Home » » Hồi ký Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường - PHẦN 3

Hồi ký Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường - PHẦN 3

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013 | 09:16

Phần Ba

HÀNH TRÌNH ĐI VÀO SA MẠC

1   Lưỡi kiếm của Damocles

Ba phiên Toà: ba lần xuất hiện ở những toà án chính trị của Mặt Trận Tổ quốc, Đại Học và đảng Xã Hội. Mấy ông bạn, giữ vai trò ông thần Công Lý, là những người được chỉ định qua một sự lựa chọn rất chặt chẽ. Cái khéo léo nhất ở đây là họ không chọn những người nằm trong hàng ngũ của Đảng. Nếu không, sẽ như họ đã chọn huy động cả dàn đội pháo binh để bắn một sinh vật nhỏ bé và không chút tự vệ, dùng xe tăng và đại bác bắn vào đám biểu tình tay trần không súng đạn. Bên cạnh đó sẽ làm cho thiên hạ nhận ra là những người cộng sản không đủ trình độ để xử lý chuyện đời, họ sẽ bị mất mặt và uy danh của Đảng sẽ bị tổn thương. Vì thế, cách hay nhất là lựa chọn những kẻ cơ hội không thuộc đảng nào, nhưng lại có một quá khứ cần được chuộc lại và sẵn sàng nhận những khạc nhổ khinh bỉ của giới trí thức. Chúng đang giữ những vai trò nhỏ mọn, nhưng vì quá mong được nổi lên và được nhận những mảnh ăn thừa của Đảng, nên đã tự ép mình vượt qua những xấu hổ để được làm con ngựa trong gánh xiếc chạy quanh trên diễn trường dưới hiệu lệnh từ chiếc roi của người dạy thú. Như thế là Đảng được phủi tay và Đảng sẽ nắm những người không-phải-là-cộng-sản trong một cuộc thanh toán giữa các người gọi “đồng chí” với nhau. Nhưng ông thánh Công Lý được chọn lọc kỹ lưỡng đã được chuẩn bị rất kỹ vì họ là những người phát ngôn của Đảng. Nếu họ thi hành tốt những việc được giao phó thì Đảng sẽ khen thưởng cho tôi tớ. Nếu chúng không hoàn thành nhiệm vụ thì chỉ có chúng nó là người phải chịu cái sức nặng của sự thất bại.
Tôi hiểu chuyện này và vận dụng toàn sức cố gắng để bảo vệ danh dự của mình trong cuộc đụng độ giữa chiếc lọ bằng sắt và chiếc lọ bằng sành. Nhìn ánh mắt của những người có mặt trong hai phiên xử ở Mặt Trận Tổ Quốc và ở Đại Học, tôi hạnh phúc hiểu rằng tôi đã thắng, trước cái ngượng ngập lúng túng của các ông thánh Công Lý đã tự ném mình xuống đất đễ tìm cách rượt cắn bắp chân tôi. Mọi người đều đứng về phía tôi.
Ngày hôm sau, khi tôi khoẻ lại, có một người bạn hàng bộ trưởng tạt ngang viếng thăm và cho biết rằng trong giới thẩm quyền họ đã quyết định bắt nhốt tôi. Tôi có thể làm gì hơn? Ai cũng biết chính tên quan chức cao cấp đó là người đã từng đích thân bắt những người cộng sản khác dù rằng đó là những người cả đời hy sinh cho Cách Mạng với một danh sách dài đầy thành tích, những kẻ mà lòng lương thiện chân thành đều được mọi người quý trọng. Đó là trường hợp của V.Đ.H. mà tôi có dịp gặp trong thời bí mật kháng chiến, đó là trường hợp của Đ.K.G. là người giữ chức vụ rất cao trong một khu Kháng Chiến. Nếu những người cộng sản có đăng ký với danh dự không tì vết còn phải chịu những đối xử như thế, chắc chắn là do quyền lợi chính trị hay đấu đá phe nhóm, thì có nghĩa lý gì đối với kẻ quái gỡ khốn khổ như tôi, không bạn bè trong xã hội và không được ai trong Đảng bảo vệ? Tôi không mơ đào thoát đâu đó vì công an đã dàn trải tay chân, do thám và chỉ điểm khắp mọi nơi. Hơn nữa, tôi cũng không lưu ý nhiều đến giải pháp giảm giá trị đó: làm như thế là cho thiên hạ có cảm tưởng là tôi đang chối bỏ những quan điểm và những điều mà tôi tin. Mấy người cộng sản sẽ nghĩ gì khi mà trước đây họ đã quen thói ca tụng nhân cách của tôi?
Tôi đành chịu thua cho số phận, để chuẩn bị cho một chuyến đi một chiều không ngày trở về, tôi đã soạn một chiếc vali đựng quần áo và đồ ấm. Tôi cũng đã cẩn thận soạn mang theo một cuốn Essais de Montagne trong bộPleiade, cùng với giấy, viết, mực và viết chì. Tôi muốn trám hết những thì giờ bị buộc phải nhàn rỗi đến vô tận bằng một số việc làm trí óc để tự cứu mình trong cảnh tù đày dễ gây điên loạn. Biết đâu, những tay cai ngục còn có lòng nhân đạo sẽ không lấy đi mất hành trang cuối cùng mà tôi khẩn thiết cần chúng.
Trước đây tôi cũng từng đi vào những nhà tù theo những yêu cầu công việc để gặp những người tù mà tôi là luật sư bào chữa, vì thế tôi đã biết những gì sẽ xảy ra ở những nơi tù đày này. Những tên đầu gấu đánh đập những kẻ mới đến và cướp đi phần lớn trong phần ăn dành cho tù nhân, nhất là những phần lương thực dự trữ mà gia đình thỉnh thoảng gửi quà cho họ. Số lượng rõ là đã bị cắt xén khi gói quà qua tay những kẻ giữ tù, phần còn lại trở thành nhỏ nhoi sau khi bọn đầu gấu và đồng bọn tự chiêu đãi thêm một phần lớn khác. Những hy sinh của gia đình chỉ để duy trì cho cảnh phát đạt của bọn cai tù và những kẻ tàn ác đang áp bức những kẻ khốn khổ bị nhốt trong từng xà lim. Bạo lực đã biểu thị cái hung bạo và thống trị kẻ khác một cách vô liêm sỉ và tàn bạo. Bạo lực được triển khai không chút ngần ngại lúng túng, đầy đạo đức giả, và không che đậy để lừa gạt mọi người. Nó hiện mình trần trụi và, nếu ta có thể nói, hoàn hảo. Ngược lại, khi bạo lực cải trang sau cái logic nguỵ biện, giấu mình sau những lý luận có vẻ đúng, nói tóm lại, là chỉ để tự bào chữa, không phải với công luận mà với chính cái sâu thẳm của một lương tâm chưa chết hẳn, cái đó mới là điều bệnh hoạn đáng ghê tởm và kinh hoàng.
Khơi dậy những chuyện đã qua từ khoản sâu của trí nhớ trong những năm tháng làm việc trong Luật Sư Đoàn, tôi vẫn còn nhớ những chuyện bí mật được nghe kể trong những chuyến đi về những vùng làng mạc thôn xóm. Thường khi, trong những túp lều tranh vào buổi tối, những người chủ kể cho tôi nghe những câu chuyện thương tâm buốt nhói. Trong cảnh tranh tối tranh sáng của hoàng hôn, ở bìa những cánh rừng, họ thấy từng hàng người lê chân, ốm đói như những bộ xương biết đi. Một giờ trôi qua, hàng loạt tiếng súng từ trong rừng vọng về kéo họ choàng dậy ra khỏi giấc ngủ đang say. Một cuộc thảm sát tập thể vừa xảy ra và đó là chuyện mà mọi người không nên kiếm cách tìm hiểu để thoả mãn tính tò mò của mình. Không ai thấy gì và cũng không dám tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng từ túp lều tranh này qua túp khác, tin tức chuyền đi từ người này sang người khác, mọi người chết lặng sợ đến lạnh xương sống. Không trách nhiệm nào được qui trách cho lãnh đạo, có khi họ cũng không được báo cáo về chuyện đã xảy ra, nhưng sự đổ tội đã bắt đầu gán cho tại-vì-sự-quá-cuồng-nhiệt của một số thuộc cấp muốn tranh đua lập công nên đã vượt quá xa mức mong muốn của các ông chủ. Bất cứ thể nào, dù là những tin đồn không có cơ sở, nhưng cũng không phải là dở khi cho rằng những chuyện như thế là có khả năng đã xảy ra. Bất cứ chính quyền nào trên thế giới, vào bất cứ thời điểm nào, dưới bất kỳ chế độ nào đều nuôi dưỡng một sự căm thù tàn bạo đối với những kẻ thù muốn tiêu diệt mình, và từ đó dai dẳng truy kích kẻ thù dưới đủ loại hình thức có thể tưởng tượng được. Khi mà những chuyện khủng bố, giết người không thể mãi giấu giếm và bao trùm trong bí mật, vì thế chúng cũng không thể tránh khỏi bị nhân dân khám phá, chúng bèn đổ đùn lên nạn nhân toàn những tội lỗi đầy ô nhục, và đưa một số người ra trước những phiên toà hèn hạ và đang run bắn, để tự trấn áp những tiếng vọng của lương tâm và cố gắng đánh lừa, nhưng không thành công, sự sáng suốt của nhân dân.
Với những chuyến đi đày, từ quyết định của nhà cầm quyền, đều là là những chuyến có đi mà không có về, tôi sẵn sàng.
2   Sửa soạn cho chuyến đi không có ngày về

Điểm đặc trưng dễ phân biệt của chính quyền Việt Nam là họ không bao giờ cho người trong cuộc thanh trừng biết những biện pháp dành cho họ. Họ có nhiều cách để thực hiện ý muốn của mình. Mặt Trận không còn mời tôi dự những phiên họp của họ. Đại Học lấy lại chiếc xe đạp công vụ mà họ đã cấp cho tôi để đi đến lớp giảng. Các Toà Án gửi trả lại cho tôi những lá thư uỷ nhiệm luật sư. Tôi hiểu là tôi đã bị loại khỏi mọi chức việc, đã trở thành một thứ cùi hủi, một người hạ đẳng, một kẻ bị mất phép thông công! Vì thế, tôi đành phải tìm quên trong triết học để trám đầy những giờ khắc bị buộc phải nhàn cư rỗi rảnh, để tránh phải trùm kín đầu, đeo cái chuông lúc lắc kêu vang báo cho người trên đường phải tránh không đụng tôi.

Tôi bắt đầu suy niệm bằng một câu khá nổi tiếng “mens agitate molem” (Tinh thần làm chuyển động vật chất). Khi còn trẻ, tôi nghĩ ngược lại và cho rằng thành ngữ ấy là do một anh trí thức hoặc quá cuồng nhiệt kiêu căng tự đại cho rằng mình là trên hết mọi sự dù rằng hắn chẳng phải như thế, hoặc là hắn đang trải qua một cuộc khủng hoảng mất niềm tin và đang cố vượt qua một tự ti mặc cảm đang lớn dậy trong bản thân. Tư tưởng hay trí tuệ, vì bản chất là phi vật chất thì không thể tác động trực tiếp lên quần chúng vì quần chúng là một dạng vật chất với một sức mạnh toàn diện và nó chỉ có thể là đối tượng bị tác động và chịu ảnh hưởng từ một khối quần chúng khác. Trong mọi xung đột giữa tư tưởng và vật chất, sự đối kháng của bên này đối với bên kia sẽ được giải quyết bằng sự chiến thắng của vật chất. Chính trong nghĩa này mà chủ nghĩa Marx xác tín rằng quần chúng nhờ sức mạnh vật chất của mình là người làm nên lịch sử. Nhưng quần chúng không làm nên lịch sử nếu chỉ biết sử dụng những phương tiện bạo lực của vật chất. Trong chuyện tàn phá, hay ngay cả trong xây dựng, quần chúng luôn phải nhờ đến những khả năng của trí tuệ để hướng dẫn mình cho cả hai lúc: huỷ diệt và xây dựng. Từ đó tư tưởng xen vào ảnh hưởng lên sự vận động của quần chúng. Chỉ có lúc đó, tư tưởng mới thật sự làm chuyển động quần chúng.
Nhưng tư tưởng chỉ có thể làm chuyển động quần chúng khi nó tiến hành những động thái xuất phát từ những cái nhìn sâu sắc về thực tiễn để rút tỉa, suy diễn ra cái logic của quần chúng. Tốt hơn nữa, khi quần chúng được giáo dục tốt, tư tưởng sẽ tiếp tục nhiệm vụ của mình mà gìữ vững hướng đi đúng. Vì thế người ta thấy có những những kẻ gây kích đông và những chính trị viên tiến hành đấu tranh chống lại sự thất học chính trị, gia tăng cố gắng theo dõi những sai lệch đề nhằm đưa quần chúng trở về con đường tư tưởng chính thống thẳng tắp. Và người ta có thể thấy một cảnh tượng vĩ đại trong đó quần chúng đang bày tỏ niềm tin trước một thứ đạo giáo mang tên chủ nghĩa Cộng Sản, tạo nên một khối đồng nhất sau lưng Đảng, hoàn toàn tin tưởng vào những gì Đảng khẳng định, vào chính sách và đường lối của Đảng. Chưa bao giờ người ta thấy tư tưởng lại đạt được một chiến thắng trên vật chất như thế. Sự cuồng tín của quần chúng đã đạt được một mức hiểm ác, dù trên thực tế có những vụ việc thảm khốc đã xảy ra là những chứng cớ về mức độ trầm trọng của những sai lầm đã phạm, kinh tế bị xuống cấp, sự nghèo khó của nhân dân đã gia tăng, phần lớn nhân dân, kể cả những người cộng sản chân chính nhất, vẫn tiếp tục tin vào lời hứa của Đảng là sẽ phục hồi đất nước và sẽ nhanh chóng đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội mà thế giới không còn ai tin và chính ngay những nước cộng sản trước đây cũng đã dứt bỏ. Và đây là cái nguy bị rơi xuống vách đá của những người đang đứng bên bờ vực. Từ đó, vấn đề nêu ra là chuyện nhồi sọ chính trị cho quần chúng biến họ thành cận thị hay làm cho trí thông minh của họ trở nên mù mụ, là biểu hiện của thứ con người lành mạnh hay không lành mạnh?
Cái gì đã sản sinh ra những vụ kinh hoàng và đầy tai tiếng, những điều quái gở bệnh hoạn của một tư tưởng chính trị? Đó là sự biến dạng của con người, của một thứ thói quen trí não chỉ biết thấy một phần của thực tiễn, thui chột trong khả năng đánh giá phán đoán, tinh thần phê phán bị bóp chết, và những sinh hoạt tâm linh bị giới hạn với sự phê chuẩn vô điều kiện của lãnh đạo và dưới sự kết án không thương tiếc của những kẻ gièm pha, và hoàn toàn bất chấp công lý và nhân đạo.
Kinh nghiệm xã hội và lịch sử đã cho thấy chừng nào tư tưởng trở nên điên loạn, dù bắt nguồn từ chính trị, chủng tộc hay tôn giáo áp đặt trên quần chúng, thì ngay tức khắc chuyện thả lỏng cho những hành động dã man sẽ đưa nhân loại trở về thời quá khứ nhục nhã đầy máu và chết chóc.

Cái giáo lý cơ bản mà chúng ta phải không bao giờ quên và nó phải bao trùm lên tất cả những nhận thức về cuộc sống là mỗi người phải tự nhắc mình là tất cả những cá nhân con người ai cũng có phần sự thật của riêng mình, chúng ta phải biết tôn trọng sự thực của người khác, và pháp luật, công lý, đạo đức, loài người không bao giờ cho phép một ông hay bà được quyền áp đặt cáí sự thật của mình lên người khác. Chính những người theo tà giáo từ chối không chấp nhận sự thật của Jesus mà đã đóng đinh người này trên Thập Tự Giá. Chính vì những kẻ đứng đầu trong Nhà Thờ thời Trung Cổ đã từ chối sự thật của một kẻ không tín ngưỡng hay kẻ có suy nghĩ tự do mà họ đã thiêu sống những người này trên giàn hoả. Tự do tư tưởng có thể là cái chinh phục lớn nhất của thế giới hiện đại. Nó là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ của văn minh.
Khi một người nắm giữ một sự thật và tin tưởng đó là điều hay tốt, vì nhiều động cơ khác nhau, có người muốn thông đạt nó, truyền bá nó đến người khác. Không có gì cấm một người muốn truyền bá sự thật của mình đến nhiều người khác.
Nhưng những gì phải bị cấm tuyệt đối là dùng sức mạnh, bạo lực, hành động hung ác khủng bố để ngăn cấm niềm tin của những người khác. Vì lẽ, nhà cầm quyền cộng sản đã phạm một lỗi lầm không cứu vãn được là đã gắn nhãn tên cho những khác biệt về quan điểm bằng những tội lỗi không thể tha thứ được để mà trừng phạt họ một cách nặng nề. Rốt cuộc, vì lo lắng cho an nguy của mình, không ai muốn mở mồm bảo cho lãnh đạo biết những hậu quả xấu gây ra bởi thái độ của chính lãnh đạo. Nhà nước, thiếu vắng sự ủng hộ và giúp đỡ của quần chúng như con tàu đâm vào vùng san hô và chìm đi trước sự thờ ơ toàn diện. Ngoại trừ khi, với sức mạnh của mình, nhân dân vùng lên lật đổ độc tài và thay vào đó một chế độ dân chủ đa nguyên, thì cái lợi ích lớn nhất là cho phép tự do ngôn luận; dù có nhiều khác biệt, bất đồng nhưng ý kiến được tự do phát biểu trong lợi ích chung của mọi người. Giữa nhà nước và nhân dân sẽ không còn cái-không-thể-sống-chung nào nữa. Một đảng phải loại trừ đảng kia.
Vì thế, tôi biết là tôi đang phải chịu nhiều rủi ro. Nhưng hình phạt trực tiếp và tức khắc dường như chậm đến: có thể cái vòng khoá để còng tay tôi chưa được chế tạo. Chuyện phải tiêu diệt tôi đã được quyết định nhưng việc tiến hành nó phải được tổ chức tinh vi hơn. Bất kể như thế nào, tôi vẫn lo trám đầy cái khoản thời gian chờ đợi bằng cách chào từ biệt cái cách sống mà mai đây sẽ bị chôn biệt vào quá khứ.
Sau đó tôi đã qua những ngày và cả những đêm chong mắt nhoà đi với những cay đắng và thường là nước mắt, lang thang trong cái thế giới nhỏ bé mà tôi đang sống, ngày đêm đắm mình trong nỗi buồn và cái trời-ơi-đừng-bao-giờ-xảy-ra-cho-tôi. Và đây là những đồ đạc bàn ghế mà tôi thừa hưởng của cha mẹ tổ tiên: những cái bàn bằng đá cẩm thạch, những chiếc ghế bành bằng gỗ khối, những chiếc ghế ngồi, những chiếc bàn ngủ, những chiếc sofa, tất cả toàn bằng gỗ quí và chạm trổ tinh xảo bởi bàn tay vàng của một lớp người thợ thủ công nay không còn nữa. Thời gian đã làm những lớp gỗ lên nước bóng loáng. Đây là bàn thờ tổ tiên sơn son thếp vàng, bát nhang đầy tro tàn và chân nhang cắm đầy với đốm nhang đang thắp đỏ, bình hoa bằng sứ Tàu được để những chậu hoa lan vào mùa đông và những chậu hoa sen vào mùa hạ, hai chiếc tủ kiếng treo trên tường với những con rồng đang uốn lượn trên cánh cửa chứa những đồ cổ và bộ ấm trà. Tất cả những vật bất động kia chứa bao nhiêu là hơi thở của cha mẹ tổ tiên ông bà, trải qua bao nhiêu năm tháng dài để lên nước bóng loáng.

Tôi hay thích đứng hàng giờ trước cái tủ sách có bộ sách Guillaume của những tác giả người Hy Lạp và La Tinh đặt phía trên dãy sách của những tác giả người Pháp của bộ Pleiades. Tôi không hề thấy mệt khi đứng vuốt ve những cái bìa sách bằng da nâu của những cuốn sách mà tôi có dịp mua ở những tiệm sách cũ ở Paris hay từ những kẻ bán sách đã qua tay bày bán dọc sông Seine. Trên kệ sách dành cho những tác giả thời cận đại đang mang niềm hãnh diện của những tác phẩm của Valéry, Claudel, Gide, Montherlant, Mauriac, Maurois, Maurand, Giraudoux… Trên kệ chót, tôi để cái máy thâu băng hiệu Columbia và hàng trăm cuộn băng mà tôi mang về từ Pháp và nghe chúng mỗi buổi tối, thay nhạc tuỳ theo tâm trạng mình lúc ấy, một vài bản của Mozart nếu gặp lúc đang vui, bản Pavane In a Dead Infant của Ravel khi gặp lúc ưu tư sầu muộn, bản Dance Macabre của St-Saens nếu gặp lúc đang gặp những chuyện đời làm tôi kinh hãi, nhưng đặc biệt là bản Giao hưởng số 5 của Beethoven đưa tôi vào những trầm tư mặc tưởng và bản Passionnata gặp lúc hừng chí và muốn sáng tạo.
Tôi giết phần lớn thì giờ trong cái “thư viện” của tôi nơi mà mùi thơm đầy kích thích của quá khứ làm tôi vui thích và say đắm. Tôi không phải là ngưởi chỉ biết tán dương quá khứ, tôi cũng biết nhận diện và quý trọng những điều tuyệt vời của hiện tại. Trong lịch sử, trong mỗi thời kỳ, nhận loại đều qua những lúc vinh quang và lúc nô lệ khốn khổ. Sự nô lệ đượm trùm những tội ác mà nhân loại không phải là kẻ trực tiếp chịu trách nhiệm, nhưng nó đã làm hoen ố một vài giai đoạn hiện hửu của nó. Những vinh quang xảy ra cùng với những tiến bộ mang lại những điều tốt và hạnh phúc cho các dân tộc. Thời gian là yếu tố sàng lọc của lịch sử: sự nô lệ sẽ được chôn sâu trong sự lãng quên, ngoại trừ những tội ác kinh hoàng làm nổi loạn lương tâm, và chỉ có những vinh quang huy hoàng kia sẽ mãi mãi chói sáng qua thời gian và là nguồn động viên cho những tâm hồn biết suy nghĩ. Hiện tại mang những cảm xúc lộn xộn: con người có đủ thời gian để ngạc nhiên thán phục với những tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy con người tiến rất xa về phía trước của tương lai, họ phải khóc vì điên giận khi đối diện với những hành động của một vài tầng lớp chính quyền đã và đang giết những kẻ phản lại hay chống đối họ, những tầng lớp người mà hành động đã đưa con người về những thời kỳ man rợ xa xưa đầy xấu hổ. Cái hiện tại mà tôi đang sống và cái tương lai đang chờ tôi, vì thế, đẩy tôi trốn chạy về với quá khứ huy hoàng của con người, thoả mãn những khát khao hạnh phúc qua những gì mà những con người tuyệt vời nhất đã làm ra để tránh cho tôi những thống khổ hôm nay và ngày mai bởi những kẻ tệ hại nhất trong những người lãnh đạo. Nhưng trong hoàn cảnh mà tôi đang chào biệt những vật bất động nhưng chất chứa bao nhiêu tâm trí của tôi kia, tôi cảm thấy mình bị tràn ngập bởi nỗi buồn là không biết bao giờ có thể gặp lại chúng.
Nhưng nhiều ngày trôi qua. Không có bọn cai tù mang xe đến kiếm bắt tôi, với hai cổ tay trong cùm. Tôi bắt đầu ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng tôi cũng hiểu là chuyện tiêu diệt tôi không xảy ra bằng con đường tù nhốt ở một nhà lao nào đó. Nó sẽ tiến hành trong dài hạn bằng nỗi đau quằn quại của những cơn đói. Sự tra tấn trở nên tinh vi, nó sẽ xảy ra trong một thời gian dài, không biết lúc nào dứt, giống y như một cuộc hành trình trong sa mạc, trong nghĩa trần tục nhất của vấn đề. Giống người lữ hành bị bỏ rơi trong sa mạc mênh mông, không thức ăn nước uống, không một chỗ trốn cái nắng thiêu đốt ban ngày, không một mảnh chăn chống cái lạnh cóng người ban đêm, tôi phải lê những bước chân cho đến khi tấm thân khô nước, cạn máu như một bộ xương biết đi kiệt sức bởi đói, khát, dưới cái nóng thiêu đốt của mặt trời, cái lạnh tê người về đêm, tôi sẽ té ngã trên một đồi cát nào đó và buông hơi thở cuối cùng. Bao nhiêu đau khổ đó, tất cả đều giấu mặt sau tấm mặt nạ của Thần Chết, đang bao quanh tôi, nhảy múa nhạo báng, đang chuyển mình trong một điệu múa ghê rợn chung quanh và trong chính tôi, hành hạ tôi bằng những trận cười châm biếm mĩa mai, những cú đòn giáng xuống để cho cái mong muốn được chuộc lại cái lỗi lầm là đã dám suy nghĩ khác với Đảng trở thành cái đau đớn tột cùng trước khi Thần Chết đến ca khúc khải hoàn trên đống xương trắng của tôi trong sa mạc. Chỉ có những kẻ đao phủ với những suy tưởng của quỷ dữ mới có thể sáng tạo ra thứ tra tấn bằng cái đói ở giữa một thủ đô của một nước văn minh, ngay giữa thế kỷ thứ hai mươi, giữa những kẻ thừa mứa đang tiêu phí hàng đống tiền vào những buổi chiêu đãi. Để quấy thêm nỗi đau khổ của kẻ “phạm tội” người ta còn bắt nó phải làm chứng nhân trước cảnh đói của vợ con mình mà người ta cũng buộc phải chịu dù vợ con hắn là những người vô tội.
Và Đảng phủi tay dễ dàng. Họ hợp lý vấn đề một cách thâm hiểm. “Tôi có một nhân viên, nay tôi không thích nó, tôi cho nó nghỉ việc. Có gì không đúng?”. Có một câu trả lời từ hắn: “Đây không phải đơn giản là một chuyện cho nghỉ việc, khi có một hệ thống cửa hàng nhà nước và tem phiếu, một người bị đuổi việc thì không thể mua gạo bất cứ ở đâu, cho hắn và cho gia đình, khi mà hắn không có tiền và tem phiếu chỉ dành cho công nhân viên nhà nước! Hơn nữa, các ông đã căn cứ trên điều Luật Hình Sự nào để trừng phạt một tội bất đồng ý kiến và được Thế Giới công nhận về nhân quyền? Các ông có biết được cái đặc biệt nghiêm trọng của cái án phạt mà các ông tuyên phán trong nhà nước công sản của mấy ông khi các ông lẫn lộn giữa hành chánh và luật pháp? Các ông đã kết tội tôi phải chết, một cái chết chậm và lâu cho cả một gia đình chỉ vì các ông bị mất vui? Một chuyện giả dối như thế có xứng đáng là một Nhà Nước tự cho mình là văn minh không? Nhưng con cừu thì không thể lý luận với một con sói.

Con sói có thể hùng hồn tuyên bố là nó đã tử tế cho phép con cừu được tự do hạnh phúc, nhưng rốt cuộc nó cũng không thể thuyết phục những con cừu với những lý lẽ để biện minh cho tội lỗi của mình, cũng chẳng chứng minh được gì ngoại trừ sự tàn ác và dối trá của nó. Những văn kiện linh thiêng nhất, những lời hứa trang trọng nhất luôn ẩn chứa những ảo tưởng cũng chỉ với mục đích gìn giữ cái dáng vẻ bề ngoài trong khi sự thực là đang chà đạp lên thực tế. Chủ nghĩa hình thức chỉ là một trò ảo thuật, nhưng là một trò ảo thuật tệ hại xấu xa nhất vì nó không nhằm làm vui mọi người nhưng nhằm cắt cổ họ.
Trong suốt một thời, nhân dân đã bị kinh hoàng vì tội ác của chế độ phong kiến, họ luôn luôn mơ ước một nền công lý, mong có kẻ công minh phân biệt thiện ác như Bao Công để bảo vệ những người dân chân chất chống lại những kẻ bạo quyền. Nhưng niềm mơ ước sâu thẳm nhất của người dân chưa bao giờ thành sự thật. Những kẻ to đầu vẫn cứ tiếp tục áp bức, khủng bố, bắt nạt người yếu kém vô tội. Khi mà Nhà Nước không còn bảo đảm công lý, niềm tin vào chính nghĩa cũng mất đi, những người mờ mắt vì ích kỷ tham lam, hư hỏng vì mê muội và chẳng cần “lo cho mọi người” và chằng cần lo cho có sự công bằng thì dân chúng quay ra cầu xin sự can thiệp của những quyền lực siêu nhiên, tin vào chuyện nhân quả “ác giả, ác báo”, gây gió sẽ gặp bảo, gây ác sẽ gặp chuyện ác.
Những con người tích cực thì không muốn chờ công lý của toà án “quả báo” vì nó đến quá chậm, quá lâu. Họ muốn thay một nền công lý chậm chạp và chưa bao giờ được hiện hữu một cách vững bền bằng một chế độ hoàn toàn gồm những nguyên tắc và tổ chức nhằm mang lại những gì mà nhân dân khát vọng. Luật Pháp là đoá hoa tinh khiết nhất của văn minh, toà án áp dụng luật và phổ biến Công Lý, như bản Tuyên Bố Quốc Tế Về Nhân Quyền đã mở đầu cho kỷ nguyên Dân Chủ, là những thành quả quý báu của nhân loại. Bất hạnh thay, bộ máy tuyệt vời đó chỉ chứng tỏ một thứ chủ nghĩa duy tâm, một bộ óc khéo léo ranh ma vận hành một cách chu đáo khi quyền lực đưa ra để thực hiện những ý định mong muốn. Nếu theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản thì người dân, thông qua tiếng nói của những người đại diện và qua trò chơi bầu cử, sẽ có trong tay một phương tiện luật định để ngăn chận sự quá đà của giời cầm quyền và những lạm dụng của họ; trái lại, trong những nước cộng sản, thứ quyền lực độc tài, độc đoán sẽ khiến cho nhà lãnh đạo khuynh đảo luật pháp, chỉ áp dụng nó để bảo vệ quyền lợi của mình, xếp đặt, cơ cấu những tổ chức quần chúng và những cơ quan luật pháp sao cho những nơi này biến thành những người đầy tớ trung thành ngoan ngoãn cho họ. Luật Pháp lúc ấy mất hết cả quyền lực của mình, chỉ còn là một thứ đồ chơi nằm trong tay giới chức quyền, chỉ còn biết thú nhận cho nỗi bất lực của mình. Trong khi chờ những ngày phúc phần, ngày mà nền công lý được vận hành hết công xuất, sự tàn ác phải chịu trừng phạt, ngày mà quần chúng quá kinh tởm với những bất công của giới lãnh đạo, mất kiên nhẫn và nỗi lên làm nên Lịch Sử, nhân dân dưới chế độ cộng sản đối mặt với những kẻ độc quyền có con tim đóng kín, câm lặng sau cửa Thiên Đường không còn nghe đến lời cầu xin và ước vọng của con người, chẳng còn một giải pháp nào khác hơn là thu mình trong cam chịu và tuyệt vọng.
Chính trong một tâm trạng như thế mà tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng. Chìm trong vùng cát sa mạc của tuyệt vọng làm cạn khô giòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn, với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn của chua cay và vị đắng của mật. Không một tia sáng của niềm vui trong đêm đen của địa ngục trần gian mà tôi đang bị quét đi trong nỗi cô đơn, nhưng tôi cố gắng tự cứu mình, vượt qua cảnh địa ngục tối tăm, những cơn sóng dữ, để một ngày nào đó có thể kêu lên chuyện đoạ đày của tôi.

3  Cái đói thê thảm

Lãnh đạo thật phúc đức. Họ đã tránh cho tôi phải chịu một chế độ tù giam mà ở đó tôi có khi thành đứa hầu lo quét dọn cho các đại ca đầu gấu, cho những tay trùm phòng giam, thành nạn nhân bị bóc lột bởi bọn cai tù, bởi bọn du côn tham lam tàn bạo tước đoạt đi chút lương thực dự trữ và phải chịu những hành hạ tàn khốc của chúng. Tôi cũng không bị đưa vào những trại cải tạo nơi mà từng hàng tù nhân phải thi hành những công việc lao động đất đai dưới sự điều khiển của những ông quản giáo. Tôi được tha khỏi bị những ngày tháng dài, rất dài trong trong tù, có khi đền tận ngày lìa đời, giữa những chấn song của một căn phòng chật hẹp của công an ở một nơi nào đó mà không ai biết là ở đâu, bao trùm bởi một màn đen bí mật và huyền bí, hay bị nhốt kín ngày đêm không thấy ánh sáng mặt trời, không hít thở được không khí bên ngoài dù chỉ một phút giây, hình phạt buộc phạm nhân không được chút sinh hoạt nào trong một đêm dài vô tận ngập tràn trong tiếng inh ỏi khua vang của soong chảo và nồi đồng mà những cánh tay lực lưỡng của mấy tên cai ngục thay phiên mà đập để tra tấn cho đến khi nạn nhân biến thành kẻ khùng điên. Và, trong khi đầu óc và đôi tai bị tra tấn vì những tiếng khua đập vào thành của kim loại như muốn xuyên thủng các màng nhĩ, thì bao tử của người tù phải chịu những cơn đau thắt vì bị viêm do những thức ăn hư thối cho tù nhân ăn. Những kẻ bợ đỡ cộng sản kêu gào là những người cộng sản đã phải chịu tra tấn trong những “chuồng cọp” ở nhà tù Côn Đảo và ra sức lên tiếng tố cáo những việc làm vô nhân đạo của thực dân. Người ta có thể tự hỏi: thế thì ở mức độ hùng biện và nhiệt thành nào họ sẽ lên tiếng khi họ biết những gì đang xảy ra trong chế đô cải tạo để bành trướng chủ nghĩa công sản hiện nay?
Phúc đức thay cho những lãnh đạo nào đã tha cho tôi khỏi phải chịu những khổ đau như thế. Những kẻ đã trừng phạt tôi, cho dù là do chính ý muốn của họ, hay vô tình không hay biết vẫn là những kẻ muôn phần hiền lành so với những con người kia, những con người còn hơn quỷ dữ. Nhân dân sẽ phán xét.

Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu: đó là cái đói.
Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và những thứ nhu yếu trên chợ đen vì tôi không còn được phát tem phiếu kể từ khi tôi bị loại, mặc dù với tất cả dành dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp. Ngay từ lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt, với dự trữ ít oi, chúng tôi bắt đầu một giai đoạn hạn chế, tiết kiệm. Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen xa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tối. Khẩu phần cơm và rau mỗi ngày một ít đi. Và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói. Họ tự hỏi tại làm sao mà các bà tự nhịn ăn để có một thân hình thon thả?
Nghĩ đến chuyện vay mượn bạn bè là điều vô ích vì chính bản thân họ cũng đang cùng số phận, đang trong cảnh chỉ đủ cầm hơi khỏi bị chết đói. Vợ tôi đã nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống, nhưng làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi trơn móng vuốt làm khó của những tên công an hay cán bộ thuế, để chúng để yên cho chúng tôi khó khăn kiếm sống? Tìm ở đâu những nguồn hàng mà chỉ qua con đường buôn lậu mới có được? Món duy nhất mà vợ tôi không phải bán là cái máy may để mua gạo cho gia đình, mà dùng nó để may đồ mang ra chợ bán. Nếu bà còn trẻ bà có thể đạp xe về nhà quê mua rau cải lên bán ở những nơi đông người qua lại. Nhưng tất cả những dự tính dễ thương nhỏ nhoi đó đều không thể thực hiện đã làm cho vợ tôi khóc trong sầu khổ vì không thể làm một chút gì đề mua gạo cho gia đình.
Con gái tôi dạy Toán và phải dạy ở một nơi cách xa Hà Nội 40 cây số, trong suốt bảy năm liền, đơn giản chỉ vì nó không có cha mẹ nằm trong Đảng. Nó bị ép phải từ nhiệm để có thể về dự một cuộc thi tuyển ở trường Cao Đẳng (Đại Học Sư Phạm) và đã chọn ngành Văn và ngôn ngữ Pháp. Nhưng sau 5 năm học xuất sắc và tốt nghiệp, nó chờ đợi một chân giáo viên ở một trường Trung Học ở Hà Nội. Vô ích! Cho đến một ngày có một chỗ ở Trường Chu Văn An. Cũng có một cô gái khác mong làm chỗ ấy. Hai thí sinh được đưa ra trước hội đồng giáo sư để tranh tài. Con gái tôi được hội đồng giáo sư chấm. Nhưng đứa con gái kia lại được nhận, vì cha của cô ta là một đảng viên. Trong khi chờ kiếm việc, con gái tôi phải đạp xe đi về mỗi bận 20 cây số để đi học nghề làm gốm trong một hợp tác xã ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng đến lúc học xong, thay vì được hưởng một tí tiền bồi dưỡng người ta lại buôc nó phải trả tiền học phí. Nó muốn đóng góp được một chút gì cho ngân sách gia đình nhưng vô vọng vì không thể làm được gì.
Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt đầu là đã có một đám công an, chắc chắn là đã được bọn gián điệp và điềm chỉ quanh tôi báo động cho họ, xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản không có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy học của những ông thầy tận tuỵ. Phải làm gì đây? Tôi không thể ra đạp cyclo như một số đồng nghiệp trẻ đang làm, không phải vì chuyện “thiên hạ xầm xì” mà chỉ vì tôi đã không còn ở tuổi để làm chuyện đó: hoặc người ta không dám gọi tôi, hoặc nếu có, số tiền công còm cõi của một hai chuyến đi không đủ để mua thuốc cho tôi lại sức với cái thân thể đã tiều tuỵ lắm rồi. Tự nhủ là không có nghề gì là đáng khinh, tôi xoay ra sửa chữa xe đạp bên vệ đường như những sĩ quan cao cấp già của bộ đội về hưu đang làm. Những kiến thức về văn chương và ngôn ngữ trở nên vô dụng trước những chiếc xe đạp hư cần sửa chữa như một quan hoạn đứng trước người đàn bà không mảnh vải che thân.
Trong thời gian đầu khó khăn, người bõ già vào làm việc ở nhà tôi từ những năm kháng chiến, hơn mười năm về trước, thông hiểu tình trạng tài chánh kiệt quệ bất khả cứu vãn của tôi, đành xin phép nghỉ việc về quê. Chúng tôi đã xem bà như một thành viên của gia đình, và chưa bao giờ nghĩ đến việc cho bà ra đi, đã quyết tâm chia sẻ ngọt bùi sướng khổ với bà. Nhưng chính bà lại khéo léo đề nghị chia tay, chúng tôi không còn cách nào hơn là đồng ý. Cuộc chia tay thật cảm động, không bên nào kềm được dòng nước mắt.
Chúng tôi có một con chó do bạn bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu nó lắm. Nhưng nó đã già và chúng tôi không còn khả năng mua cho nó thịt và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng lên trong chuồng, ngẩng đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của loài vật, chắc chắn với những dòng nước mắt và một nỗi buồn sâu thẳm vì đã đến lúc phải rời chủ. Chúng tôi bật khóc khi nó nấc những hơi thở cuối cùng. Trong số gia súc chúng tôi chỉ còn con gà mái mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên. Chúng tôi không thể giết thịt vì nó đã đáp lời kêu cứu của chúng tôi và ngày nào cũng đẻ cho một trứng. Không như trứng vịt, có thể luộc dầm nước mắm để chấm rau cải luộc, trứng gà chỉ dành cho một người, thay phiên nhau mỗi ngày một người ăn. Đó là thức ăn dinh dưỡng duy nhất mà chúng tôi còn có. Tới lúc chúng tôi không còn gì để nuôi con gà, bắp cũng không, lúa cũng không, mỗi ngày vào lúc hoàng hôn khi mà chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để kẻ qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó.
Sống trong một tình trạng như thế, con người luôn luôn đói. Vợ và con gái tôi làn da càng ngày càng tái, thân hình càng ngày càng tiều tuỵ ốm tong. Họ không dám mở mồm nói một điều gì vì sợ làm cho tôi phiền não, chỉ dám giấu những dòng nước mắt trong đêm khi một mình trên giường ngủ. Tôi biết nhưng giả tảng như không biết. Về phần tôi, chưa hơn một lần, phải khóc. Bị đói và hơn thế là phải chứng kiến những kẻ mình yêu thương phải chịu đựng cái đói hành hạ vì bao tử trống rỗng. Tôi nhường bát cơm duy nhất cho họ cáo lỗi rằng tôi không thấy thèm ăn, và có khi đặc biệt hơn với lý do là đã dùng cơm với một người bạn mà tôi vừa viếng thăm. Một sự dối trá không thể kéo dài và thuyết phục được ai, nhưng trước cái chối từ cứng đầu của tôi, hai mẹ con đành phải chia chén cơm để khỏi phí.
Vì thế tôi phải liên miên chịu đói. Sự chán nản đến cùng cực, không còn sức chịu đựng, tràn ngập toàn thân tôi như con nước tràn đê bao trùm lên mọi vùng chỉ chừa những đầu ngọn cây và đỉnh núi. Tôi có cảm tưởng như đang lịm đi trong một trạng thái mê muội với cái minh mẫn của ý thức bị đục khoét đó đây bởi những ngọn lửa. Tôi cố gượng mình đứng dậy làm một vài động tác cho giãn gân cốt thì bất chợt đổ sầm xuống trên chỗ nằm, tất cả những sức còn lại của gân cốt đã hoàn toàn biến mất. Cùng lúc đó, cái bao từ co thắt từng chặp làm cho tôi vô cùng đau đớn. Cơn đau thắt buộc tôi phải chọn cách luân phiên vừa chịu đựng vừa nghỉ ngơi trước khi bị cơn sóng dữ nhấn chìm trong sự vô thức, bất tỉnh không còn biết suy nghĩ hay cảm giác gì nữa. Rồi tôi cũng thoát được cơn đói đau thắt với cái lưng đau và một tâm hồn bầm dập quá đỗi. Tôi vừa xong bài học nhập môn về sự đói.
Trong hoàn cảnh như thế, cuộc đời tiếp tục trôi như một vòng quay tự động, cứ quay và quay đều trên một dây chuyền sản xuất, quay vô tận, trong khoảng không. Một vòng quay thay vì như thông thường là môt sự kết nối cân đối, một sự ăn khớp nhuần nhuyễn của ba trục máy để hướng đến một mục tiêu đầy sinh động: chuyển động nhờ chân tay, suy nghĩ của bộ óc và rung động của con tim để cảm xúc và yêu thương. Giờ đây thì không còn bất cứ thứ mục tiêu gì, mọi thứ đều biến mất: ngọn lửa hy vọng, giận dỗi, hận thù, cay đắng cũng chết đi, những suy nghĩ cuồng nộ như trong cơn giông bão, như điệu vũ điên cuồng ghê gớm rồi yếu dần, kéo lê, bung ra rồi biến mất như những bóng ma tan biến trước ánh sáng ban ngày. Thân phận con người bị vỡ nát trôi lạc loài vô định, như một chiếc bè trên biển cả mênh mông, phó mặc cho sóng cao, bão tố. Nó không còn là người sống, chỉ để cuộc sống trôi đi, cứ để cái u mê nó bao trùm từ đầu đến chân, như cây độc cần, chẳng cần một cú hich làm giật mình, mà cũng chẳng cần nó phản ứng cục cựa. Một sự chán ngắt mênh mông, mệt mỏi và yếu sức tràn ngập đến tận từng tế bào của cơ thể, tận từng sợi dây của linh hồn, báo hiệu cho một cái chết đang tới gần trên những bước đi không nghe tiếng.


4  Bi hài kịch của một cuộc trả giá

Bất chợt, tôi lại nhớ vào năm 1936, khi tôi trở về Việt Nam luôn, tôi học tiếng Trung, tham gia phác hoạ văn phạm Việt Nam với nhóm Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, và hợp tác làm cuốn tự điển với Khai Trí Tiến Đức. Cái gì đã khiến tôi luôn giữ thái độ sinh hoạt đó? Tôi, một người là chưa bao giờ ngưng tán dương đề cao những tác dụng lợi ích của nền văn hoá Pháp, một nền văn hoá đã tôi luyện thành một người như tôi ngày hôm nay? Tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi như thế này: “Tôi trở về với truyền thống và dân tộc, không phải với cái giá của một cuộc đấu tranh cam khó và với những cố gắng bền bỉ, nhưng bằng cách để mình trôi theo một con đường dốc không thể thiếu một cách dễ dàng và tự nhiên. Những kẻ dù có trang bị một kiến thức khoa học rộng lớn, những người chống văn hoá Pháp mà tôi đã tiếp đón ở trường, và hay những kẻ chống văn hoá Việt, văn hoá mà tôi thấm nhuần suốt cuộc sống, tất cả bọn họ đều không có những cái nhìn lành mạnh và đúng đắn về văn hoá là gì. Một nền văn hoá xứng đáng với tên gọi của nó không bao giờ có chuyện tự phân biệt mình qua sự duy nhất, không bao giờ kiếm cách biến mình thành độc tôn, không bao giờ tự mình đóng khung trong tường kín. Ngược lại, văn hoá là khoảng không gian ngự trị ở tầng cao vi vu muôn ngàn ngọn gió, nơi đến của tất cả những tâm hồn tốt lành không có bất cứ thứ phân biệt đối xử nào, như là một con suối trong dành cho mọi sự khát. Mỗi người có một nền văn hoá riêng, nhưng tất cả cùng hoá chung trong nền Văn Hoá lớn của nhân loại, mục đích duy nhất và sau cùng là nhằm tạo nên một con người toàn diện, tinh hoa, với những đức hạnh không thể thay hình đổi dạng được, có những giá trị riêng của con người, đưa họ lên tầng cao nhất của nhân tính. Khi tất cả những nền văn hoá của từng quốc gia quyện chung thành Văn Hoá của nhân loại, như những giòng sông cùng đổ vào biển cả, thì làm sao lại có chuyện có thể hình dung ra những đối kháng, mâu thuẫn hay xung đột giữa các văn hoá riêng và nền Văn Hoá lớn?
Cái gì có thể phân chia rạch ròi giữa animus và animas [3]? Cái gì không thể hoà được giữa cái văn hoá Pháp đã tạo nên tri thức của tôi và cái văn hoá Việt đã nặn khuôn linh hồn tôi?
Để lòng mình trầm lắng, yên tĩnh lại, tôi cảm xúc mủi lòng nhìn từng món đồ trong nhà. Mỗi món là một phần của những ngày qua và một phần của linh hồn tôi, tất cả chúng là một nữa của con người và sự sống của tôi. Nay mai, chúng sẽ rời tôi, từng đứa một, đi về một nơi vô định, rồi sẽ đến ngày mà trí nhớ của tôi chỉ đủ sức nhớ lại những hình ảnh mờ ảo, chợt ẫn hiện như một cảnh vật lúc hoàng hôn thoáng vụt qua cánh cửa sổ của con tầu hoả đang chạy nhanh. Chưa bao giờ tôi lại thấm thía bởi câu thơ nhức nhối: “Đi là chết trong lòng một ít…”
Người khách đầu tiên là một cán bộ cộng sản trong bộ đồ kaki xanh, với áo cổ cao và mang đôi dép cao su làm bằng lốp xe bỏ, một vẻ bề ngoài cho biết ngay ông ta thuộc gốc chính trị nào. Ông ta không có cái vẻ của một kẻ lang thang, mặc dù cặp mắt đang nhớn nhác ngạc nhiên, hết nhìn món này nhìn qua món khác như đang tự hỏi làm thế nào mà có tay trí thức có thể mua sắm và sống với những món đồ như thế. Tôi có thể đoán được những ý nghĩ đang xảy ra trong đầu của ông ta. Hắn chắc đã tự bảo đây là một tay phản động có tầm cỡ mới có thể sống xa hoa như thế: quả thực, hắn chỉ nghĩ rằng trong bất cứ xã hội cộng sản nào, như ở Việt Nam, giới trí thức đã bị đưa vào cuộc sống nghèo khổ, bị nguyền rủa dồn dập dưới sự khinh thường của lãnh đạo, nếu một tay trí thức nào đi ra ngoài qui luật đó, hắn ta chẳc chắn là một tên phản động làm giàu bất chính. Nhìn cặp mắt chằm chặp soi mói và cử chỉ của hắn ta, tôi nghĩ, nếu hắn không manh động với tôi thì hắn cũng không dành cho tôi những kính trọng phải có. Đương nhiên, hắn đang thi hành lệnh của chủ nhân. Nhưng để làm gỉ? Chính hắn đăt câu hỏi đầu tiên: “Vì sao ông muốn bán đồ đạc?”

- Chắc là ông cũng thừa biết, tất cả trí thức ở Hà Nội đều làm chuyện đó. Tôi đã phạm lỗi lầm, dường như thế, và đã bị loại khỏi đoàn Luật Sư và công việc giảng dạy. Không còn nguồn lợi tức nào, và để nuôi gia đình tôi đành phải bán những đồ đạc mà tôi có từ nhiều năm nay. Đó là những món chót còn lại của tôi.

- Ông vừa nói hai chữ “Chắc là”. Như vậy ông vẫn chưa nhận lỗi và vẫn còn hận Đảng. Có người sẽ thất vọng thấy ông vẫn không quay lại với con đường của lý lẽ.

Ông bạn trẻ của tôi ơi, tôi không biết là ông có hiểu là mọi phán đoán đều dính dấp đến tính chủ quan của người đưa ra lý luận đó. Dưới tác động của cái chủ quan, ai có thể cho rằng mình là đúng đây? Trong một nền dân chủ đích thực, xứng đáng với tên gọi của nó, luật là do đa số quyết định. Trong một số nơi khác, luật là do những kẻ nắm quyền. Một phán quyết bằng bạo lực và dựa vào bạo lực thì không thể có một giá trị chung cuộc của sự thực. Nó sẽ bị lịch sử huỷ bỏ, và chuyện đó xảy ra ngay trong lúc những kẻ làm án kia còn sống, thời gian và hoàn cảnh trong quá trình tiến hoá, sẽ lôi họ ra khỏi những giấc mơ trì độn và họ sẽ phải tự đấm ngực sám hối. Nhưng tôi nghĩ là ông đến đây hôm nay không phải để nói những chuyện đó, mà tôi cũng chẳng có hứng thú để nói đến. Vậy xin ông cho biết lý do của cuộc viếng thăm.

- Tôi được lệnh đến xem ông đã ra làm sao và giá cả những món ông muốn bán.

Thật vậy, Đảng có tai mắt khắp nơi, không để cái gì vuột khỏi tầm mắt. Nhưng tôi nghĩ là những báo cáo của công an cũng đã cung cấp đầy đủ tin tức về con người khiêm tốn của tôi. Không, vẫn chưa đăng cáo phó tôi chết, cũng chưa phải lúc, nhưng cũng sắp thôi. Nhưng dù sao tôi cũng cám ơn sự rộng lượng và lòng cao thượng của Đảng đã chưa đưa tôi lên máy chém hay ra đứng trước trụ xử bắn. Đó có thể là điều tốt đã dành cho tôi. Cám ơn Đảng đã quan tâm muốn biết tin về tôi. Những món đồ đem ra bán là những cái gì cuối cùng mà chúng tôi có, và đó cũng là tấm ván cứu hộ cuối cùng cho gia đình chúng tôi. Tôi hy vọng là chúng có thể bảo đảm cho chúng tôi sống còn khoảng hơn chục năm nữa.

- Hơn chục năm? Ông định dòi giá bao nhiêu vậy?

Trước khi trả lời câu hỏi của ông, cho phép tôi được hỏi ông, lãnh đạo định mua lại đồ đạc của tôi để dùng vào chuyện gì vậy?

- Ồ… Chuyện đó thì tôi chưa thể nói được, chưa thể nói là sẽ đem những của này đi về nơi nào. Nhưng tôi nghĩ là hiện nay các quan hệ ngoại giao đang lớn mạnh, chắc cũng dễ kiếm chỗ để những món ấy trong các phòng tiếp tân hay đại sảnh.
Tôi vừa kiếm ra câu thần chú cho điều bí ẩn. Thực tế là, chuyện mua đồ chỉ là một cái cớ cho cuộc thăm viếng bất ngờ của một tay cớm để vào nhà một kẻ đang bị một án chết đang treo. Tôi nghĩ rằng giới quyền cao chức trọng đã xem tôi như một kẻ không thể cứu được nữa và như dân gian thường nói, là tại sao phải nuôi ong tay áo! Người ta không muốn giết tôi vì không muốn khuấy lên những xúc động của giới trí thức và những khối nhân dân khác. Nhưng người ta cũng mong tôi chết đi để tránh cho Đảng phải chịu những phiền phức do ngòi bút và tiếng nói của tôi. Vì thế, biết được thâm ý của Đảng, tôi dễ dàng tìm ra câu trả lời để nói cho kẻ thay mặt họ:

Tôi muốn yêu cầu ông khi về lại, nhân danh tôi mà cám ơn các quan chức đã gửi ông đến gặp tôi. Tôi sẽ rất cảm kích nếu ông nói dùm với họ là tôi sẽ biết ơn họ đến chết về những việc mà họ đã làm cho tôi. Dù đang nắm sinh mạng tôi trong tay, họ vẫn không kết án chết vì cái “tội ác” của tôi, nhưng họ, vì công lý và nhân đạo, đã chọn kết án tôi cả đời. Một đời dở sống dở chết, hấp hối và cuối cùng cũng hết đời. Nếu bây giờ các ông ấy thấy đồ đạc tôi cũng gọi là xem được thì họ cứ lấy chúng đi, như họ đã lấy ba căn nhà thừa tự mà tôi đã hiến cho nhân dân. Nếu họ không muốn mang tiếng là mang gương mặt của kẻ cướp thì họ trả cho tôi bao nhiêu cũng được. Như vậy là tôi cống hiến tất cả những gì tôi có như là một người cộng sản chân chính.

Tôi đã không lầm. Tôi không còn gặp lại anh chàng vô tích sự đó, và sau đó cũng không có người nào như bọn đó đến nhà. Chỉ với ý nghĩ là Đảng cho người đến mua rẻ đồ đạc của một người mà họ kết án sống trong sự đói cũng đủ làm tôi không thể nén mình để bật ra những tràn cười ha hả… Người ta có thể phiền trách những lỗi lầm của Đảng, nhưng với cái thâm hiểm như thế. Không là không!

Một thời gian sau đó, bỗng dưng có một người ăn mặc trang trọng, com lê cà vạt hẳn hoi, đến gõ cửa nhà tôi. Thời buổi này mà ăn diện thế thì hoạ là mấy anh Việt kiều thôi. Tại sao? Thời ấy chỉ có những người nước ngoài và những người trong ngành ngoại giao có việc qua Hà Nội mới không phải mặc những đồng phục cộng sản. Nhưng khi nhà ngoại giao xong công tác ở nước ngoài về, trở lại vai trò công chức của bộ Ngoại Giao, họ phải cải đạo về lại với cái tôn giáo của áo đại cán và đôi dép râu, như thế chỉ có Việt kiều là đóng bộ, cà vạt.

Người khách Việt Nam của tôi tự giới thiệu là một doanh gia đang có ý định mở một khách sạn cao cấp tại Hà Nội dành cho du khách quốc tế. Chỉ cần nhìn là có thể biết ngay ông khách từ nước nào đến và thuộc giới người nào. Ông ta có một khổ người cao lớn so với người Việt trong nước với một làn da sáng của những người sống ở các nước ôn đới mà nắng không làm đen da, khuôn mặt nhẵn nhụi, vầng trán rộng, cao dưới một mái tóc chải chuốt cẩn thận thoáng một mùi nước hoa kín đáo thơm phức. Sau cái gọng kính vàng, đôi mắt ông ta nhìn kẻ đối thoại như muốn tìm sâu những ý nghĩ của họ. Với giọng nói chững chạc rõ từng chữ từng âm như để tránh những lỡ lầm của đầu lưỡi có thể làm lộ ra những ý định đằng sau của mình nhưng cũng đủ để cho thấy sự nghiêm chỉnh trong lời nói và sự trình bày. Nhưng nụ cười ông ta thì rất thân thiện, mời đón dễ gây thiện cảm và dường như có thể tạo nên một cuộc trao đổi chân thành và thông cảm. Ông ta tự giới thiệu:

- Tôi đã ra khỏi nước từ ba mươi năm trước và đã lập nghiệp ở Mỹ, mở một công ty nhập khẩu và vận tải biển với một đội thương thuyền nhỏ. Ở nhà tôi chưa bao giờ bỏ qua bất cứ chương trình truyền hình phát thanh nào bằng tiếng Việt hay tiếng Anh về Việt Nam. Tôi có nhiều liên lạc với ngưới Việt ở các nước như Pháp, Canada, Anh Quốc, Úc, Đức và dĩ nhiên là cả ở Mỹ. Tôi không phải là cộng sản, nhưng tôi cố tìm hiểu cái ý thức hệ đó, nhưng sẽ không bao giờ ngần ngại giúp sức nếu những việc làm của họ chừng nào họ còn làm vì yêu nước chứ không phải vì chủ nghĩa. Chúng tôi, những người Việt sống ở nước ngoài không bao giờ ngần ngại nói thẳng: cho dù là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản hay bất cứ thứ chủ nghĩa nào mà đem lại hạnh phúc cho nhân dân, kiếm cách làm cho dân tộc bớt nghèo, bớt khổ thi chúng tôi sẵn sàng đóng góp, đặc biệt là những giúp đỡ nhân đạo như trường hợp nạn đói hay lụt lội chẳng hạn. Chúng tôi dạy con nói Việt, giáo dục chúng những phong tục tập quán của quê nhà và chúng tôi cảm thấy hạnh phúc được thấy thế hệ sau rất xứng đáng với sự chờ đợi của chúng tôi, thấy chúng vinh dự mang tên Việt và có tổ quốc Việt Nam.

Chúng tôi được thông tin về những gì quí ông bà mang lại cho dân tộc và đất nước. Đặc biệt là ở những vùng thường bị thiên tai, dân ở đó không ngần ngại nói rõ là gạo cứu đói không phải đến từ Chính Phủ mà đến từ những tấm lòng yêu nước thương dân của nhân dân trong nước và hơn nữa từ những người ở nước ngoài.

- Chúng tôi hạnh phúc vì chuyện ấy. Cái truyền thống đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau của những người cùng chung một mẹ, không phải mới có đây mà có tận thời bà Âu Cơ. Chúng tôi có một điều thấy tiếc về vấn đề này, nếu chúng tôi có thể nói được, đó là sự hiểu lầm giữa Nhà Nước và chúng tôi. Trong mấy chục năm, họ chỉ chúng tôi bằng đủ thứ tên gọi, đổ đống lên chúng tôi đủ thứ nhục mạ ti tiện, cho chúng tôi là những kẻ phản quốc. Khi chính trị che mờ lý lẽ, chúng tôi chấp nhận chuyện đó. Nhưng từ đó mà quay lưng với cả khối đáng kể người Việt ở nước ngoài với rất nhiều người thành đạt, đầy khả năng về khoa học, kỹ thuật, là những quản trị viên trong mọi ngành kinh tế, đặc biệt là những người có khả năng tài chánh lớn có thể góp phần xây dựng tổ quốc. Đó là một điều bệnh hoạn, một điều khùng điên không thể tha thứ được. Nếu những người muốn giúp Việt Nam đang phàn nàn về chuyện đó thì những kẻ chống lại vỗ tay hoan nghênh là Việt Nam đang tự mình cắt bỏ những đóng góp giúp đỡ của những đứa con của mình, như vậy sẽ làm cộng sản tan rã nhanh hơn.

Thật đúng lúc để nhớ lại một câu nói dân gian là Jupiter làm mù mắt những kẻ mà nó muốn bị thua. Nhưng hiện nay chính phủ đang chăm chút Việt Kiều, đề cao lòng yêu nước của họ!

- Nhiều người trong chúng tôi đã phì cười về chuyện đó. Tiền làm thay đổi bộ mặt của thói đời và tấm lòng con người. Có lẽ ngưởi ta nên cám ơn mãnh lực của đồng đô la làm nên phép lạ đã làm biến hình, tẩy trắng khuôn mặt đen quỷ dữ của Sa Tăng biến chúng thành thiên thần của Thiên Đàng. Nhưng tôi thấy có một sự kiện mà tôi cho rằng có ý nghĩa. Có một số người trong chúng tôi đã dấn thân vào một cuộc đấu tranh bền bỉ cho nhân quyền ở Việt Nam. Lời nguyền rủa mà những người cộng sản đã tung ra ào ạt chẳng chúng minh gì khác ngoài cái hận thù tàn bạo mà họ có đối với nhân quyền: họ đứng về phía phi nghĩa và một thiểu số độc tài. Họ ngoan cố không chịu thấy sự thực là chuyện bảo vệ nhân quyền không có gì là phản quốc hay phản nhân dân cả. Kẻ nào trộn lẫn hai thứ đó vào nhau sẽ bị nhân loại đào thải. Họ là những kẻ đáng thương tội nghiệp hơn là đáng sợ. Sớm hay muộn, giờ trừng trị cũng sẽ đến.
Nhưng chính cái bệnh ấu trĩ của người cộng sản mới làm tôi kinh hoàng. Với tất cả những quyến rũ của chủ nghĩa tư bản, người ta lại kéo kinh tế thị trường, luật cung cầu, lý thuyết về giá cả, kinh tế tự do gộp chung lại và gọi đó là kinh tế năm thành phần, lợi nhuận, etc… rồi người ta dán lên đó cái nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa, và thế là trò chơi đã sẵn sàng: người ta đã có thể giương cao cái cựa và ném ra tiềng gáy cúc cu của chủ nghĩa xã hội… Người ta đã khởi sự dân chủ từ lâu nay, nhưng vì chê bai chủ nghĩa tư bản nên người ta lại phải trang điểm thêm cho dân chủ một tính từ “xã hội chủ nghĩa”. Và giờ đây thì sự loạn ngôn đầy náo nhiệt: khẩu hiệu được tung ra, kêu gào đó là Đổi Mới, nhưng chẳng có gì thay đổi: tham nhũng, hối lộ càng ngày càng toả rộng vùng bị nhiễm, không có một ông trùm nào bị đưa ra Toà hay bị những bản án nhục nhã và tệ hại hơn nữa là người ta đã sắp xếp cho kẻ phạm những tội quy mô đào thoát ra nước ngoài, hay nhắm mắt làm ngơ cho họ di dân đến nước khác để tránh những cuộc điều tra hình sự, trước dự thẩm hay trước Toà, để không làm liên luỵ tới những vị chúa tể và khỏi gây ra những phẩn nộ có thể hiểu được của công luận. Trong khi chờ đợi, những kẻ hút máu của nhân dân đã cất giấu an toàn những tài sản trộm cắp được, và sau một thời gian bị lưu giữ hoàn toàn hình thức dưới một thứ tù giam mà chúng có thể sống một cuộc sống xa hoa, họ có thể được giảm án, tha tội và được trả lại tự do để trở về sống yên bình, được tôn kính để tận hưởng thành quả của tội ác trước đây. Việc kiếm ra giải thích cho hiện tượng này là rất dễ dàng: cộng sản không cho rằng những tội hình sự mà các đồng chí của họ phạm là phải bị đem ra bêu thây và bị trừng phạt nghiêm khắc. Thật vậy, nếu thanh danh Đảng bị giảm và bị ô nhục thì niềm tin của nhân dân vào Đảng cũng mất đi, điều đó chẳng phải là vì do kẻ thù mà là do chính kẻ nằm trong ruột Đảng. Từ khi tôi vào Việt Nam, nhiều người bạn của tôi cho biết những tin tức đó, dù là những tin có thể làm lương tâm nổi loạn, đều là điều có thật. Những kẻ bị các lãnh đạo hận thù và bị kết án với những cái chết đầy bí ẩn là những kẻ thù chính trị đã đi sai “đường lối” của Đảng và nhất là những kẻ muốn bứng họ ra khỏi những chức vụ lãnh đạo cao nhất. Thật vậy, đó là những cuộc đấu đá dơ bẩn để dành quyền lực được che đậy dưới cái áo khoác đỏ của chính trị. Nhưng cái gì kinh hoàng và không thể tưởng tượng được là ở trong cũng như ngoài Đảng, có những trí thức nổi tiếng đạo đức mà ai cũng kính phục lại tham gia vào cuộc chơi, chấp nhận lời biện minh của Đảng, đưa cao quả đấm lên trời, bước đi trong hàng ngủ của Đảng, vừa gào to những khẩu hiệu giả dối. Ở đây phải công nhận là nền giáo dục cộng sản là thành công, họ thuyết phục được những người, dường như đầu óc vẫn còn minh mẫn nhưng lại không tin vào những gì mắt thấy, tai nghe mà ngược lại còn tôn xưng những tôn chỉ của Đảng, để tăng thêm niềm tin vào những gì Đảng quyết định và ra lệnh như là kẻ duy nhất nắm giữ sự thật và là nhà tiên tri Phúc Âm Marxist-Leninist. Loại cuồng tín biến sự đa dạng thành rô bốt, biến con người thành những cỗ máy chỉ biết cử động khi có lệnh đến từ bên ngoài thật sự làm những cái đầu biết suy nghĩ lo ngại.

Tôi thấy chỉ có một phương thuốc duy nhất là cái văn hoá trí thức làm phát triển lý tính, gìn giữ tinh thần phê phán, rèn luyện năng lực phán đoán, rao giảng sự thật và khách quan, cỗ võ cho sự trong sáng và chính xác trong việc quan sát và thấu hiểu các hiện tượng, tính logic trong lý luận và nhất là biết hoài nghi đối với những anh chotte vừa cưỡi ngựa vừa tung ra những lời khoe khoang khoác lác chẳng những không thuyết phục được ai mà còn tỏ ra ngây thơ, dốt và ngu xuẩn! Chính nhờ nền văn hoá của Pháp được hưởng ích lợi mỗi ngày đã giúp tôi giữ được, chăm sóc và phát triển con người của tôi giữa cuộc sống bị xói mòn bởi chủ nghĩa hình thức và thân phận nô lệ.

- Cái ý thức phê phán và chủ nghĩa hoài nghi thì ít phát triển ở những nước nói tiếng Anh, như nơi tôi đang sinh sống, nhưng đầu óc thực tế và chủ nghĩa thực dụng lại giúp chúng tôi tự giữ mình không tuột trên con giốc của sai lầm bởi những định kiến và chủ nghĩa theo thời mà đập mình vào khối đá của quyền lợi mà tan vỡ. Cũng vậy, những gì tôi thấy ở Việt Nam làm tôi thật sự kinh hoàng. Trong những lần đi thăm nhiều nơi trong nước, đặc biệt là ở những vùng phía Bắc, tôi vẫn không thể hiểu được sự chịu đựng của giai cấp nông dân phải sống cảnh nghèo hèn đau khổ mà chưa bao giờ thấy họ vùng lên phản kháng, cũng không thấy họ kiếm cách tìm hiểu nguyên do hay thuốc trị. Khi tôi rời nước ra đi ba mươi năm trước, người ta lúc ấy rất hiếu động, năng động và luôn dám chế diễu những kẻ đang cầm quyền chứng tỏ là cái đầu của dân chúng vẫn tốt và vẫn biết cái gì là hợp tình hợp lý. Cái năng động càng làm cho dân chúng thêm tức giận khi phải đối mặt với cái nghèo, cái bất công. Ngọn lửa năm xưa đẩy quần chúng nổi dậy làm Cách Mạng Tháng Tám đã tàn lụi nơi nào rồi? Tại sao giờ đây họ trở nên như chết rồi không còn sinh khí, bất động trong sự thờ ơ? Tại sao họ lại chịu đựng ngồi khóc một cách thụ động hay có thể đang khóc vì tuyệt vọng như thế? Họ không còn tin mình còn sức gì trong trí óc và hai cánh tay nữa sao? Họ, những người đã viết nên những trang sử rực rỡ.
Tôi không thể thấy cái gì ngao ngán hơn là cảnh tượng sáu mươi triệu người đang trôi dật dờ không chút nghị lực như những xác người trên biển cả. Họ đã bị lừa bịp, phỉnh gạt, phản bội và điều không thể hiểu được là người ta chỉ biết kêu than đói khổ trong khi tài nguyên thiên nhiên thì đầy dẫy và đang chờ khai thác. Những quan hệ làm ăn khiến tôi phải đi qua các nuớc như Thái Lan, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Mã Lai Á. Ba mươi năm trước đâu có nước nào trong nhóm đó dám nói rằng dân tộc họ là hơn dân tộc Việt Nam? Có phải chăng họ cũng bắt đầu từ nghèo khó, có cùng những điều kiện kinh tế, xã hội, tinh thần, cũng phải trải qua những mâu thuẫn, những xung đột tương tự? Thế mà ngày nay thì họ được hưởng mức sống cao hơn, hưởng thụ những tiện nghi tối thiểu về nhà ở, nhiều tự do hơn trong cuộc sống và nhiều nụ cười lạc quan hơn trên khuôn mặt. Tại sao cái sung túc tối thiểu làm cho cuộc sống trở nên hiện hửu và có ý nghĩa, dân mình, một dân tộc chưa bao giờ nhường bước cho bất cứ nước láng giềng nào trên bất cứ khía cạnh nào, vẫn chưa có? Điều quan trọng cho mỗi người trong chúng ta ở Việt Nam là cần phải đặt câu hỏi và kiếm ra giải pháp, dẫu sao cũng nằm trong tầm tay mà thôi.

Tôi thật phục ông đã có những nhận xét xác đáng và những lý luận có chất lượng của ông. Tôi thấy rõ là ông đã lấy cảm hứng từ một tình yêu chân thành và nóng bỏng cho dân tộc mà ông là một thành viên. Nhưng tôi thì không chia sẻ với ông cái lạc quan mà ông ước tính rằng giải pháp là nằm trong tầm tay. Theo quan điểm riêng của tôi, vấn đề chính yếu là việc giáo dục các tầng lớp quần chúng. Giáo dục phải dạy về những giá trị mà lòng trung thực và sự biết tôn trọng. Con người sẽ trở nên loại người gì mà Trường học muốn tạo như thế đó. Thứ giáo dục theo kiểu Spartan [4] chỉ để dành cho việc đào tạo ra những người lính, đẩy tuổi trẻ vào những cối xay người đen tối, và những bài tập quân sự. Nhưng giáo dục chỉ có thể vận hành có hiệu xuất và cống hiến những kết quả tích cực nếu có toàn xã hội cùng góp sức với nó. Những giá trị bồi đắp cho tuổi trẻ chỉ có ý nghĩa và hiệu quả nếu toàn nước, bất kỳ nơi đâu, nhân dân đều tán dương và vinh danh chúng. Trong thời phong kiến, người dân được dạy và buộc phải tuân thủ những điều răn của Tàu và tuân phục cả những người thầy đã tuyên dạy chúng. Một kẻ nông dân thất học, nếu có nhặt được một mẩu giấy có chữ viết những điều răn trên đó thì hắn ta cũng ném vào lửa. Trong bậc thang xã hội, người thầy được đặt trên cao hơn cả người cha. Nếu chuyện là vậy là vì cha là đấng sinh thành và thầy có công dạy dỗ nên người. Nên người, đó là cái mục đích duy nhất và tối hậu của giáo dục. Vì vậy, muốn được xứng đáng mang danh “nên người” là con người phải được tô điểm bằng những đạo đức, chỉ riêng chúng, đã nâng cao và tán dương nhân tính của con người. Trường học dạy nguyên tắc, đạo đức ứng dụng nó trong gia đình và ngoài xã hôi. Chế độ quân chủ ngày xưa bổ nhiệm những nhà nho, nhất là những người thi đỗ những kỳ thi Hương, ba năm tổ chức một lần, vào những chức vụ cao nhất của triều đình. Tên những người đỗ Tiến Sĩ được khắc trên bia đá, các làng không ngừng hãnh diện đã có con em đỗ đạt ra làm quan, trong số đó có những người đã làm điều tốt lành cho đồng bào nên lúc chết đã được dân làng tôn lên thành Thành Hoàng của làng và xây đình thờ phượng. Văn chương, bằng chữ viết hay truyền khẩu, đều đưa ra những tấm gương phải theo của những ông quan thanh liêm và trung chính với Vua và nhân dân, và đả kích không chút thương xót những ông quan leo được lên những nấc thang cao của vinh quang duy nhất nhờ những thủ đoạn nô lệ và hạ cấp. Trong một xã hội như thế, sự vô đạo đức là khó xen vào để kiếm chỗ. Quần chúng nhân dân không cần phải lên tiếng đòi hỏi trừng phạt những kẻ lạm dụng chức quyền hay ăn hối lộ. Cơn thuỷ triều đen của sự vô đạo đức không thể ngập trùm cả xã hội, cả nước được.
Cái khác biệt cơ bản và sâu sắc giữa xã hội ngày xưa và xã hội ngày nay là mục tiêu của giáo dục đã thay đổi. Ngày xưa người ta tôn vinh con người và đạo đức. Ngày nay, chủ nghĩa cộng sản và cái chính trị quốc tế chủ nghĩa của nó thì được ca tụng bằng trời. Khi cái giá trị chính trị nó đánh bật cái giá trị trí thức và đạo đức, đó là cả một cuộc cách mạng, những thành viên của Đảng không nghi ngờ điều đó. Họ không ngừng kêu gào hai tiếng “Đổi Mới” nhưng khẩu hiệu không thể thay cho hành động; sự xuống cấp của con người và đạo đức đã tiếp bước đi theo hay đi cùng với sự sụp đổ của kinh tế, làm nặng thêm cái nghèo và cái khổ đau của nhân dân.

- Tôi đã thấy ngay điều đó khi tôi vừa ra khỏi máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất. Nhiều nhà trí thức phải đi đạp xích lô, trong khi những nhà chính trị lại chễm chệ ô tô. Trong khi những trí thức phải đi rửa xe máy, sửa xe đạp cạnh lề đường hay bán rau ở các cửa chợ thì các quan lãnh đạo đang thoải mái trong các biệt thự sang trọng với cái thân thể ngày càng đẫy đà qua những lần yến tiệc chiêu đãi sự hiện diện của họ. Trong khi người trí thức phải quần quật nghèo khổ thì các quan quyền cùng với vợ con vẫn chưa thoả mãn cuộc sống nhung lụa vẫn tiếp tục vơ vét vàng và đô la đem gửi ngân hàng Thuỵ Sĩ. Trong khi đó các kho bạc của Nhà Nước không còn tiền mặt, nhân viên bị sa thải, những người còn ở lại thì được phép ra ngoài buôn bán, kể cả ngay trên mặt bằng của cơ quan và được phép nhận những số tiền thù lao lớn nếu xoay sở mang hợp đồng về cho cơ quan chủ quản của họ. Cánh cửa được mở rộng cho thứ chợ đen nhà nước, gian lận thuế, ăn cắp những số tiền đáng kể của nhà nước thông qua những vụ nâng giá bất hợp pháp để được hưởng những khoản tiền hoa hồng. Không có một đất nước nào mà ở đó nhà nước trực tiếp khuyến khích sự phạm tội như thế!

Cái vấn đề cốt yếu, cơ bản và cấp bách nhất là phải thay đổi con người, cái cỗ máy chính cho mọi hoạt động của xã hội, phải đề nghị cho Giáo Dục tự giao phó cho mình cái mục tiêu cao nhất: con người có văn hoá và đạo đức. Dĩ nhiên chuyện làm nên con người có văn hoá và đạo đức cũng phải thích ứng với đà tiến bộ hiện đại của khoa học kỹ thuật: nó không thể dừng lại sơ cứng với những giá trị Khổng giáo. Thật là nực cười là trong thời đại nguyên tử, điện tử và chinh phục không gian mà con người lại không quan tâm đến thành quả của khoa học. Nhưng khoa học chỉ dạy con người một cách sâu rộng về thế giới của vật chất. Nếu nó trang bị cho con người một thiết bị trí thức hàng đầu, một phương pháp suy nghĩ hợp lý, trên cơ sở kép của sự quy nạp và loại suy, nó chẳng giúp được gì trong việc khảo sát thế giới của đạo đức, việc tìm hiểu những chuyển động của linh hồn, trong chuyện giải trình những lý do của con tim hay tìm cách giải thích về sự hình thành, phát triển và huỷ diệt. Tới đây là lúc Văn Chương vào cuộc và chứng minh khả năng của nó. Văn hoá của một con người hiện đại được xây dựng và triễn khai trên cả hai khung trời khoa học và văn học. Từ đó, đạo đức của con người hiện đại sẽ thích nghi với những đòi hỏi của xã hội mới. Con người không còn đâm chém giết nhau, người ta không còn đòi người chiến sĩ phải là người can đảm, hy sinh và độ lượng dũng cảm, trên chiến trường người ta không còn thách đố với Thần Chết để bảo vệ cho đấng Thần Linh của mình hay cho người tình yêu dấu! Không, con người hiện đại tự chứng minh mình qua cái nhìn trong sáng và công bằng, bởi khả năng tiên liệu về những gì sắp xảy ngày mai, bởi khả nắng phán đoán chính xác về đối thủ và thời cơ, bởi sự bền gan chấp nhận những thất bại trong ngắn hạn để đạt đến những thắng lợi lớn trong tương lai. Họ có được những đức tính này qua những kinh nghiệm của cuộc sống, qua những đấu tranh và cũng nhờ ở văn học. Nhưng những đạo đức có tính quyết định nhiều nhất là tính trung thực, lòng lương thiện, công bằng, trọng danh dự và có lòng tự trọng, nhân đạo và rộng lượng.

- Tôi đồng ý với ông hoàn toàn. Nhưng con người có văn hoá và đạo đức là một lý tưởng lâu dài và khó khăn mới có được. Cái khó khăn chính là sự chống đối mãnh liệt của Nhà Nước không muốn thay thế con người lý tưởng của họ. Mặc dù, chỉ cần một tí thông minh và cởi mở là đủ để hiểu rằng con người lý tưởng cộng sản quốc tế vô sản là đã chấm dứt và sẽ được đưa vào bảo tàng viện những người bằng sáp của Grevin về Lịch Sử các Hiệp Sĩ Thời Trung Cổ. Nếu họ còn bám víu vào nó, không phải vì cái tự ái của các đấng sinh thành mà là do cái lợi ích đầy ích kỷ đang bị nguy hiểm của Đảng đang muốn được sống còn. Để đạt cái mục đích này, họ tung ra những khẩu hiệu “Đổi Mới”. Nhưng trong nước, bất kỳ nơi nào tôi đến, chỉ nghe nhân dân bàn tán về chuyện tham nhũng của giới cán bộ công nhân viên, mà hầu hết những kẻ này là người của Đảng. Đơn thuần là những quan chức nào đó được nắm những chức vụ cao và chịu những nhiệm vụ lớn thì dễ dàng thu vén đầy túi. Nhân dân đòi hỏi phải trừng phạt chúng, Đảng từng tuyên bố chống tham nhũng, nhưng cho đến nay, chỉ có vài tép riu du côn là bị trừng trị, nhưng đó chỉ là những kẻ phạm tội có tính riêng rẽ và cá biệt chẳng có gì liên hệ để làm hại cho các ông trùm. Thật là một điều sai lầm khi tránh không trừng phạt hay tránh né quá lâu trong việc trừng phạt các người phạm tội có tầm cỡ. Trừng phạt hay không trừng phại Đảng đều mất uy tín. Trong việc cơ cấu lại nền kinh tế, Đảng càng tự làm mình mất uy tín hơn nữa nếu cứ dừng ở những giải pháp nữa chừng, trì hoãn thực hiện, và những gì làm người ta kinh hoàng khi thấy Nhà Nước luôn gắn thêm cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” vào những gì thật ra là luôn luôn thuộc về chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu đó là những gì thuộc chủ nghĩa xã hội, tại sao phải chờ nền kinh tế bị sụp đổ mới đưa chúng ra áp dụng? Nếu nó không phải là phát minh của chủ nghĩa xã hội, việc tiếm đoạt tài sản của người khác là một việc làm bất lương, nhất là sau khi đã kéo chủ nghĩa tư bản vào bùn đen trong nhiều thập niên? Thật vậy, việc đánh lận con đen có thể giải thích được: bị dồn vào thế thất bại không thể tránh khỏi, cộng thêm cái lo sợ bị mất mặt, họ đã chọn trở thành trò cười cho thiên hạ. Đó là một sự sai lầm. Ở đây, hay bất cứ ở đâu, sự chân thành thẳng thắn là bắt buộc. Chẳng thắng được gì nếu cứ lừa bịp người chơi với những hột xúc sắc đã được gian lận. Chẳng những chứng tỏ mình là vô tích sự mà còn làm cho danh dự của mình bị nhơ bẩn. Có gì phải xấu hổ khi nhận mình sai lầm nếu bài học rút tỉa sẽ mang lại những điều kiện thuận lợi cho một thành công trong lần thử sức mới?

- Thế thì ý ông thế nào?

- Tôi trở về đây để nhìn lại đất nước, nhưng tôi có nhiều bạn bè đang chờ ý kiến của tôi trước khi có thể vào đầu tư ở Việt Nam. Những gì tôi có dịp nhìn thấy không khuyến khích tôi tiến hành được chuyện gì. Tôi phải nói với ông là thị trường Việt Nam là hấp dẫn: tài nguyên đầy dẫy và chưa được khai thác, nhân công dồi dào, nhưng viễn thông và đường xá thì rất tệ, nhân viên hải quan thì quá tỉ mỉ soi mói, cảnh sát công an thì gây phiền hà. Luật Pháp, mặc dù gần đây đã có nhiều thay đổi, vẫn chưa đầy đủ và nhất là chính phủ dù đã cố nguỵ trang một cách vô ích, dưới lớp dầy của phấn son, cái màu đỏ vẫn còn đậm nét trên da mặt. Họ vẫn cố chấp trong việc độc quyền chính trị, phe lờ dân chủ, không chấp nhận nhân quyền, xem thường và đối xử tệ bạc với trí thức. Có ông nhà báo người Pháp, người đã viết bài ca tụng dân tộc Việt Nam thời chiến thắng Điện Biên Phủ, vừa rồi có quay lại Việt Nam đã viết: giờ đây sự ngu dốt và bất tài đã được dối trá và ích kỷ xông vào nhập cuộc. Kết luận: phải chờ thôi.

Chờ đợi! Ông chờ và chúng tôi cũng vậy. Tất cả, chúng ta đều chờ những ngày tốt đẹp hơn cho Việt Nam.

- Sự chờ đợi có thể là lâu, nhưng ít nhất chúng ta cảm thấy điều đó sẽ xảy ra. Ở đây, trong tôi cứ xen kẽ hai tâm trạng: chờ đợi và thất vọng. Tôi hy vọng khi nghĩ tới tiềm năng phong phú về thiên nhiên và con người của Việt Nam. Nhưng tôi lại thất vọng khi vẫn là chứng nhân cho cái nghèo kinh hoàng mà nhân dân phải gánh chịu vẫn còn tồn tại, nhất là ở những vùng nông thôn. Dĩ nhiên, bây giờ có nhiều nhà ngói hơn xưa, nhưng than ôi không phải ai cũng được thoải mái, ngay nhiều nơi ở miền Trung dân vẫn còn kham khổ vì thiếu thốn và bị đói. Không thể chấp nhận được! Tôi thấy lòng mình dấy lên niềm hy vọng khi nhà nước và nhân dân cùng gào lên “Đổi Mới” và nhất là khi khi Đảng tham khảo ý kiến của nhân dân để xem nên cải cách thế nào. Nhưng tôi thật thất vọng vì chỉ thấy những quan điểm chính thức thì được hoan nghênh trong khi những quan điểm không chính thống khác thì bị đẩy lên giàn bêu thây trong khi chờ đợi những trừng phạt nghiêm khắc sẽ đến. Tôi đã hy vọng vào những cuộc tham khảo ý kiến trong nội bộ Đảng nhưng tôi đâm ra thất vọng khi thấy trên Ti Vi những đảng viên với một sự nhất trí, hơn cả sự tự nhiên, tung hô niềm tin vào Đảng cũng như Đảng dâng trọn niềm tin vào chủ nghĩa Marx-Lenin. Tôi tự hỏi, giữa hai niềm tin đó, còn niềm tin nào dành cho dân tộc và việc cải thiện cuộc sống của họ? Và nhất là tôi cảm thấy như mình bị hụt hẫng sai lệch khi nghe lãnh đạo Đảng bênh vực cho kinh tế thị trường là nền kinh tế chỉ có ý nghĩa trong chủ nghĩa tự do. Tôi đã hy vọng khi nghe Đảng công bố rằng dân chủ đã ngự trị, nhân quyền được tôn trọng, và tôi đã thất vọng khi biết được là có hàng ngàn trí thức đã hô hào cho dân chủ và đã nói ra một cách tự do những ý kiến của mình giờ đây đang ngồi suy nghĩ sau cánh cửa nhà tù để hiểu xem họ hay lãnh đạo ai là kẻ đúng lý. Tôi đã hy vọng khi thấy các nước Đông Âu đã quét sạch cộng sản và bọn lãnh đạo nó, thì tôi lại càng thất vọng khi thấy dường như Việt Nam vẫn còn là thành trì chót của chủ nghĩa cộng sản và vẫn còn đang nhắm mắt bịt tai đối với những gì đang xảy ra trên thế giới. Tôi đã hy vọng khi nhìn thấy nhiều sinh viên Việt Nam thắng nhiều giải trong các cuộc tranh tài thế giới. Nhưng tôi lại càng thất vọng khi thấy nhiều trí thức bị đẩy ra rìa xã hội, bị vào thế phải cực khổ làm những công việc chân tay thấp kém để khỏi phải bị chết đói trong khi những cán bộ có chức có quyền lại ung dung thoải mái trên các chiếc ô tô đắt tiền và gửi con cái đi “du học” nước ngoài và một ngày nào đó sẽ quay về Việt Nam để thay chỗ, thay quyền cho họ trong những chức vụ cao. Tôi chỉ kể ra một số sự kiện đã làm tôi kinh ngạc và dám thách bất cứ ai có thể chứng minh điều ngược lại. Có thể làm gì để chữa tình trạng thê thảm này không?

Những việc mà ông vừa nêu ra không phải là do ông tưởng tượng đâu. Chúng tôi ở trong nước đã đau khổ nhiều vì những điều đó nhưng không bao giờ dám ám chỉ đến vì chỉ cần la lên chuyện thần thoại Midas có lỗ tai lừa là đã bị gán ghép thành tội phạm. Chỉ có những kẻ cơ hội chủ nghĩa đang thèm khát danh vọng và lợi lộc là sẵn sàng sang sảng ở bất cứ góc đường nào để vinh danh mụ Messalina ngoại tình kia là người đàn bà trung trinh nhất thế gian. Giới lãnh đạo luôn luôn hô hào như người ta thường nói là chớ bao giờ vạch áo cho người xem lưng. Mặc dù thế tôi vẫn không đi đến chỗ cực đoan là đòi phải loại bỏ tất cả những người cộng sản. Một cái đầu biết suy nghĩ rất kinh sợ cho những điều “mới mẻ” có thể gây ra những xáo trộn nặng nề cho xã hội, gây tác hại trên quyền lợi của người và của. Tôi cũng sẽ làm như người đàn bà hàng ngày chăm lo cầu nguyện cho ông vua ác Syracuse đang trị vì được nhiều sức khoẻ sống lâu vì bà ta sợ rằng người kế vì có khi lại còn tàn độc hơn hắn ta. Vì thế, tôi đặt tin tưởng vào Đảng và là Đảng đã được tái sinh. Mặt khác, tôi cho là bất cứ bàn tay nào có thể mang lại hạnh phúc và ấm no cho dân tộc, bất cứ ai mà mối bận tâm lớn nhất là không chỉ riêng cho họ mà cho cả nhân dân, cái đó mới là quan trọng. Cá nhân tôi, tôi rất kinh sợ chính trị, và nhất là khi tất cả những con người chính trị đều dấu mặt sau những chiếc mặt nạ đầy ích kỷ và dối trá, thối rữa trong tội ác và kiêu căng tự đại. Làm sao có thể khác hơn khi họ chỉ là con người, để mà nói rằng, trong tự bản thân mỗi người luôn có sự xung đột giữa cái xấu và tốt, mà cái tốt lại hiếm khi thắng? Tôi cứ cho tất cả chúng một cái túi là xong.

- Ông có thể dành một ngoại lệ cho những người cộng sản mà lâu nay vẫn được hàng triệu người trên thế giới tán dương?

- Cộng sản đã giết nửa cuộc đời của tôi, đã buộc cả gia đình chúng tôi phải chịu kéo dài những đầy đoạ vì cái đói bằng cách cắt đứt mọi cách kiếm sống của tôi trong nghề dạy học và làm luật sư. Nhưng những kẻ đáng thương kia đang bị một thứ bệnh ấu trĩ, chỉ biết nói như con vẹt: họ đoạ đầy trí thức để theo gương bọn Stalinist và Maoist. Tôi tha thứ cho họ về những chuyện đó: chẳng qua họ cũng chẳng biết họ đang làm gì. Nhưng tôi không bỏ qua chuyện họ đã cấm đoán tôi có cái hạnh phúc trong nhiều chục năm có dịp đào tạo nhiều thế hệ thanh niên như tôi đã làm vào thời trước khi họ lên nắm chính quyền, nghĩa là cả một lớp trẻ rất khá về ngôn ngữ và văn chương Pháp, một lớp người được trang bị một nền đạo lý lớn của Pháp và một nền văn hoá có chất lượng cho phép họ cùng nhau tham gia lèo lái con thuyền chung vượt qua những vùng đá ngầm của cuộc sống. Tôi đã không có dịp truyền đến cho họ ngọn lửa nhiệt tình soi sáng tinh thần và những bước đi của tôi trong cộng đồng con người.

- Cái khôn ngoan và cái vốn văn hoá đó đã gợi ông có thái độ nào đối diện với chính trị và đặc biệt là đối với những người cộng sản?

Tôi mở tuyển tập Montaigne. Đó là cuốn sách gối đầu giường, là nguồn tiếp sức cho tôi. Có rất nhiều bài học rất tốt mà những người cộng sản, nếu họ có chút văn hoá, có thể học hỏi từ những tác phẩm đó. Đọc qua tập Những tấm gương sáng của cổ nhân trong tuyển tập Montaigne họ sẽ nhận thấy là không nên giữ trong đầu những gì chỉ vì do cấp trên bảo ban và những gì không có gì chứng minh, là bất cứ ai theo chân người khác thì không theo cái gì cả. Nói rõ hơn là không bao giờ quỳ luỵ bất cứ ai, kể cả Mác hay Lê Nin, kể cả Stalin hay Mao. Họ không nên tự giam, xây tường nhốt mình vào một thế giới kín bưng mà phải mở rộng giao thiệp với người, cọ sát và mài dũa trí óc của mình với trí óc của người khác, xâm nhập vào thế giới rộng lớn này, phải nhìn ở đâu để nhận ra những con đường vòng tốt nhất và những điều cóp nhặt có thể học hỏi từ người khác; mỗi người phải biết nhào trộn biến chúng thành thứ của riêng xem đó như là lý luận của mình. Cái thu hoạch theo cách học đó làm kiến thức mình ngày càng lớn và rộng thêm. Ở đây, nói tóm lại, đó là những gì người cộng sản cần phải học để tự xây dựng bản thân trước khi lãnh đạo người khác.
Và ngày nay, đối diện với những người cộng sản, người ta phải sống với thái độ nào để giữ được con người thực và chân chính của mình? Hãy nghe lời của các bậc thầy. Tôi, tôi tự thu mình vào cuộc sống nội tâm, bày biện nó và vui với nó. Cái khẩu hiệu “tự làm chủ lấy bản thân” là một điều chỉ có thể thực hiện ở chỗ khuất mắt sau nhà. Phải tách cái góc nhà đó ra khỏi cộng đồng vợ chồng, kể cả con cái, kể cả người dưng. Từ đài quan sát đó, nơi mà mình tự quan sát lấy mình, chúng ta có thể làm khán giả nhìn cuộc đời người khác để từ đó tự đánh giá và điều chỉnh bản thân của mình. Cái chắc chắn nhất là hãy đặt niềm tin vào chính mình và dựa trên những gì tất yếu cho mình. Nếu như chúng ta sống trong những thời kỳ khó khăn, và chứng kiến cảnh đáng lưu ý về cái chết chính tri của chính chúng ta, thì hãy biết rằng trong hoàn cảnh đầy xáo trộn mà chúng ta sống ba mươi năm qua, mọi người đều có thể chỉ nội một giờ là số phận có thể sụp đổ hoàn toàn. Từ đó, thái độ có tư cách nhất, ngay cả lúc chúng ta buộc phải nhận một chức vụ trong chính quyền, là phải chẳng những không được phủ nhận những phẩm chất đáng khen của phe đối thủ mà cả những phẩm chất đáng chê của những kẻ mà mình theo. Nói một cách ngắn gọn là chúng ta phải đề cao cảnh giác, phải có một cái nhìn rõ ràng, và tránh thái độ phe nhóm hay có thành kiến gây ảnh hưởng trên thế đứng của mình trong xã hội và đặc biệt là trong cộng đồng chính trị. Cái khôn ngoan sắc xảo nhất là nghe theo tác giả: “tôi không biết dấn thân một cách thật sâu và thật toàn diện như thế: khi tôi muốn cống hiến cho một đảng thì không phải vì một nghĩa vụ mang tính bạo lực mà tôi để cho lý trí tôi trở nên đồi bại”. Chính vì không muốn lý trí của mình trở nên đồi bại mà không ít một số trí thức đã từ chối lời mời gia nhập Đảng.

- Hay! Tôi hoàn toàn hiểu ông. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, suy nghĩ của ông là thế nào? Làm sao có thể thoát khỏi con đường bế tắc mà ta bị giữ trong đó, và bị giữ trái với ý muốn của mình?

Phái cực hữu thì muốn truy sát phe cộng sản cho đến tận sào huyệt bí mật nhất. Cánh cực tả thì muốn chiến đấu bảo vệ chủ nghĩa cộng sản bất chấp mọi trở ngại, ngay cả việc phải thực hiện một vài thay đổi hay nhượng bộ. Tôi nghĩ rằng giải pháp cần phải có nhiều sắc thái hơn. Cái khuôn vàng thước ngọc nào buộc ta phai luôn nhớ và đang chi phối cái trận chiến điên cuồng giữa các đối thủ đang hiện hiện? Nếu con người là điểm phát xuất và cũng là điểm đến cuối cùng của giáo dục và văn hoá thì nhân dân cũng phải là điểm xuất phát và điểm đến cuối cùng của mọi lực lượng chính trị. Chúng ta hãy thực tế. Chúng ta coi thường bất cứ thứ ý thức hệ nào chỉ toàn đưa ra những loạn ngôn để làm duyên cớ. Nhân dân đòi hỏi gì? Ít và thật ra là nhiều. Ít là vì họ chỉ mong chờ một cuộc sống vật chất vừa phải: một chỗ ở tươm tất, những bữa ăn thich hợp, quần áo sạch sẽ. Trong đời sống tri thức và nghệ thuật, họ chỉ yêu cầu được học hành đào tạo và có văn hoá, được giải trí lành mạnh. Trong đời sống chính trị họ mong muốn được tham gia ý kiến về những vần đề quan trọng liên hệ đến hiện tại và tương lai của họ, và được tự do phát biểu những ý kiến và suy nghĩ chân thành của họ. Trong đời sống xã hội, họ chỉ mong được giáo dục và có cuộc sống đạo đức, có những phong tục tập quán trong sáng đẹp đẽ, những cư xử chuẩn mực của từng cá nhân và nhất là của những kẻ đang nắm quyền. Họ coi tất cả những xung đột về ý thức hệ hay về những thứ tương tự chỉ là vấn đề văn phạm trong ngôn ngữ mà thôi, như Montaigne đã viết. Họ cũng chẳng cần biết những chính sách đưa ra là tư bản hay cộng sản. Cái chính yếu là làm sao mang lại ấm no cho dân tộc: tất cả những thứ khác đều là những chuyện ba hoa chích choè và vô nghĩa.
Hiện nay, đảng cộng sản đang nắm quyền trên đất nước. Họ đã qua những lúc vinh quang và những lúc khổ nhục. Không thể chối cải là nhân dân không có một thứ quyền gì trên những bí mật và sinh hoạt của Đảng: đó là một thế giới riêng rẽ, nằm bên trên thế gian này. Cái độc quyền chính trị mà họ đã bảo vệ bằng mọi giá đã rèn dũa thành một sự kết hợp chặt chẽ và đã củng cố khối người của ho nhưng nó cũng đã đưa đến việc phạm những tội ác kinh hoàng không thể nào chuộc lỗi được, những tội ác mà chính họ cũng đã công nhận là sự tàn phá là vô cùng nghiêm trọng. Bây giờ, họ muốn tự khảm xa cừ lên mình, họ đã tổ chức hoàn hảo một guồng máy bạo lực. Muốn bứng họ đi là có đổ máu. Họ tuyên bố là họ rất mong muốn đổi mới bằng những thay đổi cơ bản và cốt yếu. Hãy cho họ một thời gian ân huệ, một án treo. Nếu, nhờ vào những cố gắng nhiệt thành, những hy sinh với giá cao, tự mình đổi mới, thực tâm và chân thành áp dụng cái nguyên tắc mà họ từ lâu nay tuyên cáo: đó là “vì dân và do dân”, thì tại sao chúng ta không dành cho họ một cơ hội chót? Nếu chúng ta loại cấm họ như là một đảng chính trị, thì chúng ta sẽ lại chơi trò chính trị, đang chứng tỏ lại với họ cái cuồng tín mà chúng ta đã từng lên án họ. Cái đặc ân này sẽ làm họ suy nghĩ lại, họ sẽ cố gắng trở nên xứng đáng hơn với lòng tin của nhân dân bằng cách thoả mãn quyền lợi của nhân dân và biết tôn trọng ước nguyện của nhân dân.

Chúng tôi đã không ngã giá trên các món đồ. Thật quá sự mong đợi của tôi, người khách đã trả cho tôi gấp đôi cái giá mà tôi đề nghị.

[3] Animus: nam tính của người phụ nữ, anima: nữ tính của người đàn ông (N.D.)
[4] Giáo dục kiểu Spartan: nói giáo dục lòng can đảm, sự anh dũng, bền bỉ, khắc khổ, có ý thức kỷ luật cao, chiến đấu giỏi.(N.D.)

5   Bi kịch bị mất phép thông công, bị cô lập và cô đơn

Từ xưa con người đã sống quay quần trong một cộng đồng. Một khi các nhu cầu đòi hỏi đã vượt quá sức lực và khả năng của cá nhân và gia đình thì chúng chỉ được thoả mãn thông qua sự giúp đỡ hổ tương và hợp tác trong cộng đồng, nhất là trong lãnh vực quốc phòng, canh nông cây lương thực, chỗ ở, quần áo, giáo dục… Cái sinh hoạt muôn mặt chung góp cho việc duy trì cuộc sống vật chất của mỗi cá nhân, chú trọng đến sự phát triển về thể chất con người, từ đó bảo vệ sự toàn vẹn của con người và sự tiếp diễn của cuộc sống.
Nhưng ra ngoài những giới hạn của thể chất và cuộc sống vật chất là cái không gian vô giới hạn và vô cùng của cảm xúc và con tim. Xã hội không muốn và không thể can thiệp vào hai lãnh vực này. Cái bên trong đó chính là phòng xét nghiệm, là nơi cấu thành những quyết định của nội tâm, dẫn tới những hành động thể hiện nhân cách và biểu hiện ước vọng của con người. Có một sự hỗ tương qua lại giữa hai thế giới, thế giới bên ngoài tạo ra những điều kiện buộc con người phải phản ứng, thế giới bên trong phản ứng lại làm cho ngoại cảnh lại trở lại tác động trên con người. Cái cơ chế với hai chuyển động qua lại này giúp bảo đảm một sự quân bình cho cá nhân, những trao đổi giữa hai thế giới, bên ngoài và nội tâm, giúp định vị và duy trì con người giữa một hệ thống phức tạp gồm những tác động, phản tác động giúp cho con người cảm nhận sự sống.
Bởi vì, cộng sản đã ngăn cản những tiếp xúc và trao đổi giữa hai thế giới, ngoại cảnh và nội tâm, cắt đứt cái quan hệ giữa chúng và bộ máy ngưng không chạy hết công sức mà chỉ chạy cầm chừng, làm chậm đi một cách đáng kể chuyển động của các bánh quay và mắc xích. Trong những trường hợp quá nặng, cá nhân bị cắt đứt khỏi thế giới bên ngoài, họ sẽ mất đi những cảm xúc rồi dần mất luôn cả những khả năng của lý trí và tâm lý sẽ rơi vào sự tê liệt càng ngày càng lớn. Cá nhân có thể trở thành khùng điên và tổ tiên sẽ không mất công chờ đợi lâu để đón họ ở bên kia thế giới. Đó là thứ hình phạt nặng nề nhất dành cho con người. Bên kia chuyện đó chỉ là án tử hình.
Trong trường hợp cá nhân tôi, không hề có một bản án được tuyên, không nhà lao, không phòng nhốt tù. Nhưng trong nhà nước cộng sản, có bao nhiêu thứ hình phạt không tên được tiến hành, không chính thức, nhưng về lâu đó chỉ là những án tử hình không hơn không kém. Đó là hình phạt cắt phép thông công mà những kẻ cuồng tín chính trị đã cóp nhặt từ kho tàng tội phạm thời Trung Cổ, cắt phép thông công là vũ khí quyết liệt của bọn cuồng tín tôn giáo. Người ta đã cấm tất cả những người trong họ đạo không được chứa chấp, nuôi ăn hay cho mặc những kẻ bị mất phép thông công là những kẻ đã mất nhà cửa, kế sinh nhai, quần áo, không còn cách nào có được một cuộc sống bình thường như trước. Chuyện cắt phép thông công của tôi chỉ dừng ở chỗ cấm cửa không tôi vào dạy ở Đại Học và bước vào các Toà để hành nghề Luật Sư. Cả mười Uỷ Ban Chấp Hành Trung Ương của mười tổ chức quần chúng không chính thức đã tiến hành loại tôi ra nhưng họ chỉ dừng ở chỗ là không mời tôi đến dự những buổi họp của họ. Thái độ của cộng sản là có ý nghĩa: họ là những tín đồ của những biện pháp nửa chừng, rình đâm sau lưng, bỏ thuốc độc vào tách trà hay gian trá tạo ra những vụ tai nạn chết người. Tội ác đã phạm nhưng không để dấu vết. Dưới mắt của Luật Pháp, họ có thể kêu gào là chuyện xảy ra là không có chứng cớ, và hơn như thế, trong xã hội, họ đã tránh được những tai tiếng, tránh làm dấy lên những dư luận chính trị, mà vẫn giữ được danh tiếng cho người bị trừng phạt trong đời sống xã hội và chính trị. Chủ nghĩa Machiavelli vẫn được tiến hành dưới một lớp nguỵ trang đầy nghệ thuật.
Liên quan đến chuyện của tôi, tôi không bị ném vào tù hay bị còng tay. Tôi không bị bắt đưa ra bất cứ toà án hình sự hay chính trị nào. Tôi không bị bắt đày đi xa nhà hay xa gia đình. Nhưng cả xã hội và mọi người đều biết: để tránh phải chịu những phiền phức, những ai muốn tiếp xúc với tôi, dù bất cứ chuyện gì, đều không dám. Nhà tôi như đang chứa một người đang bị bệnh dịch, không nên đến gần. Ra đường, mọi người thấy tôi từ xa đã quay ra ngõ khác để tránh đụng mặt, nếu người nào đó, vì vô tình vô ý hay vì can đảm đến gõ cửa gặp tôi, ngay sau khi vừa rời khỏi nhà là đã có công an mời về cơ quan để tra tấn họ với những câu hỏi về họ là ai, về gia đình và tầng lớp xã hội và đặc biệt là có quan hệ gì đến tên tội phạm là tôi đây. Chắc chắn rằng tên tuổi của người đó sẽ được ghi vào sổ đen và từ đó sẽ thường xuyên bị theo dõi. Không cần phải có cặp mắt tinh anh để nhận biết rằng ở tất cả những ngã tư đường dẫn đến nhà tôi lúc nào cũng có một hay hai tên cớm dù đã thay đổi căn cước hình dạng nhưng không đổi nhiệm vụ cảnh giới và canh gác, để chận bắt những người chỉ vì vô tâm hay gặp lúc số phần bị xấu mà đến bấm chuông nhà tôi. Thật là một màn hài kịch, vừa tức cười vừa bi đát, mỗi khi tôi ra khỏi nhà để đi lang thang đây đó, tôi luôn luôn bị bám đuôi theo dõi chặt chẽ. Nhiều người bạn thấy tôi từ xa đã ngay tức khắc quay lưng và biến mất như chiếc bóng trong đêm. Nếu gặp đôi lúc, để giữ gìn sức khoẻ, tôi ra ngoài tản bộ quanh những con đường kế cận, tôi không bao giờ bỏ qua cơ hội, mỗi khi đi ngang qua những người công an đang theo dõi tôi, cẩn thận giở nón chào họ một cú ra trò làm cho họ không được vui lắm. Cả họ và tôi đều biết rõ họ đang diễn trò gì. Như thế họ phải hiểu là tôi quá biết rõ những lệnh lạc mà họ nhận từ chủ nhân và cái tinh quái của tôi là không bao giờ để cho cái cảnh giác của họ có thể thình lình bắt tôi được. Dĩ nhiên, tất cả thư từ của tôi đều bị mở và một số không bao giờ đến tay tôi. Tất cả thông tin đều được ghi vào hồ sơ, về tên tuổi những người gửi thư cho tôi và dĩ nhiên họ sẽ tiến hành điều tra về những người này. Tất cả những con chó to đùng được gửi đến để cắn tôi đều không thể táp với những cái răng nanh vì chúng không thể tìm ra khoảng trống nào có thịt của tôi cả. Sau nhiều năm dài theo dõi, chủ nhân của chúng khám phá rằng chẳng được tích sự gì nên đã buộc phải chấm dứt sự theo dõi đó.
Vào thời gian đầu của cuộc sống đầy bất hạnh của tôi, và trong suốt những chuỗi ngày đen tối đó, tôi thật bất ngờ khi thấy những nhân vật chính trị có tầm cỡ đến nhà tôi, như đồng chí Hà Huy Giáp. Tôi không biết ông ta tự ý đến hay có ai đó đã giao cho ông việc làm đến thăm tôi như thế. Ông ta tỏ vẻ lo lắng cho sức khoẻ của tôi và đặt những câu hỏi vô thưởng vô phạt về sinh hoạt của tôi. Trước đây tôi được nghe những lời đồn tốt về ông nhưng chưa có dịp gặp ông ta. Cuộc trao đổi không đi sâu đến mức riêng tư nhưng tôi có cảm tưởng là có những động lực thân thiện đã đưa ông đến nhà. Một người trong Trung Ương, một nhân vật khá quan trọng của Đảng, đã cất công đến thăm một kẻ bị loại, bị mất phép thông công. Bất kể cái gì, bất kể từ động lực tình cảm nào, cuộc viếng thăm của ông ta như thể một tia nắng chiếu vào đêm tối cô độc của tôi.
Mặc dù với cuộc viếng thăm rạng rỡ và đầy ánh sáng của Hà Huy Giáp như là một tia chớp làm sáng lên đêm tối của đời tôi, tôi vẫn cảm thấy đau khổ cô đơn sống cô lập vì người ta đã kết án tôi. Tôi không bị cô lập với gia đình nhưng vợ con cố giấu nhịn những dòng nước mắt để không làm tôi khổ thêm, và tôi biết những giọt nước mắt của họ lại sẽ tuôn trào những khi tôi vắng nhà. Về phần tôi, tôi rán tránh nhìn trong mắt họ để không nhìn thấy những nếp nhăn trên gò má vì những đêm mất ngủ và phải chịu quá nhiều đau khổ. Một khi quyền lực đã ném sức nặng vào tay gìới cầm quyền, họ hống hách tuyên bố, dưới cái nhìn của họ, là đã có kẻ đã phạm một tội ác không dung thứ được, thì cái sợ hãi đã lan ra đến nỗi không ai dám mở cửa hay mở lòng đón tiếp kẻ “phạm tội” đó. Kẻ “phạm tội” chỉ còn cách tự buộc mình sống trong cô lập mà cũng chỉ có nó là phải chịu đau khổ bởi những dày vò đau đớn của sự cô đơn. Không có nhà nào dám che chở cho nó ngủ, không một bộ quần áo nào có thể che chở cho nó chống chọi đêm đông lạnh giá, không món ăn nào làm ấm bụng, giúp cho nó chút sức để đứng dậy trên đôi chân mà bước đi, không còn một đôi tai thân thích nào để nghe lời than vãn của họ, không một tiếng nói đầy lòng thương nào để ban bố cho tiếng kêu than.
Người đời nhìn tôi, tôi nhìn họ, không còn ai nhận ra ai. Vâng, một kẻ bị trục xuất, bị cắt phép thông công thì phải sống cô đơn ở mọi nơi, ngay cả khi đang sống trong đất nước của mình.
Nhưng cuộc sống bị cô lập giữa những người xa lạ, dù họ là những người cùng nòi giống với bạn, đau đớn bao nhiêu cũng không sánh bằng cái khổ khi phải thấy cái thống khổ của chính gia đình mình, của những người thân thương nhất, của người bạn đời và của máu mủ của mình! Cái cô đơn này cũng là cái quí giá hiếm hoi làm lộ ra cái tình yêu sâu đậm tạo nên sợi giây liên lạc thiêng liêng giữa tôi và vợ con. Họ đau khổ khi nhìn thấy tôi khổ. Họ nghĩ suy cho đó là bổn phận và tình yêu nên cố giúp tôi bớt đau khổ bằng cách giấu đi khổ đau của chính họ. Tự nó, đó là cái động lực rất đáng khen, quý phái, đáng được thán phục và vinh danh, nhưng rủi thay, người chồng và cha, mà họ mong muốn làm cho bớt khổ, dù chỉ trong muôn một, lại làm cho hắn khổ đau gấp hai khi thấy không thể chia cho nhau những tiếng thở dài và niềm đau cay đắng. Trong cuộc chơi đầy bi thảm và đau đớn, mỗi người trong ba chúng tôi là lo cho người kia, cho hai người kia, tin rằng mình mới là kẻ có khả năng chịu những đợt tấn công của nghịch cảnh và giữ được sự thanh thản và cân bằng bên trong để có được sự an bình của tâm hồn. Nhưng cái mà đang giết chúng tôi là ai cũng biết mình đang lừa dối với chính mình, và muốn lừa dối người kia hay cả hai người kia. Không ai bị lừa cả, nhưng cả ba người đều tự cho rằng mình là người được nhiều an ủi, để rồi tuôn trào nước mắt nhiều hơn khi nỗi cô đơn đến trong đêm khuya.
Vì thế tôi rất đau khổ khi biết rằng vợ con đã phải chịu khổ vì mình, sức khoẻ họ đang kém đi vì những đêm không ngủ kéo dài, và cứ lập đi lập lại mỗi ngày. Ý nghĩ đó tra tấn tôi ngày đêm, xé nát tim tôi, làm tôi luôn thao thức trên giường, buộc tôi phải ngồi dậy, bước quanh trong phòng cho tới khi đi nằm lại. Trong nhà, cả ba con người đều không nhắm mắt ngủ được, và nhờ cái đói, họ đành cứ phải lê những buớc yếu ớt quanh phòng và nếu có một cơn ngủ đến làm họ nằm xuống, chẳng qua là nhờ sự kiệt sức đã làm tan biến chút năng lượng hay sức lực còn lại. Thật là một phép lạ khi chúng tôi đã vượt qua biết bao lần như thế, trong khi chỉ cần một lần là có thể đã dễ dàng lấy đi mạng sống của chúng tôi.
Nếu cứ mỗi cuộc khủng hoảng làm chúng tôi đau nhức chết người, thì những lúc tĩnh lặng sau đó, khi dài khi ngắn, lại làm cơn đau dồn dập hơn nữa. Cái đau đớn đã xé tôi ra từng mảnh, đè nghiến, xé toạc tôi, xuyên thủng tim tôi những lỗ sâu bén, cắn xé hồn tôi ra từng mảnh với hàm răng sắc nhọn. Đó là một thứ sức mạnh hiện hữu, có nét riêng và, nếu tôi có thể nói là xác thực, mà tôi không thể đo lường được cái cường độ, cái năng động, sức mạnh, sự tiến hoá và chu kỳ, thời gian ngưng đọng và tái diễn. Ngược lại, những cảm giác thống khổ mới đang tra tấn tôi lại thuộc về một chủng loại hoàn toàn mới mà tôi chưa bao giờ được biết. Ngược với cái đau đớn mà tôi gọi là hiện hữu xác thực đang đập nát tinh thần và đang xé nát tim tôi, thì những cái đau mà tôi cảm nhận là những tác động tiêu cực làm tan rã ý chí, làm mềm đi hệ thần kinh, làm chậm dòng sinh khí, làm nhu nhược hoàn toàn thể chất và tâm lý của tôi, biến tôi thành một thứ giẻ rách chỉ xứng đáng để ném vào sọt rác. Cái khổ đau này, nó như cơn thuỷ triều đang dâng, tràn ngập và nhấn chìm tôi trong một tình trạng suy nhược và tê liệt, chỉ để lại trong tôi một mảnh ý thức rời rạc đủ để tôi nhận ra cái sức nặng của một khoảng trống rỗng không. Trước đây cuộc sống của tôi thật sống động, cho những bài giảng ở Đại Học, tranh cãi trước Toà Án, viết những bài tham luận, khảo cứu văn chương. Tôi thường có một cảm giác sung mãn, nóng bỏng muốn hành động và biểu lộ ra ngoài. Ngày nay tôi trở nên gật gù trong trạng thái lừ đừ yếu đuối, tưởng như đang trôi dạt trên một biển cả không bờ không bến và bị tan biến trong cái vùng nước mênh mông không động đậy. Ngày xưa, thời gian đối với tôi là một kho tàng quí giá nhất, nó trôi qua quá nhanh ngược lại ý mình, đã làm tôi tuyệt vọng; ngày nay nó chỉ là một chiếc khung hình hoàn toàn không có gì trong đó, hiện ra một khoảng trống không màu sắc, chỉ để làm hư tầm nhìn và tiêu diệt cả ý chí. Tôi căng óc lấp đầy cái hư ảo này với những cảm xúc nghe, nhìn. Tôi phải tìm nhìn chăm chăm vào từng chiếc lá trên cây bên đường, chú mục vào từng kẻ đang bước trên phố, từng cái xe chạy, tôi như một người mù vừa mới tìm được lại ánh sáng, vừa xem xét chăm bẳm từng thực tiễn của cuộc sống, vừa ngạc nhiên trước những điều mới lạ. Nhưng mọi cố gắng đều trở nên vô ích, và sự kiêu hãnh của họ đã ném tôi vào một niềm thất vọng không thể chịu đựng được. Cả thời gian đó, dù tôi đã cố gắng quên mình trong những chuyện tầm phào, nó vẫn tiếp tục làm cho tôi hoang mang lẫn lộn, nó vẫn quấy phá tôi bằng cái rỗng tuếch của nó.
Tôi nảy ra ý nghĩ một mình lang thang khắp phố, tập trung với tất cả chú tâm nhìn ngắm những sinh vật, tất cả các căn nhà, tất cả những hoạt cảnh đang chuyển động, những thứ kết hợp thành bao nhiêu là chuỗi phim tài liệu về đời sống ở thủ đô. Không có một du khách nào đã đẩy trí tò mò của mình đi xa như tôi như thế. Nhưng tất cả những bận bịu, mà tôi hiểu rõ hơn ai hết đó là chuyện vô ích, cũng không cho phép tôi lấp đầy hết khung thời gian của tôi. Tất cả những việc làm vô hồn đó không thể nào thoả mãn một tâm hồn đang khát bỏng những ước vọng chưa thoả, với những nhiệt tình nhất định. Tôi tự so sánh mình với người lữ hành đang băng qua sa mạc, nặng chĩu trên vai một gói vàng và không cầu xin gì hơn là được trao tất cả số vàng kia để đổi lấy một cốc nước.
Tôi lang thang trôi dạt đến khu Ba Đình, nơi mà xưa kia tôi hay đến chơi tennis trong những lúc rỗi rảnh. Vẫn chưa đến giờ tan sở, trên sân vẫn vắng bóng người chơi. Đang ngồi cạnh sân, bỗng nhiên tôi hết sức ngạc nhiên thấy như một cục gì đang lăn tròn dưới chân tôi mà lúc đầu tôi cứ tưởng là một cục len. Đó là một con mèo bé tí chắc mới đẻ vài ngày trườc đây, chắc là mẹ nó, theo thói quen, đã quyết tâm bỏ đi để nó tự một mình khám phá thế giới. Tôi bế nó lên trong lòng bàn tay, dịu dàng vuốt ve nó và tôi cảm thấy nó thật tội nghiệp. Nó và tôi là hai kẻ lạc loài đang trôi dạt bơ vơ trong cuộc đời, cả hai cùng chung cái đói, nạn nhân cùng bị cô lập và sầu não chung một số phận. Sau khi đi một vòng trong khu nhà hỏi xem ai là chủ nó, câu trả lời luôn là không biết, tôi cám ơn sự may mắn hay Đấng Cứu Thế nào đó đã trao cho tôi một người bạn đồng hành bất hạnh và khốn khó để tôi có thể thì thầm chuyện vãn hầu lấp đầy cái khoảng thời gian trống vắng, để cho tôi có một kết nối tình cảm mà tôi không dám đòi hỏi nơi vợ con vì sợ rằng sẽ đào sâu thêm nỗi khổ đau của họ. Giữa tôi và vợ con, sự im lặng là cái hùng biện hơn là những lời nói và nó không làm tuôn thêm những dòng nước mắt. Câu chuyện giống như tôi và con mèo con kia: chỉ cần nhìn nhau trong ánh mắt là quá đủ cho những trao đổi tình cảm.
Trở về nhà, tôi chia cho nó chén cơm trắng của tôi. Tôi rất vui khi thấy nó bằng lòng một chút cơm như thế và nó lên cân khá nhanh. Mỗi khi tôi ngồi thiền hay ngồi mơ mộng bên cạnh cửa sổ, nó leo lên ngồi trên đùi tôi, về đêm nó đến nằm kề bên cạnh. Nhờ đó, tôi bắt đầu bước những bước đầu tiên, bước ra khỏi con đường hầm vô tận của cô đơn, tự cho mình một lý lẽ để sống bằng cách lấp đầy những khoảng trống trong sự hiện hữu của tôi. Tôi không thể đi dạo một mình ngoài đường vì lúc nào cũng có bọn chó săn bám gót phía sau. Tôi không thể ghi danh vào câu lạc bộ tennis Ba Đình vì giá vợt, banh và giày vải để chơi là quá cao với một giá thật điên khùng và tôi không thể nào vươn tới. Nhưng điều làm tôi đau lòng nhất là thấy biến mất những bạn cùng chơi ngày xưa nay kiếm cách tránh và chạy mặt tôi. Sự bỏ chạy của họ như là những cú dao đâm vào tim tôi, tôi không thể nào đóng vai một kẻ vô gia cư hay cùi hủi. Tôi hiểu thái độ những người bạn chơi tennis kia, tất cả đều là những chức sắc cao cấp trong chính quyền, dĩ nhiên là những người của Đảng, là những người luôn luôn lo lắng hơn ai hết về tương lai quan chức và chính trị của mình. Vì thế họ sẽ bị kinh hoàng khi phải bắt tay một kẻ đang bị bệnh dịch và phải chơi một trận tennis với kẻ này. Họ cũng chỉ là con người, với những tâm hồn yếu kém, tôi không thể nào mong họ bớt mất tư cách hơn, bớt hèn hạ, bớt mất phẩm giá hơn.
Con mèo lớn nhanh và nó được tôi dành cho nhiều săn sóc. Nó giúp tôi hoà giải lại với cuộc đời, nó làm nẩy nở trong tôi cái thú vui được có lại những sinh hoạt trí thức, những sinh hoạt ngày xưa đã đem lại cho tôi những niềm vui thanh khiết. Tôi phải làm cách nào để khởi động lại cái máy trí thức của tôi đây? Tôi lượt xét lại tất cả từ năm 1932, năm mà tôi trình luận án Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chương và Tiến Sĩ Luật. Trong lúc chọn đề tài khảo cứu, tôi dành phần như nhau giữa phương Tây và phương Đông, giữa nước Pháp và Việt Nam. Luận án chính của tôi về văn chương viết về Musset, luận án về Luật viết về cá nhân trong xã hội xưa dưới các triều đình An Nam (Bộ Luật nhà Lê). Riêng về cái luận án bổ túc về Văn Chương, nó nhằm giới thiệu đến công chúng Pháp một tác giả người Pháp đã viết về đề tài “Việt Nam vào cuối thế kỷ 19” tên Jean Boissière. Niềm ưu tư về sự cân bằng và giao hoà giữa hai thế giới đã gây cảm hứng cho tôi trong bốn cuốn sách viết vào khoảng năm 1940. Cuốn thứ nhất, Nụ cười và nước mắt của tuổi trẻ, trình bày cái tâm lý và những sinh hoạt trí thức và xã hội của một cô gái trẻ người Việt, được đào tạo ở Pháp, có trách nhiệm phải xây dựng phương Đông của ngày mai. Chính cái “xây dựng phương Đông của ngày mai” lại là cái cảm hứng để tôi viết hai cuốn sách, một cuốn dành riêng viết về những giá trị của Pháp: Những viên ngọc của nước Pháp và cái khác với những giá trị vùng Địa Trung Hải (Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp), một cuốn là Bước đầu của Địa Trung Hải. Tác phẩm thứ tư là một vở kịch mang lên sân khấu cái xung đột, trên khía cạnh tình cảm, giữa một kẻ du hành hiện thân cho phương Tây với những nhu cầu hay di động và thay đổi, và một cô gái tiêu biểu cho tình cảm qua sự trung thành và bền vững: “Cuộc hành trình và tình cảm”.

Từ năm 1940 đến 1945, nhiều xáo trộn cực kỳ nghiêm trọng đã xảy ra trên thế giới và ở Việt Nam: từ nay, nước Pháp không còn tập trung vào những hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam nơi mà Cách Mạng cộng sản đã thắng thế từ năm 1945 và đang điều hành nhân dân. Từ 1945 đến1956, tôi và gia đình bỏ vào bưng cùng tham gia Kháng Chiến chống thực dân. Khi trở về Hà Nội, tôi trở lại đi dạy Văn Chương ở Đại Học và mở lại văn phòng Luật Sư ở Hà Nội. Tôi được bổ nhiệm, nhờ Đảng ban ân huệ và cũng chẳng phải do tôi xin, ngồi trên ghế của Uỷ Ban Trung Ương của mười tổ chức quần chúng. Từ năm 1958, vì đứng ra bảo vệ cho dân chủ, tôi đã bị tước bỏ mọi nhiệm vụ; tôi đã nhắc lại những diễn biến này trong phần đầu của cuốn sách này.
Đó là những sinh hoạt trí thức của tôi từ 1932 cho đến ngày hôm nay. Giờ đây tôi sẽ phải bám víu vào thế giới nào đây? Đó là một điều cực kỳ quan trọng. Cái vấn đề chính yếu mà tôi đã dựa vào để làm căn cơ cho cả cuộc đời trí thức của tôi là điểm gặp nhau giữa Đông và Tây, ngược với luận đề của Rudyard Kipling là chối bỏ cái khả năng đó. Tôi tự cho mình cái công việc là lo giúp sự hiệp thông qua lại của hai thế giới, trên cơ sở đó hai bên có thể thực hiện cuộc gặp gỡ. Mỗi thế giới đều có một thang giá trị riêng, đôi khi kình chống lẫn nhau. Sự gặp gỡ, trên cơ sở của sự thông cảm lẫn nhau, sẽ kéo theo việc bên này giúp đỡ bên kia để bổ sung lẫn nhau và cùng đào luyện để mang những lợi ích chung cho nhân loại. Chính theo hướng đó mà tôi đã đặt hết suy tư để hoàn tất tác phẩm của cuộc đời tôi.

Nhưng phương Đông, đặc biệt là Việt Nam lại va phải một số khó khăn trong việc đi tìm những giải pháp cho những vấn đề cấp bách và quan trọng. Thí dụ như vấn đề đào tạo con người mới. Ở Việt Nam nhiều lần cải cách về giáo dục vẫn chưa mang được gì thoả đáng. Có lẽ nên cần thiết hoàn toàn xoá bỏ và làm lại tất cả những quan niệm chính trị, nhưng đảng cộng sản Việt Nam sẽ nhìn với con mắt rất xấu những ai nêu lên cách đó như một giải pháp cho việc cải tổ giáo dục. Có lẽ phải làm cho các vị lãnh đạo nghiền ngẫm về những tư duy về sư phạm của Pháp, chỉ trong hai thế kỳ, từ Érasme đến Rousseau, đã thành công đào tạo con người, nói đúng hơn, con người trí thức hiện đại, thiếu họ cuộc cách mạng Khoa Học Kỹ thuật không thể nào thành công. Công việc nghiên cứu của tôi là nhắm vào điểm này.
Một vấn nạn có tầm cỡ khác là giới trí thức Viet Nam phải giải quyết thế nào về cái quan hệ giữa chính trị và văn học. Rất nhiều văn nghệ sĩ không thể chấp nhận cho chính trị quản lý chi phối những sáng tác văn học. Đảng đã tuyên cáo rằng chính trị phải đứng ra quản lý văn chương và mục đích của văn chương là phải phục vụ chính trị trong những đường lối chung và những đường lối riêng của Đảng. Tất cả những nhà văn vâng theo nguyên tắc này đều nhận được công danh và bổng lộc, cho mình và cho cả những người trong gia đình. Nhưng đa số những người khác thì nhăn nhó mà theo hướng này. Như vậy vấn đề cũng quan trọng như việc đào tạo con người. Như vậy, rất cần thiết cho tôi được đưa ra những suy nghĩ về vấn đề kia. Không phải để nhắm làm thay đổi những kẻ ương ngạnh đã dính luận cương của Đảng, tôi cảm thấy có điều ích lợi để trình bày cho độc giả về vấn đề đã được giải quyết thế nào dưới thời Cổ Đại Hy Lạp và thời Cổ Đại La Tinh.
Hy Lạp thời cổ đại đã đưa ra mẫu mực của Eschyle (Aiskhylos), một trong những bậc thầy về bi kìch Hy Lap, mà những tác phẩm đều được chính quyền và nhân dân ngưỡng mộ và trọng nể. Thật không có gì quan trọng khi chính trị thích nghi với văn chương hay ngược lại. Cái hiển nhiên là tác phầm của Eschyle là đượm mùi thơm của chính trị, là niềm vinh quang của nhân dân đã đánh thắng giặc ngoại xâm. Người đọc Việt Nam ta sẽ tìm thấy trong đó tiếng vọng của niềm vinh quang của chính chúng ta.

Một hình ảnh tương tự được thấy trong tác phẩm Virgile (Vergilius). Đường lối chính trị của Auguste là thúc đẩy sản xuất nông nghiệp; như thế vai trò nhà thơ là ca tụng vẻ đẹp của nông thôn, viết nên những vầng thơ của nông nghiệp. Auguste còn đưa ra một đường lối chính trị hoà hợp và đoàn kết để củng cố nền tảng của vương quốc sau khi gầy dựng nên nó. Việt Nam ta có lẽ có cùng hoàn cảnh như thế, trong những vinh danh tán dương về nền nông nghiệp cũng như trong đường lối chính trị của mặt trận dân tộc cho Tổ Quốc.
Cuối cùng là tuyệt phẩm của Eschyle: vở kịch bộ ba Oresteia cũng đáng cho Việt Nam quan tâm, vì tác giả đã nêu lên chuyện trả thù cá nhân được chuyển biến thành chuyện trừng phạt bằng pháp lý của Nhà Nước, và, một mặt khác, từ những nhóm trùm buôn nô lệ tiến đến một nền dân chủ có nô lệ. Nền dân chủ bắt đầu thăng hoa và nhận sự giúp đỡ của thần Hoà Bình, những Erinyes, thần Báo Thù, tất cả được biến hình thành những Euménides là những thiên thần của dịu ngọt và lòng nhân.
Để giúp mình vượt qua những dằn vật của sự trống trải đã thấm nhập vào con người tôi làm tôi trở nên tê liệt trong bạc nhược và rầu rĩ. Cái suy nghĩ cả ngày lẫn đêm dẫn tới việc tôi định ra một chương trình làm việc mà theo tôi ước tính là có thể kéo dài đến hai mươi năm.
Như vậy, trong cái khung suy niệm về chỗ gặp gỡ giữa Đông và Tây, để theo đuổi chủ tâm của tôi là làm sao cung cấp vật liệu của phương Tây cho một công trường phương Đông, tôi nhấn mạnh đến những cống hiến của nền văn minh Cổ Đại của Hy Lạp và La Tinh. Những cống hiến này có thể là rất bao la, nên tôi chỉ chọn những gì có liên hệ trực tiếp đến thời sự Việt Nam, và chính xác hơn là những đóng góp đặt ra cho trí thức và giới nhà văn. Và cũng như, trong những năm dài trong mật khu, người ta đã đề nghị chúng tôi học tập về chủ nghĩa Marx, với tôi đấy là cơ hội ngàn năm một thuở để đưa vào áp dụng những gì trong chủ nghĩa Marx để giúp tôi hiểu nhiều hơn sự tiến triển của xã hội và sự xuất hiện của những biến cố lịch sử.
Sau rốt, vì các nhà lãnh đạo Việt Nam là những người đầu tiên quan tâm đến những nghiên cứu của tôi nên chúng được tôi viết bằng tiếng Việt chứ không bằng tiếng Pháp.

Bốn tác phẩm đã hoàn tất sau những cố gắng của tôi:
1)    Những chủ thuyết về Giáo Dục của Âu Châu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII (Erasme đến Rousseau);
2)     Eschyle và bi kich của Hy Lạp;
3)     Bản dịch tiếng việt của tác phẩm Oresteia của Eschyle, với một  chương nghiên cứu dùng như lời giới thiệu;
4)     Virgile và sử thi Hy Lap.

Mỗi tác phẩm gồm chừng 500 trang máy đánh chữ. Tôi đã gửi một bản sao cho các Uỷ Ban của Trung Ương Đảng (Uỷ Ban Giáo Dục và Uỷ Ban Văn Hoá Nghệ Thuật); tôi đã nhận được những lời khen ngợi và được giấy phép ấn hành. Rủi thay, những cơ quan ấn hành, nơi mà tôi giao các bản thảo, đều từ chối vi họ không có ngân sách để in chúng. Tôi đành chịu thua. Thât là cộng sản.

Tôi đã lên kế hoạch là sẽ làm việc một thời gian dài, chẳng cần bận tâm muốn biết là tôi có thể hoàn tất nó trước khi tôi chêt hay không. Hai mươi năm nữa thì tôi đã sáu mươi lăm. Biết tôi còn sống đủ lâu để đạt tới mục đích của tôi không? Chẳng quan trọng, cái thiết yếu của tôi là làm sao phá vỡ cái khoảng không vô tận đang níu chặt lấy tôi, thoát ra khỏi cái chán nản làm suy nhược con người mà tôi đang bị dính nhựa, tiêu pha thời gian ngâm mình trong những dòng nước cứu giúp của một sinh hoạt có ích và say mê. Nỗi khổ đau dai dẳng của tôi xem như chấm dứt, và chắc chắn là tôi đã lấy lại nét mặt vui tươi vì vợ và con gái tôi không còn khóc khi nhìn chăm vào mặt tôi. Góp vào cái âu yếm của vợ con là cái nũng nịu của con mèo nay đã lớn trông thấy, khoanh mình nằm trên đầu gối tôi khi tôi đang ngồi làm việc và cọ sát cái đầu nó vào chân tôi khi tôi đứng dậy. Con vật thật đáng thương! Nó thiếu tất cả các thứ mà những con mèo đang vênh vang trong phòng khách của các ông lớn ngập đầy: mẩu thịt, chút sữa hay chút canh gà. Tôi thì thầm vào tai nó rằng nó đã được sinh ra dưới một ngôi sao xấu vì nó đã rơi vào nhà của một kẻ bị mất phép thông công, ông ta cũng thế, keo kiệt từng miếng cơm, lấy cớ là để giữ gìn “đường nét” như một cô gái đẹp có lẽ đang cố gắng cho lần chinh phục sắp đến. Tôi đã ép con mèo phải tự chăm lo đường nét của nó, đề gìn giữ cái dáng vẻ thanh tao của giống mèo, khi nó phơi bộ xương sườn ốm nhách trên tấm chiếu, đặt dưới sàn nhà, nơi mà nó dùng như bàn ăn. Như một nhà thơ đã kêu gào: “Ôi lao động, cái luật thanh thản của thế giới!”, chính sự làm việc đã cứu tôi: tôi như được sống trong môi trường của mình, tôi như con cá được vẫy vùng trong nước. Tôi làm sống lại niềm vui sống và niềm vui này sẽ không bao giờ ra khỏi tôi, dù chỉ trong chốc lát, cho tôi được hít thở không khí của trời đất và thời gian.
Việc bán tài sản của tôi hết món này đến món khác đã giúp chúng tôi một ít tiền bạc, cái ít ỏi mà nhờ đó chúng tôi có những bữa ăn đạm bạc hằng ngày. Số chén cơm cho cả ba chúng tôi, bữa trưa và buổi tối, đã được nâng lên con số 12 và phần rau cũng được nâng lên. Thật là một bữa tiệc cho chúng tôi ngày Chủ Nhật, khi tự cho phép mình mỗi người một trái chuối! Tình trạng bị cô lập chúng tôi vẫn thế: không ai trong dòng họ dám gõ cửa nhà tôi và không một người bạn nào thoáng qua cửa sổ. Tất cả họ đều đi vòng để tránh phải đi qua con đường chúng tôi ở. Tôi không ra khỏi nhà nữa, cũng không ra khỏi cái bàn làm việc của tôi để loại cho những người quen một cuộc gặp gỡ mà họ sợ còn hơn là sợ ngọn lửa của địa ngục.
Dù thế, tôi không biết họ làm cách nào, những người bạn xa gần vẫn không quên tôi. Nhiều lần, khi tôi mở cửa nhà buổi sáng, tôi chợt thấy nhét dưới cánh cửa là một phong thư nhồi đầy giấy bạc. Chúng tôi khóc vì xúc động và chúng tôi tuyệt vọng vì không biết làm cách nào để tỏ lòng biết ơn những ngưới đầy lòng tốt mà chúng tôi không hề biết tên! Nhiều lúc, khi màn đêm buông xuống, vào lúc trời còn nhá nhem, có những lần tôi làm vài bước đi dạo ngoài đường. Bọn cú vọ lẽo đẽo một khoảng cách phía sau, nhưng rất khó cho chúng nhận ra mặt của những người, đạp xe ngang qua rất nhanh, vội vàng nhét vào tay tôi một phong thư hay một gói nhỏ. Chả thấy, chả biết! Tất cả những thao tác ấy xảy ra chớp nhoáng: mấy tay công an chỉ kịp thấy ánh đèn xe đạp nhấp nháy!
Tất cả những cử chỉ hào phóng mà tôi là kẻ được hưởng làm tôi suy nghĩ. Tôi nhận thấy cái bất lực của nhà cầm quyền trong việc ngăn những tin tức được truyền đi. Họ đã quyết định tước bỏ vĩnh viễn quyền công dân của tôi, ngăn cấm mọi liên lạc của tôi với thế giới bên ngoài. Trong nước, cái sợ hãi bị trừng phạt, trực tiếp hay xa gần, đã đánh gục những kẻ ngây thơ hay bạo gan dám liên lạc với một loại «bị bệnh dịch» như tôi, xoá sạch những tấm lòng đầy thiện ý. Dường như với tôi, bị cô lập cả trong và ngoài nước, cái chết tự nhiên sẽ tiếp nối không sớm thì muộn cái chết dân sự kia. Nhưng cái hy vọng đó xem ra là vô ích. Những tin tức dù bí mật nhất rồi cũng sẽ thoát ra ngoài xã hội, chúng lan truyền với tốc đô chóng mặt, nhờ những phương tiện truyền thông hiện đại và bởi cái tác động của tính tò mò mà mọi người đang cháy bỏng muốn biết những gi đang xảy ra ngầm trong hậu trường chính trị.
Tôi sẽ vén lên cái bất lực thứ hai của nhà nước: Có thể chăng họ không muốn cái chết của tôi, một cái chết mà họ không muốn bị bẩn tay và cẩn thận tránh không bị nhân dân quy trách nhiệm, nhưng họ sẽ không được nhìn cảnh tượng biến mất của tôi bằng cặp mắt thiếu thiện cảm. Họ đã dùng mọi thủ đoạn để loại bỏ một trong những giống trí thức tồi tệ này: bằng cách chối bỏ bất cứ phương tiện kiếm sống nào của người này. Tôi và gia đình không chết vì đói: chúng tôi quá khổ đau vì đói, mất hàng kí thịt trong cơ thể, trên mặt chúng tôi là những vết tích của cái bụng lõm sâu và cái bao tử trống không, nhưng chúng tôi chịu đựng được! Tiền thu được của những lần bán liên tiếp các tài sản giúp chúng tôi kéo dài những ngày dật dờ trong nhiều năm nhưng chúng tôi không cho phép những kẻ căm ghét chúng tôi được vui khi hay tin chúng tôi chết. Và, vào những khi chúng tôi cạn kiệt tiền bạc thì lòng hào hiệp của những người bạn trong nước hay đang ở nước ngoài ném cho chúng tôi những chiếc phao cứu hộ giúp cho chúng tôi nổi trên mặt nước thay vì phải chìm sâu đến tận đáy sâu của hư không. Nhiều người bạn trong nước cũng như ở Pháp, sau bốn mươi năm bặt tin, cứ tưởng rằng tôi đã bị gạt tên khỏi danh sách của những người còn sống. Nhưng tôi đã trả lời cho họ: “Tôi là một loài cỏ dại. Người ta có thể bước lên nó, đạp bẹp nó nhưng một khi có một giọt sương mai, giọt nước mưa hay một dòng nước mắt rớt xuống, nó lại bừng dậy mỉm cười trước ánh sáng mặt trời”. Nguồn sống của chúng tôi, bắt đầu khô cạn sau khoảng chục năm, lại được đong đầy bởi những dòng thác sôi sục của lòng hào hiệp của những người bạn, những người quen trong nước và trên thế giới. Họ là những kẻ không tên, không biết mặt nhưng không phải là không thận trọng, đã sáng tạo ra những phương cách tài tình chế nhạo tất cả những kẻ cầm quyền trên thế giới, bất kể cái hung tàn đần độn và cái cảnh giác gay gắt của chúng. Họ đã chung tay làm nên một mặt trận không chính thức nhưng năng động, mặt trận của lòng trắc ẩn và sự tử tế, để đưa bàn tay cứu giúp những nạn nhân của bọn độc tài khát máu. Cái nhiệt tình của họ sinh động là nhờ lòng vị tha và lòng vô tư đã gạt qua tất cả những toan tính của ích kỷ. Cái mục tiêu mà họ muốn đạt đến có hai khuôn mặt: một mặt là tinh thần nhân đạo và tình anh em giữa những người trí thức, mặt kia là cái kinh hoàng của những kẻ bạo ngược và sự tàn bạo. Cuộc chiến đấu của trí thức tiến công chống lại cái độc tài mù quáng và vô nhân đạo, bởi lẽ kẻ độc tài đã ra tay đoạ đầy người trí thức kia! Một trí thức, trong cái liêm chính của con người và với cái minh mẫn trong tinh thần, là một người lính chống lại sự chuyên chế chuyên lập đi lập lại những lời hứa hão huyền và sự bất lực đã phải cầu cứu đến đến sức mạnh của công an để giữ vững ngai vàng của họ.
Sau hai mươi năm, tôi đã hoàn tất công trình mà tôi tự đặt cho mình. Nhờ sự đồng hành của Montaigne, Rousseau, Eschyle và Virgile, tôi đã thoát ra khỏi sự cô lập và nỗi cô đơn của tôi, tôi như nở hoa trước ánh nắng của sáng tạo và dưới ánh mặt trời của tự do trong lòng tôi. Từ 1958 cho đến nay, gần bốn mươi năm hiện hữu, tôi đã sống qua những thử thách tồi tệ nhất mà người ta có thể gán cho một trí thức, một con người. Nhưng đó lại là những năm tuyệt vời mà tôi biết được. Tôi như được thăng hoa, sung sướng là đã thắng những nghịch cảnh mà người ta đã đưa ra để chận con đường sống của tôi, đã điều khiển những sinh hoạt của mình hướng theo sở thích và sự chọn lựa của mình và cống hiến những khả năng khiêm nhường của tôi cho dân tộc. Ý chí của tôi đã thắng những tâm địa độc ác và đồi bại của những kẻ đã thề phải hạ gục được tôi. Nhưng tôi vẫn tha thứ cho họ bằng cách lập lại câu nói bất hủ: «Chúng cũng không biết chúng đang làm gì!». Người ta sẽ quên đi Cinna, nhưng sẽ nhớ mãi August [1] và lòng khoan dung quảng đại của ông ta.

Năm 1989, vào tuổi tám mươi của tôi, những người bạn Việt Nam và Pháp mời tôi làm một chuyến viếng thăm Pháp. Sau Đại Hội VI Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, lần đầu tiên trong lich sử của họ, đã tuyên bố chấp nhận chủ nghĩa tự do còn hôi sữa, tôi lợi dụng cơ hội xin chiếu khán đi Pháp. Tôi cũng không mong mỏi đơn xin của tôi sẽ được chấp thuận, nhất là đối với một người mà hồ sơ chính trị lại dầy cộm như của tôi. Thật là bất ngờ đến sửng sốt, sau đâu chừng hai tháng chờ đợi, tôi nhận được cả hộ chiếu lẫn chiếu khán để đi Pháp. Rủi thay, chính phủ Pháp đã kéo nhiều tháng dài mới cấp chiếu khán nhập cảnh cho tôi. Thiệt tình! Thế giới đã bị lộn ngược.
Tôi xuống máy bay ở phi trường Orly vào một buổi chiều Tháng Mười. Những người bạn Việt và Pháp đã dành cho tôi một cuộc đón tiếp thật cảm động. Sau sáu mươi năm, tôi tìm lại tổ quốc của tri thức của tôi, cùng lúc với một sự hiếu khách đầy tinh tế và ân cần của những trái tim vàng. Cái cơ thể đã suy nhược bởi bốn mươi năm thiếu thốn về vật chất và khốn khổ về tinh thần đã xỉu ngã quỵ ra sàn. Đây là lần thứ nhất trong đời, ở tuổi tám mươi, tôi nhập viện vào một nhà thương của Pháp và nhận được những chăm sóc hết lòng. Mười ngày sau, tôi liên lạc lại với bạn bè và tiếp tục những sinh hoạt. Tôi được đài truyền hình TF1 phỏng vấn. Tôi đã làm hai cuộc hội thảo, một ở Clermont l’Herault, gần thành phố Monpelier, nơi mà ngày xưa tôi đến thu thập tài liệu về ông J. Bossière cho đề tài của luận án bổ túc Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chương của tôi; và một Đại Học Sorbonne ở Paris VII. Tôi đã đến thăm thủ lãnh Luật Sư Đoàn Paris.

Một biến cố quan trọng, vượt khỏi sự mong đợi của mọi người, đã bất ngờ cuốn hút chú ý của tôi, là cuộc nổi dậy của nhân dân các nước Đông Âu. Mỗi ngày, tôi theo dõi hàng giờ trên truyền hình và báo chí và cố gắng tìm hiểu cái gì muốn nói lên khi quần chúng đang gào lên những khẩu hiệu căm thù cộng sản và đã ném xuống chân ngai vàng những tên lãnh đạo và chúa tể cùng một giuộc, những kẻ, vì sự ngu đần của đầu óc, vô nghĩa trong nhân cách, thiếu vắng những khả năng để lèo lái đất nước, đã theo bước chân của Stalin, và đã mòn gối quần quỳ lạy tung hô Lenin va Stalin! Suy nghĩ thật kỹ, những ai đã quan sát và nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản, qua những áp dụng thực tiễn của nó hơn là những gì trong những bài học lý thuyết của nó, sẽ nhận thấy là sẽ rất khó cho các nhà lãnh đạo còn giữ được vị trí của họ trong hệ thống hành chánh ở một nước, trong chính phủ gọi là của nhân dân, bởi lẽ chính họ đã trâng tráo phạm pháp ở những nơi này mà không bị hề hấn gì, những định luật của kinh tế học và đã chà đạp hung bạo lên những nhu cầu hằng ngày, những niềm tin gốc rễ của con người. Cứ theo chiều hướng đó, họ còn có thể đứng vững bao lâu nữa trên một sự mất cân bằng cơ bản? Nhưng không ai có thể ngờ rằng sự sụp đổ của nó đến nhanh như thế. Nhiều ký giả đến hỏi thăm ý kiến của tôi về những biến cố có thể xảy ra ở Việt Nam. Họ hỏi tôi: «Ông nghĩ bao giờ thì chế độ Việt Nam sẽ sụp?» Tôi trả lời họ: «Tôi không làm nhà chiêm tinh và cũng không tham khảo mấy lá bài tây. Kiên nhẫn, kiên nhẫn đang ở trên trời, mỗi hạt li ti của yên lặng là cơ hội cho một trái cây chín tới!».
Đã sống đến tuổi tám mươi trong lòng tổ quốc, tôi bắt đầu nhận biết nhân dân Việt Nam. Nhờ sống bốn mươi năm dưới địa ngục cộng sản, cuối cùng tôi cũng hiểu đưọc những người đã thực hiện chủ thuyết đó. Tôi cho là một cuộc cách mạng bằng bạo lực là không đúng lúc, không hiệu quả và không nên có vì nó sẽ phát sinh ra những biến động phi thường, những hỗn độn không thể dập tắt, mà cả dân tộc sẽ khóc ra máu.
Cái tiêu chuẩn hợp lý và lô gic là tài năng phải đi song hành với đạo đức, vì lẽ nếu người trí thức tràn đầy tài năng mà đạo đức của họ vẫn chưa gợi được sự tin cậy. Họ hư hỏng vi chủ nghĩa cơ hội, lòng ích kỷ và tính kiêu ngạo của ho. Những kỹ nghệ gia và thương gia đã gặt hái được tài sản và tích luỹ được kinh nghiệm trong lãnh vực kinh doanh và kinh tế, nhưng nhiều khi họ rất cận thị trong chính trị, thường hay thiếu sự điềm tĩnh và khôn ngoan. Lòng yêu nước và tính trung thực là hai đức tính được quý trọng nhất, nhưng tài sức phải được sinh ra từ một văn hoá trí thức và khoa học. Có đảng phái chính trị nào mà không mong có trong hàng ngũ của mình những người kết hợp được văn hoá trí thức và khoa học cùng với lòng yêu nước và tính trung thực? Ngay cả khi vấn đề đa nguyên đa đảng, chuyện đã làm tốn bao giấy mực và nước bọt, chuyện mà đảng cộng sản phản đối kịch liệt với một sự bền bỉ không thể hiểu nổi, được tuyên cáo và công nhận, người ta cũng chưa biết được đảng nào có thể đạt được trong tức thời số lượng phiếu bầu phổ thông đủ để có thể thành lập một chính phủ cho cả nước.
Một lý do khác mà chúng ta phải ghi nhận. Dù có ghét hay thương cộng sản, mình cũng phải công nhận rằng những người lãnh đạo nó đã phải chịu đoạ đầy vì lòng yêu nước của họ. Những thế hệ kế tiếp và những người nối nghiệp thì không thể tự hào là có cùng cái hào quang đó. Dù vậy, trong số những kẻ kế thừa vẫn có những người mà lòng trung chính, dù thiếu khả năng, vẫn xứng đáng để chúng ta ngả mũ chào, còn bao nhiêu kẻ khác chẳng có chút khả năng nào lại thêm thiếu đạo đức nhưng hết mực bám vào Đảng vì Đảng đã tổ chức và bảo vệ quyền lợi cá nhân của họ. Những tay cộng sản đó hết sức quyết tâm chiến đấu đến chết cho Đảng. Cuối cùng, trong quần chúng người ta thấy hàng trăm ngàn người như thế, trong quân đội, trong nhà máy, trong tầng lớp nông dân, là những người đã hưởng một sự giáo dục tư tưởng trong nhiều năm, nhưng lại không có văn hoá, thiếu đầu óc phán xét và tinh thần phê bình và lại sa vào sự cuồng tín, có niềm tin sắt đá vào những sự thực được dạy bởi Đảng và sẵn sàng đổ máu, và nếu cần cả tính mạng để bảo vệ cái Đảng của Hồ Chí Minh, chống lại mọi kẻ đối nghịch và kẻ thù nào muốn lật đổ họ hay tiêu diệt họ. Quân đội một bên, một bên kia là hàng triệu kẻ cuồng nhiệt và kẻ cuồng tín, hai thành trì cò thể tiêu diệt mọi đám người muốn đến giải phóng Việt Nam. Họ phải ngưng tự ảo tưởng về mình, phải ngưng trò Don Quichotte.
Cái bí mật của dân chủ là nằm ở sự vận hành của nó, trong việc phán đoán những quyền tự nhiên và những tự do của con người, vì thế nó đòi hỏi phải có một sự hiểu biết tối thiểu về quyền công cộng và luật pháp quốc tế. Những điều kiện của dân chủ là có quan hệ đến kinh tế của nước liên hệ mà sự thịnh vượng, dù đã bị giới hạn, là rất cần thiết cho sự thành công của nó, cho niềm vui hưởng những quyền tự do và những quyền của con người. Đối với những gì mà cộng sản đã tuyên truyền cho chủ nghĩa Marx - Lenin, người ta cũng phài làm như thế để quảng bá dân chủ. Muốn áp dụng dân chủ, chúng ta cần phải học những nguyên tắc và tổ chức những định chế cho phép sự vận hành nó. Bản chất của dân chủ, trong ý nghĩa sâu sắc và cái tác dụng toàn diện của nó, dân chủ gồm hai nội hàm không thể phân ly, cái này dính với cái kia: đó là nội hàm ‘Chính phủ do dân’ và nội hàm ‘Chính phủ  dân’. Thật là xấu hổ nếu cứ mưu mẹo lập lờ trên chữ nghĩa và cho rằng ‘Chính phủ cho dân’ là đủ. Đó là điều bịp bợm. Nếu nhân dân không hành động và kiểm soát thì không một ai có thể thay thế vào chỗ của họ. Dưới danh nghĩa là làm CHO dân, họ đã phạm bao nhiêu điều bỉ ổi và đã lấy những quyết định gây thiệt hại ít nhiều cho quyền lợi của nhân dân.
Nhân dân có quyền đặt cho Nhà Nước vài câu hỏi: trước đợt thuỷ thiều đang dâng của dân chủ và chủ nghĩa tự do, tại sao các ông cứ cứng đầu chối bỏ cái hiện thực và các ông cứ bám chặt một cách tuyệt vọng vào cái tôn chỉ đã lạc hậu không còn cứu vãn được gì nữa ? Giữa chủ thuyết của các ông và quyền lợi của Tổ Quốc vá Nhân Dân, các ông nghiêng về phía nào ? Những đoá hoa đang cắm ở bình, hoa mà các ông đã du nhập từ nước ngoài vào, nay đã héo tàn. Cho đến bao giờ các ông không còn khư khư yêu mến cái xác ướp không bao giờ còn có thể hồi sinh được nữa ? Và, nhất là hãy giải thích cho nhân dân tại sao các ông lại căm ghét sự đa nguyên đa đảng như thế! Thật xấu hổ khi thấy những kẻ cuồng tín gồm một phần lớn là những người đã nhận sự giáo dục và lệnh của các ông, và số còn lại là những con cừu thiếu văn hoá, không chút gì hiểu biết về thực tiễn của thế giới, ù lì không thể thấm hiểu được những đổi mới, những thay đổi. Tới nay thì các ông cũng buộc phải thú nhận cái thất bại tả tơi trong xã hội và chính trị, nơi mà cái độc quyền chính trị đã cho phép một sự phình to của quyền lực, mở cửa cho một sự bùng nổ của ích kỷ; đạo đức của những người có quyền có thế càng ngày càng suy sụp và mức phạm tội hình sự của họ càng ngày càng tăng với một tốc độ chóng mặt. Các ông phải công nhận thêm rằng, trong lãnh vực kinh tế, các ông đã chịu một thảm bại không thua gì cái thảm bại của trận Waterloo. Bởi cái ngu dốt và thói con vẹt của các ông đã dẫn dắt các ông theo gương của những ông anh, các ông đã khinh thường khoa học và thực tiễn, nói một cách gọn là những định luật khoa học. Kết quả không cần phải chờ lâu: sự sụp đổ, đẩy cả nền kinh tế duy y chí vào đổ nát, hàng triệu người lao động tay chân và trí óc bị buộc phải thất nghiệp và khổ sở kinh hoàng và nền kinh tế của cả nước với ước vọng là sẽ cất cánh, nhưng lên khỏi mặt đất là chỉ những khu vực không đáng kể như công nghiệp nhỏ, thủ công mỹ nghệ và nông nghiệp, và cho thấy không thể bay cách nào hơn là cứ la đà trên mặt đất ! Nếu, những gì liên quan đến những gì về xã hội, chính trị và kinh tế, là một sự sụp đổ hoàn toàn, thì thứ gì còn lại được an toàn vô sự trong một đất nước mà những nền tảng đã sụp, và, mà sự phân rã không thể che dấu được? Âm điệu rỗng tuếch của những lời tuyên bố và những lời hứa làm tức tối những người đang bị dính vào nỗi khổ đau không dứt, những người đang tự hỏi tại sao Đảng không áp dụng cho chính họ điều mà họ đã dạy «Một tội tự thú là một tội đã được giảm 50% án phạt». Làm thế nào những người cộng sản để giài quyết tình trạng xung đột quyền lợi của Đảng và quyền lợi của Dân Tộc và Tổ Quốc ? Quyết định của quý ông sẽ là cơ sở để Dân Tộc và Lịch Sử dùng để phán xét các ông và Đảng của các ông.
Công luận nhận thấy các ông đã làm một bước tiến trên con đường «đổi mới». Như thế là các ông bắt đầu thú nhận cái thất bại của các ông. Nhưng các ông, cũng như nhân dân Việt Nam, có bằng lòng về giải pháp nửa chừng chỉ có một số tác động điều trị trên một vài lãnh vực được chỉ định, trong khi cơn bệnh đã tấn công toàn cơ thể của quốc gia và cơ cấu của nó? Các kiêu hãnh về những hy sinh đáng kể trong đời mình mà với chúng các ông tỏ lòng biết ơn Đảng. Chủ nghĩa anh hùng của các ông có làm cho các ông dám hy sinh Đảng của quý ông trên bàn thờ của Tổ Quốc và Nhân Dân? Đất Nước và Nhân Dân Việt Nam đang chờ câu trả lời của các ông.
Hà Nội ngày 13 tháng 5 năm 1991
Nguyễn Mạnh Tường [*]

[1] Cinna và August là hai nhân vật trong vở kịch Cinna ou la Clémence d'Auguste (Cinna, hay sự ân xá của đại đế Augustus). Cinna nghe lời người yêu là Émilie mà rắp tâm mưu sát vua để trả thù cho cha của Émilie bị vua giết tội. Mặc dấu mưu đồ bị lộ, Cinna và Émilie không bị trị tội mà được vua August ân xá và ban chức tước.
[*] Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội. Ông theo học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú tài năm 16 tuổi. Sau đó du học tại Đại học Montpellier ở miền nam nước Pháp năm 1927. Khi mới 22 tuổi ông trở thành người Việt đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp: Ưu hạng Luật khoa (Luận án: L'individu dans la vieille cité annamite, Code des Lê. D.E., Droit, Montpellier, Imp. de la Presse Montpellier 1932) và Tiến sĩ Quốc gia văn chương (với luận án L'Annam dans la littérature française, D.E., Lettres, Montpellier 1932). Báo chí thời ấy đã coi người thanh niên Việt Nam trong một năm đỗ 2 bằng tiến sĩ là hiện tượng chưa từng có trong nền giáo dục đại học Pháp. Bạn tri âm của ông là Nguyễn Văn Huyên, người cũng làm luận án Tiến sĩ Văn khoa tại Pháp.
Trở về Việt Nam năm 1936, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn học Pháp ở trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectorat), hay còn gọi là trường Bưởi (từ 1945 đổi tên thành trường Trung học Chu Văn An). Bất mãn với chính sách kỳ thị của Pháp khiến ông bỏ dạy và mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự số 1 và số 2 phố Mai Xuân Thưởng. Về sau gia đình đã hiến tất cả cho Nhà nước, làm trụ sở cơ quan tiếp dân của Thanh tra Chính phủ.

Trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp ông làm luật sư và dạy học tại Thanh Hoá và khu ba nói chung, giữ chức vụ Phó Giám đốc Trường Sư phạm cao cấp liên khu Bốn. Đến khi hòa bình lập lại năm 1954, ông trở về Hà Nội, là giáo sư trường Đại học Văn khoa (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội).
Sau 1954 ông giữ các chức vụ Trưởng khoa Đại học Luật Hà Nội, Phó chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ tịch Đoàn Luật sư, Phó Trưởng khoa Đại học Sư phạm Hà Nội; thành viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Hội Hữu nghị Việt-Pháp, Hội Hữu nghị Việt-Xô và Uỷ ban Bảo vệ Hoà bình Thế giới, sáng lập viên Câu lạc bộ Đoàn Kết, Phó hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chuyên viên nghiên cứu giáo dục. Ông tham gia phái đoàn chính phủ dự hội nghị trù bị Đà Lạt, dự các hội nghị hoà bình thế giới ở Bắc Kinh và Vienna.
Đoàn đại biểu Việt Nam đi dự Hội nghị Hòa Bình ở Vienne (1952).
Người đứng giữa ôm cặp là Ls. Nguyễn Mạnh Tường

Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài "Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ". Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông nêu hai nguyên nhân khiếm khuyết về dân chủ thời bấy giờ:
a.    Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.
b.    Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân ông trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.

Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi... nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm, Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.

Ngày 30 tháng 10 năm 1956 luật sư Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đã đọc một bài diễn văn tại một cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, phân tích sâu sắc những sai lầm của Đảng và Nhà nước trong cải cách ruộng đất và đề ra phương hướng tránh mắc lại. Sau phát biểu này, ông bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp.

Ông mất ngày 13 tháng 6 năm 1997 tại Hà Nội, thọ 88 tuổi.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường có vợ là bà Tống Lệ Dung, có ba con, một trai và hai gái. Người con trai cả (Nguyễn Tường Hưng nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch các Bộ: Mỏ và Than, Năng lượng và Công nghiệp) và người em ngay sát ông đều đã nghỉ hưu. Con rể ông là nhạc sĩ, nhà lý luận phê bình âm nhạc Hồ Quang Bình, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Âm nhạc Hà Nội.


Tác phẩm

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường để lại 14 tác phẩm bằng tiếng Pháp và 4 tác phẩm tiếng Việt.

• Văn Phạm Việt Nam (cùng Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim) (1941)
• Việt Nam Tự Điển (Hội Khai Trí Tiến Đức)
• Construction de l'Orient (1937)
• Sourires et Larmes d'une Jeunesse (1937)
• Pierres de France (1940)
• Apprentissage de la Méditerranée (1940)
• Le Voyage et le Sentiment (1940)
• Một Cuộc Hành Trình (1955)
• Un Excommunité-HàNội: 1954-1991: Procès d'un intellectuel (Quê Mẹ Paris xb 1992)
• Lý luận giáo dục châu Âu: Từ Érasme tới Rousseau thế kỷ XVI, XVII, XVIII(Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội – 1994, 530 trang)
• Aikhylos (Eschyle) và bi kịch cổ đại Hi Lạp (Nhà xuất bản Giáo dục 1996)
• Virgile - nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La mã cổ đại (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1996, 342 trang)...




“…nếu chính trị giác ngộ, vui lòng tôn trọng pháp ly, thiết lập một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lãnh đạo pháp lý, nhưng đồng thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lý và pháp trị thì nhất định chính trị khôi phục được uy tín và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ…”

Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất 
XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO 
(Bản tham luận mà Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30.10.1956)
Nguyễn Mạnh Tường
Thưa các quí vị,

Hội nghị Mặt trận Trung ương họp để nghiên cứu các sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất và chính sách sửa chữa sai lầm ấy. Hôm nay tôi được đúc kết trước toàn thể Hội nghị các ý kiến mà trong mười ngày vừa qua tôi đã trình bày trong tổ thảo luận, với tinh thần thận trọng của người trí thức không bao giờ quên trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử nước nhà.

Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao Động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được? Nếu chúng ta duy tâm và tin rằng linh hồn còn tồn tại thì một phần nào ta chuộc lại được tội lỗi của ta. Nhưng ta duy vật và các người ấy lúc chết cũng là duy vật. Do đó, cái nỗi khổ cực của họ ta biết rõ rằng bây giờ ta không thể nào thủ tiêu được nữa. Quyền hạn của ta không tới đó. Nhưng cái gì ta có thể làm được, ta cần làm, để như là đền bù một phần nào sự tổn thiệt của các người ấy, và chứng minh ta thấm thía nỗi đau khổ của họ khi họ từ trần là ta cương quyết rút bài học kinh nghiệm đau đớn và sửa chữa các sai lầm nghiêm trọng mà họ là nạn nhân.

Với tinh thần của một người trong quần chúng, của một người công dân đau khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội, tôi xin phép trình bày mấy ý kiến xây dựng. Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy nguyên các sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, nhưng theo ý tôi các sai lầm này chỉ là biểu hiện điển hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Đảng Lao Động. Do đó tôi xin được góp ý kiến xây dựng quan điểm lãnh đạo của Đảng Lao Động.

Tại sao tôi lại tin như vậy? Là vì, không những trong Cải Cách Ruộng Đất chúng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết thê thảm. Do đó, nếu chỉ cục bộ hoá các sai lầm, chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ khiếm khuyết với sự tín nhiệm của tất cả các đảng viên Đảng Lao Động, với sự mong đợi của toàn dân. Chúng ta phải kiên quyết không cho các sai lầm ấy tái diễn và tác hại nữa. Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với các người đã chết oan.



Tình hình nước ta hiện thời ra sao? Tình hình ấy có bi quan không? Đó là vấn đề nhận định thôi. Nhưng cái chủ yếu là ta không nhìn tình hình ây với con mắt bi quan. Vậy sự thật khách quan như thế nào? Nhìn vào nông thôn, ta thấy hiện thời tình trạng thiếu đoàn kết rất phổ biến. Vì thi hành sai chính sách cải cách, ta đối lập các từng lớp trong giai cấp nông dân, cán bộ cũ và mới, chi bộ cũ và mới của Đảng. Trong khi đập tan giai cấp địa chủ, ta không phân biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người hoặc già cả hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu diệt. Ta chỉ cần đọc lại các bài giáo huấn cho đồng bào nông thôn trong báo Nhân Dân là ta đủ hiểu mặt mũi nông thôn hiện giờ ra sao. Nhìn vào các công xưởng, công trường, ta thấy gì? Cứ đọc báo Nhân Dân thôi, ta thấy Chính phủ gửi các phái đoàn đi thăm các anh chị em công nhân, uỷ lạo họ, bắt buộc thi hành quy chế lao động mà Chính phủ đã ban ra. Nghĩa là thế nào? Nghĩa là giai cấp công nhân đã phải lao động sản xuất hai năm nay mà không được bồi dưỡng đúng mức. Lắng nghe dư luạân đồng bào Hà Nội thôi, ta được biết rằng có it ra một doanh nghiệp quốc gia lãng phí bao nhiêu triệu trong khi dưới chế độ Pháp thuộc, cũng doanh nghiệp ấy mang lại cho thực dân đế quốc các số lãi khổng lồ.
Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đã biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lãng phí bao nghìn triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho mình, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân, nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của mình là phải bình ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch.
Về hộ khẩu thì cán bộ tỏ vẻ không phải là nhằm duy trì trật tự an ninh, phá vỡ cơ sở của địch, trái lại quấy nhiễu nhân dân, tạo ra một đời sống thành thị điêu đứng cho tất cả. Nếu các vị cần những dẫn chứng cụ thể, tôi chỉ xin nhắc lại hồ sơ mênh mông, thu lượm các thắc mắc cay đắng của đồng bào Thủ đô trong Đại hội lần thứ ba của nhân dân Hà Nội vừa họp cách đây hai tháng.
Nói về chính sách khôi phục kinh tế, ta thấy gì? Số vốn mà các nhà công thương mang ra kinh doanh chỉ là một phần ti tiểu, số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa lý gì. Trái lại ta thấy tất cả một phong trào các nhà tư bản thu hẹp hoạt động của họ, hoặc “chuyển hướng” bằng cách đâm ra quay chỉ, bán nước mía, hay dệt vài thước vải vớ vẩn, hoặc đóng cửa ăn vào vốn để khỏi đụng chạm đến Sở Lao động vì vấn đề công nhân, với Sở Công thương vì vấn đề đăng ký và nguyên liệu sản xuất, với Sở Tài chính vì thuế khoá đặc biệt. Thuế bổ sung đã đưa bao nhiêu người đến chỗ phá sản, có kẻ đến chỗ tự sát. Các người tiểu thương buôn thúng bán mẹt, đẩy chiếc xe hàng tiều tuỵ trong phố cũng “được” nộp thuế, cũng như các người suốt ngày làm việc ở công sở hay công xưởng, tối về thức đêm dệt vài thước kiếm thêm tiền độ thân. Hàng trăm, hàng nghìn công chức cũ về hưu, với gia đình của họ, trước đây sống bằng lương hưu trí, hai năm nay không được ai chiếu cố đến, chết dần chết mòn, có người đâm đầu xuống sông tự tử, có người hai lần uống độc dược để quyên sinh.
Còn như các cán bộ thì ta có cần nói đến không? Ta cứ trông mặt mũi, quần áo họ, ta chỉ cần hỏi con số những người qua các phòng khám bệnh, các bệnh viện, ta liếc mắt nhìn họ ăn uống những gì trong bữa cơm, là ta đủ hiểu khổ cực của họ.
Ta quên thế nào được các đồng bào tập kết ra ngoài Bắc, số phận con cái họ ở Hà Nội, Hải Phòng, số phận chính của họ bi đát quá nỗi! Khổ cực nhất cho các anh chị em là không nương tưa được vào một đời sống gia đình đề khuây khoả trong lúc thảm sầu.
Các hiện tượng trên đây có đúng không, tôi chỉ yêu cầu các vị đọc báo Nhân Dân, nghiên cứu các hồ sơ chồng chất lên ở Mặt trận Thành Hà Nội sau Đại hội lần thứ 3 vừa rồi, nghe ngóng lời than phiền của quần chúng, nhìn nhận các quang cảnh diễn ra dưới mắt của các vị là các vị đủ hiểu rồi. Quả thực như ông Trường Chinh đã tuyên bố, uy tín của chính phủ, của Đảng bị tổn thiệt rất nhiều. Thế tại sao đồng bào chúng ta lại khổ cực? Phải chăng vì cán bộ của chúng ta non, hẹp hòi, chưa thấm nhuần lý luận cách mạng, không tôn trọng giá trị của con người, các nhu cầu và đòi hỏi chính đáng của nó? Phải chăng vì ta đang mắc trầm trọng bệnh ấu trĩ của cách mạng? Các điều đó là có, ta không hề chối và ta cũng không thể chối cãi được. Nhưng nhận định như vậy vẫn còn hời hợt. Ta phải đi sâu hơn nữa. Khi trong Cải Cách Ruộng Đất của ta, ta thấy bao nhiêu người bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân ưu tú đã từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời ở nông thôn vẫn có người bị đánh đập, ngược đãi, khi ta không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận định rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ quan trọng là vấn đề lãnh đạo của Đảng Lao Động.
Do đó, tôi yêu cầu các vị cho phép tôi bắt đầu nghiên cứu các sai lầm trong Cải Cách đã rồi sau khi truy nguyên các sai lầm ấy, đề đạt mấy ý kiến về vấn đề lãnh đạo.

I. Vấn đề Pháp lý trong Cải Cách Ruộng Đất
Ta đã sai lầm nghiêm trọng trong Cải Cách Ruộng Đất, ta có thể tránh được sai lầm ấy mà vẫn bảo đảm được đường lối căn bản của cách mạng không? Tôi giả nhời cương quyết rằng có.
Đường lối cách mạng của ta đòi hỏi gì? Ruộng phải trở về người cày. Điều này rất đúng không ai có thể chối cãi được. Nông dân là đại đa số trong nhân dân, nông dân là quân đội chủ lực của cách mạng, nhất định cách mạng không thể nào thành công được nếu ta không thoả mãn nhu cầu thiết yếu và cấp bách của nông dân. Không cần phải là một nhà chính trị cao, một nhà cách mạng thạo, cũng nhận thấy điều ấy. Chỉ cần nhìn lịch sử cách mạng từ thời kỳ cổ đại đến giờ là đủ hiểu rồi.
Như vậy về nguyên tắc, ta tán thành chủ trương Cải Cách Ruộng Đất.
Về phương pháp, ta có nên ban ơn cho nông dân không? Nhất định là không. Nông dân ta trong bao nghìn năm đã khổ cực dưới chế độ bóc lột phong kiến và một trăm năm nay dưới chế độ bóc lột thực dân. Đồng bào nông thôn ta lầm than như vậy, đã mất hết khí thế con người. Ta cần khôi phục khí thế của người nông dân, xây dựng cho họ tinh thần chủ nhân ông trên đất nước. Do đó ta thấy cần thiết phải phát động tư tưởng của họ để họ nhận được phân minh kẻ thù của họ, để họ vùng dậy nắm lấy quyền thế ở nông thôn.
Nhưng từ đây trở đi, ta thấy khởi phát các sai lầm. Sai lầm này, ông Trường Chinh đã nhận thấy là ở chỗ: ta quên hẳn ta hiện thời nắm chính quyền và chính quyền ấy, nếu ta biết sử dụng nó, khai thác nó một cách sáng suốt, nhất định ta vẫn thành công nhưng ta tránh được bao tai hoạ làm ta đau khổ hiện thời. Con đường ông Trường Chinh đã đi để tiến tới kết luận ấy là con đường chính trị. Các anh em tôi là những nhà luật học, chỉ là nhà chuyên môn và lý luận trên cơ sở chuyên môn thôi, đã trông thấy kết luận ấy ngay từ khi chính sách phát động và Cải Cách được đề ra. Tại sao? Vì giải pháp chính quyền cụ thể là giải pháp pháp lý, đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của cách mạng nếu ta biết mang nó ra phục vụ chính trị và cách mạng.
Ta muốn gì? Tìm kẻ thù của nông dân, của cách mạng để tiêu diệt nó. Nhưng đồng thời nếu ta biết lo xa, nhìn xa, ta cũng không quên rằng công lý của cách mạng, muốn bảo toàn được uy tín và thắng lợi của cách mạng, phải biết đánh đúng địch. Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa. Muốn chứng minh điều này ta chỉ cần nhìn thực tế: kết quả sai lầm ta đã phạm khi thực hiện khẩu hiệu này rất tổn thiệt cho uy tín của cách mạng và cho bản thân bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Nếu không phải đó là phản lại cách mạng thì là gì?
Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: “Thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan”. Thế ta có lo ngại rằng 10 địch sót không? Không, vì ta nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành công. Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm, nhất định hoặc cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ: không một người oan nào bị kết án. Do đó, không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.
Làm thế nào thực hiện được khẩu hiệu ấy? Kinh nghiệm pháp lý của hàng nghìn năm lịch sử thế giới cho ta biết rằng ta có phương pháp để tìm đúng địch mà đánh, không đánh tràn lan, không đánh người vô tội. Tôi xin phép nhắc tóm tắt sau đây các nguyên tắc căn bản mà pháp lý nêu lên để đạt mục đích ấy.
Một nguyên tắc đầu tiên là không hình phạt các tội đã phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra. Tại sao? Vì rằng vấn đề bằng chứng khó giải quyết được. Tang vật đã mất, nhân chứng có người đã từ trần, có người không nhớ rõ các sự việc họ đã mục kích. Hơn nữa, sở dĩ hình luật phạt các tội, là vì các tội ấy đã xâm phạm vào trật tự xã hội: tác hại cho nạn nhân và gây tác dụng xấu trong quần chúng. Nhưng khi tội đã phạm quá lâu, trật tự xã hội hết bị xâm phạm rồi, nạn nhân không còn đau khổ, tác dụng xấu của tội cũng hết, thời gian đã hàn gắn các vết thương. Bây giờ lại vạch chuyện cũ thì không những khó thu thập được bằng chứng kết tội mà lại gây một sự náo động trong xã hội không cần thiết. Chính xã hội thấy “quên” lợi hơn là “nhớ”.
Một nguyên tắc thứ hai là trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân phải chịu, không có trách nhiệm chung của vợ con, của gia đình. Nêu trách nhiệm truớc hình luật của các người “có quan hệ” với phạm nhân không những là bất công mà lại còn gây các sự rung động vô ích trong xã hội. Hơn 400 năm nay không một nước Tây phương nào làm việc đó nữa. Trách nhiệm trước hình luật chỉ là một trách nhiệm cá nhân mà thôi. Không những thế, về phương diện nhân đạo, thì các phạm nhân quá già được miễn nghị, miễn tố và các vị thành niên được chiếu cố.
Môt nguyên tắc thứ ba là muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung khai một cách cụ thể, rõ ràng, chắc chắn. Một nhân chứng thôi chưa đủ, ít ra cũng phải có hai nhân chứng cung khai phù hợp với nhau mới được coi là đáng kể. Cung khai của các nhân chứng phải ăn khớp với nhau và trong quá trình phạm pháp các tang vật thu được phải có tác dụng hợp lý, sát hợp với kết quả do cuộc điều tra mang lại.
Một nguyên tắc thứ tư là thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ luật sư, khi nào là một trọng tội, Toà phải cử luật sư bào chữa không, cho bị can. Trong tất cả, giai đoạn điều tra ở trình độ công an thẩm vấn trong phòng dự thẩm, buộc tội trước toà, quyền lợi của công tố viện ngang với quyền lợi bị can, nghĩa là nếu công tố viện đưa hết lý lẽ để buộc tội, bị can đưa hết lý lẽ để minh oan. Cuộc đấu lý diễn ra trong tất cả quá trình điều tra, truy tố, xét xử giữa công tố viện và luật sư. Các vị thẩm phán ngồi xét xử phải là vô tư, đứng giữa để theo rõi cuộc đấu lý diễn ra dưới mắt mình. Như thế mới nhận định đúng và xử công minh. Toà án xét xử không chịu lệnh của ai trong khi xét xử, chỉ biết xét xử theo lương tâm của mình và căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ, sau khi nghe hai tiếng chuông buộc tội và gỡ tội. Người thẩm phán phải được đủ đảm bảo để làm nhiệm vụ của mình mà không sợ ai khiển trách hay gây khó khăn cho mình được. Khi điều tra thẩm vấn, tuyệt đối cấm không được dùng phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị can, mớm cung cho bị can, doạ nạt hay dụ dỗ hắn. Khi nào có điều nghi ngờ thì bị can được miễn nghị. Nếu bị kết án thì còn quyền chống án lên toà trên. Nếu bị kết án tử hình thì lại còn quyền xin ân giảm trước vị Chủ tịch Chính phủ. Con người của bị can, trong tất cả quá trình truy tố và xét xử phải được tôn trọng triệt để, khi bị can ra trước toà thì không được xiềng xích họ và không lúc nào được dùng nhục hình đối xử với họ.
Theo một nguyên tắc căn bản, không phải vì một người tác hại cho một người khác mà người ấy phải chịu trách nhiệm trước hình luật. Tác hại cho ai thì chỉ nêu trách nhiệm về phương diện dân sự, nghĩa là bồi thường thôi — của người đã tác hại. Muốn truy tố người ấy để thi hành hình luật đối với hắn thì phải chứng minh rằng hắn phạm một tội, nghĩa là phạm vào một điều khoản nào qui định trong hình luật, và hình luật không bao giờ có tác dụng đối với quá khứ cả: nếu hành động của một người diễn ra trong thời kỳ mà hình luật chưa quan niệm là một tội thì người ấy không thể mang ra truy tố được. Không những bị can phải phạm một tội đã qui định rồi trong pháp luật, mà ta lại còn phải xét xem rằng lúc phạm tội ấy bị can có ý thức, có ý chí phạm pháp hay không, hay là vô tình mà phạm pháp. Sự đối xử trong hai trường hợp ấy khác nhau.
Lúc tôi nhắc lại các nguyên tắc này thì có vị cho rằng như thế là phiền phức, phức tạp. Dĩ nhiên rồi, nhưng tất cả vấn đề là: ta có muốn giết người vô tội không? Nếu không thì không thể nào làm khác được. Hơn nữa, muốn nhận định vấn đề cho đúng, ta không nên đứng vào vị trí một người hiện thời không dây dưa với pháp luật, một người ở một cương vị chính quyền.Ta phải đứng vào cương vị của bị tố nhân; lúc ấy vấn đề rất sáng tỏ, không những ta đòi thi hành các nguyên tắc pháp luật, ta còn cố gắng tìm hiểu thêm các nguyên tắc mới để đảm bảo người oan khỏi bị chết.
Nếu mang ra áp dụng các nguyên tắc ấy vào cuộc Cải Cách Ruộng Đất của ta, ta sẽ làm thế nào? Thủ tục cải cách cứ diễn bài nhưng sự trừng trị bọn cường hào gian ác hay phản động, ta sẽ không giao cho một toà án nhân dân, đặc biệt như ta đã làm với tất cả sự thiếu sót về phương diện pháp lý mà ta đã biết. Trái lại, sau khi phát động tư tưởng của nông dân, ta sẽ nghe lời họ tố cáo kẻ thù của họ. Ta sẽ uỷ nhiệm toà án nhân dân thường lập các hồ sơ, để toà án, với bộ máy và kinh nghiệm của nó, tiếp tục điều tra, kiểm tra, lấy cung chứng, truy tố, luận tội, xét xử. Ta đảm bảo triệt để cho bị tố nhân quyền bào chữa của họ, ta yêu cầu các luật sư làm tròn nhiệm vụ của họ, ta tôn trọng triệt để con người của bị tố nhân. Ta chỉ thù ghét và kết án, trừng phạt tội của nó đã phạm thôi. Ta tin tưởng ở toà án, ta đảm bảo cho các vị thẩm phán làm việc ngoài sự điều khiển của chính quyền, một cách biệt lập, tôi nói biệt lập chứ không phải độc lập, theo lương tâm của các vị và căn cứ vào hồ sơ và kết quả của cuộc thẩm vấn.

II. Các nguyên nhân sai lầm

Theo như tôi nhận định, với chủ quan của tôi, các nguyên nhân sai lầm thuộc hai loại, có loại trực tiếp, nhưng nếu ta phân tích loại này thì ta sẽ đi tới một loại thứ hai mà theo tôi là những nguyên nhân chính, ta cần chú ý.
Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngay. Sở dĩ mà khi nghiên cứu chính sách cải cách, ta không nghĩ đến giải pháp pháp lý đưa ra để điều hoà với giải pháp chính trị, phải chăng là vì ta không biết giải pháp pháp lý? Nếu không thì là sự thiếu sót nghiêm trọng của cấp lãnh đạo. Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu. Sở dĩ ta không để ý đến giải pháp pháp lý là vì ba lý do:
1.    Quan điểm ta-địch, thù-bạn của ta rất mơ hồ
2.    Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý
3.    Ta bất chấp chuyên môn

Quan điểm bạn-thù, ta-địch mơ hồ — Các hiện tượng trên trường quốc tế và trong nước rất nhiều và rõ rệt.
Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy những điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa. Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người ấy được khôi phục công quyền, đảng tịch, cương vị, người nào bị kết án tử hình rồi thì được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà Tổ quốc ghi tên muôn đời.

Trong nước ta, qua cuộc Cải Cách Ruộng Đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến (ở ngoại thành Hà Nội) bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình. Ấy là không nói đến các người trong quần chúng bị hi sinh oan. Đối với các nạn nhân này, ta có thể một phần nào hiểu các sai lầm đã phạm, vì họ thiếu hay không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các đảng viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đã biết, thì ta tự hỏi trong đầu óc của những người xử họ có cái gì mà ta gọi là lý tính không? Ngay một thường dân, không phải là một nhà chính trị hay văn hoá, chỉ sử dụng cái lẽ phải của mình thôi, cũng không thể nào hỗn hợp người xấu với kẻ tốt như vậy được. Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ trên xuống dưới, tham gia Cải Cách Ruộng Đất, không phải là người điên cuồng, cũng không phải là người chủ mưu, dụng tâm phá hoại. Nếu như thế thì ta sẽ gửi họ đến bác sĩ chuyên môn chữa bệnh thần kinh, hay đến công tố viện của các toà án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậy. Do đó, kết luận mà ta tiến tới, dù muốn hay không, là các các cán bộ ấy có một quan điểm rất mơ hồ về ta-thù, bạn-địch.
Còn gì đau đớn hơn là câu ta được nghe “ta đánh cả ta nữa”. Nếu như vậy thì ta cần phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc lại các bài gần đây đăng trong báo Nhân Dân của các đồng chí bị xử trí oan, hoặc các đồng chí ấy nói, hoặc không nói, nhưng ta đều hiểu các đồng chí ấy nghi ngờ những người kết án các đồng chí, không phân biệt được bạn và thù. Vì vậy nên đánh cả bạn, giết cả bạn.
Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu? Phải chăng ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến nỗi mù quáng, ở một tả khuynh mà ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng? Đây không phải là nơi và lúc mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấy. Chủ yếu là ta nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất mơ hồ. Nếu ta không kịp sửa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm thù bạn, một ngày kia ta sẽ lại phải khóc trên kỷ niệm của những vị có công nhất với cách mạng, với nhân dân. Ta cương quyết không thể nào để tình trạng ấy tái diễn ra được.

Bất chấp pháp luật — Giáo sư Ba Lan Mahelli nói chuyện ở Bộ Tư pháp, cho ta biết rằng bên Ba Lan, khi cách mạng thành công, các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm nhận các cương vị lãnh đạo trong ngành tư pháp, để bó buộc tư pháp phục vụ triệt để chính trị mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của pháp lý. Kết quả là chẳng bao lâu bộ máy tư pháp xộc xệch, không những không củng cố được chính thể cách mạng, ngược lại, tác hại quá nhiều gây bao nhiêu khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy được uốn nắn kịp thời: hoàn cảnh khách quan đã dạy một bài học cho chủ quan các nhà chính trị, để lãnh đạo chuyên môn phải nhập trường học tập, trước non 2 năm, sau 5 năm, để qua pháp lý, phục vụ chính trị và cách mạng.
Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên. Trong giai đoạn đầu tiên, chính trị say sưa với các thắng lợi đã thu —và dĩ nhiên các thắng lợi ấy vĩ đại— lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện.
Nhưng quản trị một nước, đặc biệt một nước đang xây dựng chính quyền cách mạng, nghĩa là một cái gì vô cùng mới mẻ và khó khăn — không giống như là đề ra đường lối và khẩu hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng. Hai khu vực hoạt động ấy tuy quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mỗi ngành hoạt động có kỹ thuật và quy luật của nó. Lúc nhà chính trị bao biện, bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử, thì chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện thời làm chúng ta đau xót. Trên con đường bao biện và tự mãn ấy, các nhà chính trị đã bị thúc đẩy bởi những thành kiến đối với pháp lý và tin rằng pháp lý là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng, trái lại, chính pháp lý giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là chính trị tự đặt mình lên trên pháp luật. Ngay trong trường hợp chính trị sau khi đặt mình lên trên pháp luật, còn giữ vững thái độ chân chính, cũng đã gây ra bao khó khăn rồi. Pháp luật chủ yếu đề ra những cái gì có thể làm được, cái gì không được phép làm, do đó nhân dân vững tâm biết rõ đường mà đi. Nhưng tâm hồn quần chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng biết rõ rằng cái gì bó buộc mình cũng đồng thời bó buộc nhà cầm quyền. Trái lại, khi pháp luật chỉ gò bó quần chúng mà không gò bó nhà cầm quyền thì nhà cầm quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà quần chúng chưa từng biết. Vì vậy quần chúng hoang mang: cái gì hôm qua làm được, ngày mai với sự độc đoán của nhà cầm quyền có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái độ này của nhà cầm quyền không những ảnh hưởng đến tương lai, mà là ảnh hưởng cả về quá khứ nữa. Đó là trường hợp nhà cầm quyền, lúc tự đặt mình lên trên pháp luật, giữ thái độ chân chính đúng mực, huống hồ là khi nhà cầm quyền sử dụng quyền thế của mình một cách lộng quyền, như ông Trường Chinh đã nhận định. Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp: đó chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Nếu mà các người sử dụng quyền ấy lại không sử dụng với tinh thần chính sách của lãnh đạo, sử dụng một cách lộng quyền thì kết quả thế nào, hiện thời ta đã trông thấy rõ.

Bất chấp chuyên môn — Các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn và cho phép các nhà chuyên môn đề đạt ý kiến thì các nhà chuyên môn cũng sẽ yêu cầu các nhà chính trị nên chú ý đến pháp luật, và dùng pháp luật phục vụ cách mạng.

Nhưng tiếc thay, trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ. Nếu được dùng một hình ảnh “duy tâm”, tôi ví lập trường như cái oan hồn ngày đêm theo đuổi kẻ nào đã hãm hại người chủ của nó. Có một điều lạ, là các anh em công nông, các vị lãnh tụ không bao giờ nói đến lập trường trong sinh hoạt hàng ngày. Trái lại, các cán bộ và đảng viên tiểu tư sản không lo ngại gì bằng sự mất lập trường. Vì vậy, để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồi. Đó là tinh thần tự ti của một giai cấp mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ cách mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta cũng đã xảy ra những sự việc như sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở: khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi : “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh mình có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra).
Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý. Chân lý cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế được cho chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nếu như vậy thì ít ra chính trị cũng hỏi ý của chuyên môn mới là phải. Nhưng không. Chính trị nghi ngờ chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc thì cho rằng chuyên môn là do văn hoá và khoa học tư sản đế quốc xây dựng, là vô dụng (đó là một sai lầm nghiêm trọng các người tin như vậy chưa đọc Lê-nin). Lúc thì cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất hiện ở tầng lớp cơ bản, công hay nông, thì không có đảm bảo vì thái độ lừng chừng, lập trường lỏng lẻo, dù là 10 năm nay họ đã bước chân vào đường cách mạng và chứng minh nhiệt tình của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, kiến thiết quốc gia.
Theo ý tôi, đây là một vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng Đảng Lao Động thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao nhiêu hi sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng vẫn chưa tin ở họ. Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu? Họ có đòi làm Bộ trưởng hay Đại sứ đâu? Không. Đại đa số các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức mà thôi. Họ đã từng nghe thấy Đảng tuyên bố: Người trí thức là vốn quí của dân tộc. Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quí quá đến nỗi phải cất nó đi thật kỹ, giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu. Nếu có ai cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị người ấy quay mặt nhìn chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của ta. Có một chỗ nào mà người trí thức ngoài Đảng nắm được thực quyền không? Tác dụng “hiếu hỉ” hay “cười gật” thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở các cương vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm gì không, có quyền nói gì làm gì không, quần chúng đã biết và miễn tôi giả nhời.
Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào? xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao, lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp liên khu III tan vỡ vì chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của mình. Năm 1951, phong trào quân y, dân y liên khu IV sụp đổ vì các chính trị viên đưa vào các bệnh viện đã đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến. Đó không phải là chủ trương của Đảng Lao Động. Nhưng có một điều làm ta suy nghĩ: sao mãi bây giờ sau 10 năm Đảng mới nghiên cứu một chính sách cho trí thức? Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công, ta chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó, làm thế nào khai thác được tất cả khả năng của người trí thức để họ mang chuyên môn ra phục vụ nhân dân?
Trên đây, tôi nói về người trí thức từ chiến khu trở về. Đối với người trí thức vẫn ở trong Thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy lại còn trầm trọng hơn nữa. Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em ấy phàn nàn bị coi như là kẻ thù, mặc dầu các anh em vì yêu nước đã khắc phục mọi lo sợ do tuyên truyền của địch gây ra và ở lại với chúng ta. Ta để cho cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không tìm cách nào sửa chữa sai lầm ta đã phạm đối với anh em. Ở các công sở tình trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đã đưa đến cái danh từ bi đát làm cho ta đau lòng: “họ Lưu, họ Kháng”. Không đoàn kết được các anh em, ta lại còn có thái độ úp mở, nhùng nhằng (ta tưởng như vậy là thượng sách), thậm chí ta lại còn nghi ngờ các anh em. Ta không hiểu rằng làm như vậy, ta bất công với các anh em, ta không tôn trọng lời đã hứa qua chính sách tiếp quản và cương lĩnh Mặt Trận, ta đẩy các anh em xa rời ta, ta vô tình ném xuống bể tiêu cực cái vốn chuyên môn của các anh em trí thức trong Thủ đô.
Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa, ta thấy rằng sở dĩ có những hiện tượng như ta vừa phân tách trên đây, chẳng qua chỉ vì sự lãnh đạo của ta thiếu dân chủ, xa lìa quần chúng.
Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng biết. Vai trò của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài Đảng như thế nào, các vị đó làm được những gì trong Hội đồng chính phủ, trong các ngành chuyên môn mà các vị ấy phụ trách, ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công việc làm trong mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than phiền của các cán bộ, công chức làm việc trong các Bộ là ta hiểu. Ta cũng biết rằng chủ trương của Đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng trong thực tế công tác, mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài Đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như không phải là quan trọng cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta lầm đấy. Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao có “dư luận” không ai chối cãi được. Do đó, nếu chủ trương của Đảng không phải như vậy thì ít ra Đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại từ thời kỳ kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc chắn không ai chối cãi được, là các vị Bộ hay Thứ trưởng không có trách nhiệm gì trước Quốc hội, trước nhân dân, chỉ có trách nhiệm trước Chính phủ mà thôi. Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ truởng nào bị lật đổ cả. Phải đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong Cải cách mới thấy hai vị Thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng Chính phủ. Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng Chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủ trong khi lập Hội đồng Chính phủ, vì các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất, ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rõ hơn nữa. Mười năm Quốc hội đã thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý nguyện của quần chúng không, quần chúng có tín nhiệm ở Quốc hội nữa không, đó là một vấn đề. Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi nữa, có một điều chắc chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà vẫn tồn tại ngoài sự can thiệp của quần chúng, sự lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay đã bị truất quyền cử đại biểu của mình rồi. Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là một điều không làm được. Và hiện thời, Nam-Bắc bị tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội cũng là khó khăn. Nhưng dù sao riêng ở các miền giải phóng này, nếu ta chú ý đến quyền người dân cử đại biểu của họ thì nhất định ta phải cho phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi hoà bình trở lại, 2 năm đã qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân và bổ sung Quốc hội.
Nào có thế thôi đâu? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là không. Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó ta chỉ thấy Chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng, hay các chính sách để Quốc hội tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm của Chính phủ và các Bộ, quyền lựa chọn nhân viên trong Hội đồng Chính phủ, bấy nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng không? Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi. Còn như các sắc lệnh hay đạo luật thì thường thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban Thường trực của Quốc hội. Nếu Quốc hội là tổ chức cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải khách quan nhận thấy rằng, với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện thời, quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.
Nói đến Mặt trận thì tình hình cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là tổ chức quần chúng có lẽ sát tình hình quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta có để nó đóng vai trò của nó không? Không. Tác dụng của nó là động viên quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về phương diện này, nó làm tròn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín nhiệm của Đảng và Chính phủ. Nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một chiều thôi. Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất của nó. Nó có thể là liên lạc “hai chiều” giữa quần chúng và Đảng, Chính phủ. Một mặt như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ. Nhưng mặt khác, nó có thể là cơ quan phản ảnh lên Đảng và Chính phủ các ý kiến, thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiếng nói của quần chúng, cung cấp tài liệu nguồn gốc ở quần chúng, tích cực giúp đỡ cấp lãnh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa cấp lãnh đạo và quần chúng. Nhưng muốn để cho nó đóng vai trò ấy, ta phải “dân chủ” đối với nó, nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó, để nó mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng, dù là các ý kiến trái ngược với nhận định của cấp lãnh đạo. Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậy. Ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ —chỉ thỏ thẻ thôi— những lời làm ta một phút chốc tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta trong cấp lãnh đạo đang say sưa. Vì vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ hoạ ta, tán đồng ta với thái độ của đứa con khen hay khi mẹ nó hát. Tóm lại, ta không dân chủ với nó. Do đó, ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích gì cho cấp lãnh đạo.
Thiếu dân chủ là gì? Là xa rời quần chúng, là giam hãm mình vào ngục thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể phạm sai lầm nghiêm trọng như vậy được?
Trước đây, ta không trả lời được. Những người kính yêu cách mạng rất ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi tìm tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lén sang phía tư bản. Ngay trong thủ đô ta hiện thời, qua Đại hội lần thứ 3 của Mặt trận Thành, ta thấy phản ảnh ý muốn của bao nhiêu đồng bào muốn đi Nam. Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước mắt mà trở về Hà Nội. Nếu cách mạng mang lại cho họ ánh sáng và hạnh phúc, sao lại có người lo ngại trước cách mạng, đau đớn vì cách mạng? Các người ấy không phải thuộc thành phần kẻ thù của cách mạng, trái lại thuộc thành phần cơ bản trong nhân dân, như nông dân, công nhân. Thế thì đâu là chân lý? Đó là một vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không giải quyết được.
Bây giờ sau Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, sau các cuộc bạo động ở Berlin, Poznan, bên Tiệp, bên Hung, ta hiểu rõ vấn đề, ta giải quyết được nó. Chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho dân tộc, sở dĩ vẫn có người xa lánh cách mạng, chẳng qua là vì chính thể cách mạng mắc trầm trọng bệnh xa lìa quần chúng, thiếu dân chủ, do đó đi càng ngày càng sâu vào tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, duy trì một thái độ lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, có khi độc tài. Thái độ một chiều không muốn, không cho phép ai nói cái gì trái ngược ít nhiều với ý kiến nhận định, thành kiến của mình. Mình tự phụ, tự hào mình có độc quyền tìm thấy và gìn giữ chân lý. Đó là tật tự cao tự đại của nhà cách mạng. Ta bay bổng lên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở ta. Trong tư tưởng, ta không khinh quần chúng, nhưng trong hành động, quả thật con mắt khách quan nhận thấy ta bất chấp quần chúng. Thậm chí, khi ta nghe thấy một tiếng nào từ quần chúng nói lên rằng ta nhầm, ta làm như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay đó là tiếng của địch. Sở dĩ quan điểm bạn thù của ta mơ hồ, và đâu ta cũng trông thấy địch, chẳng qua là vì ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi. Bây giờ ta biết rõ là nếu bệnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời thì trách nhiệm chính là Stalin phải chịu. Vì tự cao, tự đại, tự phụ, tự mãn, Stalin không cho phép ai dân chủ với mình, đâu cũng trông thấy địch. Kết quả thế nào ta đã biết: khẩu hiệu nêu lên, thét lên, gào lên là: đề cao cảnh giác. Và lợi dụng tình thế ấy, ta biết Béria đã làm những gì, phạm tội ác như thế nào.
Nếu không có quyết nghị lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô, nếu không có những sai lầm cực kỳ tai hại trong Cải Cách, ta chưa mở mắt được, ta sẽ còn thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối thành sông, bao nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau sót rời bỏ cách mạng. Tuy ta phải trả một giá quá cao, nhưng bây giờ ta biết rõ nguyên do của các đau khổ của ta: ta thiếu dân chủ.

III. Phương hướng sửa chữa các sai lầm

Qua lịch sử tranh đấu của quần chúng hai nghìn năm nay, ta thấy cái gì mà nhân bản của loài người đòi hỏi thiết tha nhất, đó là một đời sống vật chất tương đối đầy đủ êm ấm, đó là một đời sống tinh thần tương đối ổn định, có đảm bảo và tự do. Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản. Từ cuộc Cách mạng tư sản Hoa Kỳ cuối thế kỷ 18, Cách mạng tư sản Pháp 1789, tới cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa của Nga, quần chúng nổi dậy, mang xương máu để giành kỳ được chế độ dân chủ. Sau cuộc đại chiến lần thứ hai, Hiến chương Liên hiệp quốc đúc kết những thành quả của các phong trào lịch sử tranh đấu cho dân chủ và đặt các nước văn minh trước trách nhiệm của họ để thực hiện và đảm bảo các nguyên tắc dân chủ. Đối với các nước tư bản ta không ngạc nhiên thấy chế độ dân chủ thực hiện với những thiếu sót quan trọng. Nhưng ta có quyền ngạc nhiên khi ta thấy các thiếu sót ấy cũng xuất hiện trong các nước đã hoàn thành cuộc Cách mạng dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ 6 của Hội Quốc tế các luật gia dân chủ họp trong tháng 5 vừa rồi tại Bruxelles đã lấy làm tiếc mà nhận thấy rằng trong tất cả các nước, dù tư bản hay xã hội chủ nghĩa, mặc dầu các Hiến pháp, các bộ luật tuyên bố trịnh trọng, tôn trọng thực hiện, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc dân chủ, tuy nhiên các nguyên tắc này vẫn bị dày xéo. Vì vậy trong tất cả các nước, quần chúng tranh đấu kịch liệt.
Ở nước ta, trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố. Nhưng qua phong trào phát huy dân chủ mà Chính phủ chủ trương, qua đại hội nhân dân thủ đô lần thứ 3, các Đại hội Mặt trận Trung ương, Mặt trận Thành, qua thông cáo của Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động, của Chính phủ v.v., nhân dân nhận thấy, và Đảng cũng như Chính phủ xác nhận rằng ta thiếu sót về dân chủ khá nhiều. Vì các thiếu sót ấy, ta phạm các sai lầm nghiêm trọng trong Cải Cách Ruộng Đất như tôi đã trình bày trên đây. Nguyên nhân sâu sắc của các sai lầm ấy, ta có thể quy kết được. Sở dĩ đời sống tinh thần của ta không được ổn định, lúc nào ta cũng nơm nớp lo sợ các hành động “lộng quyền” của nhà đương cục, là vì ta thiếu một chế độ pháp trị phân minh, không đề ra nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người, đồng thời cả của cấp lãnh đạo nữa. Sở dĩ cấp lãnh đạo có thể phạm được các sai lầm nghiêm trọng trong Cải Cách Ruộng Đất, tổn thất cho xương máu, mồ hôi nước mắt của đồng bào, cho uy tín của Đảng và Chính phủ, là vì người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ.
Do đó, phương hướng sửa chữa các sai lầm là một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.
Một chế độ pháp trị chân chính — Ở đây, chưa phải lúc và chỗ để tôi trình bày ý kiến về vấn đề pháp trị. Ta sẽ có dịp khác. Ở đây, tôi chỉ muốn trình các quí vị một nhận xét.
Đảng Lao Động và chính phủ có nhận thấy cần thiết, trong chính sách sửa chữa các sai lầm trong Cải Cách, phải “tăng cường chế độ pháp trị” của ta. Tôi e rằng trong tư tưởng lãnh đạo, sự nhận thức về vấn đề pháp trị chưa được rõ và đầy đủ. Chính trị vẫn coi pháp luật như một “bà con nghèo”. Chữ “tăng cường” là một chứng minh. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có. Đó là một điều tôi sẽ nghiên cứu sâu sắc hơn khi nào tôi trình bày ý kiến về chế độ pháp trị, một chế độ pháp trị chân chính. Theo ý tôi, thì vấn đề không phải là tăng cường mà là xây dựng.
Một chứng minh khác trong chính sách Sửa Sai trong Cải Cách này, tôi vẫn thấy chính trị lấn áp pháp lý. Trước hết bức thư của ông Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi Mặt trận Trung ương chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Trong cuộc mạn đàm với các vị đại biểu đến họp hội nghị này, tôi nhận thấy không ai “thông” về ý kiến và biện pháp ông Hồ Viết Thắng trình bày cả. Riêng về phần tôi là một nhà luật học, tôi chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp lý, sự nhận tội lỗi của một người không đủ để qui định trách nhiệm của người ấy. Trong Cải Cách, khi những đảng viên ưu tú bị đoàn Cải cách gán cho là phản động, ra trước nhân dân, có người cũng nhận tội trong khi biết là mình oan. Ta nên rút kinh nghiệm vừa qua, sửa sai không phải là phạm các sai lầm khác. Do đó, đứng trên một lập trường pháp trị chân chính, tôi đề nghị phải lập một uỷ ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lý đã nhận định, trên quá trình đi từ lãnh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, uỷ ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lý sẽ trả lời trước các toà án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dõi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lý phát huy, không còn ai thắc mắc nữa.
Có người hỏi làm thế để làm gỉ? Tôi xin phép trả lời. Làm thế để rút kinh nghiệm. Tôi cảm thấy ngay hiện thời ta chưa rút được kinh nghiệm đâu. Chính trị không những lãnh đạo pháp lý —đó là đúng— nhưng vẫn lấn át pháp lý, thay thế cho pháp lý, như trong trường hợp ông Hồ Viết Thắng, như thế là ta vẫn mở cửa cho các sai lầm mới còn nguy hại hơn nữa. Không những thế, ta biết rằng nhu cầu công lý thuộc nhân bản con người văn minh. Từ người bị xử trí oan cho đến các người chỉ chịu thiệt gián tiếp vì các sai lầm, có thể nói được rằng toàn dân đợi chờ công lý. Một biện pháp chính trị xuề xoà không thoả mãn được ai. Bằng chứng ở nông thôn, ta được biết tình hình “căng thẳng”. Phong trào trả thù, tự xử diễn ra khắp mọi nơi, kéo chúng ta trở về quá khứ của lịch sử. Còn như các đảng viên bị xử trí sai, tâm hồn các anh em như thế nào, ta chỉ cần đọc lại báo Nhân Dân. Tuy rằng các anh em kết thúc các bài tường thuật lại đau khổ của mình bằng những lời phấn khởi, nhưng các lời này không làm ta quên được các lời phẫn uất, chua xót, cay đắng mà các anh em nói lại với ta từ đầu bài. Nhưng bi đát hơn hết là các chiếc khăn trắng chít trên đầu họ hàng thân thích của những anh em bị xử tử, những bàn thờ vẫn dựng trong nhà, các thổn thức phá vỡ im lặng của các đêm hiu quạnh, các ngày cúng giỗ nhắc lại hàng năm bi kịch thê thảm đã diễn ra trong gia đình vì cuộc Cải Cách. Nhân dân đòi hỏi các người có công được thưởng và các người có tội phải đền tội. Trách nhiệm của tất cả mọi người từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, phải được qui định rõ ràng, dứt khoát. Như thế mới yên được lòng dân, như thế mới thu phục được nhân tâm. Kinh nghiệm lịch sử dạy ta điều ấy. Trong chính sách sửa chữa sai lầm, ta không thể quên được bài học lịch sử. Quần chúng im lặng đợi chờ công lý.
Chúng ta thiết tha mong ước ở chính trị một nhận định đúng về vai trò của pháp luật phục vụ cách mạng. Kinh nghiệm đau đớn vừa qua bó buộc ta phải xây dựng lại quan điểm “địch” trên cơ sở pháp lý và pháp trị. Các sai lầm nghiêm trọng ta đã phạm bắt nguồn ở một quan điểm chính trị về địch. Quan điểm ấy linh động quá, “biện chứng” quá, nên ta không biết phân tách địch và ta, do đó ta đánh cả ta nữa. Muốn tránh các sai lầm hôm qua đừng tái diễn ngày mai, ta cần xác định theo hình luật thế nào là địch. Lúc đó ta mới đánh đúng địch, và có đánh đúng địch ta mới củng cố được ta, ổn định được nhân tâm, duy trì lại trật tự và an ninh ở thôn quê, kiến thiết lại đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân ở thôn quê cũng như ở thành thị, đảm bảo cho quần chúng một đời sống tự do, thoát khỏi mọi sự đe doạ của “lộng quyền”, bênh vực các quyền căn bản và thiết yếu của con người.
Tóm lại, nếu chính trị giác ngộ, vui lòng tôn trọng pháp ly, thiết lập một chế độ pháp trị trong đó chính trị vẫn lãnh đạo pháp lý, nhưng đồng thời nêu thật cao gương phục tùng pháp lý và pháp trị thì nhất định chính trị khôi phục được uy tín và được quần chúng nhiệt liệt ủng hộ.
Một chế độ thực sự dân chủ — Thế nào là một chế độ thực sự dân chủ? Đó là một chế độ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa. Đây không phải là lúc là chỗ mà ta đi sâu vào vấn đề. Ta chỉ cần nhận thấy rằng trong giai đoạn hiện thời, quần chúng có đòi hỏi cái gì quá đáng đâu, chỉ yêu cầu có một điều thôi, là được đàm thoại với cấp lãnh đạo, được đề đạt lên cấp lãnh đạo, ý kiến về các chính sách do cấp lãnh đạo xây dựng. Các vị lãnh tụ đã bao lần khen dân ta tốt. Mà dân ta tốt thật. Bằng chứng là điều tôi vừa nhắc lại đây. Trong khi quần chúng có quyền đòi hỏi ở một chính thể cách mạng rất nhiều, nhân dân ta chỉ có một yêu cầu mà ai cũng phải nhận là chính đáng. Tại sao nhân dân chỉ có cái yêu cầu nhũn nhặn ấy mà thôi? Là vì nhân dân thông cảm với cấp lãnh đạo phải đương đầu với bao khó khăn. Nhưng nếu nhân dân chỉ đề ra có một yêu cầu, yêu cầu ấy thiết yếu. Tôi tin rằng cấp lãnh đạo cũng nhận thấy như vậy. Tôi không quên lời của ông Trường Chinh đọc bản tự phê của Đảng Lao Động tại Hội nghị này. Ta nghe thấy cấp lãnh đạo thú nhận trước Hội nghị rằng Trung ương Đảng đã phạm sai lầm là xa quần chúng, chỉ tiếp xúc với quần chúng qua báo cáo của các cán bộ đảng viên mà thôi. Ta phải nhận định rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng. Do đó, cuộc Cải Cách Ruộng Đất của ta đã gặp các thất bại cay đắng. Trái với lời ta thường nói, ta đã thiếu dân chủ với nhân dân.
Nhân dân nhất định không để tình trạng tai hại ấy kéo dài nữa. Tôi xin phép Hội nghị góp một số ý kiến để chấm dứt tình trạng đó. Tôi không đặt vấn đề dân chủ nói chung. Tôi chỉ chú ý đến yêu cầu thiết tha nhất hiện thời của quần chúng là được phản ảnh lên ý nguyện của mình. Theo ý tôi, để thực hiện và đảm bảo yêu cầu vô cùng chính đáng ấy, chỉ cần ba giải pháp.

1. Một chế độ báo cáo của cán bộ. Đảng tín nhiệm ở cán bộ. Đúng! không tài nào khác được. Vậy phải đặt các cán bộ có nhiệm vụ báo cáo trước trách nhiệm của họ. Một báo cáo không phản ảnh trung thành sự thực với các khía cạnh của nó, với các ưu và khuyết điểm của nó, rất tai hại. Cấp lãnh đạo cần đề cao cảnh giác với các con số thống kê, các động cơ bất chính của cán bộ muốn thi đua thành tích, vưà mị dưới, vừa lừa trên, do đó đưa ra một hình ảnh quá hẹp của thực tế. Ta phải tiến tới giải pháp nhận định rằng người nào hữu ý xuyên tạc sự thật vì động cơ bất chính, có thể bị truy tố về tội giả mạo được.

2. Một chế độ cho các đoàn thể nhân dân được quyền mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng mà họ tập hợp. Từ trước tới nay, ta có thể ví Đảng Lao động như một cây rất to, lá ruờm ra che hết ánh sáng của mặt trời, khiến ngay một ngọn cỏ cũng không mọc dưới chân nó được. Vì vậy, Quốc hội cũng như Mặt trận không thể đóng được vai trò của mình. Ở đây, tôi chỉ xin phép nói về Mặt trận của ta thôi. Các vị đã thấy rằng từ khi thành lập Mặt trận Liên Việt cho đến Mặt trận Tổ quốc, chúng ta chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng thi hành chính sách mà thôi. Đó là một nhiệm vụ. Nhưng dù sao chỉ có một chiều. Ta là giây liên lạc giữa các cấp lãnh đạo và quần chúng. Nếu ngược lại, ta có quyền liên lạc giữa quần chúng và cấp lãnh đạo, nghĩa là phản ảnh lên Đảng và Chính phủ ý kiến thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, công tác của ta thế nào cũng tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Ta gắn liền lãnh đạo và quần chúng, do đó lãnh đạo sát hợp với thực tế hơn. Tôi xin phép đặt mỗi vị uỷ viên trước trách nhiệm của mình. Chúng ta ủng hộ Chính phủ, nhưng chúng ta cũng là đại biểu của nhân dân. Công tác của chúng ta có hai mặt, chúng ta không thể chỉ lệch về một bên được. Quần chúng không cho phép chúng ta làm như vậy, muốn theo rõi công việc ta làm vì chúng ta làm đại biểu của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Quần chúng giao quyền cho chúng ta, chúng ta phải xứng đáng với sự uỷ quyền ấy. ta sử dụng quyền ấy thế nào, quần chúng đòi kiểm soát ta.
Để đạt mục đích này, tôi xin phép đề nghị: một là mỗi uỷ viên phải có nhiệm vụ phản ánh lên Mặt trận ý kiến của quần chúng. Mặt trận phải có nhiệm vụ đề đạt lên cấp lãnh đạo những phản ảnh của các uỷ viên và báo cho các vị ấy thái độ của cấp lãnh đạo giải quyết vấn đề ra sao, sử dụng các phản ảnh ấy như thế nào. khi Mặt trận họp hội nghị, phải cho phép quần chúng đến bàng thính: để quần chúng kiểm soát công việc của Mặt trận làm và thái độ của các uỷ viên. Dĩ nhiên các người bàng thính ấy không có quyền tham gia thảo luận, chỉ được nhập hội trường cho tới khi hết số ghế dành cho quần chúng, và phải tôn trọng kỷ luật của hội nghị. Ngoài ra, báo chí, đặc biệt báo chí của Mặt trận như tờ Cứu Quốc, phải phản ảnh trung thành nội dung của các cuộc thảo luận và đăng các tham luận của các vị uỷ viên.

3. Một chế độ tự do ngôn luận, xuất bản báo chí — Ta phải đề phòng trường hợp các cán bộ không báo cáo, các uỷ viên Mặt trận không phản ảnh ý kiến của quần chúng. Do đó, ta thấy cần thiết phải cho phép quần chúng nói lên tiếng nói của mình qua báo chí. Có người lo ngại rằng tự do ngôn luận này mà ai cũng thấy cần thiết có thể bị sử dụng một cách bừa bãi. Về điều này ta phải suy nghĩ. Mối lo ngại trên đây xuất phát từ động cơ nào? Nếu là động cơ tốt —nghĩa là do một nhiệt tình đối với cách mạng gây ra— ta hoan nghênh. Nhưng ta cũng sẽ trả lời rằng trong một chính thể dân chủ muốn sử dụng tự do nào, dĩ nhiên phải nêu trách nhiệm của người sử dụng tự do ấy trước pháp luật. Nếu sử dụng với tinh thần trách nhiệm hợp pháp, ta không có quyền kêu ca gì, trái lại, ta hoan nghênh. Nếu lạm dụng một cách vô trách nhiệm, ta đã có toà án để nghiêm trị. Vậy ta không lo ngại. Nhưng nếu mối lo ngại xuất phát từ một động cơ bất chính, nhắm mục đích thủ tiêu các tự do dân chủ, thì tôi chỉ cần khuyên nhủ người lo ngại như vậy nên đọc lại lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay. Họ sẽ nhận thấy rằng chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đòi các tự do dân chủ.
Không những ta công nhận các tự do dân chủ, ta lại còn cung cấp phương tiện để thực hiện các tự do ấy. Thí dụ tự do ngôn luận. Ta có các báo của Chính phủ, của Đảng, của Mặt trận, ta lại có các báo của tư nhân, ta giúp đỡ cho các báo ấy giấy và mực in đầy đủ, ta lại còn quảng cáo cho các báo ấy là đàng khác nữa. Các cơ quan tuyên truyền, báo chí của ta không bao giờ tìm khó dễ cho các báo ấy, và khi nào các báo đó được hàng vạn độc giả hoan nghênh, ta rất lấy làm sung sướng vì trong thâm tâm ta, ta là những người dân chủ.
Các biện pháp tôi đề nghị trên đây đều nhằm mục đích cống hiến các cấp lãnh đạo một nhận thức đúng và sát thực tế mà cấp lãnh đạo không có điều kiện biết đến một cách trực tiếp. Sát với thực tế của quần chúng, cấp lãnh đạo thông cảm với quần chúng, đi đúng đường lối của quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, ủng hộ, mến yêu.

Thưa các quý vị,
Tôi nói đã quá lâu, nhưng tôi tin các vị cũng tha thứ cho, vì biết rằng tôi là một người thiết tha đến sự nghiệp của cách mạng và tiền đồ của dân tộc. Các ý kiến của tôi, dù sai hay đúng, tôi cứ thành khẩn đề đạt lên các vị, gọi là để góp phần vào hội nghị, một phần nhỏ mọn nhưng chan chứa một niềm hi vọng và tin tưởng vô biên ở tương lai của đất nước.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường
Hà Nội, ngày 30-10-1956a
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved