt vời, người bố chồng, bà chị chồng, giáo Khang (anh Hữu Mười chuyên vào vai thày giáo), cả em bé vào vai cậu con trai, ông cán bộ đi xe ba bét nhè… và ngay cả anh Việt Bảo dù xuất hiện rất ít nhưng diễn thật tự nhiên, không “kịch” như các phim Việt Nam khác. Một bộ phim hay nhất mà tôi được xem, có thể là hơi quá lời vì là phim ta và tôi yêu bộ phim này quá? Nhưng một điều chắc rằng còn lâu chúng ta mới có một bộ phim thành công như thế nữa.
Tôi thường thích một cái kết mở trong phim, vì nó sẽ làm ta phải nhớ phải day dứt về bộ phim. Cô Duyên có gặp lại thày giáo Khang không? Hồi nhỏ tôi cứ tự hỏi mình như vậy? Chẳng ai biết sau này sẽ thế nào, ông Minh sau này cũng làm nhiều phim lắm, cũng có phim nhạy cảm như "Cô gái…” có phim hay hay như "Mùa ổi", "Thương nhớ…", nhưng cũng có phim vớ vẩn như “Hà Nội mùa đông…” mặc dù là đề tài này rất hay và dễ làm. Lần này cái phim mới nghe tiêu đề cũng thấy bất ổn như thế nào, coi chừng “cháy” mất.
Và thế là lại ca bài ca cho đến... bao giờ!
Việt Báo (Theo_VnExpress.net)

Nguồn gốc sáng tạo nghệ thuật: tính trực giác

Written By kinhtehoc on Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012 | 22:42

Nguồn gốc sáng tạo nghệ thuật: tính trực giác

Khổng Đức



Maritain nói rằng: sự sáng tạo nghệ thuật không cần phải dâng lễ vật cho Nàng Thơ để cầu xin như Platon đã nói, cũng không cần phải dùng bất cứ nguồn gốc ngoại tại nào để thuyết minh về sự linh cảm. Vì nguồn gốc của tính sáng tạo nghệ thuật là tính trực giác, hay cũng gọi là trực giác thi ca.
“ Toàn bộ tác phẩm nghệ thuật đều do tính trực giác sáng tạo sinh ra.” Mà cơ sở của tính trực giác sáng tạo là “tinh thần vô thức”. Ông cho rằng nguồn gốc của sự hoạt động con người dù là lý tính ( tức lý trí) hay phi lý tính đều gôm về một mối là tinh thần vô thức. Và theo ông tinh thần vô thức ẩn tàng trong cội nguồn chung của toàn bộ lực lượng tâm hồn. Do đó cái Đẹp (Mỹ) trong nghệ thuật là nhu cầu của mong ước và thích thú là lực sáng tạo buông thả tinh thần thuần túy.
Maritain còn phân tích cụ thể đặc điểm của tính trực giác sáng tạo. Trước tiên là nó chi phối nghệ thuật, vì đó là quy tắc đầu tiên của nghệ thuật. Tiếp đó nó không thể học tập được, cũng không thể dùng thực tập và huấn luyện để cải tiến nó. Trực giác chỉ đòi hỏi là phải tuân theo nó thôi. Như thế là Maritain đã tiên nghiệm hoá và thần bí hoá trực giác. Tiếp nữa tính trực giác sáng tạo có thể trường tồn trong tâm hồn, nó có thể tiềm phục lâu dài trong đó, đợi chờ đến giây phút phải thực hiện sự sáng tạo, không thực hiện không được. Cuối cùng tính trực giác sáng tạo thôi thúc phải sáng tạo, đối với cái tự ngã của nhà nghệ thuật và sự vật nắm được một cách lờ mờ. Sau cùng căn bản tính trực giác sáng tạo là của Thượng Đế. Do đó C.Houseman mới nói toạc ra : “Tuy Maritain phản bác nữ thần văn nghệ là Muse của Platon, nhưng lại dùng tâm linh của người để thuyết minh sự sáng tạo; do đó về căn bản mà nói, thì ông đã dùng Thượng Đế để thay thế cho nữ thần.”
Chủ thể sáng tạo nghệ thuật là nghệ thuật gia. Dù rằng về căn bản sáng tạo nghệ thuật mà nói là kết quả của tác dụng tính trực giác sáng tạo; nhưng bản thân của tính trực giác sáng tạo chỉ có thể thông qua nghệ thuật gia mới thể hiện được. Maritain cho rằng nghệ thuật gia vốn có cái đặc trưng quan trọng là so với thường nhân họ có năng lực nhạy bén trong việc quan sát. Đó là sự phát hiện trong hiện thực mà người khác không sao lãnh họi được cái ánh linh quang trong tinh thần của nghệ thuật gia. Nghệ thuật gia không phải mô phỏng cuộc sống một cách tiêu cực, mà là thông qua cuộc sống hiện thực, có sự nhận thức và giác ngộ, rồi xuyên qua tác phẩm đưa thêm vào cá tính, cùng lý tưởng của mình mà cải tạo.
Quá trình sáng tạo nghệ thuật gồm có hai giai đoạn. Theo Maritain thì giai đoạn I là “ rút ngắn giai đoạn”. Trong giai đoạn này phát sinh nơi ý thức, tức là ở mức độ gọi là “ tiền ý thức lý trí”. Giai đoạn này, chúng ta cò thể phát hiện suối nguồn tri thức và tính trực giác, cùng nguyện vọng siêu cảm giác và tình yêu, suối nguồn ấy ẩn tàng nơi nội tại tâm linh nguyên sơ sống động, và trong màn đêm nưả tối nửa sáng. Ong cho rằng trong cõi “ tiềm thức lý trí”, tính trực giác sáng tạo của nghê thuật gia bắt đầu manh động, tâm linh của họ không còn bị cái thế giới ngoại tại khống chế. Cách nhìn như vậy rõ ràng Maritain đã ảnh hưởng thuyết “ tinh thần phân tích” của Freud. Nhà phân tâm học này cho rằng , tác phẩm nghệ thuật là sự thăng hoa bản năng dục vọng của con người được biến hoá để thỏa mãn “ Tưởng tượng sáng tạo đồng nhất với giấc mơ giữa ban ngày , và là tiếp tục thời chơi đùa của trẻ thơ với đồ chơi của nó. Ong cũng nhấn mạnh tính vô thức trong quá trình sáng tạo nghệ thuật , rõ ràng Maritain đã tiếp thu quan điểm này. Maritain cũng quy cho sự sáng tạo nghê thuật là một thứ vô thức, sự thôi thúc của “lý trí tiềm thức”.
Còn giai đoạn 2 của sáng tạo nghệ thuật, theo Maritain là “giai đoạn khuếch trương”. Trong giai đoạn này, nghệ thuật gia đã trải qua sự chỉnh lý ý thức trong giai đoạn 1. Khi bắt đầu tiếp xúc với sự vật, nó được sàng lọc đứng lắng và biến hình thành rõ ràng và biểu hiện. Ở giai đoạn 2 này, Maritain lại chịu ảnh hưởng của Croce, vì cho rằng trực giác thi ca phải thông qua môi giới vật chất mới thể hiện và hiện thực hoá.
Kết quả sáng tác nghệ thuật là sản sinh thành tác phẩm. Đối với tác phẩm nghệ thuật, Maritain lý giải là có liên quan đến trực giác thi ca, là đòi hỏi phải được hiện thực hóa. Ong cho rằng tác phẩm nghệ thuật là một đối tượng vật lý, có đầy đủ 3 đặc tính : thi ý, tình tiết hay chủ đề, âm luật hay hòa hài. Ong chỉ rõ, về căn bản mà nói, tác phẩm nghệ thuật là một thứ biểu hiện hay vật hoá của trực giác thi ca, nó chỉ kể như là một thứ phù hiệu của tính trực giác sáng tạo. Thứ phù hiệu một khi sinh ra thì nó là sự kiện ngoại tại của nghệ thuật gia, mà cũng là đối tượng ngoại tại phản ảnh trong tác phẩm nghệ thuật. Vì tác phẩm nghệ thuật là thứ siêu việt hiện thực. Nhưng ngoài ra tác phẩm nghệ thuật còn bao hàm tính chủ thể của nghệ thuật gia, chủ thể tính của nghệ thuật gia thông qua môi giới vật chất ngưng tụ lại trong tác phẩm nghệ thuật. Do đó có thể nói, tác phẩm nghệ thuật là một thứ ký hiệu mang tính chủ thể của nghệ thuật gia.
Nhìn chung lại, tư tưởng mỹ học của Maritain là đặt cơ sở trên triết thuyết của chủ nghĩa Tân Thomas Aquins. Về lý luận mỹ học của ông không phải là không sâu sắc. Tuy nhiên vẫn là thứ mỹ học đậm màu sắc tôn giáo thần bí.
( Trích dịch trong Lịch sử Mỹ học Tây phuơng hiện đại )

Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/

TRƯỜNG PHÁI HỘI HỌA - KỲ 3: TRƯỜNG PHÁI HẬU ẤN TƯỢNG

Written By kinhtehoc on Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012 | 21:22

KHÁM PHÁ NGHỆ THUẬT - KỲ 01: HÌNH ẢNH VIỆT NAM QUA TRANH KHẮC
Chào mừng các bạn đến với Chuyên mục Khám phá nghệ thuật!
Bắt đầu từ tuần này (28/09), trang Kiến thức sẽ giới thiệu đến các bạn chuyên mục Khám phá nghệ thuật với mong muốn cung cấp những kiến thức bổ ích về nghệ thuật trong và ngoài nước, hy vọng giúp các bạn mở rộng tầm hiểu biết cũng như học hỏi được nhiều kiến thức quý giá từ những kiệt tác của người đi trước.
Chuyên mục Khám phá nghệ thuật - Kỳ 01 sẽ trình bày sơ lược hình ảnh về cảnh vật và con người Việt Nam của những năm đầu thế kỷ 20 – một trong những kiến thức bổ ích dành cho những bạn đang ấp ủ ước mơ cho ra đời tác phẩm có liên quan đến văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này.

Chúng ta có rất ít tư liệu hình ảnh về cảnh vật và con người Việt Nam xa xưa, vì thế mà quyển Kỹ thuật của người An Nam của tác giả người Pháp Henri Oger được xem là tác phẩm quý hiếm nhất trong kho sách cổ hiện nay.
Henri Oger (1885 ~ mất tích năm 1936) sang Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quân sự vào năm 1907. Trong quá trình sinh sống và làm việc ở đây, vì quá đam mê khám phá và cảm thấy hứng thú với nền văn hóa hết sức xa lạ, chàng thanh niên người Pháp này đã đi khắp các phố phường Hà Nội và các vùng lân cận để phác họa lại hình ảnh đời sống sinh hoạt của người dân Việt.


Chợ
Khung cảnh chợ mà tác giả phác họa lại rất giống với những câu thơ của nhà thơ Đoàn Văn Cừ khi ông miêu tả một phiên chợ Tết. Người thì quẫy đôi bồ mang hàng ra chợ bán, người ngồi bán dưới mái nứa được dựng sơ sài, hoặc cùng ngồi bên miếu cổ bày hàng ra bán.
“Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán”
“Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trăng phau phau.
(Trích: Chợ Tết – Đoàn Văn Cừ)
Múa lân

Hơn 4000 bức tranh khắc không chỉ có giá trị về kỹ thuật mà còn phản ánh được văn hóa của người Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử nhất định đã ra đời từ công sức của Henri Oger cùng với 30 thợ vẻ và thợ khắc.
Những hình ảnh minh họa về cuộc sống, sinh hoạt, vui chơi, buôn bán của người Việt Nam đầu thế kỷ 20 được tái hiện lại qua những bức tranh của ông.

Đời sống thị dân vùng Bắc Bộ
Bán hàng rong
Hàng ăn - một hình ảnh rất đặc trưng của Hà Nội
Cắt cỏ tranh
Cu li chờ việc
Và những hình ảnh đậm nét dân gian:

Cảnh hỏi cưới cách đây 100 năm
Dựng nêu ngày Tết - một trong những tập tục của người Việt Nam

Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ có viết: "Bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ."
Thầy đồ và học trò
Quan đi tuần
Trèo hái cau

Có rất nhiều hình ảnh trong tác phẩm của Henri Oger không thể tìm thấy trong bất kỳ tài liệu nào khác. Bạn có thể xem bản gốc của tác phẩm tại Thư viện KHTH TP.HCM

TỔNG QUAN VỀ CÁC TRƯỜNG PHÁI HỘI HỌA TRÊN THẾ GIỚI

Các trường phái hội họa trên thế giới


Khi tìm hiểu về mỹ thuật, nhiều người có chung những câu hỏi: “Trường phái hội họa là gì ?” , “có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa ?” , ” trường phái nào lớn nhất ?” và khi tìm hiểu thêm nữa thì ai cũng lại muốn biết thêm ” họa sỹ tiêu biểu nào đứng đầu một trường phái ?” , ” tác phẩm tiêu biểu ?”…
Trường phái hội họa là gì ?

Hội họa đã xuất hiện từ rất lâu, từ khi chữ viết của con người còn chưa xuất hiện, từ lịch sử mỹ thuật ta có thể đưa ra kết luận: hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng bằng các tác phẩm sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sỹ. Trong hội họa, thuật ngữ “trường phái” dùng để chỉ một phong cách, trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có chung những kỹ thuật và phương pháp thể hiện.
Có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa?

Các trường phái hội họa ở trên thế giới là vô cùng nhiều, các trường phái xuất hiện ở bất cứ quốc gia nào, và ở bất cứ khoảng thời gian nào. Vẫn đề chỉ là tính đại chúng – được nhiều người biết đến hay không mà thôi.
Các trường phái hội họa Châu Âu

Nhắc đến các trường phái hội họa, chúng ta hay nghĩ ngay đến những thuật ngữ : “Trừu tượng” “Lập thể” “Ấn tượng” … Đó là các trường phái lớn (bắt nguồn từ Châu Âu) có tầm ảnh hưởng quốc tế, và dần trở thành quy chuẩn cho mỹ thuật thế giới.
* Ấn tượng
* Baroc
* Cấu trúc
* Chấm họa
* Dã thú
* Graffiti
* Hard-edge
* Hậu ấn tượng
* Hậu hiện đại
* Hiện đại
* Hiện thực
* Hiện thực lãng mạn
* Hiện thực xã hội
* Lãng mạn
* Lập thể
* Mannerism
* Ngây thơ
* Pop-Art
* Siêu thực
* Tân cổ điển
* Thị giác (Op-Art)
* Trừu tượng

Như đã nêu, các trường phái trên là những trường phái nổi bật nhất, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Chứ không phải là toàn bộ các trường phái mỹ thuật trên thế giới. Các trường phái hội họa phương Tây đều có tính lịch sử, một trường phái ra đời do phản ứng lại những hạn chế của trường phái trước đó và đến lượt nó lại tạo cơ hội cho một trường phái mới phát triển.
# 1 Trường phái ấn tượng – Impressionism(1874- 1886)
# 2 Trường phái hậu ấn tượng (Post Impressionism 1886- 1910)
# 3 Trường phái Dã thú – Fauvism (1905-1909)
# 4 Trường phái biểu hiện -Expressionism (1906-1919)
# 5 Trường phái lập thể – Cubism (1909-1926)
# 6 Trường phái tương lai – Futurism (1909-1918)
# 7 Trường phái Dada (Dadaism) (1916-1922)
# 8 Trường phái siêu thực – Surrealism (1924-1938)
# 9 Trường phái ấn tượng trừu tượng – Abstract Expressionism (những năm 1940)
# 10 Trường phái Kinetic Art (1950′s-1960′s)
# 11 Trường phái Pop Art (1961-1968)
# 12 Trường phái Op Art (1964-1967)
# 13 Trường phái Minimalism (1966-1970)
# 14 Trường phái nghệ thuật nhận thức- Conceptual Art (1960′s and 70′s)
….


Một số trường phái mỹ thuật hiện đại tiêu biểu

1. Trường phái ấn tượng


Bức tranh Village on the Banks of the Seine của Alfred Sisley
Ấn tượng (tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên “ấn tượng” do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc).
Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà hát.
Những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét cọ có thể nhìn thấy được, sự pha trộn không hạn chế giữa các màu với nhau và nhấn mạnh đến sự thay đổi và chất lượng của độ sáng trong tranh.
Hai ý tưởng đáng chú ý trong trường phái này là: Bức tranh được vẽ rất nhanh với mục đích là ghi lại một cách chính xác tổng quan của khung cảnh.Tiếp theo sau là thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và không định kiến; khác với trường phái hiện thực,tự nhiên.
Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne (sau này đã rời bỏ phong trào), Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard Manet (tuy nhiên Manet không xem mình thuộc phong trào), Claude Monet, Berthe Morisot, Camille Pissarro, Pierre-Auguste Renoir, Zinaida Yevgenyevna Serebryakova, Alfred Sisley
2. Trường phái hậu ấn tượng

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 1023x816 and weights 227KB.




Tranh của Vincent Van Gogh
Hậu ấn tượng là tên gọi chung để chỉ tới những nghệ sĩ thuộc thời kỳ sau trường phái ấn tượng. Trường phái ấn tượng là một bước ngoặt trong hội họa, rũ bỏ những quan niệm từng tồn tại rất nhiều năm ở châu Âu. Từ sau ấn tượng, nhiều nghệ sĩ độc lập tìm tòi sáng tạo và đi theo các hướng khác nhau. Mặc dù họ không có phong cách sáng tác giống nhau, nhưng được gọi chung là hậu ấn tượng. Thuật ngữ này do nhà phê bình người Anh Roger Fry đặt ra chỉ những họa sĩ như Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh. Nghiên cứu về các họa sĩ này cũng cho thấy sự phát triển của nghệ thuật Pháp thời gian cuối thế kỷ 20.
Các nghệ sĩ hậu ấn tượng từ chối rập khuôn theo chủ nghĩa ấn tượng và từng người tìm cách nổi bật cá tính của mình, có thái độ biểu hiện chủ nghĩa trong hình họa, màu sắc và cách giải quyết đề tài. Đó thực sự làm nên một nghệ thuật mới với những tuyên ngôn thẩm mĩ khác, không giống với nghệ thuật và kĩ thuật của xu hướng ấn tượng mà họ cùng tham gia trước đó. Ba họa sĩ Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh với ba phong cách hiện thực đã làm phong phú và đa dạng một thời kỳ ngắn ngủi nhưng vang dội và đầy hấp dẫn của của nghệ thuật. Họ báo hiệu cho các trào lưu sẽ nở rộ ở thế kỷ 20.
3. Trường phái dã thú


Tranh của Maurice de Vlaminck
Để chống chọi với trường phái Ấn tượng, quá chú trọng đến ánh sáng mà quên đường nét của cảnh vật, nên trường phái Dã thú ra đời.
Trường phái Dã thú có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trường phái Ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉ mỉ, không theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính trước. Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã thú là màu sắc, chứ không phải vẽ như thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không là cảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp mắt.
Năm 1905, triễn lãm mùa thu ở Paris có một phòng tranh giới thiệu những tác phẩm mới, đặc biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh phản ứng khác nhau, vì có một sự thật là một loạt tiêu chí hội họa cổ điển nữa đang bị phá vỡ. Phòng tranh được nhà phê bình LuisVauxcelles gọi là ” Chuồng dã thú “, và cái tên Dã thú đã bước vào lịch sử hội hoạ Thế giới. Tên goi đó rất phù hợp với các họa sĩ này bởi vì những màu sắc mà họ sử dụng là dữ dội một cách cố tình.
Khuynh hướng Dã thú ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực thịnh năm 1905 – 1906, có dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động trước chiến tranh Thế Giới thứ nhất để chuyển sang những phong cách rất khác nhau. Những thành viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy….
Hầu hết thành viên của trường phái Dã thú là người Pháp và trẻ tuổi. So với khuynh hướng Ấn tượng, sự xuất hiện của hội họa Dã thú mang tính chất đảo lộn, phủ định hơn rất nhiều. Tất cả đều cùng ý chí ” Nổi loạn màu sắc”, Vlaminck và Derain tuyên bố sẽ ” Đốt trụi trường Mỹ thuật bằng các sắc xanh Cobalt và đỏ son”.
Để thực hiện tham vọng sáng tạo một nền hội họa mới, các họa sĩ Dã thú chủ trương phất cao lá cờ tự do, không lệ thuộc vào đề tài, vào thiên nhiên và sử dụng màu sắc một cách mạnh mẽ nhất, dùng màu nguyên chất tạo sự tương phản mạnh và vứt bỏ khối vờn, bỏ diễn tả sáng tối. Theo họ như vậy tranh mới phát huy được hết các cường độ và âm hưởng của màu, mới tương ứng với tình cảm mạnh mẽ của lớp thanh niên đầu thế kỷ. Nhãn thức Dã thú đã đưa hội họa đến một không gian chói chang. Họ sử dụng bút pháp phóng đại cường điệu. Con người và sự vật trong tranh được vẽ bởi những nét rất dứt khoát và đậm. Với họ, bức tranh phải thể hiện cá tính mạnh mẽ, biểu hiện những tư tưởng tình cảm và rung động chủ quan của tác giả.
4. Trường phái biểu hiện


Bức tranh Tiếng thét của Edvard Munch
Chủ nghĩa biểu hiện hay Trường phái biểu hiện (Expressionism) là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển ở châu Âu vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính – xúc cảm của chủ thể (thường là cảm xúc con người hoặc một nhóm người) hoặc xúc cảm của chính người họa sĩ. Những cảm xúc này thường được gây ra bởi một sự kiện đặc biệt nào đó, cũng có thể bởi sự gặp mặt-giao lưu của nhiều người hoặc sự giao lưu của những xu hướng hội họa khác nhau (như cổ điển và hiện đại).
Chủ nghĩa biểu hiện thể hiện trong nhiều dạng nghệ thuật, từ hội họa, kiến trúc cho đến văn học, thơ ca, nhạc kịch và điện ảnh.
5. Trường phái lập thể

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 723x582 and weights 46KB.




Tranh của Pablo Picasso
Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, (Cubism) là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20.
Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh.
Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu.
Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ “lập thể” lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một vài lần và sau đó thành tên gọi chính thức.
Trường phái Lập thể khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ở gần đó và được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Tuy nhiên, một số họa sỹ khác cũng tự coi là họa sỹ lập thể khi đi theo các khuynh hướng khác với Braque và Picasso.
Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện.
Các nghệ sỹ thiên tài, Braque và Picasso mở ra phương pháp mới trong cách diễn đạt và thể hiện không gian trong hội họa nhưng chính họ lại bị ảnh hưởng của các nghệ sỹ khác như Paul Cezanne, Georges Seurat, điêu khắc Iberi, nghệ thuật điêu khắc châu Phi và như sau này Braque thừa nhận, họ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dã thú.
Các họa sỹ lập thể nổi tiếng của trường phái này: Georges Braque, Marcel Duchamp, Juan Gris, Fernand Leger, Jacques Lipchitz, Louis Marcoussis, Marie Marevna, Jean Metzinger, Francis Picabia, Pablo Picasso, Liubov Popova, Marie Vassilieff, Fritz Wotruba…
6. Trường phái tương lai

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 800x800 and weights 259KB.




Tranh của Umberto Boccioni
Chủ nghĩa tương lai là một trường phái nghệ thuật bộc lộ một cách trần trụi sự bất mãn với xã hội đương thời. Trường phái này nổi bật nhất ở Italy.
Các họa sĩ của trào lưu Giacomo Balla, Umberto Boccioni, Carlo Carrà, Severini, Luigi Russolo đã mượn kỹ thuật điểm mảng màu của trường phái Ấn tượng mới và trường phái Lập thể để chồng chéo hình thức, nhịp điệu, màu sắc và ánh sáng, qua đó thể hiện một “cảm giác động” và tính đồng thời của các trạng thái tâm hồn, cấu trúc phức tạp của thế giới.
7. Trường phái Dada (Dadaism)


Tranh của Jean Arp
Những người theo trường phái dadaism đã cố gắng làm rõ tất cả những ý tưởng và nguyên tắc mới lạ.
Ða đa là một phong trào văn học nghệ thuật (nhất là hội hoạ) phản kháng dữ dội của các nghệ sĩ và các nhà văn Âu Mỹ, cống lại sự tự mãn, trong đó, những sức mạnh sáng tạo nghệ thuật được hướng vào việc chống lại nghệ thuật. Phong trào nầy sinh ra do tâm trạng vỡ mộng vì ảnh hưởng của Ðại chiến thế giới lần thứ nhất, mà một số nghệ sĩ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau đã phản ứng lại một cách mỉa mai, cay độc, thậm chí với những tư tưởng vô chính phủ nữa. Qua những thể hiện của họ, cái phi lý và tư tưởng phản kháng là hai điểm nổi bật nhất.
Những họa sĩ tham gia trong trường phái Đa đa phải kể: Apollinaire, Marinetti, Picasso, Modigliani, Kandinsky. Tháng 3/1917, một Gallery của trường phái Đa đa ra đờiở Bahnhofstrasse. Tháng 7/1917, cuốn sách đầu tiên của trường phái Đa đa được xuất hiện do hai hoạ sĩ Đa đa thực hiện là Tzana Do Janko và Hans Arp. Một đoạn viết về lịch sử của trường phái Đa đa do Huelsenbeck công bố (7/1920) ở Hanover cho rằng: “Trường phái Đa đa họp tại quán Voltaire tập trung các nghệ sĩ nhạy cảm với sự phát triển những cách thể hiện mới”.
8. Trường phái siêu thực


Tranh của Joan Miró
Trường phái surrealissm đã phô bày những tác phẩm nghệ thuật bằng trang và bằng chữ viết. Họ nhấn mạnh đến sức mạnh của trí tuệ khi tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa.
Với trường phái hội họa này, những chủ thể rất bình dị được đặt trong một phông màn hoặc bí ẩn, hoặc hùng vĩ, khiến cho bức tranh mang một sức sống mới, ý nghĩa mới, như tồn tại trong mơ cùng những sự vật hiện thực trong trạng thái không thực.
9. Trường phái ấn tượng trừu tượng


Tranh của Jackson Pollock
Trong khoảng thời gian ngắn, nước Mỹ đã phải trải qua một thời kỳ mà phong trào nghệ thuật lên cao. Trường phái ấn tượng trừu tượng này đã đánh dấu một kỷ nghuyên trong lịch Mỹ. Trường phái De Stijl bao gồm một loại hình nghệ thuật mới, đó là kiến trúc nghệ thuật hiện đại. Trường phái này sử dụng những tài năng của các nghệ sỹ để thiết kế nhà cửa, công trình và đồ đạc.
10. Trường phái Kinetic Art

This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 540x632 and weights 44KB.




Tác phẩm của nhà điêu khắc Naum Gabo
Trường phái nghệ thuật này đóng vai trò rất quan trọng bởi vì nó đã khai thác được các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc. Bản thân trường phái này đã chứa đựng rất âm bội bao gồm có những âm bội của nền văn hoá nghệ thuật, tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Trường phái này chủ trương khai thác các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc.
11. Trường phái Pop Art


Bức họa Marilyn Monroe của Rebecca Rhys Butler
Pop Art là trào lưu nghệ thuật mới ra đời ở Anh trong thập kỷ 50 của thế kỷ 20. Song nơi nó phát triển rực rỡ nhất và để lại dấu ấn trong lịch sử mỹ thuật chính là tại Mỹ.
Pop Art nổi tiếng với các bức họa lấy những đề tài bình dân, phổ biến với mọi người như các thần tượng mà mọi người tôn thờ trong ca nhạc, phim ảnh, nhãn mác sản phẩm, tranh quảng cáo, bao bì sản phẩm… thậm chí đôi giày, tờ báo… làm chủ đề chính để sáng tạo nghệ thuật.
Cách thể hiện của trường phái Pop Art chấp nhận tất cả các cách có thể. Bức họa “Marilyn Monroe” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho Pop Art, tác phẩm này thể hiện bằng phương pháp in lưới, bằng máy. Nhiều tác phẩm khác được thể hiện bằng phần mềm máy tính, in bằng máy. Nhiều tác phẩm gắn cả “vật thật” như báo chí, lon bia, chai lọ… lên tranh. Một số bức họa đắt giá nhất của trường phái này vốn là minh họa cho truyện tranh.
12. Trường phái Op Art


Tranh của Victor Vasarely
Sự ra đời của trường phái này được gắn với tạp chí Time. Vào năm 1964, tạp chí này đã đăng một bài báo nói về một làn sóng nghệ thuật mới liên quan đến ảo giác.
13. Trường phái Minimalism


Tranh của Frank Stella
Trường phái này nhận được rất nhiều sự chỉ trích từ công chúng vì họ khó có thể chấp nhận được một dãy hình lập phương, hai hình chữ nhật đặt cạnh nhau hay năm khối hình hộp treo trên tường lại có thể được gọi là nghệ thuật. Đơn giản hóa mọi thứ tối đa, kiệm lời là đặc điểm của trường phái Minimalism.
14. Trường phái nghệ thuật nhận thức


Tranh của Lucio Fontana
Chính trường phái này đã chấm dứt kỷ nguyên được gọi là “nghệ thuật hiên đại”. Ngày nay, trường phái hậu hiện đại, tân hiện đại và nghệ thuật nhận diên đã chiếm ưu thế trong thị trường nghệ thuật. Các nghệ sỹ của ngày hôm nay không còn là một phần của nguồn nghệ thuật tập thể nhưng họ đã đào sâu những xu hướng và ý tưởng mới thay đổi từ năm này sang năm khác.
Trường phái nghệ thuật nhận thức này đã giúp chúng ta đem lại độc lập, và trong một khía cạnh nào đó nó đã hoàn thành một kỷ nguyên với những tư tưởng nghệ thuật mới, mà khởi đầu là từ trường phái ấn tượng cách đây 100 năm.
Các trường phái hội họa khác

Gần gũi nhất với chúng ta ở Châu Á, có thể nói đến các trường phái Thư pháp, Thủy Mặc của Trung Quốc, cũng có sức ảnh hưởng rất lớn tới các quốc gia trong khu vực, và trở thành hiện tượng mới làm ảnh hưởng sang cả Châu Âu, Châu Mỹ.
Kết luận

Mỗi trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp, quyết định riêng việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình và xử lý kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu quả mong muốn. Xã hội càng phát triển, nhận thức của con người càng cao thì các trường phái hội họa càng lớn mạnh, càng xuất hiện nhiều trường phái mới.

Nguồn : Sưu tầm

CÁC TRƯỜNG PHÁI HỘI HỌA TRÊN THẾ GIỚI

I. Chủ nghĩa Lập Thể


Còn gọi là trường phái lập thể, là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20.
Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh.

Chủ nghĩa lập thể do Georges BraquePablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartre của kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu.

Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ "lập thể" lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một vài lần và sau đó thành tên gọi chính thức.

Trường phái Lập thể khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ở gần đó và được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Tuy nhiên, một số họa sỹ khác cũng tự coi là họa sỹ lập thể khi đi theo các khuynh hướng khác với Braque và Picasso.

Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào những năm 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện.

Các nghệ sỹ thiên tài, Braque và Picasso mở ra phương pháp mới trong cách diễn đạt và thể hiện không gian trong hội họa nhưng chính họ lại bị ảnh hưởng của các nghệ sỹ khác như Paul Cezanne, Georges Seurat, điêu khắc Iberi, nghệ thuật điêu khắc châu Phi và như sau này Braque thừa nhận, họ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Dã thú.


Người đàn bà với cây đàn
Georges Braque, 1913


Lập Thể Phân Tích
Picasso và Braque sát cạnh bên nhau để mở đường cho ý tưởng tiền lập thể vào những năm từ 1906-1909, sau đó là chủ nghĩa lập thể phân tích (1909-1912). Vào thời kỳ này, hội họa của họ là nhiều bề mặt gần như đơn sắc, những đường thẳng không hoàn thiện, những hình khối đan xen lẫn nhau.

Bức họa Những cô nàng ở Avignon của Picasso không được coi là lập thể nhưng nó lại được coi là cột mốc quan trọng để tiến đến trường phái lập thể.
Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Picasso thể hiện các hướng nhìn khác nhau cùng một lúc của vật thể ba chiều trên không gian hai chiều của bức tranh. Dựa trên ý tưởng này, Braque khai triển thêm nhiều khía cạnh khác và hai người này đã tạo ra trường phái Lập thể.
Một số nhà sử học còn gọi giai đoạn này của chủ nghĩa lập thể là giai đoạn bí hiểm vì các công trình được vẽ theo lối đơn sắc và khó có thể hiểu được. Người họa sỹ chỉ để lại một chút dấu vết trên bức tranh để có thể nhận ra đối tượng của họ. Lúc này, chủ nghĩa lập thể rất gần với chủ nghĩa trừu tượng. Một số chữ cái cũng được đưa vào các bức tranh để làm đầu mối gợi ý ý nghĩa của các bức tranh.


Phòng triển lãm của phái lập thể ở Prague

Lập Thể Tổng Hợp

Giai đoạn tiếp theo của lập thể phân tích là lập thể tổng hợp, bắt đầu vào năm 1912.

Trong lập thể tổng hợp, bố cục của bức tranh gồm các chi tiết chồng chất lên nhau, những chi tiết này được tô sơn hoặc được trát sơn lên nền vải, chúng có màu sắc sặc sỡ hơn. Không giống như lập thể phân tích, ở đó vật thể bị bẻ gãy làm nhiều mảnh, lập thể phân tích cố gắng kết hợp nhiều vật thể với nhau để tạo nên các hình khối mới.

Thời kỳ này còn đánh dấu sự ra đời của tranh dán và tranh dán giấy. Picasso đã phát minh ra tranh dán với bức tranh nổi tiếng của ông là Tĩnh vật với chiếc mây trong đó ông đã dán những miếng vải dầu lên một phần của chiếc ghế mây. Braque cũng lấy cảm hứng từ bức tranh này để tạo ra tác phẩm Đĩa hoa quả và cốc thủy tinh. Tranh dán giấy cũng gồm các vật liệu dùng để dán nhưng có điều khác là các mẩu giấy dán chính là các vật thể. Ví dụ, cốc thủy tinh trong bức tranh Đĩa hoa quả và cốc thủy tinh chính là một mẩu giấy báo được cắt thành hình chiếc cốc.

Trước đó Braque đã sử dụng chữ cái nhưng các tác phẩm của thời kỳ lập thể tổng hợp đã đưa ý tưởng này đến một tầm cao mới. Các chữ cái trước đây dùng để gợi ý cho chủ đề thì này chúng chính là chủ đề. Các mẩu giấy báo là các vật dụng được các họa sỹ dùng nhiều nhất. Họ còn đi xa hơn nữa là dùng giấy với hình khắc gỗ. Sau đó còn đưa thêm các mẩu quảng cáo trên báo vào tác phẩm của họ và điều này làm cho các công trình của các nhà lập thể có thêm phần màu sắc.

10 họa sĩ vĩ đại nhất thế kỷ 20

Written By kinhtehoc on Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012 | 23:46

10 họa sĩ vĩ đại nhất thế kỷ 20

Pablo Picasso, danh họa người Tây Ban Nha, đứng đầu top 200 nghệ sĩ tạo hình lớn nhất thế giới thế kỷ 20 do tạp chí The Times, Anh, công bố. Cuộc bình chọn thu hút sự tham gia của 1,4 triệu người.
1. Pablo Picasso (1881 - 1973): 21.587 phiếu
Pablo Picasso.
Sinh ra tại Tây Ban Nha nhưng Picasso gắn bó nhiều hơn với nước Pháp. Cùng với Georges Braque, ông được coi là cha đẻ của trường phái Lập thể trong hội họa và điêu khắc. Sau khi qua đời, Pablo Picasso để lại di sản gần 50.000 tác phẩm nghệ thuật thuộc nhiều thể loại như tranh, điêu khắc, đồ gốm, ký phác thảo…
Tác phẩm "Les Demoiselles d'Avignon" (Những cô nàng ở Avignon).
2. Paul Cezanne (1939 - 1906): 21.098 phiếu
Chân dung tự họa của Paul Cezanne.
Thiên tài người Pháp, thuộc trường phái Hậu ấn tượng. Ông được coi là người nối nhịp cầu giữa Hội họa Ấn tượng thế kỷ 19 với Hội họa lập thể thế kỷ 20. Chỉ sống 6 năm trong thế kỷ 20 nhưng sức ảnh hưởng to lớn của Cezanne đã đảm bảo cho tên ông luôn xuất hiện trong danh sách những cây cọ vĩ đại nhất thế kỷ này. Hai danh họa Pablo Picasso và Henri Matisse đều thừa nhận, Cezanne chính là "bậc thầy" của họ trong nghệ thuật hội họa.
Bức "The card Players" (Người chơi bạc) của Cezanne.
3. Gustav Klimt (1862 - 1918): 20.823 phiếu
Chân dung tự họa của Gustav Klimt.
Họa sĩ người Áo, là cây cọ xuất chúng của trường phái Tượng trưng. Ông vẽ nhiều về hình thể người phụ nữ, khai thác vẻ đẹp sexy quyến rũ của họ, bất luận là trong những trang phục kín đáo hay trạng thái khỏa thân nóng bỏng.
Tác phẩm "The Kiss" (Nụ hôn) của Klimt.
4. Claude Monet (1840 - 1926): 20.684 phiếu
Claude Monet.
Là người sáng lập, đại diện xuất sắc của trường phái Ấn tượng Pháp. Chính khái niệm Ấn tượng được cho là có nguồn gốc từ tên bức tranh Ấn tượng, mặt trời mọc của ông. Claude Monet nổi tiếng với tranh phong cảnh. Những tác phẩm của ông mang đến cảm giác nhẹ nhàng, lãng mạn, nên thơ và thư thái.
Bức "Impression, soleil levant" (Ấn tượng, mặt trời mọc).
5. Marcel Duchamp (1887 - 1968): 20.647
Marcel Duchamp.
Họa sĩ người Mỹ gốc Pháp với những tác phẩm gần gũi với trường phái Da da và Siêu thực. Ngoài tài năng hơn người, Duchamp còn được nhớ đến bởi tính cách nghịch ngợm, phá phách với nghệ thuật của ông. Ông coi "Nghệ thuật là trò chơi giữa mọi người và ở mọi thời đại". Ông chính là người đã vẽ ria, thêm râu lên bức tranh Mona Lisa nổi tiếng của Leonardo da Vinci, mở đầu cho làn sóng biến tấu tác phẩm Mona Lisa về sau.
Mona Lisa (trái) của Leonardo da Vinci và bức tranh nhại (phải) của Marcel Duchamp.
6. Henri Matisse (1869 - 1954): 17.096 phiếu
Tự họa của Henri Matisse.
Nghệ sĩ người Pháp, là người tiên phong của trường phái Dã thú. Ông được đánh giá là bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng màu sắc. Matisse và Picasso là hai người bạn ngoài đời, đồng thời là những đối thủ cạnh tranh khốc liệt trong nghệ thuật.
Bức "Woman with a Hat" của Matisse.
7. Jackson Pollock (1912 - 1956): 17.051 phiếu
Jackson Pollock.
Là nghệ sĩ nổi bật của trường phái Biểu hiện trừu tượng. Pollock điển hình cho kiểu nghệ sĩ lắm tài nhiều tật. Trong cuộc sống bình thường, ông là người hung hăng, thích gây sự. Pollock còn mắc chứng nghiện rượu nặng. Ông qua đời ở tuổi 44, trong một tai nạn vì lái xe trong lúc quá chén.
Bức "Moon-Woman Cuts the Circle" (Người đàn bà - mặt trăng cắt vòng tuần hoàn) của Pollock.
8. Andy Warhol (1928 - 1987): 17.047 phiếu
Andy Warhol.
Họa sĩ người Mỹ nổi tiếng với trường phái Nghệ thuật Đại chúng Pop Art. Ông là tác giả những bức chân dung về các nhân vật nổi tiếng như Đệ nhất phu nhân Jacqueline Kennedy, nữ diễn viên điện ảnh Marilyn Monroe, chủ tịch Mao Trạch Đông… Ngoài vẽ tranh, ông còn làm phim, viết sách…
Những bức vẽ Marilyn Monroe của Andy Warhol.
9. Willem De Kooning (1904 - 1997): 17.042 phiếu
Willem De Kooning.
Họa sĩ người Hà Lan, đại diện của trường phái Biểu hiện trừu tượng. Ông là người từng khiến dư luận kinh sợ với những tác phẩm vẽ người phụ nữ xấu xí, ma quái.
Tác phẩm "Woman III" của Willem De Kooning.
10. Piet Mondrian (1872 - 1944): 17.028 phiếu
Tự họa của Piet Mondrian.
Họa sĩ người Hà Lan, nổi tiếng với trường phái Tân tạo hình. Phong cách của ông ảnh hưởng lớn đến cả kiến trúc, đồ họa, thiết kế công nghiệp…
Bố cục với màu đỏ, xanh, vàng của Piet Mondrian.

H.L. (theo The Times)
 

 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved