Home » » Hồi ký của Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường - PHẦN2

Hồi ký của Giáo Sư Nguyễn Mạnh Tường - PHẦN2

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 24 tháng 7, 2013 | 09:10

PHẦN HAI

MỎM ĐÁ TARPEIENNE

1   Vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm

Về đến Hà Nội, tôi tràn ngập trong “vinh dự”. Khoa Trưởng của trường Luật, một trường đang chết, Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn, phó Khoa Trưởng Sư Phạm, giáo sư phụ trách việc giảng dạy về Văn Chương Pháp, thành viên ban chấp hành Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đồng thời cũng nằm trong ban bí thư của Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, thành viên của Hội Huynh Đệ Việt – Pháp, Hội Huynh Đệ Liên Xô - Việt Nam, thành viên của Uỷ Ban Bảo Vệ Hoà Bình Thế Giới, chủ tịch sáng lập Câu Lạc Bộ Đoàn Kết Trí Thức… Đó là những “vinh dự” mà tôi mang, đủ để in đầy hai mặt của tấm danh thiếp.


Những “khuôn mặt uy quyền của chế độ” không làm phiền đến tôi, cuộc sống khiêm nhường của tôi cũng không bị khốn đốn, tôi cũng không cảm thấy mình quan trọng hơn hay nhỏ bé đi. Tôi biết rõ đó chỉ là một màn kịch, nên chẳng cần phải cảm thấy được tung hô hay bị xúc phạm. Chế độ cộng sản rất đam mê tôn thờ chủ nghĩa hình thức: họ tràn ngập thế giới với khẩu hiệu. Danh xưng hoa mỹ và kêu to chỉ để trang trí cho những con rối người đang bị giật dây bởi một ai đó trong nhóm, ở trên hoặc ở phía sau lưng họ. Những kịch sĩ đang diễn trên sân khấu đã thuộc về thế giới xa xưa của những bộ phim câm. Thế hệ phim câm và chủ nghĩa Cộng Sản xuất hiện cùng thời, người ta tự hỏi anh nào ảnh hưởng anh nào?
Tôi đã tự hỏi tại sao tôi lại được hưởng nhiều món hời như thế. Có phải chăng là nhờ tôi là khuôn mặt tiêu biểu cho một phẩm chất hay đại diện cho một cái gì đó? Tôi nghĩ là không. Điều đó không hề xảy ra dù chỉ một thoáng trong đầu của các lãnh tụ. Họ nghĩ rằng, bằng cách đưa một người nào đó vào chức vị cao thì họ sẽ biến người này thành một nhân vật có tầm cỡ, cũng như thế, khi họ đẩy một người nổi tiếng vào bóng tối là họ đã gọn gàng cắt đứt lòng kính phục mà những người này được công chúng dành cho. Nhưng đó là một sai lầm. Đã có nhiều người được hưởng bao nhiêu quyền lợi từ Đảng nay đã biến thành vô danh không tên tuổi, ngay khi họ đang còn chói lọi trong chức vụ. Ngược lại, có những người đầy khả năng và đạo đức được người đời kính trọng và tiếp tục được quần chúng tin yêu dù họ không còn giữ một địa vị gì hào nhoáng!
Có phải chăng Đảng đã chiếu cố đến tôi và muốn thổi tôi lên, biến tôi thành một trong những con khỉ làm hề trong gánh xiếc để chọc cười lũ trẻ con? Đã có lần vào năm 1952, trong vùng chiến khu Bắc Việt, giữa lúc đang kháng chiến chống Pháp, tôi được đề nghị vào Đảng, nhưng tôi đã từ chối “vinh dự” đó. Năm 1946, trước khi tham gia kháng chiến cùng với cha mẹ và gia đình, tôi đã hiến toàn bộ tài sản của tôi, ba căn phố ở Hà Nội, cho Cách Mạng và Dân Tộc. Trong suốt thời kỳ Kháng Chiến tôi chấp nhận hy sinh tất cả và cống hiến tài năng của một giáo sư và một luật gia cho Dân Tộc. Là thành viên của nhiều phái đoàn Việt Nam trong bốn Hội Nghị Quốc Tế, một ở Dalat năm 1946, ở Bắc Kinh năm 1952, ở Vienna năm 1953, và Bruxelles năm 1956, tôi đã đóng một vai trò tích cực và đã mang lại một số thành quả khiêm tốn… Cũng có thể vì đó mà Đảng đã ban cho tôi một giấy khen bằng cách cất nhắc tôi lên những vị trí danh dự nhưng cũng không kém phần vẻ vang tôn kính. Nhưng tôi biết là Đảng có một trí nhớ rất ngắn, dễ dàng quên đi những thành quả của người mà họ khen thưởng trước đây, một khi kẻ này trở nên đối tượng làm họ tức giận. Ngay cả đối với những người cộng sản nổi tiếng đã từng chia những ngày tù tội chung khám với những người đang cầm quyền hiện nay, họ vẫn không thể thoát khỏi bàn tay dững dưng và tàn ác của những người này.
Trong những uỷ ban điều hành các tổ chức quần chúng, người trí thức thường được đưa ra làm phụ tá cho những đảng viên giữ vai trò chủ chốt, nắm tay lái và điều khiển chiếc xe. Những con rối ngồi trên bàn chủ toạ, tuyên bố mở đầu và kết thúc Hội Nghị, nhận những tràng pháo tay nhu nhược và vỗ trả lại những tràn pháo tay nhu nhược không kém. Sinh hoạt này trở thành một thủ tục và một chỉ dấu cho thấy một loại hợp tác chặt chẽ giữa người trí thức ngoài Đảng và các đảng viên. Tôi hiểu rất rõ khía cạnh này và không hề ngạc nhiên về chuyện đó. Tôi chờ vòng thịnh suy của luân hồi quay và chuẩn bị cho tôi chịu đựng sự thống khổ sắp đến với một tâm hồn vui vẻ.
Trong thời gian đó ở Hà Nội, giới trí thức đang trải qua một cuộc khủng hoảng về nhiệt tình. Phong trào Trăm Hoa Đua Nở nổi lên trên toàn nước Việt Nam. Nhiều người, cho tới lúc ấy, nghi ngại và e dè Trung Quốc – nhưng không chống trà và thức ăn của họ - vẫn chưa biết được mặt trái của lá bài, dấn thân hết mình vào Phong Trào. Vắng những chứng cớ thích đáng, không có thông tin đáng tin cậy, nhưng họ vẫn đắm mình vui sướng trong cơn thuỷ triều đang nhởn nhơ dâng, và niềm khát khao dân chủ bị kềm kẹp và đè nén từ lâu nay bỗng nổ bùng thành những tia sáng đầy mầu sắc chói lọi và những chùm hoa đầy đốm lửa xanh. Một tờ báo Nhân Vănđược in ra, lập tức được độc giả nhanh chóng giành đọc. Khi tờ báo Giai Phẩm được in ra, lòng người như sôi sục, như pháo hoa.
Khi đó Nguyễn Hữu Đang đến thăm, phỏng vấn tôi cho tờ Nhân Văn, và mong tôi viết bài cho Giai Phẩm. Tôi đã gặp Nguyễn Hữu Đang ít lâu trước đây khi Đang đến kiếm tôi đến gặp ông Hồ vì ông Hồ cần tôi giúp để soạn bản luận cứ mà Chính Phủ sẽ dùng để tranh đấu trong Hội Nghị Đalat năm 1946. Đang là một đảng viên Cộng Sản mà tôi tin cậy. Thời gian đó tôi không tiếp xúc với giới văn sĩ và nhà báo vì không có thì giờ và cơ hội. Nhưng khi tôi được cho biết về khuynh hướng của phong trào, đường hướng mà họ chấp nhận và bảo vệ, tôi sẵn sàng góp chút phần nhỏ mà cũng là ước vọng và mong muốn của tôi.
Năm 1928, vào năm thứ hai của tôi ở Đại Học Luật, cái tiếp xúc đầu tiên của tôi với chủ nghĩa Cộng Sản, vào thời đó, duy nhất là Liên Xô và bập bẹ những từ đầu tiên về chủ nghĩa này. Trong hai giờ giảng, vị giáo sư dạy về kinh tế chính trị dạy chúng tôi những điều căn bản về kinh tế theo Marx-Lenin. Sau đó, trong suốt mười năm theo kháng chiến chống thực dân, tôi được học thêm về chủ nghĩa Marx. Những giảng viên khiêm nhường tự mình nhận là những “báo cáo viên” thường là những người đã được qua học ở Trung Quốc, đôi khi về từ Liên Xô. Phương pháp dạy của họ làm tôi chú ý và khám phá những đặc tính của người cộng sản. Môn học về chủ nghĩa Marx được chia làm nhiều bài học, mỗi bài sẽ được một ông thầy “tương lai” chuyên về một chương đó dạy. Họ thấm nhuần những kiến thức nhồi nhét bởi các thầy giáo người Trung Quốc hay Liên Xô, đúc kết thành bài giảng cho hai giờ học, mang bài giảng cho cấp trách nhiệm phê bình. Sau đó họ chỉ có việc đọc bài giảng cho mọi người chép, hoàn toàn không có ý kiến riêng vì sợ gây những sai lầm về lý luận hay chệch hướng là những điều sẽ gây hại không nhỏ cho họ!
Tôi học được hai điều: thứ nhất, đó là những người thầy thiếu nhân cách và cá nhân tính. Họ là người máy và có thể dễ dàng thay thế bằng một cái máy thu băng. Thứ hai, người cộng sản khi hành xử chuyện gì, họ chỉ làm theo cách họ, tự bó mình trong một lãnh địa chật hẹp, đào sâu trốn kỹ, không hề quan tâm hay biết người chung quanh đang làm gì.
Tôi thật sự bị kích thích bởi phương pháp làm việc của họ và tò mò tìm hiểu muốn biết chế độ Cộng Sản đào tạo bác sĩ y khoa như thế nào. Một người trẻ được chọn vì được người ta khám phá rằng anh này là người thông minh và có khả năng, ngay trong khoá học xoá nạn mù chữ, và nhất là thái độ cuồng nhiệt đối với Đảng. Anh ta được đào tạo thành một y sĩ giải phẫu chuyên về tay và chân. Trong năm năm, anh ta phải phục vụ như một y tá, rồi như phụ tá trong một bệnh viện ở nông thôn, cắt mổ hàng trăm tay chân và rồi cũng có được một số kiến thức về cơ thể học giúp tìm dò những thớ thịt, đường gân, mạch máu của chân tay. Kiến thức của anh ta dừng ở đó và nằm luôn ở đó.
Vì thế, nền giáo dục của cộng sản là không phí thì giờ dạy cho học sinh những điều có tính lý thuyết hay kiến thức tổng quát. Thực tế là họ “vừa học vừa làm”, thay vì thúc đẩy tình tò mò tìm hiểu những điều cao xa hơn, họ lại chọn “tự đào sâu trốn kỹ” trong cái lỗ càng sâu càng tốt. Những trường hợp thành công cá biệt lại được tung hô là tất cả, lấy chiều sâu trùm cả chiều ngang. Trong hoàn cảnh cấp bách, để tiết kiệm thời gian, người ta không đào tạo ai thành một “người chân chính, hiểu biết tất cả và không phiền lòng bất cứ chuyện gì” nhưng theo lối con buôn, chỉ một lần trao đổi mà thôi. Cần phải hiểu đây là cái logic của chủ nghĩa Cộng Sản: để đuổi kịp chủ nghĩa Tư Bản, đạt đến trình độ văn minh tân tiến họ không dư giả thì giờ tiền bạc để đầu tư vào lãnh vực tổng quát và nhằm đào tạo những cái đầu biết tư duy.
Những buổi học về chủ nghĩa Marx chẳng giúp ích gì cho tôi. Những gì tôi biết về nó là tôi đã bị kéo vào thế giới Cộng Sản từ năm 1946. Những quan hệ với con người, những gì tôi quan sát được ở Đảng và những chính sách của họ, ở Nhà Nước với những cơ chế của nó, những ý kiến mà tôi được nghe, những màn kịch mà tôi được xem, cộng chung với những suy nghĩ riêng tư đã làm tôi sinh ra cảnh giác và trở nên cô đơn. Tất cả những chuyện đó là cách tốt nhất mà tôi tiếp cận chủ nghĩa Cộng Sản. Có thể nói một cách chung, những người bận tâm về một vấn đề như thế thường hành xử theo cảm xúc riêng tư và chọn một thái độ mạnh mẽ. Họ theo hoặcchống Cộng Sản! Cá nhân tôi, tôi cho rằng cả hai thái độ đều thiếu tính thuyết phục và công bằng, trong bản sắc cũng như khách quan. Đảng không nuông chiều tôi, những “vinh dự” được ban bố cho tôi chỉ là một màn trưng bày loè loẹt, cũng chẳng mang lại cho tôi và gia đình một chút gì lợi lộc hơn những người biết tán tỉnh, cầu cạnh và biết làm cho Đảng nở những nụ cười hả hê thoả mãn. Ngược lại, mặc dù tôi đã đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi được về lòng yêu nước của tôi, mặc dù tôi đã hết lòng trung thành phục vụ Dân Tộc, Đảng cũng đành đoạn đày tôi vào sa mạc, một cuộc hành trình mới đó đã ba mươi lăm năm qua mà tôi sẽ kể lại những khổ đau trong những trang sắp tới. Cũng nên hiểu rằng tôi có quyền trả thù cho những khổ đau mà tôi đã gánh chịu. Tất cả kẻ thù của chủ nghĩa Cộng Sản đang chờ xem tôi trút những cơn giận điên người lên chủ nghĩa Cộng Sản mà tôi là một nạn nhân. Nhưng xin mọi người hãy tha thứ cho tôi. Tôi đã chọn thái độ của một triết gia: chỉ tìm hiểu chứ không xử án. Hiểu biết đòi hỏi mình phải nhìn vấn đề dưới mọi khía cạnh và dưới hai phía: mặt ưu và mặt thiếu sót, mặt trái và mặt phải của trang giấy, sự tốt và sự xấu. Nó sẽ dẫn đến sự công bằng và người trí thức chỉ muốn điều đúng đắn.
Không cần nhắc lại là người cộng sản đã góp phần đấu tranh cho Tự Do và Độc Lập của Dân Tộc. Thật vậy, đây không phải là lần thứ nhất Tổ Quốc bị xâm lăng và đã đánh đuổi ngoại xâm một cách vinh quang. Lòng yêu nước, vì vậy, là yếu tố bất biến và nguyên do sâu xa nhất cho mọi lần thắng giặc. Nhưng lực lượng quần chúng chưa phải là lực lượng tự mình tiến hành giải phóng Dân Tộc. Lực lượng này chỉ phát huy được sức mạnh và hiệu quả dưới sự lãnh đạo lão luyện của một ai biết dẫn dắt nó và làm nó phát huy hiệu quả đến mức tốt nhất. Đó là vinh dự của những ông vua biết giao trách nhiệm cho những vì tướng biết động viên quân sĩ kiên quyết biểu hiện chủ nghĩa anh hùng và quyết lòng hy sinh. Đó là ba nhân tố có tầm quan trọng như nhau mà sự luân phiên vận dụng để đi tới chiến thắng. Thật là bất công nếu chúng ta đã công nhận sự xứng đáng của người cộng sản rồi sau đó chối bỏ sự đóng góp của họ sau ngày thành công. Chuyện quan trọng không phải là đưa người cộng sản lên một vị thế cao hay đưa vào chỗ thấp, mà là chuyện định đặt họ ở đúng vị trí mà họ phải có.
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa Dân Tộc vào con đường Xã Hội Chủ Nghĩa về lâu về dài là một thảm hoạ. Cái lỗi lầm kinh hoàng đầu tiên không thể quên được là cuộc Cải Cách Ruộng Đất, nó không phải chỉ là cuộc thảm sát hàng chục ngàn người dân vô tội, mà nó còn làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng và làm hại đến cái giáo điều “không bao giờ sai lầm” của Đảng. Những cặp mắt mở to, những soi mói nhìn lại chính sách của Đảng, và những “bộ óc biết suy nghĩ”, vội vàng tỉnh giấc Nam Kha để tổ chức những buổi phê bình thích đáng ngay trước khi Đảng lấy lại thế đứng và quan điểm của mình.
Cá nhân tôi, qua những quan sát, phân tích và suy nghĩ, tôi đã đi đến một số kết luận về những sai lầm của Đảng. Thứ nhất, cái mà giáng lên ngay cả những người ít học nhất, là thái độ nô lệ thần phục hoàn toàn trước hai “ông anh lớn” Liên Xô và Trung Quốc. Sự thần phục hoàn toàn không chỉ ở mức độ chủ thuyết mà họ là người biện hộ cho tính chính thống của Liên Xô và Trung Quốc, mà còn biểu hiện ngay trong cách ăn mặc, hội họp riêng chung, cung cách chào hỏi nhau và cả đến lối sống v.v. Việt Nam đã mất bản sắc dân tộc để trở nên một khuôn rập phản ảnh hai nước Liên Xô và Trung Quốc.
Cái rập khuôn thứ nhất là lãnh vực kinh tế, nơi mà chúng ta có thể nhìn thấy cùng một chính sách kế hoạch, tự quyết định chính sách giá cả, sự độc quyền của Nhà Nước trong lãnh vực sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế, những chính sách thâu tóm toàn bộ lợi nhuận, bù đắp cho mọi lỗ lã, chọn lựa nhân sự cũng như tính toán tiền lương cho họ. Quyền tuyệt đối và sự hiện diện khắp nơi của Nhà Nước trên toàn nước, bất cứ chỗ nào, đã gạt bỏ mọi sáng kiến, mọi quyền lợi tư nhân, sự vắng mặt của sự cạnh tranh, không có bất cứ một quan hệ gì giữa giá phí sản xuất và giá bán, sẽ dẫn đến không sớm thì muộn một nền kinh tế trì trệ, đến một nền kinh tế suy sụp, một nền kinh tế hoàn toàn được dẫn dắt bởi chính trị, hoàn toàn quay lưng về những quy luật, những giá trị và những hiệu quả đã được chứng nghiệm suốt mấy thế kỷ vừa qua.
Hơn nữa, chưa bao giờ người ta lại khinh miệt và hận thù luât lệ với một thái độ láo xược như thế. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng. Người ta cấm tiệt bất cứ mọi thứ can thiệp hay ngay cả một tia mắt nhòm ngó vào hai lãnh vực Lập Pháp và Tư Pháp. Nguyên tắc “không thể sai lầm” và “không chịu trách nhiệm” của Đảng đã mở cửa cho biết bao chuyện kỳ quặc, bệnh hoạn, tự tung tự tác và hậu quả là đưa đến những hành động phạm pháp bởi mọi tầng cán bộ, bởi các đảng viên hay những người được Đảng nặn ra. Chưa bao giờ nhân dân lại bị đẩy vào một thế im lặng đê hèn và tai hại; không một gợi ý, đề xuất, nhận xét hay ý kiến tư vấn nào mà nhân dân có thể đưa ra cho nhà cầm quyền để cải thiện việc điều hành của Nhà Nước và làm cải thiện tốt hơn cho con dân trong nước. Bất hạnh thay, những điều Luật được “bầu” ra bởi Quốc Hội, các cấp Toà do chính phủ dựng nên chỉ có một và một mục đích duy nhất là bắt người dân quy phục, và tuân thủ vô điều kiện bất kể chuyện gì mà nhà cầm quyền muốn dù là chuyện ngông cuồng vô lý nhất. Mặc dù vậy, để lừa phỉnh trong nước và quốc tế họ luôn luôn ra rả không ngừng là họ  dân và do dân.

Những định luật khoa học, những cấu trúc thực tiễn của một nền kinh tế đều bị khinh thường. Niềm cả tin bất khả bại cũng như tinh thần vô trách nhiệm của lãnh đạo làm cho những định chế Lập Pháp và Tư Pháp trở nên vô dụng. Những tai hại đó, dưới hiện tượng siêu hình, trở lại điều khiển mọi sinh hoạt kinh tế chính trị: đó là quy luật của sự đổi thay đổi. Người cộng sản thường hay hãnh diện về những cái biết duy vật biện chứng về sự thay đổi mà họ rao giảng cho hàng tín đồ của họ. Nhưng trên thực tế họ đếch cần đến nó. Họ chỉ biết dựa ngửa trên chiếc ghế bành của lãnh đạo, tuyên phán những câu tuyệt vời là sẵn sàng chết nơi nào mà Đảng đã đặt họ ở đó. Mọi xúc phạm (đến chỗ ngồi của họ) sẽ nhanh chóng biến thành một cuộc đấu tranh giành quyền lực đầy hung bạo, đặc biệt là ở những chỗ ngồi cao cấp; kẻ nắm ghế quyền lực không dễ dàng tự ý nhường ghế cho ai! Vì thế trật tự kiểu lão làng là chỉ thị hành động cho những người cộng sản. Nhưng trong kinh tế, sản xuất và thương mãi, chính tính ù lì không thay đổi này đã gây ra những phiền phức đầy tai hại. Trong một thế giới hiện đại, nơi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển tột bực, những phương thức sản xuất, giao thông, viễn thông, tin học, sự chuyển dịch của con người và hàng hoá, tất cả mỗi ngày mỗi thay đổi nhanh chóng. Đã phải mất mấy ngàn năm con người mới biết định cư định canh trong nông nghiệp và cho loài người phát triển tiến lên; phải mất mấy trăm năm để con người khám phá ra nguồn năng lượng mới khởi đầu cho nền văn minh máy móc, cho phép kỷ nghệ được phát triển dưới nhiều hình thức. Khoa học kỹ thuật đã mất chừng ba thế kỷ để khám phá ra những bí mật của thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, khám phá ra những nguyên liệu mới khó tin nhưng đầy tuyệt vời, bảo đảm cho một chiến thắng tuyệt vời trên điện tử và xử lý thông tin. Một triết gia người Hy Lạp đã đưa ra một hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc về tính thay đổi của sự vật khi nói “Con người không bao giờ hai lần tắm cùng một nước sông”, ngược lại người cộng sản cứ khư khư chối bỏ không chấp nhận sự thay đổi, luôn luôn bảo vệ tính “liên tục” của các định chế kinh tế và chính trị của họ, đồng thời bám rễ luôn vào chỗ ngồi của mình.
Đối diện với một hoàn cảnh như thế, làm sao tôi có thể góp sức gì cho Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở? Tôi sẽ không tham gia bàn cãi về những vấn đề lớn. Tôi sẽ chú tâm vào những điều chi tiết nhưng đó là những tiêu chuẩn của một nền dân chủ: Tôi mong rằng những kẻ lạm quyền nên bớt khắt khe, đừng bịt họng Mặt Trận Tổ Quốc, rằng họ nên chấm dứt việc đòi Thẩm Phán phải hỏi ý kiến xin chỉ thị của Đảng cho những vi phạm Luật hay những án hình sự. Đối những chuyện nhỏ nhặt cần chi phải ồn ào, như người đời thường nói. Tôi không phải là một chiến sĩ, lại càng không phải là kẻ bạo gan. Tôi không có một chút thich thú gì về chuyện xung đột, nhất là khi một thanh kiếm gỗ phải chiến đấu với thanh kiếm sắt. Những đồng nghiệp khác của tôi ở Đại Học như Giáo Sư Đào Duy Anh, sử gia và là một nhà Trung Quốc Học, triết gia Trần Đức Thảo, nhà phê bình văn học Trương Tửu cùng dấn thân trong cùng khuynh hướng dân chủ và cùng giữ mình cẩn thận đối với những người cầm quyền mà ai cũng biết là nổi tiếng đao phủ, tàn bạo thời trung cổ, tất cả đều dấu mình thô thiển dưới danh nghĩa “đấu tranh giai cấp”, chiến đấu cho chủ nghĩa Marx.
Giới sĩ phu Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đa số - ít nhất là những người cầm bút và còn quan tâm đến tự do và liêm sỉ của người trí thức, kể cả những nhà văn còn trong bộ đội – Bộ Đội, như đã từng được biết, là thành trì của tinh thần cách mạng trong sáng và chính thống - đồng tâm đứng lên theo tiếng gọi của dân chủ và tố cáo sự bạo ngược đối với những sinh hoạt trí thức.
Về sau này, Việt Nam còn nghe được những tin khủng khiếp động trời về vụ tàn sát dã man của Hồng Vệ Binh bên Trung Quốc do nhà cầm quyền ra lệnh.
Những tin tức nhận được ở Việt Nam cho thấy cuộc “Cách Mạng Văn Hoá” chỉ đơn thuần là một cái bẫy đưa ra để thanh toán những kẻ thù của chế độ Mao. Nạn nhân, dĩ nhiên, là bao gồm giới trí thức đã quá ngây thơ tin vào lời nói của bọn cầm quyền độc tài và đã hát lên bài thánh ca dân chủ hiến dâng cho giới chức quyền của của Vương Quốc Thiên Triều, và gồm cả những người cộng sản với một quá khứ không tì vết luôn sẵn sàng quy phục dưới thế lực của Đại Vương. Từng bầy Vệ Binh Đỏ tràn khắp đất nước, sôi sục hận thù với những kẻ thù của Chủ Nghĩa Xã Hội, phát tiết sự hung bạo cuồng tín tấn công khắp nơi chỉ bằng vào những lời hứa thần kỳ của lãnh đạo. Chúng tấn công những người vô tội không phương tiện tự vệ, những nạn nhân của những những tên sát nhân đầy mặc cảm tự ti mà sự điên tiết và tàn bạo luôn được nhà cầm quyền khuấy động. Máu đã đổ thành dòng, nhân dân Trung Quốc đã phải ướt chân để vượt qua những cơn thuỷ triều đỏ màu máu, mắt của họ đỏ lên màu đỏ của những lá cờ, biểu ngữ, cờ hiệu đang hể hả tung bay trên những nóc nhà và trên những buyn đinh. Nhưng khi cuộc diệt chủng đến thời kỳ cuối, không còn ai để cắt cổ, thì bọn Vệ Binh Đỏ lại tới phiên mình gục ngã dưới lằn đạn của những khẩu súng máy ngã nhào vào những chiếc mồ chung, cũng từ lệnh ban ra từ những tên quỉ dữ không còn muốn giữ lại một nhân chứng sống nào cho tội ác của chúng! Qua thế giới bên kia, nạn nhân và kẻ giết người sẽ gặp nhau và cùng khóc những giọt nước mắt đắng cay với ảo tưởng đã chết và một niềm tin bị phản bội. Cách Mạng Văn Hoá đã buông màn phủ lên cái chết của những người có văn hoá và lên cái chết của chính cái gì gọi là Văn Hoá.
Ở Việt Nam, người ta bắt đầu vụ xử án liên quan đến những người viết văn, làm báo, thầy giáo mà lý do duy nhất là họ dám diễu cợt trên cái kỳ quặc và nực cười của những người cộng sản. Họ bị kết án là đã bắn mũi tên vào trí tuệ của lãnh đạo, của lực lượng vũ trang. Những kẻ cứng đầu ngoan cố này bị kết án là chống Đảng và làm nhiễm độc Cách Mạng. Nhưng trong kho công cụ trấn áp lại không có loại văn bản nào nói về mấy tội trên. Mặc kệ, họ có thể làm ra ngay một cái. Nhưng văn bản để áp dụng biện pháp trị tội lại không thể có hiệu lực hồi tố. Như trong thời kỳ Thượng Cổ, luật pháp là điều bí mật mà các Pháp Sư và quan toà nắm độc quyền. Không còn gì kinh hoàng hơn là Nhà Nước Cộng Sản đã vực dậy những thứ đã thành quá khứ từ hàng ngàn năm nay để nhảy xổm lên trên Luật Pháp và dùng nó duy nhất là để cô lập, tiêu diệt những người mà họ nghi là có tư tường xét lại chống Đảng, cóc cần biết đến cái gì là công lý và công bằng! Tại sao mọi người phải quan tâm đến chuyện văn bản trong khi quyền lực chỉ ở trong tay một kẻ độc tài?
Một logic như thế chỉ cho thấy mùi vị của một thứ luật rừng, của những bộ lạc rừng rú. Có luật gia nào trung thành với thiên chức của mình lại chịu đánh mất lương tâm, chịu nén cơn thịnh nộ để làm vui lòng những lãnh đạo chính trị mà họ đang đợi mong những điều kỳ diệu? Nhưng thời nào, bao giờ cũng có kẻ sẵn sàng đứng ra làm công việc hèn hạ kết án những người trí thức mà chính họ cũng thừa biết những người này là vô tội đối với Luật Pháp. Tên quan toà đó, tiêu biểu nhất cho loại người cam tâm làm đầy tớ. Và đây là chân dung của loại thẩm phán đó.
2  Ông quan toà Việt Nam

Ông ta sinh ra ở một thành phố mà nơi đó đã sản sinh ra bao nhiêu người đi làm Cách Mạng. Trong thời đại ngày nay ở Việt Nam, tinh thần địa phuơng trở nên mạnh mẽ. Địa phương nào cũng khoe khoang về những sản phẩm, tài nguyên thiên nhiên, những thành công về nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, nền công nghiệp đang khởi sắc, và dĩ nhiên là những nhân vật tài ba của mình. Trước đây, điều nhấn mạnh là những nhà thơ, những tướng soái hay những công thần đã phụng sự đắc lực cho triều đình và cho dân địa phương. Ngày nay, cách làm thì khác đi, người ta tán dương những giá trị Cách Mạng, những “anh hùng” được tôn lên thành “Trời” và đã có được tới những ba mươi tuổi Đảng. Mỗi năm, Trung Ương Đảng mời họ dự những buổi lễ chính thức, và ít nhất một lần, những người cùng quê quán lại cùng nhau họp mặt thân hửu và đôi khi chè chén với nhau.
Hắn có một khuôn mặt gầy với hai gò má nhô ra chai cứng khắc khổ. Đôi mắt thiếu tinh anh với nụ cười gượng gạo không chút vui vẻ. Hắn gầy như một nhà tu khổ hạnh, dường như là hậu quả của một đời sống thiếu thốn vật chất, không phải để hắn được sinh ra để dễ dàng tán gái mà chỉ để hắn chỉ có lo học và thức đêm để học. Người ta cho rằng hắn đã cùng đồng hành với những luật gia đã sưu tập bộ sách Luật Dallos and Sirey. Mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng hắn đi đi lại lại với vẻ mặt khó khăn và nghiêm chỉnh của một quan xử án thời Trung Cổ. Thầy bói có thể tiên đoán là tương lai hắn sẽ là một quan Toà: chưa bao giờ người ta thấy hắn không mang theo một chiếc cặp da đựng đầy giấy và sách! Hắn học giỏi và đã lấy một bằng Cử Nhân Luật.
Thời hắn tốt nghiệp, đa số bạn bè chọn làm việc trong chính quyền thực dân và đặc biệt là thành những kiểm soát viên hay thanh tra Thuế Vụ, thư ký Toà Sơ Thẩm hay Toà Phúc Thẩm trong hệ thống Tư Pháp của Pháp. Với những công việc đó họ hưởng mức lương bổng hậu hĩnh, sống ở các thành phố và sống một cuộc đời sung sướng. Ông quan của chúng ta lại chọn đi làm quan cho Triều Đình, có thể ít tự do hơn nhưng lại hưởng lợi tức nhiều hơn nhờ hối lộ từ đám con dân mà ông ta quản lý.
Dĩ nhiên, nghề làm quan triều đình tuy bị báo chuyên châm biếm Phong Hoá và Ngày Nay tha hồ diễu cợt cũng mang lại đôi vẻ uy danh, không phải vị bị diễu là “cha mẹ của dân” mà là do những lợi ích của giàu sang: một biệt thự sang trọng ở Hà Nội, một chiếc ô tô mới tinh, chiêu đãi khách ở những nhà hàng Tàu lớn ở phố Hàng Buồm, những buổi tiệc tùng ở những hộp đêm mà những cô nàng dễ dàng và trẻ đẹp tự gọi mình là “ca ve” sẵn sàng cung ứng những bản nhạc không gì khác hơn là những bản nhạc của thân xác trần truồng!
Vì thế, người anh hùng của chúng ta tự biến mình thành mệnh quan của Triều Đình, chấp nhận cứng đầu không ngán búa rìu báo chí, bỏ túi đầy phẩm vật hiện đại và tham gia một giai cấp mà phẩm trật và khuôn phép là một chuyện đáng phiền và ngay cả nhục nhả. Người đời tin rằng ông ta chọn ra làm quan là vì hám lợi và khát quà hối lộ. Dường như hắn ta đã bỏ lại sau lưng làng huyện của hắn những tiếng thơm của những ông quan ngày xưa đầy trung chính. Vì lẽ nào mà hắn chọn làm quan cho Triều Đình? Nhưng có cần phải tìm hiểu tại sao không? Cái chính yếu đáng quan tâm và sau này cũng sẽ được nhắc lại nhiều lần là sự việc ông ta là một viên quan của Triều Đình Huế.
Sự thành công của Cách Mạng đánh tiếng chuông cáo chung nền phong kiến. Ngôi vua của Bảo Đại sập đổ trong sự dửng dưng của mọi người. Vai trò quan lại chết theo, không người thay thế, toàn bộ quan lại sâu bọ cũng sụp đổ. Ông quan “cha mẹ của dân” cố làm mọi người quên mình, sau khi đã cưỡng đoạt bao nhiêu là tiền của “con” dân, đã tỏ ra bao nhiêu công bộc tôi tớ cho cấp trên người Pháp và Việt Nam. Sự thay hình đổi dạng nhiều khi thật lạ lùng.
Ông luật gia của chúng ta lột xác quan triều để chọn tham gia Toà Án của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Chọn lựa của ông ta thật đầy ý nghĩa và cho thấy một vài góc cạnh của tâm hồn: khao khát uy quyền và sức mạnh dưới hai khía cạnh: tuân phục kẻ trên, chà đạp kẻ dưới.
Từ khi ông ta được bổ nhiệm làm thẩm phán của Toá Án nhân Dân, tôi có nhiều dịp cãi trước mặt hắn, trong những vụ án dân sự lẫn hình sự. Tôi không bỏ một cơ hội nào để nắm bắt những nét cá tính: tôi để ý nghe một vài giọng điệu của ông ta, cùng lúc những lúc nhíu mày, lúc quắc mắt, tất cả những thứ ấy làm tôi nghĩ đây là người nghĩ nhiều về bản thân và khinh khi những ai không có trình độ trí thức và xã hội như ông ta. Trong một vài lần găp lãnh đạo chính trị khá cao mà ông ta chờ nhận chỉ thị, tôi thấy dưới bộ mặt tỏ vẻ tôn kính là những kiêu hãnh cá nhân đang giấu mặt; ông ta cảm thấy mình cao hơn người đối thoại và thường là do những câu trả lời bén nhạy của ông ta quá đủ để cho thấy như thế. Hắn có tư cách và cá tính, và không cho phép ai chà đạp lên đó. Có thể, như trong vở kịch La Bruyère, ông ta phải hạ mình để phục vụ cho những kẻ không thể ngang hàng với mình. Hắn bị tấn công cùng một lúc cả hai thứ mặc cảm tự ti và tự tôn, làm cho hắn trở nên thù nghịch với các ông lớn và hận ghét các ông nhỏ. Hắn che giấu cái quyền uy của hắn trước các ông lớn nhưng lại ra quyền đối với các ông nhỏ. Được bổ nhiệm làm Thẩm Phán Toà Phúc Thẩm và trong khi chờ được đi làm Thẩm Phán Toà Án Tối Cao hắn nén lòng chận cơn khát một vinh quang hạng ba nên đã gia nhập Đảng Xã Hội, một đảng được lãnh đạo Cộng Sản đẻ ra để lường gạt dân chúng trong nước và quốc tế, hầu có cái môn bài “đa nguyên” rẻ tiền để tập hợp giới trí thức vào ủng hộ lý tưởng cộng sản. Hắn cũng đã thành công kiếm được chức Tổng Thư Ký của đảng Xã Hội phân bộ Hà Nội và làm đại biểu cho đảng này trong ban Chấp Hành Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội. Với tham vọng và cơ hội chủ nghĩa hắn vẫn không làm sao thoả mãn được với những chức vụ “to lớn” mà hắn đang có, cũng như một loại người bắt cá hai tay để rồi chẳng được con nào, hắn bám đuôi các nhà lãnh đạo nhưng cũng chẳng hưởng được một ban bố hay che chở nào.
Đảng Cộng Sản rất khôn ngoan sắc sảo: trong chính sách Hoà Hợp Dân Tộc mà họ chủ trương qua trung gian của Mặt Trận Tổ Quốc, tất cả để che đậy một mục tiêu thầm kín nhưng với biểu lộ bề ngoài là rộng lượng khoan dung; họ tự kềm chế để tránh việc làm cho cả một tầng lớp quan lại trở thành kẻ thù không đội trời chung với họ. Họ ban phát cho mấy quan một chút vuốt ve, một vài nụ cười thân thiện để mấy quan yên lòng và thậm chí bổ nhiệm một vài quan vào những chức vụ công quyền chính thức. Họ sẽ không thể kiếm được những tôi tớ nhiệt thành hơn là những tay có một quá khứ “tì vết” và những kẻ chỉ có một nhu cầu thúc bách là được chuộc lại “lỗi lầm” trong quá khứ. Không người đàn bà nào có thể tỏ mình là người đoan trang hơn là những cô gái già. Một khi Đảng đã nắm chắc sự hiến dâng tận tụy của đám người đoan trang kiểu gái già đó, xem như Đảng đã mở rộng tầm nhìn, sự độ lượng bao dung hoàn toàn không có thành kiến và ý đồ trừng phạt trả thù.
Nhưng kẻ được nghe câu “chúng ta hãy làm bạn với nhau…” thật không cảm thấy an lòng. Vì vậy, để giữ cho mình chút tự trọng và để đảm bảo được chủ mới tin tường, hắn chơi trò hàng hai: độc tài trước công chúng và khúm núm xum xoe những khi gặp cấp trên. Hắn càng tỏ ra quyền uy ở chốn công, thì hắn lại càng khúm núm ở nhà riêng của ai đó. Nhưng hắn không thể lường gạt ai, kể cả hắn.
Ông quan Toà nhà ta đã làm cho mình được mọi người biết đến qua một vụ xử án quái lạ duy nhất được biết trong lịch sử ngành tư pháp văn minh ngày nay. Một ít lâu sau khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã cho lệnh đưa ra toà để kết án một giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng dạy bài văn có tên là “Sự Cách Ly” (“L’Isolement”) của nhà văn người Pháp Lamartine. Ngàn xưa từ thời Socrates, ai cũng biết là, khi nhà cầm quyền muốn bắt kẻ sĩ nào đó uống thuốc độc thì chỉ cần gán tội cho họ là đã đầu độc tuổi trẻ. Đảng Cộng Sản đã vực dậy một thủ đoạn đã dùng hai ngàn năm trước. Trong mọi thời đại, kẻ độc tài luôn kiếm cách xếp đặt nhân dân theo khuôn mẫu họ muốn, đặc biệt là giới trẻ là những kẻ đang nắm giữ tương lai. Tất cả đường lối giáo dục đều phát xuất từ đường lối chính trị chính của họ như là một hệ luận đương nhiên. Học đường phải là nơi đào tạo những người mà sau này phải chăm lo cho đường lối của nhà cầm quyền. Mọi chệch hướng trong giáo dục cũng đồng nghĩa là đi sai đường lối chính trị mà lãnh đạo đã đưa ra.
Đây chính là cái logic của mọi chuyện! Nhưng điều thảm khốc ở đây là cái logic như thế lại phải cưu mang một cái gì đã lạc hậu nặng nề hơn hai ngàn năm nay. Có ai dám tuyên bố là Chủ Nghĩa Cộng Sản là chỉ mang lại tàn phá trong quá khứ? Tôi không đặt vấn đề một cách chủ quan là giáo dục là để cho nhà nước hay cho con người? Tôi nhấn mạnh ở đây, duy nhất trên sự kiện là nền giáo dục cộng sản tự cho mình cái bổn phận đào tạo người cho nhà cầm quyền, sao cho người ấy hết lòng làm việc cho chính quyền và tất cả phải làm sao cho giáo dục đạt được điều đó.
Trong những điều kiện đó, con người được đào tạo bởi nhà cầm quyền chỉ là một công cụ để thi hành những chính sách cầm quyền và không là gì khác hơn. Người ta tự hỏi đây là thứ chủ nghĩa xã hội loại gì mà không ai thấy có bất cứ nơi đâu nếu có chăng là ở trong trí tưởng tượng của những nhà lý luận. Mặc kệ! Những nhà lãnh đạo hãnh diện với chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa duy vật của mình, phê phán chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thái, đã vận dụng trí tưởng tượng của mình mà xây nên một hình mẫu chủ nghĩa xã hội. Bằng cách chiết xuất vô tư đủ thứ lý thuyết, họ nhồi nhét vào một hình mẫu con người xã hội chủ nghĩa với đủ thứ nết tính tốt đẹp: cứ đọc những văn kiện lập pháp, những thông tư hành chánh, đủ thứ văn bản mà từng đoạn văn dài dành đề ca tụng chủ nghĩa cộng sản đang lang thang trên thiên đường của ảo tưởng. Trong những điểm đặc trưng của con người xã hội chủ nghĩa của ngày mai của họ, điểm nhấn mạnh là niềm vui sống, lạc quan chủ nghĩa. Nếu sự thật là thế, là chủ nghĩa xã hội mang đến hạnh phúc cho người dân thì quả là họ đã được thăng hoa trong cuộc sống với thứ chủ nghĩa lạc quan. Các nhà lãnh đạo đã có thấy chăng là đời sống trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của họ hiện đã trở nên ủ ê ảm đạm, con người bị trói cột dưới sức nặng của bao nhiêu cấm đoán và thiếu thốn, kéo dài những ngày tăm tối và họ đang bị đẩy vào buồn tủi và vô vọng? Mặc dù với đủ mọi chuyện, nhưng có một chuyện không chối cãi là dưới mắt người cộng sản, sự thất vọng, thờ ơ hay bi quan là những chứng cớ tiêu cực về tinh thần, chệch hướng về chính trị, phản động và có ý chống phá Cách Mạng.
Điều bất hạnh là một đã khi nắm được chính quyền và đang chờ thời cơ để tiến hành những cải tổ, lãnh đạo mới tuyên bố sẽ giữ nguyên trạng mọi việc như cũ. Khi những thành phần ưu tú và một số công chức cũ bỏ ra nước ngoài, những người còn lại vẫn giữ nguyên chức vụ và tiếp tục hưởng mức lương cao như ngày trước; chính chuyện này đã gây nên những xung đột giữa những kẻ “hợp tác” (với Pháp) và những người của Kháng Chiến. Đó là trường hợp các giáo chức. Giáo viên dạy Khoa Học thì không sợ gặp vấn đề vì lẽ Khoa Học không có gì gọi là mang tính phản động. Trong khi đó, giáo viên dạy Văn vẫn tiếp tục dạy thơ văn vì chương trình giảng dạy vẫn chưa thay đổi. Vì Lamartine là bài khởi đầu của một số tiểu thuyết lớn, nên ông giáo nhà ta không thể nào loại bỏ nó trong chương trình học. Vì thế ông giáo bị kết án giải trình rằng phân tích cuốn Nỗi Cô Đơn (Isolement) của Lamartine thấy diễn tả tình trạng suy sụp tinh thần, bất mãn chán chường của đời sống từ khi có cuộc Cách Mạng (Tư Sản) 1789, và trong nỗi chán chường và cô đơn tác giả thiên về một đầu tranh cho một thế giới mà ông ta tìm được hy vọng và tình yêu...
Trong thời đó, khẩu hiệu tuyên truyền là “kẻ thù vẫn còn khắp mọi nơi, tay sai của nó vẫn còn ở khắp nơi”. Việc duy trì an ninh đòi hỏi một đề cao cảnh giác cao đến mức báo động, việc gửi những tay công an mật vào tất cả những cuộc hội họp, cũng như việc trưng dụng những tay làm mật báo nghiệp dư hay tự nguyện liên tục rảo quanh các con đường, vỉa hè, vườn hoa hay công viên công cộng, trong những quán cà phê, rạp chiếu bóng hay nhà hát, nhà nghĩ hay những toà nhà công cộng… Tất cả thư tín cá nhân đều được ghi danh sách và kiểm tra, kiểm soát thư tín xảy ra ngày đêm, tất cả các máy thu thanh cá nhân đều được theo dõi nhất là vào những giờ mà các đài phát thanh nước ngoài hoạt động. Trong công sở, ngoài những người mặc đồng phục, còn có những phòng chứa đầy do thám tai giương to, mắt mở lớn. Những giao tiếp giữa những người với nhau, nhất là với người nước ngoài là đối tượng đươc đặc biệt kiếm soát và không ai ngạc nhiên khi thấy thư từ gửi cho mình tự biến mất trên đường đến nơi nhận. Đối với những tay mật thám chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản và có ít nhiều kinh nghiệm thì người bị theo dõi rất khó nhận biết, nhưng ngược lại với những tay không chuyên, nóng lòng kiếm công để lập với cấp trên ở địa phương thì rất dễ biết và chỉ cần một hai mưu mẹo là có thể chơi chúng nó được rồi. Cả Hà Nội là cảnh tượng một đám hình nộm hay là một sân khấu đang có những người đang khoa chân múa tay với ánh mắt bất động, diễn tuồng trong câm điếc, như những người máy cử động được là nhờ những chiếc lò xo gắn bên trong. Nhưng đằng sau bức màn sân khấu, đằng sau góc nhà, ở góc vỉa hè, trong những câu chuyện giữa hai người, những điệu bộ châm biếm diễu cợt đã xuất hiện, để trả thù cho những ngày sống không được nói và phải luôn sống với quán tính cẩn thận dè chừng, như khám phá ra những điều quái gỡ, rồi bật phá ra cười bằng cách bắt chước giọng điệu hay cung cách của nhà lãnh đạo.
Trong các Đại Học, trong các phân khoa, trong mỗi lớp, trong mỗi buổi học, suốt cả năm, trong đám sinh viên luôn có những tay làm do thám. Có hơn một giáo viên thuộc thành phần kháng chiến lo theo dõi các đồng nghiệp, bất kể những người này thuộc thành phần “hợp tác” hay “kháng chiến”, tố cáo với thẩm quyền trực tiếp về những cái gọi là những sai lầm tư tưởng, những chệch hướng mà các giáo viên đã từng ăn lương của chính phủ Đông Dương và nay vẫn còn tiếp tục hưởng lương của chính phủ Cách Mạng. Họ, những giáo viên thuộc thành phần “không kháng chiến” bị khinh khi chỉ vì họ không có một chút hy sinh nào cho Kháng Chiến trong thời kỳ bí mật, họ trở nên đối tượng ganh ghét vì mức sống họ cao so với người khác. Chuyện bất công như thế nên được chấm dứt. Khi mà Đảng và Nhà Nước cần phải tránh bị mang tiếng là tiền hậu bất nhất không biết giữ lời, một số tay “cựu hợp tác” đã được Đảng mua chuộc “thông cảm” mà tự ý đề nghị phải “công bằng” với tất cả về chế độ lương bổng. Như thế làm thế nào mà lãnh đạo không cảm động bởi một thỉnh cầu đúng đắn, phải lẽ và chân thành như thế, nhất là lại nằm trong chính sách hoà hợp dân tộc của Mặt Trận Tổ Quốc? Mặc dầu giúp Kho Bạc Nhà Nước lúc nào cũng thiếu hụt, tiết kiệm được chút tiền và mặc dù có sự cằn nhằn của các người được ưu đãi trước đây, và đặc biệt là các bà từ nay phải thắt lưng buộc bụng, bầu không khí trở nên hân hoan: Nhà Nước tiết kiệm được một giọt nước trong biển cả của thâm thụt, người xuất thân “kháng chiến” từ nay thấy được một chút công bằng, người thuộc chế độ cũ, sau những chịu đựng từ hôm mồng 4 tháng 8, từ đây có thể ngẩng mặt cao và xem mình đứng ở thế ngang tầm với các đồng nghiệp xuất thân kháng chiến.

Trong hoàn cảnh đầy hân hoan như thế, cuộc xử án vị giáo viên dạy Văn bị kết tội là đã làm hư hỏng thanh niên và đầu độc tâm hồn họ kắt đầu. Kẻ bị kết án được khuyên là không nên tìm luật sư biện hộ cho mình vì lẽ một luật sư giỏi, nổi tiếng là rất hiếm hoi, mà ngay có được một, thì ông ta cũng là một loại người cứng cựa đối với những người cộng sản, những người đã từng có những kinh nghiệm kinh hoàng với luật và những luật sư thời trước.
Cho ngay đến những người không thường có thói quen suy nghĩ sâu trên một vấn đề, mọi người đều cảm thấy ý nghĩa của một vụ án như thế này. Nó nhắm biểu diễn cho những người tham dự phiên toà thấy một Nhà Nước rất nghiêm chỉnh trong việc điều hành luật pháp một cách công bằng. Đây là một mẫu mực trong việc điều hành của chính phủ và những việc hành chánh sáng tạo bởi chủ nghĩa Cộng Sản, mà theo đó tất cả những sinh hoạt chính quyền là để giáo dục quần chúng và hướng họ đến việc tôn thờ Đảng Cộng Sản, tôn thờ những kẻ lãnh đạo Đảng và chủ nghĩa Cộng Sản mà họ tự là người đại diện. Những điều luật và nghị quyết ban hành, những văn bản phổ biến đến tất cả các cơ sở giáo dục, từ cấp Tiểu Học đến cấp Đại Học, những buổi hội thảo công cộng do những diễn giả chuyên nghiệp hướng dẫn, những bài xã luận, những cuốn sách được xuất bản, những phiên toà, những cuốn phim được chiếu, những buổi mít tinh được tổ chức, những tuyên bố đưa cho báo chí, tất cả đều phải đặt mình vô điều kiện và tuyệt đối, hiến thân trọn vẹn vào đường lối chuyên chế của Đảng, một đảng không giống bất cứ đảng nào mà phải là Đảng với chữ Đ luôn luôn được viết hoa. Tất cả những người đi kháng chiến trong thời kỳ bí mật đều hiểu được rằng muốn được vào Đảng, họ cần phải sẵn sàng hy sinh tất cả, nếu cần phải làm tội ác cũng phải làm. Mỗi người đều phải trải qua những ngày tập huấn rồi tái tập huấn theo một khuôn đúc đã được định sẵn. Trong thời gian đó họ được khai tâm học tập, họ không cần đếm xỉa gì đến những giá trị nhân bản, chỉ cần chuyên chú vào việc tôn thờ một vị chúa tể duy nhất mà cái tên được người ta dựa vào để sinh ra những ý tưởng kinh hoàng và làm những việc nhơ nhuốc nhất đều được cho phép! Con người bị biến thể, tự biến mình thành những người máy đem tất cả tâm trí và linh hồn để phụng sự cho chiến thắng của bản năng và thú tính, hay đúng hơn là sự chiến thắng của sự thấp hèn và ghê tởm.
Những người kháng chiến đều biết trước diễn tiến của vụ án. Họ đều biết vị chánh án của phiên toà là người có một quá khứ nặng nề của một viên quan của Triều Đình; và mặc dù ông ta đã thành tâm một cách không chối cãi, nhưng chưa bao giờ đạt được những vinh dự mong muốn, rầu rĩ và mụ người trong cái tầm thường dù đã được mạ vàng sáng láng. Khi ông ta được bổ nhiệm làm thẩm phán xử án, ông ta như bị xâu xé bởi một mâu thuẫn nội tâm. Một mặt, sau những năm học Luật, tốt nghiệp và đi làm quan, ông ta có được một sự cân bằng nào đó về kiến thức và ý niệm đạo đức trong bản thân. Nhưng ông ta lại muốn cái “tội ác” ngày xưa được tha thứ theo như cái nhìn của những người Cộng Sản – cho hắn có lại một sự “trinh bạch” để được gia nhập vào giòng người sạch sẽ và trắng ngần hôm nay, để đạt tới một tương lai huy hoàng ở ngày mai, phù hợp hơn với khát vọng và tương lai của mình. Ông ta là hình ảnh của một con giun đang quằn quại mà không biết mình nên tiến hay lùi. Khởi thuỷ cuộc đời hắn, việc chọn đi làm quan cho thấy cái chủ đích thấp hèn và cái ước vọng ác đức của hắn. Một ông chủ tư bản bóc lột công nhân, đẩy người này vào nghèo khó, bóc lột họ đến tận cùng của sức lực. Nhưng một ông quan triều vơ vét tiền của dân, nhẫn tâm trên đủ thứ tội ác, trên hàng vạn con người trong vùng cai trị của hắn. Để nịnh nọt, người dân gọi các quan là “cha mẹ của dân”. Nhưng giữa họ với nhau, họ coi ông quan như là một thứ ký sinh trùng của dân. Chuyện cũng dễ hiểu khi ông quan còn mang trong lương tâm cái mặc cảm của quá khứ. Ông ta cũng hiểu rằng đang có nhiều cặp mắt đang nhìn, không phải duyên cớ nào khác hơn là để “thử thách” khi giao cho ông nắm phiên toà xử tội một người trí thức có tư tưởng chống lại đường lối của Đảng. Trong tình cảnh như thế, ông quan Toà nhà ta không thể nào xử một cách công bằng không thiên vị và phải như Luật đã định.
- Bị cáo! Ông có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh niên của chúng ta một loại Triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan trong khi Đảng của “chúng ta” được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan, hy vọng và vui sống?
Thưa ngài chánh án, làm sao tôi biết được là Đảng đang dạy về một cuộc sống đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người làm việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao giờ học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng đã dạy những điều như thế. Ngay cả điều đó có thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như thế khó mà đạt được kết quả. Thực vậy, lãnh vực cảm tình không phải là đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của thế quyền. Những gì xảy ra trong nội tâm của con người nó không biết về những qui luật về logic và lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo đức. Một cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới bên ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân lý, nếu tôi có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi mỗi người thu nhận hay gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh theo cách riêng của họ. Đây là lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn mang lại cho nhân dân hy vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không đi đôi với lời nói, nếu nhũng thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng thì chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà hy vọng. Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng có trật tự xã hội và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà một xã hội loài người văn minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành điên khùng như lão Don Quichotte khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo, miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh. Một người trí thức, nhỏ nhoi như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng, một đường lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng. Lời buộc tôi duy nhất đưa tôi trước vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào đứng vũng. Tôi cho rằng tôi không có tội là đã làm hại đến một đường lối chính trị mà nói một cách bình thường và đúng đắn là không hiện diện. Cạnh đó, tôi sẽ rất vui khi được cho biết là dựa trên điều khoản nào của Luật Pháp, những điều mà chưa bao giờ có để các ông kết án tôi trước Toà?
- Chúng ta đừng chơi nhau trên chữ nghĩa, ném vào nhau những điều này nọ của bộ Luật Hình. Sự việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng dạy cho sinh viên tác phẩm Cô Đơn (Isolement) của tác giả Lamartine và ca tụng nhà thơ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thơ chán chường, mất hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm hồn của giới trẻ đã đứng lên nghe theo tiếng gọi mà Đảng của “chúng ta” mà đứng lên muôn người như một để xây dựng lại nền Tự Do, Độc Lập và Tự Hào Dân Tộc?
Thưa ngài, tôi không học Luật, nhưng bất cứ người trí thức nào cũng đều hiểu là muốn kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật về Hình Sự định rõ tính chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng biết là chính trị và Luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như giấc mơ và sự thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm của họ là nhắm tới tương lai, nhưng Luật là được xây dựng vững chắc trên những cơ bản vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong hiện tại để mà duy trì và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa mơ và thực, giống như trường hợp giữa chính trị và Luật, là một bước nhảy lùi về quá khứ hàng thế kỷ.
Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi. Tôi không phê phán đường lối chủ trương của Đảng, nhưng việc tôi ca tụng một nhà thơ mơ mộng, tôi biện hộ cho tư tưởng chán chường, thất vọng và bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người trí thức có tiếng tăm không làm chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ người nào. Hai từ ngữ đó phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là một sự lạc đề không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một cách chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng của người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm chế mình để không bị bất ngờ vì tán dương dỏm và luôn luôn giữ một sự dè dặt nào đó. Nụ cười và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, nhưng làm vũ khí của những người đã bán rẽ lòng tự trọng để chắc mót được những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại: tôi không tán dương một ai, ngay cả người ấy là người được mọi người ca tụng. Tôi không đứng ra bào chữa cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu người theo nó và ca tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho sinh viên hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một chế độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế kỷ nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi khi trong tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì không thể làm được gì.
Vì vậy, tình cảm mơ mộng là một trạng thái của tâm hồn là chuyện đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là mọi người đều có thể chứng minh đó là một điều chân thành, con người ai cũng liên tục mơ mộng cho đến một tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão đời, những người khắc khổ không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt nước mắt khốn cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.
Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi, tôi chỉ làm công việc trả lời cho sự kết án của ông. Tôi đã biết trước số phận của tôi: không có người nào bị toà án nhân dân xử mà bước ra khỏ đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội và nhờ sự khoan hồng của Đảng, và với những cố gắng cá nhân, tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và làm trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng. Nhưng tôi mong mõi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của người trí thức được nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau hiểu chính xác thế nào là một nền công lý cách mạng.

Cái không cho phép kẻ bị kết án làm là làm thay đổi một thẩm phán thành một người có cái nhìn thấu đáo của sự thật, nhất là khi đó là một nguyên quan Triều vừa mới được xức dầu thánh cách mạng. Không, con đường đi đến danh dự không nằm trong những loại vinh dự đó, tất cả những chi tiết như vậy nó không làm hưởng thêm những đồng tiền thưởng còm cõi, không thêm được một bổ nhiệm trong hàng chức sắc, nhưng chỉ là nụ cười cho kẻ đã ban phát cho tên đầy tớ vừa mới làm xong một công việc được chủ giao phó. Thật vậy, có thể là ngược với ý muốn, sau khi đè nén những đau đớn của lương tâm, ngài quan Toà đã kêu án ông giáo sư bốn năm tù giam.
Trong bốn năm tù đày trong một nhà tù cách thủ đô 200 km, người vợ kẻ tù kia ngoài chuyện cần mẫn lo cho gia đình còn phải lo làm thêm, đã không được gia đình giúp đỡ, nhưng mỗi tháng ít nhất một lần phải đạp xe một vòng 400 cây số để mang cho chồng một đôi thứ vụn vặt, để thông tin cho chồng số phận của những đứa con, để động viên chồng thêm can đảm mà chịu đựng thiếu thốn và khổ đau, vừa hy vọng một ngày nào đó công lý, luật pháp và tình người trở lại giữa người với người.
Bản án đó không phải là duy nhất trong hồ sơ của nền công lý cách mạng, như ai cũng có thể dễ dàng đoán biết. Sẽ rất lý thú nếu ai đó tìm được hồ sơ cũ - nếu có và được tàng trữ - của những phiên toà ở thủ đô, ở các tỉnh, những hồ sơ, sẽ cho thấy những cách thức mà công lý đã bị sự bất công chế ngự, thực hiện những vụ án giả mạo, thả lỏng kỷ cương bằng những phương cách bất hợp pháp và khủng bố, bằng cách dùng những tôi tớ mà chính những kẻ này cũng không được thưởng xứng đáng. Và tất cả những chuyện đó được làm nhân danh Đảng và Cách Mạng. Chưa bao giờ trước đây mà chủ nghĩa Cộng Sản lại bị chính những người đấu tranh vì nó ngược đãi như thế.

[1] Mỏm đá Tarpeienne nằm ở Ý, vào thời kỳ La Mã người ta xử chết những kẻ phản bội hay tội hình bằng cách ném các tử tội từ trên mỏm đá cao.




3  Sấm sét báo hiệu cho cơn bão tố
Trên đường từ Toà Án về và nhiều đêm mất ngủ sau buổi xử án, tôi tập trung suy nghĩ về chuyện xảy ra mà điểm chính là vấn đề công luận. Được sống nhiều năm dài trong xã hội cộng sản và đã có nhiều cơ hội gặp gỡ giới lãnh đạo, tôi biết rõ là không bao giờ tha thứ những sơ suất hay thiếu tiên liệu trong khi thi hành nhiệm vụ hay khi thực hiện hành động. Mọi chuyện đều phải thảo luận, phân tích, nhồi xét nhuần nhuyễn đủ mọi khía cạnh để biết rằng việc làm này có thể mang lợi ích gì cho quyền lợi của Đảng. Sự tuỳ hứng và cá nhân chủ nghĩa được xem là điều kinh khiếp, vì vậy tinh thần trách nhiệm sâu sắc là được thừa nhận. Rủi thay, trách nhiệm tập thể lại biến thành vô trách nhiệm, không ai chịu trách nhiệm cả. Trên tất cả mọi chuyện, cần phải mang ra ánh sáng cái sâu thẳm nhất của vụ xử án này, vụ đầu tiên trong những vụ xử án kiểu này; trái với những lời tuyên bố của nhà cầm quyền mới là không có trả thù, có thái độ thù nghịch hay ganh ghét đối với những người trước đây không tham gia kháng chiến, họ đã kết án một giáo viên là đã đầu độc thanh niên với một triết lý chán chường, vô vọng và bi quan. Cái quan trọng nhất là những tội danh liệt kê bởi chính phủ thì lại không phải là những tội công cộng được định trong bộ Luật Hình Sự mà đó chỉ là những vi phạm về đạo đức hay chính trị là những điều hoàn toàn nằm ngoài vòng thẩm quyền của nhà nước. Có phải chăng lãnh đạo Việt Nam đã tự nhạo báng chính đường lối của mình ban hành và đồng thời nhạo báng luôn dư luận quốc tế! Xem thường cả quốc tế, có phải chăng họ đang muốn khẳng định nguyên tắc là họ có quyền trên mọi chuyện với sự có mặt của họ ở mọi nơi, có quyền trốn tránh những lời trọng thể mà chính họ đã tuyên bố, khinh thường những thông lệ quốc tế về công lý và giới hạn thẩm quyền của Toà Án? Hay, vì niềm tim mù quáng với vai trò tối cao của mình, và với tự tin cùng chung một sự dốt nát đáng thương, họ đã quyết định giáng một cú lớn để qui phục giới trí thức, làm lạnh bớt nhiệt tình đấu tranh của họ, giảm thấp đòi hỏi của họ và bắt họ im tiếng hay giam mình vào cảnh lưỡi gỗ (nói không đâu vào đâu) để làm dễ dàng cho công việc cho những người nắm quyền, thoả mãn niềm kiêu hãnh và mùi vị của chủ nghĩa hình thức, cống hiến cho dân địa phương và du khách một màn sân khấu có đám người trí thức rớt xuống cùng tầng lớp với họ và cùng hô to trung thành với Đảng.
Điều nghĩ suy thứ hai mà làm tôi buồn bực nhiều là nhân cách của vị thẩm phán được giao trọng trách vụ xử và kết án người trí thức kia. Mặc dù phản ứng về vụ này lan tràn ra khắp nước, Đảng lại phủi tay trong bình thản, phát biểu đây là chuyện một trí thức bị một trí thức khác xét xử. Đây là chuyện nội bộ gia đình và tôi hết sức tôn trọng sự độc lập của các thẩm phán, họ có thể nghiêng bên này hay nghiêng bên kia đối với vụ án. Thật là một sự ích kỷ tuyệt vời khi biến tất cả những phê bình thành câm nín hay biến chúng thành những lý lẽ biện minh cho bản án mà sự tuân phục chính quyền là không ai mà không biết.
Tất cả mọi người ai cũng biết là, trước đây, ông thẩm phán đã chịu làm nô lệ cho hai đầu: một là chính quyền Pháp và hai là các người Việt Nam cấp trên của ông. Ông ta buộc phải dâng biếu quà cáp cho các quan chức đã bảo hộ ông sao cho tương xứng với ngôi vị của họ, vì thế có thể nói là vô giá! Trong khi lương bổng thì giới hạn, ông ta chỉ còn cách vơ vét của con dân để trả tiền cho chuyện đó. Vậy thì, ông ta thò tay vào túi tiền của những địa chủ, ngay cả vào túi của nông dân nghèo làm cho họ càng nghèo thêm đến chỗ tán gia bại sản, bệnh tật và đôi khi đi tới chỗ chết. Một người phải có một tâm hồn xấu xa, phủ đầy bùn nhơ mới có thể đi vào con đường quan lại, ăn trên sự đau khổ của người dân vô tội và uống nước mắt của họ.
Ngay sau khi Cách Mạng thành công, ông ta liền cho mình một màu da mới, tìm cách gia nhập vào đoàn Thẩm Phán. Những ai có dịp quan sát ông ta ngồi xử án ở Toà Án Hà Nội đều thấy ông ta đang bị dằn vật nội tâm chỉ bằng vào cử chỉ và lời nói của ông ấy. Hắn hiểu quá rõ là chủ nghĩa cộng sản luôn nung nấu một nhận thức hận thù đối với giới quan lại đại diện cho phong kiến và bóc lột, và luôn là kẻ thù của Cộng Sản. Cái lỗi lầm đã dấn thân vào con đường quan lại cũng to lớn như tội của bà Eva đã ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng. Để chuộc lỗi, ông quan đã tự nén chặt lương tâm hầu mong được chút ân huệ của Đảng. Xử án một cách mù quáng những người vô tội bị lãnh đạo của Đảng kết án về những tội lỗi tưởng tượng không hề có trong Luật Pháp! Nhưng cái lương tâm bị xâm phạm đó lại chiến đấu điên cuồng, căng lên trên khuôn mặt hốc hác của ông quan; ông ta không cảm thấy dễ dàng thoải mái dưới vô số cặp mắt, săn đuổi bởi những hồn ma vô hình. Nhưng hắn đã tự làm trò hề với mình khi hắn bắt chước những kẻ nịnh bợ mà thốt lên mấy chữ “Đảng ta” từ cửa miệng mình thoát ra rồi vỡ vụn như vỏ trứng bị đập bởi cái muỗng.
Tiếng sấm nổ vang báo hiệu cho cơn bão sắp đến. Thủ đoạn nham hiểm của những người cộng sản đã quyết định để cho một người trí thức bị một người trí thức khác xử và kết án. Đây là một cuộc huynh đệ tương tàn, một trận đấu gà, nhưng chỉ là trận đấu của một bên, bên được sự hỗ trợ của chính quyền, có quyền lực và luật pháp trong tay để thực hiện mọi ý đồ, và một bên chiến đấu đơn độc với tay không với vũ khí duy nhất là chính nghĩa và cảm tình của quần chúng. Đảng có quyền có tiếng nói cuối cùng, nhưng sự thắng của họ cũng chẳng tăng thêm uy tín thanh thế hay cũng cố thêm niềm tìn của dân chúng mà họ mong sẽ có được. Lý mạnh của con chó sói cũng không làm giảm bớt mối thương cảm dành cho con cừu…
Tiếng sấm nổ vang trên bầu trời đầy xáo trộn đã phát sinh ra một hậu quả trông thấy: một sự chia rẽ đã xuất hiện, một bên là những kẻ thần phục vỗ tay tung hô, miệng khô lưỡi gỗ, ngoắc đuôi mừng. Một bên là họ, những người cộng sản nắm quyền chiếm nhiều ưu đãi và ngồi không lãnh lương, được quyền ban bố, được quyền chọn chỗ nơi, được hưởng những chuyến xuất ngoại đầy tư lợi, được ký kết những hợp đồng mang về đầy túi cho phái viên người Việt bất kể việc gây thêm gánh nặng cho ngành sản xuất mà máy móc lỗi thời đã bị bỏ hoang từ lâu và thường xuyên hư hỏng. Chỉ có nhân dân, đã tả tơi, nay còn phải trả giá cho sự bịp bợm, sự bội tín, trộm cắp được thực hiện, hoàn toàn không chịu một trừng phạt nào, bởi những kẻ tự xưng và tự vinh danh mình là những người đầy tớ trung hiếu của dân. Những người trọng danh dự chân chính khác, thuộc thành phần kháng chiến hay không, quay ra ghê tởm cái chất thâm hiểm của những kẻ đầy tớ của nhân dân đang hình thành áp đặt một loại bóc lột mới, đó là sự bóc lột của cộng sản, là những người, mặc dù như thế nào, vẫn đứng về phía của lẽ phải, của Trời Phật, Thiên Chúa. Họ bị sốc vì sự ngu dốt, vừa thật thà vừa nhẹ dạ của lãnh đạo, và một số người đã xem như cuộc Cách Mạng là thất bại và Nhà Nước là thối nát, đã tìm đường ra nước ngoài, nhằm tìm đến một xã hội có nhiều công bằng, đạo đức và phồn vinh. Ở đó, họ còn có thể gặp những người biết trọng dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình, từ đó nhìn một cách cay đắng về con tàu quốc gia với những đứa con vô ơn và phạm pháp đang mỗi ngày đục lỗ để làm đắm con tàu.
Đối với những người còn lại, họ say đắm một tình yêu đất không phải lè nhè mà sinh động, với trung chính và ngay thẳng đạo đức, họ phân tích sự suy sụp của nền kinh tế và sự nghèo đói của quần chúng, kiếm cách tìm ra nguyên do của căn bệnh và tìm kiếm thuốc chữa. Lỗi lầm duy nhất mà họ mắc phải là đã quá tin những người tổ chức phong trào Trăm Hoa Đua Nở và đã hết lòng đi tìm những nguyên nhân và nguồn gốc của những đau khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Cái ngao ngán là những phân tích sau rốt đã cho thấy nỗi đau khổ kinh hoàng của nhân dân là do những lỗi lầm về chính trị phát xuất từ sự ngu dốt mà chỉ có hai chữ kiêu ngạo mới có thể sánh được. Trước đây, mọi người cố tránh phê phán, chỉ vì lịch duyệt và tính cẩn thận. Nhưng điểm phát xuất đã khởi sự, dưới tiếng còi của Đảng nay đã thay đổi, rập khuôn với một “Đảng anh em” , những xạ thủ tha hồ bắn vào những mục tiêu chào mừng bởi những tràng pháo tay của người xem... Thật là quá tốt để kéo dài. Trong thời gian chuyển tiếp giữa hai màn diễn, những tâm hồn nhạy cảm đã thấy sự phản công của những người cộng sản.
Sau một thời gian, những phản ứng bắt đầu. Khởi đầu bằng một cuộc mít tinh chỉ cách chỗ tôi khoảng vài trăm thước. Đắm mình trong cái chức vụ nhỏ bé và khiêm tốn, tôi không hề bị con vi trùng tự tôn tự đại tấn công, cũng không như kẻ chả ra chi nhưng tự cảm thấy mình cao ngang hàng với đỉnh núi Everett kể từ ngày Cách Mạng Tháng Tám thành công. Thật vậy, trước một đám đông thính giả hàng nghìn người, một anh chàng nếu không tẩm phết một chất chiếu sáng thì cũng chỉ là cái bóng lẫn trong những cái bóng mờ khác, chợt đến chợt đi mà không một ai để ý đến sự xuất hiện hay biết mất. Vì thế, tôi nghĩ rằng tôi chỉ việc tiếp tục lo cho công việc của tôi trong hoà bình và yên tĩnh. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy một người đưa tin quan trọng là đích thân ông Giám Đốc Viện Ngôn Ngữ đến mời tôi đến tham dự buổi mít tinh. Để có thể lưu ý đến sự vắng mặt của tôi trong buổi tụ tập đông người như thế, chắc hẳn người ta đã đánh dấu tôi và muốn tôi có mặt trong buổi họp. Tôi không tin là người ta muốn đưa tôi lên ngồi trên trước vì mọi người lo lắng khi không thấy tôi có mặt nơi đây. Kinh nghiệm nhiều năm sống trong thời kỳ kháng chiến bí mật cho tôi hiểu là điều tồi tệ đang chờ đợi tôi phía trước. Buổi mít tinh là một trận đấu bò mà tôi là con bò tót được đẩy ra giữa sân đấu, giữa những tên đấu bò chỉ chờ lúc mà giết tôi sau khi đã nhận những lời giải thích và những yêu cầu cuối cùng cho trận đấu.
Nhân vật đứng ra tổ chức cuộc mít tinh là một thứ trưởng, bộ nào thì tôi đã quên tên, mà tôi đã được “vinh dự” dạy ông cùng đám cựu sinh viên của tôi. Trong thời gian mà tôi đã được biên chế vào một đội Cải Cách Ruộng Đất, tôi đã được nghe những đứa nhỏ tố cha mình về những tội lỗi nhớp nhúa theo lệnh của những cán bộ cộng sản, tôi đã hiểu những giá trị Khổng Mạnh thơm tho từ ngàn xưa thấm nhuần trong tâm hồn người Việt giờ đã chết. Tôi không ngạc nhiên khi thấy một học trò đang chuẩn bị cho cái chết của thầy cũ của mình và thuyết phục những kẻ đấu bò ra cú đòn chí mạng. Sau khi chắt lọc xác bã của tách trà, vị đắng của chua xót đã nhấn ngập lòng tôi vào nỗi buồn khôn tả.
Nhưng con bò không gục ngã ngay dưới những cú đâm của bọn đấu bò, nó đấu đến hơi thở cuối cùng, chơi với tấm vải đỏ và khi đến màn cuối với cú đâm chí mạng, nó đưa ánh mắt cuối cùng về phiá Thiên Đường như muốn ở đây làm nhân chứng cho một sự dã man của chính trị và tiền bạc mà con người tàn bạo đã xếp đặt để giết kẻ vô tội và yếu đuối.
Trong một thời gian, đã có tin đồn được lan truyền là Đảng không muốn ai phê bình họ, dù là những phê bình chính đáng và đứng đắn từ những nhà văn, thầy giáo và ký giả, những người đang phạm một lỗi lầm chết người là đã cả tin là giờ đã đến cho những tiếng kêu chiến thắng vang dội của chủ nghĩa Cộng Sản. Những họng súng đã sẵn sàng nã đạn vào nhóm người trong phong trào Trăm Hoa Đưa Nở, bên cạnh đó là tầng lớp trí thức bị nghi là không chịu quỳ gối tuân phục trước các ông Trời Marxist-Leninist. Dù họ có lên tiếng nói hay tự ép mình trong yên lặng, tất cả đếu cảm thấy cái nguy hiểm thành tù khổ sai. Đây là cơ hội duy nhất, không phải để họ thắng cuộc cho lý tưởng thần thánh một chủ nghĩa Cộng Sản của họ, mà để dẹp tan quần chúng bằng khủng bố, bằng cách áp dụng một cách thô bỉ bàn tay nặng nề và không nhân nhượng để trị tội kẻ cầm đầu nhằm dằn mặt những kẻ khác.
Trong một nền Tư Pháp nghiêm chỉnh chặt chẽ, mọi vụ án đều phải qua những trình tự luật định, khởi tố vụ án, mở hồ sơ, và cho phép người bị kết án được giải thích và tự bào chữa cũng như người thẩm phán xử án phải áp dụng Luật với tất cả lương tâm của mình… nhưng đó là một cách làm của giới tư sản làm mất thời gian vô ích và nhất là nó không đặt quyền ưu việt của Đảng như là quyền lãnh đạo của chính phủ. Đứng trên quan điểm của những người cộng sản, Luật và những thủ tục luật pháp là những phát minh từ những đầu óc không bình thường chỉ làm phức tạp và kéo dài những vụ án. Với tất cả mọi người, điều cơ bản, không thể xâm phạm, giáo điều không thể thay đổi là Đảng là người duy nhất nắm tất cả Sự Thật, có quyền chống lại bất cứ người nào khác, là bất cứ “người dân” nào cũng phải có bổn phận và trách nhiệm đấu tranh cho sự toàn thắng của Đảng, trong tư tưởng cũng như việc làm của Đảng, phải chấp nhận đau khổ và hy sinh – ngay cả việc dâng hiến sinh mạng, nếu cần – nhân danh Đảng và vì Đảng. Tư bản nói về Công Lý của Quốc Gia, người Cộng Sản nói về Công Lý của Đảng, cả hai đều cùng chung một cách làm, xử án vội vã và qua loa, đội xử bắn của tư bản đưa ra để giết và tự vinh danh mình trong Thế Chiến Thứ Nhất. “Tôn giáo” chủ nghĩa xã hội và sự sùng bái Đảng không cho phép mọi tranh cải, chỉ trích về những giáo điều mà họ đưa ra để tuyên bố họ là người vĩnh viễn lãnh đạo và “bách chiến bách thắng” để thiêu sống những ý niệm về Luật, công lý và vô tội của bọn tư sản. Hỡi những người đang ngoan ngoãn đang nghe, xin chúc mừng.
Vì thế, để đối phó với nhóm trí thức đang tỏ ra mất niềm tin đối với những sự thật được Đảng dạy, Đảng cần phải đối phó với đám này bẳng những phiên án khẩn cấp, không cần thủ tục luật định, được tổ chức chu đáo như thời Cải Cách Ruộng Đất. Cuộc dàn dựng đã được xếp đặt trước, như nơi chốn, thời gian, vai trò của những người xử án, những điểm lúc mà họ cần tung ra lời nguyền rủa, những chi tiết dù đúng hay sai để kết luận phiên toà với lời buộc tội đầy thiên vị, độc ác, định kiến và những lời xác nhận thiếu vắng chứng cớ và hệ quả. Bản án đã được nghiên cứu trước: án tử hình sẽ không được tuyên nhưng có hàng ngàn phương án khác để giết người qua những cách xảo trá, quỷ quái âm thầm và trong đêm tối. Tất cả những suy nghĩ ấy, bằng những kinh nghiệm đã sống, dồn đến với tôi khi tôi bước vào phòng họp.
“Báo cáo viên” (theo danh xưng dùng bởi những người cộng sản) bắt đầu đong đưa cái lư hương dưới mũi của đám trí thức. Họ là những đứa con cưng của Đảng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, họ đã chọn đúng con đường, đứng sau lưng Cách Mạng và cùng hàng ngũ với Dân Tộc mà họ cùng chia sẽ những thiếu thốn cơ cực và niềm trung hiếu, họ tự nâng mình lên đỉnh cao của quyền uy bằng những khả năng và kinh nghiệm cống hiến cho Tổ Quốc. Vinh quang thay cho trí thức, những đứa con xứng đáng của Việt Nam và của nhân dân.

(Thính giả nghe những lời ca tụng với e dè. Họ đã từng được nghe những người cộng sản tung hô trí thức, mặc dù những người trí thức đã bị cộng sản đoạ đầy bí mật từng người một, dùng tất cả họ làm vật hy sinh. Mỗi lần Đảng nói sự thật, phải hiểu đó chỉ là một cử chỉ ngoại giao. Người thợ săn giương cặp mắt hiền hoà và đậm màu tự nhiên là để tiếp cận đến con mồi trước khi siết cò súng giết nó ngay lúc cận kề. Những kẻ trí thức gia nhập Đảng đều được nghe và được học câu nói rằng họ đã được giáo dục thích đáng là để được Đảng sử dụng bất cứ lúc nào, mỗi khi Đảng muốn dỗ ngọt những đồng chí cộng sự viên để nhượng bộ hay hy sinh chuyện gì đó. Đó là cái mà diễn giả đang làm. Ông ta tiếp tục đưa củ cà rốt lố bịch trong khi chờ ra cú đánh của cây gậy).

“Tại sao trí thức lại là đứa con trân quí của Đảng? Đó là nhờ họ đã sống nhiều năm dài với Kháng Chiến trong thời kỳ bí mật, được Đảng giáo dục, học tập về chủ nghĩa Marx-Lenin, hiểu và truyền bá áp dụng những chính sách của Đảng và đã có may mắn sống trong một xã hội cách mạng bởi vì họ cảm thông với giai cấp công nhân và nông dân sống nghèo đói và trong hy vọng, đã giành được trong đời sống cách mạng những giá trị của sự kiên trì, chịu đựng, hy sinh xã thân, và những giá trị đó càng được tăng cường qua những tháng ngày chấp nhận sống trong nghèo đói và thiếu thốn.

“Thế giới của kháng chiến bao gồm những con người có tinh thần cao, đạo đức ngoại hạng, tâm hồn trong sáng và thanh cao, có niềm tin mãnh liệt vào Đảng và Dân Tộc, bền cứng như sắt thép, kẻ thù mãnh liệt của giai cấp tư sản và những tư tưởng phản động, cách sống thoải mái sang trọng của họ bằng những bóc lột xấu xa đối với người vô sản là những người quyết tâm tiến tới chủ nghĩa xã hội, tới một chân trời sáng chói của công bằng và hạnh phúc. Thật hồ hởi khi thấy một hoạt cảnh của nhân loại khi mà tất cả đều mặc đồng phục vàng kaki, mang toàn những đôi dép râu làm từ những chiếc vỏ xe cũ bỏ đi, nhận cùng một lượng gạo hàng tháng, được ăn cùng phần củ độn, giây khoai, nói cùng một luận điệu, được thúc đẩy cùng một động cơ tư tưởng chính trị, đứng chung cùng một vũ đài chính trị. Một sự đoàn kết lộng lẫy tuyệt vời giữa Đảng và Dân, giữa cán bộ và quần chúng!

(Diễn giả thật có lý. Cảm thấy tinh thần hồ hởi lên cao trước sự đoàn kết dựa trên sự đồng nhất, cùng một cử động, phát ngôn như vẹt, bị ép buộc một cách kín đáo và một thái độ đạo đức giả gượng ép. Không thể chối cãi là trong khoảng mười năm nay không khí đạo đức phải nói là rất tốt, những sinh hoạt đều trong sáng, an ninh xã hội được bảo đảm. Ban đêm mọi người đầu có thể đạp xe hay di chuyển mà không sợ rủi ro nguy hiểm. Sự đãi ngộ bình đẳng trong các tầng lớp cán bộ đã loại bỏ lòng ganh tị, làm thối nản chủ nghĩa kiếm chác và chủ nghĩa cơ hội. Tất cả những người sống những năm trong kháng chiến còn bí mật vẫn còn nhớ những tháng ngày trăng mật giữa những người cộng sản và những người trí thức)

“Một khi củ cà rốt đã được phân phát, những cú đập của cây gậy bắt đầu xuất hiện. Gậy đập từng trận đòn lên lưng những cán bộ trong toàn guồng máy Nhà Nước. Hiện tại, trước khi trở về Hà Nội để nhận lãnh những chức vụ hành chánh, tất cả cán bộ công nhân viên đều phải theo học những buổi dạy là phải đề cao cảnh giác với những viên “đạn bọc đường” bắn vào họ nếu họ để mình bị cám dỗ bởi cuộc sống xa hoa do tham nhũng và trụy lạc.

“Rủi thay, những bài học đó đều trở nên vô ích. Trong đời sống thành phố, đối với những con vi trùng mang sự suy đồi về đạo đức, sự xuống cấp của con người, những điều kiện thuận lợi cho chúng sinh sôi xem ra phát triển mạnh. Cán bộ đắm mình trong những cám dỗ và trờ thành con mồi cho bao nhiêu thói hư tật xấu. Buông thả mình trong những tiêu pha hoang phí và sống một mức sống đế vương, họ có những nhu cầu không ngăn nổi về tiền bạc và kiếm cách làm tiền càng nhiều càng tốt. Vì thế họ đã phạm đủ thứ tội lỗi và tội ác, như thế, theo như những gì người cộng sản đã nói, độc quyền thế giới là dành riêng cho bọn găng tơ Chicago. Chuyện đương nhiên là khả năng kiếm được bằng mọi cách và mọi giá những số tiền to lớn để thoả mãn những cơn khát tiêu xài! Không thể dập tắt được, than ôi. Chúng tôi thật đau buồn”.

(Dưới hàng thính giả, có vẻ có một khao khát tự hỏi “Lỗi ai đây?” Anh có thể khóc ra máu mắt. Lý do chính là anh không áp dụng những gì mà chủ nghĩa Maxist mà anh đã dạy. Thứ nhất, anh đã quên qui luật là mọi chuyện đều chuyển động ngược chiều với nhau: chuyện tốt có thể chuyển thành xấu, chất lượng thành hư hỏng, đức hạnh thành đồi bại. Anh đã ngây thơ đặt niềm tin nơi người học sinh mà anh từng ngày chăm sóc theo dõi từng bước tiến, người mà anh đã cấp cho một thứ chứng nhận về đạo đức mà anh nghĩ là rất xứng đáng được anh đặt họ vào những vị trí trách nhiệm. Những hiền triết ngày xưa dạy rằng mọi sự vật, đúng y như những người theo chủ nghĩa Marx đã dạy phương pháp biện chứng là mọi sự đều có mâu thuẩn tồn tại trong chính nó. Anh phổ biến chủ nghĩa duy vật nhưng chính anh lại tự nhốt mình vào chủ nghĩa duy tâm khi mà anh tin tưởng vào sự vĩnh cửu của ý tưởng, của con người và thế giới. Vâng, những con người mà các anh đào tạo, chấp nhận đứng vào hàng ngũ với các anh, những người đã thề trung thành với Đảng và chủ nghĩa Cộng Sản, những người xum xoe nịnh hót đã làm mặt các anh hừng lên nét thoả mãn, các anh đã cho họ một ông Trời tốt lành mà không hề đòi họ những lời xưng tội.

Các anh đã đầu tư vào để họ ngồi chơi xơi nước và đầy những đặc quyền để rồi bị những cám dỗ phủ đầu, những cám dỗ không tên mà đến như thánh Antoine cũng không biết. Các anh đã thất bại trong việc kiểm soát chúng, bao quanh những hoạt động của chúng với một rào cản tối thiểu, giúp chúng khỏi rơi vào vào cạm bẩy của quỷ dữ và ham muốn trần tục; ngược lại các anh lại tin vào sự thánh thiện của chúng. Các anh giáo dục quần chúng rằng kẻ thù sẽ mãi mãi là kẻ thù, bạn sẽ mãi mãi là bạn, rằng những giáo điều Cộng Sản luôn luôn được tắm trong nước giếng trường sinh và giữ đến muôn đời tuổi xuân và sắc đẹp. Các anh tự cho mình là nhân vật thần thoại Adonis, áp đặt những kẻ mà quần chúng sẽ phải tuân phục, đưa họ lên bàn thờ của tổ tiên, các anh tin rằng những kẻ này là đã được phú cho tuổi trẻ không thay đổi, sắc đẹp trường cửu, một trí thông minh bền vững, như thách đố cả thời gian, sự thịnh suy của tuổi tác, sự tàn phai của cơ thể con người, không còn nhược điểm về thể xác cũng như sự yếu đưối về tinh thần.
Vì vậy, cái lỗi lầm cơ bản và không thể tha thứ được là đã không chấp nhận và thực hiện cái triết lý về sự chuyển động và thay đổi của sự vật, hậu quả là các anh đã phớt lờ những ảnh hưởng của nó trên suy nghĩ và hành động của các anh.
Cái lỗi lầm cực kỳ to lớn thứ hai là các anh luôn đỗ lỗi trên người khác về mọi chuyện nhưng không bao giờ có chuyện nào thuộc về lỗi về của các anh. Tính tự phụ tai hại đó không thể chấp nhận được, bởi vì những người bị các anh xử án sẽ không đồng tình trên cái tính chính đáng, đúng đắn của lời buộc tội với đầy dẫy thiên vị, một chiều, một phía và sẽ đứng dậy chống lại hình phạt mà các anh dành cho họ. Nhưng có một chuyện còn nghiêm trọng hơn! Các anh không hề thấy rằng các anh cũng phải có phần trách nhiệm, các anh không chấp nhận là các anh có lầm lẫn, có thiếu sót vì lẽ các anh là người nắm chính quyền và đã để chuyện xảy ra gây những hậu quả càng ngày càng nghiêm trọng. Khi mà anh còn chưa biết gì cả và chưa hiểu được bài học từ những thiếu sót bản thân và những định kiến không sửa được, khi mà những phán quyết đã được định sẵn bởi cái đầu của anh mà không do từ thực tiển, thì cái hậu quả kinh hoàng, đáng trách và tàn khốc kia một khi tái phạm với cái tội lỗi của các anh sẽ còn nặng nề hơn nữa)

Trong khi những suy nghĩ dấy lên trong đầu của thính giả, nhiều người đang bàn tán xôn xao thì diễn giả nâng cao giọng và đi vào phần đúc kết lời buộc tội:
“Nếu sự suy sụp tinh thần của con người đã trở thành một kich bản đau đớn cho Đảng và giới trí thức, thì việc những người tham gia phong trào “Trăm Hoa Đua Nở” đào ngũ khỏi nền tảng của tư tưởng lại càng bi thảm hơn nữa. Người ta đã đòi hỏi gì? Loại chính trị khỏi mọi sinh hoạt của trí thức và thiết lập nền dân chủ trên cả nước.
“Nhưng có phải là không có dân chủ ở Việt Nam sao? Những ai đòi hỏi nó phải quay nhìn lại và so sánh thời gian trước và sau 1945. Trước đây, ngay trước ngày Cách Mạng, nạn đói đã gây ra hai triệu nông dân chết đói. Hai tỉnh đông dân nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là hai tỉnh Thái Bình và Nam Định đã bị tan tác. Hàng triệu nông dân, ốm đói như những bộ xương biết đi, lê lết thân mình khắp đường khắp phố. Họ không phải đi kiếm gạo mà bất cứ thứ gì có thể làm bớt cơn đói đáng đốt cháy bao tử mình. Họ tụm túm trong mọi góc đường thành phố để mong kiếm được thứ gì để kéo dài mạng sống dù trong một chốc lát ngắn ngủi. Nhưng người sắp chết chỉ còn ngã gục và xác người rãi rác khắp đường, khắp nẻo. Ngày nay, những hình ảnh làm thắt lòng người đó không còn nữa: trên đường phố, không ai còn thấy một kẻ ăn xin chìa tay chờ bố thí.
“Trước đây, một dân tộc kiêu hãnh với ngàn năm văn hiến và nền văn học rực rỡ đã phải đau khổ vì nạn thất học. Ngày nay mọi người đều đọc báo chí, trẻ con được đến trường, ngay cả ở những xóm làng xa xôi nhất trên vùng cao nguyên. Số lượng học sinh đến lớp thật đáng kinh ngạc, người đi làm ban ngày ban đêm đi học, và các Đại Học trên cả nước mở cửa đón nhận các học sinh nam và nữ, dạy cho họ những chương trình cấp cao.
“Trước đây, nền sản xuất là thuần nông nghiệp và thủ công nghiệp, ngày nay nhà máy được xây dựng khắp nơi, và sản xuất công nghiệp, trong quá trình phát triển, đã tạo ra một tầng lớp công nhân mà số lượng tăng từng ngày và chất lượng tiếp tục tốt hơn.
“Trước đây, ở nông thôn, các quan triều và các quan làng, quan xóm thi nhau hút máu đồng bào, làm cho họ nghèo kiết xác. Ngày nay, ở mọi cấp độ, những uỷ ban nhân dân mà đa số là nông dân cùng quản lý chuyện đất nước và chỉ ra quyền của nhân dân là chủ nhân của số phận của mình.
“Trước đây, chúng ta đã làm nô lệ cho Thực Dân, ngày nay chúng ta là một nước tự do và độc lập và sau trận Điện Biên Phủ, lời nói của chúng ta là lời nói nặng cân đối với thế giới. Tất cả dân tộc các nước thứ ba đều thèm muốn được uy tín như chúng ta.
“Còn gì để nói thêm nếu không phải là dân tộc ta từ nay tự quyết định đến vận mạng mình mà không bị bất cứ sự can thiệp nào của nước ngoài, vì vậy chúng ta từ nay sẽ hoàn toàn tự chủ và độc lập trong việc quản lý đất nước, tổ chức sản xuất, quản lý Luật Pháp mà từ nay sẽ không còn tuỳ thuộc vào quyền hạn của những toà án thực dân, trong việc bảo vệ đất nước mà không cần đến một quân đội đánh thuê của nước ngoài nào... Vậy thì cho tôi hỏi các ông: Phong kiến và thực dân đã bị đuổi đi, còn ai nữa khác hơn là Nhân Dân Việt Nam đứng vào chỗ đó? Và những người đó sẽ phải làm gì một khi đã đứng ra nắm lấy vận mạng của mình trong tay? Họ đứng ra tổ chức Nhà Nước và làm cho Nhà Nước là của dân và vì dân. Dân chủ phải là như thế: đúng hay sai?
“Các ông hỏi tôi: thế thì chủ nghĩa Cộng Sản làm cái gì trong nền dân chủ của Việt nam? Được, tôi sẽ trả lời các ông. Các ông như là những đứa trẻ đang tập đi. Có cần không việc giúp cho đứa trẻ không trượt không té? – Các ông là những người chủ của những chiếc ô tô mới mà các ông cũng chưa biết làm sao lái xe. Các ông có cần hỏi học ở trường dạy lái xe dạy các ông nắm tay lái để tránh leo cả lên lề đường và gây ra tai nạn không?
“Nếu các ông cho phép, chúng ta hãy trở về với thời gian. Năm 1945, trong nước thời cơ đã đến cho phép chúng ta hy vọng giành lại được Độc Lập và Tự Do. Còn nữa, lúc ấy nhân dân đã bị tan tác vì trận đói, và lại không chút kinh nghiệm chính trị, họ không thể nào tự mình hoàn thành một công việc to lớn của thần Hercule. Ngay cả những người kháng chiến yêu nước và can đảm nhất cũng không xông tới trong một trận đánh mù quáng và nắm chắc một cái thất bại không tránh được nếu không có chỉ huy và kế hoạch. Chính nghĩa tự nó là chưa đủ. Một hướng đi đầy tính toán cần phải có để tránh thảm cảnh vụ tàn sát Xô Viết Nghệ Tĩnh tái diễn. Đảng ta không làm gì ngoài việc lãnh đạo và trách nhiệm sự vận động của Cách Mạng. Các ông đã biết những kết quả tuyệt vời đã thành công từ đó. Sự hợp tác giữa Đảng và Nhân Dân đã rất thành công và hiệu quả. Chúng ta không có quyền chối bỏ những thắng lợi đầy uy tín hay xoá bỏ quá khứ huy hoàng đó.
“Vì vậy, ở nước ta, Đảng và Nhân Dân, chủ nghĩa Cộng Sản và Dân Chủ là gắn bó với nhau. Lịch Sử đã quyết định như thế, chúng ta hãy tôn trọng ý muốn đó. Hơn nữa, từ khi Đảng dẫn dắt nhân dân, dắt từng bước đi, soi sáng con đường đi của họ, nhân dân đã phải tự chúc mừng cho mình: sự hợp tác đã trở nên lợi ích, và nước ta đã có niềm tự hào chánh đáng về những thắng lợi đầy xúc động và bất ngờ mà chúng ta có được dưới sự che chở của chủ nghĩa Cộng Sản. Quá khứ dẫn dắt hiện tại và tương lai.
“Còn nữa, đối với những ai đòi hỏi chấm dứt sự dạy dỗ của Đảng đối với Nhân Dân, có bao giờ họ đã tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra cho Đất Nước nếu Đảng từ bỏ vai trò lãnh đạo nhân dân của mình? Có đảng nào còn có thể thay thế đảng Cộng Sản? Các ông biết quá rõ một đảng phái chính trị là gì trong một thế giới Tư Bản. Mỗi đảng lo bảo vệ quyền lợi của đảng mình, và trong bước bổ sung, là quyền lợi của những ai bỏ phiếu cho mình. Những tay làm chính trị chuyên nghiệp không từ bỏ một sự đê tiện, một xấu xa nào để nhét đầy túi tham và áp đặt những mục tiêu ích kỷ và tham lam của họ trên trước ước vọng của nhân dân. Chúng chẳng quan tâm đến những tai tiếng mà chúng là chủ thể, ngay cả những lời biêu riếu dành cho chúng. Chúng nó luôn sẵn sàng bỏ chạy, kiếm đường trốn thoát ra nước ngoài và khởi sự lại cuộc sống sang trọng. Trong thời Pháp thuộc, những thói quen chính trị từ chủ nghĩa tư bản đã xâm nhập: ngày trước, các ông đã biết quá rõ những hành động của một số chính trị gia thối nát, họ để vàng và tiền bạc, ăn cắp của nhân dân, vào những ngân hàng Thụy Sĩ, xây cho họ những biệt thự sang trọng ở nước ngoài, để có nơi thối lui hạ cánh Chúng nó đã để sẵn những chiếc máy bay sẵn sàng đào thoát mang theo hàng tấn vàng đủ bảo đảm cho họ và người thân một tương lai huy hoàng. Các ông có muốn giao phó số phận của đất nước, ngay cả của các ông và con cháu các ông cho những nhân vật không ra gì như thế hay không?
“Nếu các ông cảm thấy cần có sự lãnh đạo, các ông có chọn lựa nào tốt hơn là Đảng của chúng tôi, một đảng đã có tiếng tăm, đầy vinh quang, lóng lánh trong suốt, có những đảng viên tranh đua nhau trong nhiệt tình cách mạng và niềm tin xã hội chủ nghĩa?”

(Trong giờ giải lao, những người đến nghe xầm xì trao đổi ý kiến - Những lý luận mà chúng ta vừa nghe chỉ có thể có thể thuyết phục được người dân trong một buổi chợ phiên vui nhộn, với trình độ trung bình, không thành thạo về việc phân tích, không quen suy nghĩ, sẵn sàng nuốt nhận bất cứ chuyện gì. Dĩ nhiên, người dân phải được dẫn dắt. Nhưng vấn đề lãnh đạo đưa ra hai câu hỏi. Thứ nhất, có thật cần thiết phải đòi hỏi giao niềm tin hoàn toàn vào một người hay nhóm người lo toan mọi lãnh vực sinh hoạt của quốc gia? Chúng ta phải công nhận rằng không bao giờ có một loại thiên tài vạn năng: một danh tướng có thể, nếu cần thiết, cầm cả một trung đoàn nữ ý tá đi đặt vòng soắn ngừa thai cho quý bà mắn đẻ. Nhưng chuyện lãnh đạo kinh tế và tổ chức sản xuất đòi hỏi phải có những kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn. Người trí thức không thể đặt dưới quyền của những người có chút ít học hành hay chỉ biết đọc biết viết. Hơn nữa, Đảng lại giành độc quyền lãnh đạo tất cả mọi lãnh vực.
Thứ hai, việc lãnh đạo nhân dân sẽ phải giao cho ai? Thông thường, là phải do nhân dân chọn. Nhân dân bầu ra những người đại diện và uỷ thác, giám sát và kiểm tra tư cách và việc làm của những người này trong nhiệm vụ phải lo toan cho quyền lợi và thực hiện khát vọng của mình. Đây là nguyên tắc của dân chủ: để mà nói rằng một chính phủ do dân và vì dân. Còn nữa, ở Việt Nam hay ở những nước Cộng Sản, Đảng đã giành cho mình độc quyền chính trị và đôc quyền lãnh đạo toàn diện chính phủ. Hiến Pháp có thể phân chia các quyền, bổ nhiệm quyền Hành Pháp cho Hội Đồng Chính Phủ, quyền Tư Pháp cho Toà Án mà sự độc lập trên lý thuyết đã được bảo đảm, nhưng trong thực tế, các quyền đã chứa đầy một cách khó hiểu toàn đảng viên cộng sản và họ chỉ làm theo cách mà Đảng muốn. Vì vậy, loại “dân chủ: mà những người cộng sản tung hô chỉ là một sự giả dạng để tạo vui vẻ nhưng, đồng thời, than ôi, gây ra sự phá sản cho đất nước và ngày càng làm cho dân tộc nghèo đi mà không gì cứu vãn được.
Những quyền cơ bản và tự nhiên nhất của con người không được cho phép, ngay cả những quyền tự do cá nhân trong nước cũng không được tôn trọng. Chẳng phải chỉ có riêng chuyện Đảng có thể ra lệnh cho Công An bắt người, nhốt tù người vĩnh viễn, không cần qua bất cứ một cấp Toà Án nào, mà có vài lãnh đạo cao cấp ban đêm đi cùng công an đến bắt tại nhà những kẻ thù chính trị, còng tay đem họ đi, nhốt họ suốt đời, không qua bất cứ lần xét xử nào, vào những nhà giam bí mật mà họ chỉ ra khỏi khi đã thành chiếc thây ma không hồn. Chuyện áo dơ chúng ta giặt ở nhà, nhưng vì có quá nhiều áo dơ phải giặt mỗi ngày nên người ta cảm thấy cần phải tuyên cáo rằng Việt Nam là một thế giới bưng bít, như trong trường họp chung của toàn thế giới cộng sản. Bên trong thế giới đó, người ta tha hồ tự mình cho phép thực hiện những điều bệnh hoạn không thễ tưởng tượng, những vụ truy bức tàn bạo, những việc điên khùng kinh tởm. Không ai có thể nhìn vào cái địa ngục trần gian đó để thấy những tội ác kinh hoàng làm nhục nhã loài người đã và đang xảy ra. Mặt khác, về phía mình, bạo quyền không tha thứ cho bất cứ đề nghị, lời khuyên hay một góp ý nào, không chấp nhận bất cứ chỉ trích nào và không muốn tự nhìn khuôn mặt ma quái của mình trong gương, họ đang chiến đấu với chính mình trong cái vòng lẫn quẫn mà họ đang chết ngộp vì lỗi lầm và tội ác của mình)

Diễn giả có biết chăng những luồng suy nghĩ như thế đang xảy ra? Có thể. Trong tình huống nào ông ta cũng vẫn tiếp tục kịch liệt chỉ trích chủ nghĩa tư bản. Cùng lúc là những vinh danh cho chủ nghĩa xã hội.

“Các ông có đang chối bỏ những thành tích lớn lao của chủ nghĩa xã hội trên đất nước của chúng ta không? Nhờ vào Đảng mà chúng ta có những điều tốt đẹp như ngày hôm nay. Tôi đồng ý với các ông là Đảng không được nhân dân bầu lên, nhưng nhờ những chiến đấu cách mạng trong quá khứ, đã phải chấp nhận những hy sinh, đạt được những thắng lợi, họ đã được nhân dân hổ trợ và tỏ ra xứng đáng với niềm tin yêu của dân. Quyền lợi của Đảng hoà chung với quyền lợi của quần chúng, Đảng đã làm việc cho lợi ích chung và đã làm cho nhân dân nể trọng vì sự khôn ngoan và đạo đức của mình. Với một mục đích giống nhau như đúc, mối quan hệ về quyền lợi giữa hai bên là một giao ước không thể xoá bỏ được. Nhân dân và Đảng cùng đi trên một chuyến tầu cùng hướng về phía Thiên Đàng của ơn phước. Nhân dân hiểu và chấp thuận cho Đảng được tự cách ly riêng trong sinh hoạt, cách tổ chức, chức năng, trong việc bổ nhiệm cũng như khiển phạt, trong việc xây dựng những đường lối hoạt động và ngoại giao, và nhân dân hiểu chuyện Đảng phải làm việc trong vòng bí mật là vì lợi ích của nhân dân! Nhân dân chẳng những thông hiểu mà còn tán thành việc làm của Đảng.
“Còn có chuyện gì khác làm dân chủ tư sản thèm muốn? Chế độ đa đảng mà trong đó đảng này chống đảng kia với những đấu đá kinh hoàng đề bảo vệ quyền lợi ích kỷ của cá nhân, quên đi quyền lợi của Đất Nước và lơ là đi quyền lợi của nhân dân, gây ra những vụ tai tiếng về tài chính và chính trị, và cuối cùng là việc bóc lột nhân dân, làm tăng thêm nghèo khó và đẩy con người xuống cảnh buồn thảm và bi quan, là điều dễ hiểu!
“Có phải chúng ta, những người trí thức, đang muốn nền dân chủ tư sản để được tự do một cách toàn diện trong lãnh vực trí óc, nghiên cứu hay sáng tạo? Tôi xin hỏi các ông: các nhà xuất bản sẽ ưu tiên cho những tác phẩm của những việc làm có giá trị, cao quý trong tâm hồn hay là những cuốn sách bán chạy nhờ chúng ca tụng những bản năng thú vật của con người hay truyền bá những bôi nhọ chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Xã Hội một cách có dụng ý, bất công và một chiều? Phải biết rằng lòng tham về lợi lộc nó che đen đi lương tâm, hạ thấp tâm hồn mình bằng những chủ quan một chiều, một phía và thiên vị, làm hạ thấp và bán rẽ con người của mình. Các ông có muốn chúng ta té chìm trong những nhà xí mà không khí đã bị ô nhiểm vì những hôi thối của tư bản?”

(Trong hàng thính giả, nhiều quan điểm được trao đổi giữa người này người khác: “Ông diễn giả nhà ta, cũng giống như các anh cộng sản khác, là không có khái niệm về sự tương quan của sự vật, thiếu công bằng và không khách quan. Hắn ta kết án tư bản cả khối cũng như hắn bênh vực chủ nghĩa xã hội cả khối. Chúng ta không chối bỏ những tội ác của chủ nghĩa tư bản và những tên làm chính trị của nó. Nhưng nó cũng có những thuận lợi hấp dẫn mặc dù vẫn có những thiếu sót dính với nó. Tất cả cao hơn hết và nói một cách tổng quát, chủ nghĩa tư bản tôn trọng và thi hành những quy luật tự nhiên của con người, đó là điều làm nên tiêu chuẩn văn minh của xã hội loài người. Không có chế độ chính trị xã hôi nào có thể tự cho mình là hoàn hảo, vì lẽ bất cứ những gì làm ra từ bộ óc và bàn tay của con người đều có những hư hỏng hiển nhiên, cùng chung với những phẩm chất tốt đẹp của nó. Phán xét một chiều và một mặt là một sai lầm vì như thế mới chỉ là một góc cạnh của sự thật.
Vì thế, nếu có những người trí thức bênh vực cho thuyết đa nguyên, dù rằng sẽ có những đám “chính trị gia” xấu xuất hiện, là vì đó là cái logic của đời sống thực tế, nếu muốn đạt những hiệu quả tốt nhận thức đủ tính muôn mặt và mâu thuẩn của một vấn đề nảy sinh. Đa nguyên là chấp nhận những ý kiến trái ngược, những sự thật không giống nhau và đó là ý nghĩa thực của một nền dân chủ. Những người cộng sản không chấp nhận chuyện đó. Họ bám chặt vào độc quyền chính trị, tự cho mình là kẻ duy nhất nắm mọi thước đo về bản chất của dân chủ. Đa nguyên trở thành bãi chiến trường nơi mà dân chủ và chủ nghĩa cộng sản tấn công lẫn nhau.
Thật dễ hiểu khi thấy cộng sản chẳng những bằng lòng khoanh kín thế giới của mình mà còn muốn duy trì sinh hoạt của họ trong vòng tuyệt đối bí mật đối với bên ngoài. Trong trưòng hợp một đảng chính trị bình thường, như những đảng trong những nước dân chủ thì chuyện đảng sinh hoạt bí mật như thế là chuyện bình thường. Nhưng ở đây, chuyện là đảng Cộng Sản đang nắm quyền cai trị đất nước trong một chế độ chuyên quyền và độc tài. Tất cả mọi quyết định của nó là có liên quan đến lợi ích của toàn dân tộc, không chỉ riêng là những đường lối chỉ đạo hay chính sách phổ biến ra ngoài, mà còn dính đến chuyện bổ nhiệm những quanh chức và nhân sự cấp cao trong guồng máy Nhà Nước. Mỗi con người cá nhân có khuynh hướng đi theo một đường hướng lý tưởng và xã hội riêng mà dư luận quần chúng đều biết, vì lẽ đó, việc bổ nhiệm thăng thưởng hay truất quyền có thể cho ta thấy Đảng đang đi về đâu. Vì bí mật là luật chơi nên Đảng khép kín cửa phòng họp của họ cho người ngoài khỏi tò mò nhìn thấy. Nhưng chuyện bí mật gì dù có giữ kín như bưng thì không sớm thì muộn cũng có ngày xì ra ngoài cho công chúng nhờ những hớ hênh của những kẻ bên trong vòng thâm cung bí sử và biết rành đường đi nước bước.

Hơn nữa, công chúng đã có dịp biết được những sự việc hết sức thuyết phục đã xảy ra. Dĩ nhiên, đó là những khoản tiền bí mật được tự ý sử dụng, sự thành hình những cơ quan bí mật, việc tổ chức những chuyến công tác bí mật nằm dưới con dấu “Tối mật” và được bảo vệ rất ư là bí mật. Rất ít những người mới vào đảng được biết những chuyện này.
Nhưng có nhiều sự việc hiển nhiên làm cho mọi người phải suy nghĩ. Mọi người đều biết rằng đằng sau những vụ lường gạt trộm cắp cao cấp là dấu ấn của những quan chức rất cao cấp thông qua những công ty nhà nước có lợi nhuận rất cao. Nhiều quan chức, giống như những con thiêu thân tự đốt cánh mình khi tới tấp nhào vào vùng lửa của tuyệt vời hy vọng. Chúng cung cấp những đãi ngộ huy hoàng và vương giả cho những tên ma lanh, cho họ hàng triệu đồng để rồi đưa họ vào tù. Nhưng không có vụ kiện tụng nào được đưa ra đối với những người này, tính nhẹ dạ nông dân của quan chức bị dính chấu lại được đưa ra để mọi người cùng cười xoà, hết chuyện. Mọi người cùng quyết định tốt nhất là nên dấu chuyện đã xảy ra như dấu một món đồ khuất mắt dưới thùng gạo, và tránh biêu riếu những nạn nhân đã bị bắt quả tang. Thây kệ cho ngân sách Nhà Nước khi mà những kẻ chịu trách nhiệm được lệnh phải hết sức kín tiếng giữ im lặng để tránh cho việc Đảng phải chịu sự khinh miệt của nhân dân. Nhưng nếu một chuyện tai tiếng được dân chúng biết, thì còn nhiều chuyện đáng trách còn đang được giấu kín sau bức tường kín bưng và theo lý lẽ của Đảng! Người ta xầm xì rằng mọi giao dịch trong nước và với nước ngoài, mọi hợp đồng với các chính phủ nước ngoài, dưới trách nhiệm của bộ Ngoại Giao và bộ Ngoại Thương, đều cho phép các quan chức trách nhiệm được quyền nhận những khoản tiền hoa hồng, tiền giảm giá, tiền trà nước để làm giàu cho họ, cho những cán bộ và thân nhân trong nhiều thế hệ. Ngay khi những cá nhân như thế bị Đảng lật tẩy và chịu Đảng xử tội một cách bí mật nhiều nhất cũng chỉ bị đổi đi nơi khác, giáng cấp hay tệ nhất là bị khai trừ Đảng và sa thải khỏi nhiệm vụ đang làm, chẳng cần phải trả lại những tài sản đã ăn cắp của nhân dân.
Nhưng có những sự việc mà không ai có thể ném vào đáy của giếng sâu. Trên tất cả, đó là những tàn phá gây nên bởi nạn bao che và nạn tham nhũng. Sự bao che trước nhất là được trực tiếp thực hiện bởi các ông cao nhất, và sau đó là các kẻ tay sai luôn luôn nồng nhiệt sốt sắng làm vui lòng các ông chủ cấp trên! Đó là lý do tại sao có những con ông cháu cha được đi học ở nước ngoài rồi quay về được bổ nhiệm sau hậu trường để nắm những ghế công chức mà công việc chỉ là ngồi ký tên cho người nào đó để lãnh những đồng lương lớn hay những số tiền huê hồng cũng không nhỏ. Chẳng ai cần lo lắng quan tâm cho chiếc xe của Nhà Nước đang liên tục bị xa lầy và sụp đổ cùng với nên kinh tế, với bốn bánh xe chổng lên trời. Nhưng cái làm cho Đất Nước mau sụp đổ nhất là nạn tham nhũng. Tham nhũng là muôn mặt, nhưng cái chính là trực tiếp hay gián tiếp ăn cắp tài sản Nhà Nước, tham ô, làm và sử dụng những giấy tờ giả mạo, chiếm đoạt đất công, dùng tài sản công vào những chuyện riêng tư. Ngoài tính chất muôn mầu muôn vẻ của nạn tham nhũng ta còn có thể kể thêm là sức sinh sôi của loại dịch bệnh này là rất nhanh. Những lãnh đạo chóp bu đã làm gương rất xấu và chuyện họ không bị hình phạt nào chỉ khuyến khích cấp dưới bước chân vào con đường kiếm chác mà không sợ bị một rủi ro nào. Sớm hay muộn, sự vô đạo đức sẽ chiếm lĩnh xã hội trên bề mặt cũng như bề sâu. Chưa bao giờ ở bất cứ nước nào, ngay cả ở các nước tư bản, mà người ta thấy được một cảnh tượng kinh hoàng, một sự băng hoại vô cùng của đạo đức: toàn bộ guồng máy nhà nước ngập chìm trong sự mua chuộc. Đối với hàng công nhân viên hạng nhỏ cấp dưới, mức lương nhỏ bé là lý lẽ để biện minh cho tội tham nhũng của họ khuyến khích từ gương xấu của cấp trên của họ là những kẻ phạm tội nhưng không chịu bất cứ trừng phạt nào của Pháp Luật hay phải ra trước Toà thông qua hệ thống kỷ luật của Đảng và họ tham nhũng để mưu cầu được mau thăng quan tiến chức. Sự vô đạo đức nó như một cơn thuỷ triều đen chồm lên tràn ngập tất cả mọi cơ phận. Những lương tâm run sợ bay biến khỏi vùng địa chấn, xa tắp khỏi tầng khí độc mà ngập trong đó là một nhà nước đang thối rửa và hấp hối, một nhà nước kết cấu bằng những con người mà quyền hạn là vô chừng và độc đoán đang nắm giữ. Khi mà một nhà nước bị thoái hoá và sự xuống cấp của con người đã vào cuộc với những tác động hổ tương, kết nối chung cùng một hướng, giờ sụp đổ sẽ không còn xa.

Mỗi khi để giải thích về sự độc tôn chính trị của Đảng là điều có thể chấp nhận được, họ đều ca bài ca đề cao uy tín, tính đạo đức, những vinh quang của họ để áp đặt và đạt lòng tin của nhân dân. Rất tiếc, họ dạy rằng mọi sự đời đều chuyển động và thay đổi theo tính biện chứng, nhưng cá nhân họ lại không áp dụng trong việc xây dựng những đường lối hoạt động hay quyết định những chính sách, đảng của họ lại ra sức tấn công những kẻ thù hôm nay, những người có thể trở thành bạn ngày mai. Đầu óc họ cứng nhắc trong chuyện định ai là bạn ai là thù như là một chân lý không thể thay đổi, từ chối nghe tiếng chuông từ mọi phía, và sửa sai những sai lầm. Tất cả chuyện đó sẽ đưa đến một sụp đổ không thể trách được, một sụp đổ mà mức độ trầm trọng mà chính họ phải đánh giá trước.
Thay vì giáng búa rìu lên đầu người trí thức mà tội lỗi duy nhất của họ là yêu Tổ Quốc và Dân Tộc, người cộng sản cần phải hiểu rằng kẻ thù của họ chính là họ chứ không ai khác. Kẻ thù của họ là ai? Là tính chủ quan, một cách quá mức, đã làm cho họ tưởng mình là Thượng Đế được phú cho sức mạnh siêu nhân không thể thất bại, trên Thiên Đàng, trên tất cả những thực tại thế gian, sự hợp pháp, luật pháp, công lý và công bằng. Thật điên khùng khi họ tin rằng họ luôn luôn đúng, và đặc biệt ngay cả những khi họ sai lầm! Loại bệnh hoạn này chỉ có con đường là đưa họ vào bệnh viện tâm thần.)

Những bàn tán này chỉ xảy ra trong tiếng xầm xì để khỏi mang tiếng vô lễ với người đang đứng độc quyền trên diễn đàn, và cũng để tránh những tên chỉ điểm và tay chủ ngục đang lẫn lộn trong hội nghị.

Diễn giả bắt đầu kết thúc phần chót của bản kết án:

“Thưa các đồng chí thân mến, việc mà tôi nhấn mạnh ở đây là dân chủ, theo nguyên chữ, nói một cách đơn thuần là chính quyền do dân. Nhưng, theo chúng ta là những người cộng sản, chúng ta hiểu chính quyền là dân. Chúng ta hãy nhìn chung quanh chúng ta để ngắm nhìn một hoạt cảnh đầy hạnh phúc! Những nhà trẻ chào đón các cháu bé trong khi các bậc cha mẹ đi làm và lo cho chúng tất cả những săn sóc cần thiết. Những cháu ở tuổi đi học thì tập trung trong các trường học. Những thanh niên nam nữ hiếu học tham dự những buổi giảng ở Đại Học và dành trọn thì giờ rỗi rảnh để vào các Thư Viện để gia tăng kiến thức. Họ hưởng một nền giáo dục miễn phí, cũng như trường hợp những người bệnh được hưởng những săn sóc y khoa, được nằm bệnh viện hay được qua những lần giải phẫu rất tốn tiền mà không phải trả một xu nào. Báo chí và những tác phẩm xuất bản của Nhà Nước đều truyền bá những văn hoá lành mạnh và có đạo đức nhằm dạy dân chúng yêu chủ nghĩa xã hội và yêu hoà bình. Rạp phim và sân khấu cung ứng những buổi giải trí cho quần chúng đầy chất lượng để nâng cao tinh thần và đào tạo những công dân tốt. Cửa hàng nhà nước ngập đầy thực phẩm và hàng tiêu thụ. Tình hình an ninh được bảo đảm: không có những phạm pháp đáng khinh tởm, không nạn chận đường cướp tiền, không tống tiền, đường phố sạch sẽ, con người sống lịch sự với nhau, trẻ con ngoan ngoãn. Các nước anh em theo sát chúng ta và mang cho chúng ta tất cả những giúp đỡ cần thiết. Ở nước ngoài, chúng ta đạt một uy tín mà nhiều người khâm phục. Chúng ta không biết các bệnh xã hội, như đĩ điếm, hút sách và những hang ổ cờ bạc. Cho tiền puộc boa, chúng ta không biết. Tất cả cán bộ và nhân viên tự hào về tính lương thiện và sự trong sạch của mình: họ không bị mua chuộc và không nhận tiền hối lộ. Chúng ta không biết được trong tương lai chúng ta sẽ có gì trong các cửa hiệu kho hàng, không biết còn hay không còn tiếp tục nhận được những giúp đỡ anh em của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng, trong hiện tại, chúng ta đang hưởng một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc, mặc dù nước ta là một trong những nước nghèo nhất theo như Quốc Tế xếp hạng nước chúng ta. Nhưng không có một thứ của cải nào có thể bù đắp được cái may mắn tuyệt vời được có một Tổ Quốc vinh quang, một Đảng tôn vinh, một niềm tin không lay chuyển vào chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Chúng ta không hãnh diện là những người con của Việt Nam mà số phận đã được thế giới thèm muốn sao?
“Tại sao vào lúc này lại có một số trí thức ngây thơ đến độ đứng lên đòi hỏi tự do và dân chủ như thể là chúng ta đã tước bỏ phần của họ? Đương nhiên, chúng tôi có quan điểm riêng về tự do và dân chủ, nền tự do dân chủ có mang dấu của người cộng sản và ấn của Đảng. Hãy nhìn xem giai cấp trí thức khinh bỉ mấy tay phản bội và thương hại sự mù quáng của chúng như thế nào, hãy xem thiên hạ nhìn mấy tay bệnh hoạn đang nhiểm vi trùng của bọn tư bản như thế nào. Quần chúng biết rõ hơn ai hết món nợ với chủ nghĩa cộng sản: phẩm giá của con người, niềm hạnh phúc được làm chủ chính mình và cùng với đất nước, đánh bại chủ nghĩa thực dân trong trận Đìện Biên Phủ.
“Chúng tôi, những người cộng sản, và nhân dân không coi người trí thức như kẻ thù cần phải loại bỏ, nhưng như một người bị lạc đường và bệnh hoạn, lạc hậu một cách kinh khủng đối với thế giới văn minh, một thế giới tin tưởng rằng tương lai của nhân loại là chủ nghĩa xã hội. Tôi xin hỏi những người chậm trí kia: chân lý nằm phía nào? Về phía của vài tên lạc hậu hay của toàn thể nhân dân, mà trong đó tuyệt đại bộ phận trí thức đang đứng cùng? Vâng, toàn thể nhân dân đều đứng sau lưng Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng.
“Chân lý đứng về phía của nhân dân! Và nhân dân đã đồng tình và ủng hộ Hồ Chí Minh và Đảng của ông. Vì lẽ đó, chúng tôi ra lệnh những ai chối bỏ sự thật của nhân dân là kẻ thù của nhân dân. Tốt hơn là những kẻ này nên lưu ý những gì tôi nói.”

Một sự yên lặng nặng nề lan ra. Không một tiếng vổ tay như thường xảy ra vào lúc kết thức một bài nói chuyện. Cơn bảo đã đến gần. Rời chỗ mít tinh, những người tham gia tụm năm tụm bảy ở khu vực Pasteur, những màn tán gẫu bắt đầu.

- Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một lời tuyên chiến. Họng súng sẽ nổ. Không cần phải ngụy biện. Chân lý không nằm ở bên có bạo lực.

- Mọi người im lặng không có nghĩa là họ chấp nhận thế đứng của Đảng. Trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất chủ yếu là nhắm chặt đầu giai cấp địa chủ và việc cải cách nhà ở là nhằm tước bỏ quyền sở hửu của các chủ bất động sản ở thành phố, nhân dân cũng giữ im lặng. Họ đã quen, biết giữ im lặng. Đảng đã nhận lỗi trong Cải Cách Ruộng Đất; trong tương lai họ sẽ nhận lỗi về việc cải cách tư sản. Sự im lặng của dân chúng không có nghiã là một sự đồng lòng mà ngược lại đó là sự sợ hãi đã nảy sinh. Người cộng sản biết quá rõ chuyện đó. Đó là tại vì sao thay vì tự mình áp đặt trên nhân dân, họ núp đằng sau thẩm quyền của Hồ Chí Minh.

- Chúng ta biết rõ mức trầm trọng như thế nào khi người cộng sản gắn bó với mấy chữ “kẻ thù của nhân dân”. Trước nhất, chúng ta hãy than phiền cho số phận mấy đồng chí bị gán cho mấy chữ “lầm lạc” và “lạc hậu”. Nếu họ không bị đưa lên đoạn đầu đài, hay trói vào cột bắn, thì họ cũng sẽ bị chết một cái chết kéo dài, đau đớn hơn nhưng trong vòng kín đáo, cô lập bí mật nơi nào đó. Bất luận như thế nào, trên hết là những cái đầu can đảm hay ngây thơ nhất của chúng tôi, họ muốn hạ tất cả trí thức để cưỡng ép họ giữ một im lặng tuyệt đối, nếu không chịu “tự do” chấp nhận một cách tự nguyện sự độc quyền của cộng sản. Từ nay trở đi, ba “kẻ thù” của Đảng đã bị loại bỏ: tầng lớp địa chủ ở nông thôn, tầng lớp chủ nhà ở thành thị, và những trí thức còn xứng đáng với danh xung đó còn lại trong nước. Từ nay, Đảng có quyền tự do làm những chuyện khác thường và kỳ quặc.

- Thế nhưng, tội lỗi của những người bạn bất hạnh của chúng tôi là gì? Họ không hề có dự định nào loại bỏ Đảng trong cuộc sống chính trị, càng không có ý định truất phế Đảng. Họ chỉ mơ ước được hỏi Đảng trong tư cách là một đảng đang lãnh đạo, chấp nhận thực hiện, với chủ đích là làm đời sống chính trị được tốt hơn, một vài cải tổ, để mang lại những điều tốt lành cho nhân dân cũng như cho Đảng. Như thế thật là ngụy biện khi cho rằng nhân dân ủng hộ Đảng và những người “lầm lạc” là kẻ thù của nhân dân. Những người cộng sản sống bằng dối trá, đạo đức giả, nhưng cái sai lầm lớn nhất của họ là đã đặt cái bạo ngược trên cái bề ngoài hão huyền, từ đó đưa ra những diễn dịch theo ý mình để tiêu diệt những ai mà họ gán cho mấy chữ “kẻ thù của dân tộc”.
Chiếc gươm Damocles treo trên đầu của giới trí thức và nhà cầm quyền có thể chọn đưa họ vào nhà thương tâm thần, hay một án tù chung thân để chết dần trong một nhà tù vô danh nào đó hoặc giả ra những vụ tai nạn mà không ai là người trách nhiệm.
Tôi biết số phận của tôi đang chờ, giống những người khác cũng dính líu vào những cố gắng nhằm mở thêm chút không khí trong lành để thở. Chúng tôi đã bị lừa phỉnh bằng những thủ đoạn đê tiện của những người lãnh đạo rất lão luyện trong việc giăng bẩy, sắp xếp những trận phục kích, giết những người mà họ gọi là kẻ thù. Machiavelli, nếu sống lại ở thế giới này, nên phải ghi danh đi học trường của mấy ông lãnh đạo cộng sản là những con người đầy những dã man gian trá và đầy những sáng kiến vô nhân như chưa từng có trong lịch sử nhân loại.


4   Trận đấu bò đầu tiên trong Mặt Trận Tổ Quốc

Tôi nằm trong mẻ đầu tiên. Mỗi người bị kết án đều phải trình diện trước một toà án gồm những thành viên trong tổ chức mà người ấy sinh hoạt. Trong khi đạp xe từ nhà đến cơ quan trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc, theo lời mời của Đảng, tôi cố gắng suy nghĩ xem buổi xử án tôi sẽ xảy ra như thế nào. Dường như đây là buổi tự phê bình mà tôi phải tự trình bày. Thật vậy, đây là một vụ xét xử chính trị mà tôi phải đối phó. Đảng đã chỉ định một số người ngồi sau cái bàn phủ khăn xanh và giữ vai trò công tố tuy không đưa ra bản cáo trạng nào nhưng chỉ đưa ra những câu hỏi nhằm chứng minh là tôi là kẻ có tội. Buổi thẩm vấn diễn ra công cộng, và nội dung là những lời buộc tội chính mà “hội đồng bồi thẩm” đã thiết lập nên. Kịch bản đã được nghiên cứu đến từng chi tiết nhỏ nhất. Phán quyết vụ án không được đưa ra vào phần chót của buổi xử án. Chính Đảng, sau đó sẽ trở lại quyết định nội dung của phán quyết. Mục tiêu được nhắm đến là “giáo dục” lại kẻ phạm tội sao cho kẻ này có thể chuộc lại những lầm lỡ, và đồng thời giáo dục quần chúng để cho họ tránh không mắc phải những lỗi lầm như những người kia.
Vì thế, người ta tham dự một phiên toà chứ không phải là một buổi tự phê bình mà người ta gọi là một buổi hội nghị. Người cộng sản, bên cạnh những tài năng khác, rất lẻo mép. Luôn luôn chơi trò hàng hai, chẳng những tự lừa dối mình còn lừa dối đến những người khác, bóp méo sự thật, tìm cách làm hoa mắt mọi người. Họ dùng những mánh lới quanh co y như đầu óc bẩm sinh quanh co của họ. Một từ luôn được lập lại trong ngôn ngữ của họ: “Giáo dục”. Một động tác đưa ra, một sinh hoạt được tổ chức đều phải nhắm vào một mục đích giống nhau: dạy cho quần chúng cư xử trong cuộc sống y chang như người cộng sản.
Nhưng khi Mặt Trận được tổ chức như một Toà Án để xét xử đồng nghiệp của mình, tự nó đã là một khó khăn: Mặt Trận bao gồm nhiều thành viên tiếng tăm từ nhiều khuynh hướng xã khác nhau tiêu biểu cho toàn xã hội đa dạng, đa nguồn gốc. Đặc tính chung của những người này là không phải đảng viên, không được chấp nhận vào Đảng. Chỉ có Chủ Tịch của Mặt Trận là một đảng viên cao cấp. Nhưng tất cả những cán bộ thừa hành trong Ban Bí thư đều là những người cộng sản trẻ, năng động, có cái nhìn sắc bén nhưng chỉ biết mở mồm khi báo cáo công việc cho người trách nhiệm Mặt Trận. Bất cứ lúc nào, thể theo đề nghị của Đảng, Mặt Trận sẽ bỏ phiếu ủng hộ một vài quyết định cho một vài chính sách này, chính sách nọ, Đảng tin rằng tất cả nhân dân đều đứng đằng sau Đảng, mặc dù nhân dân chưa bao giờ bầu ra một thành viên nào của Mặt Trận, chưa bao giờ giao phó một nhiệm vụ nào cho Mặt Trận, khác với Quốc Hội được bầu ra nhưng cũng ít nhiều bị điều khiển từ xa. Khi mà người cộng sản là những người có một sở thích không lành mạnh và không kềm chế được là thích phô diễn, và Mặt Trận lại cung ứng cho Đảng cái vẻ như toàn dân tán thành Đảng, cho nên Đảng cũng làm ra vẻ lưu tâm nhiều đến Mặt Trận một cách chính thức và trọng thể. Huống chi Đảng không tác động trực tiềp lên quần chúng, không phải nhận bất cứ than phiền hay chỉ trích nào, thậm chí còn không thèm lưu ý đến họ; vì vậy cho nên Đảng không phải chịu một rủi ro nào bị nhân dân phản đối. Giữa Đảng và Mât Trận là một sự trao đổi lễ phép, lịch sự, ngoại giao bình dân, hình thức suông, tất cả những gì mà cả đôi bên đếu vui lòng với nhau.
Tôi tò mò tự hỏi rồi đây ai là người sẽ đóng vai công tố và phóng ra những lời buộc tội dưới hình thức những câu hỏi liên quan đến những “lỗi lầm” của tôi. Các ông cha Nhà Thờ Công Giáo, các vị sư Phật Giáo đáng tôn kính đều có một chút quyền hành nhưng họ là những người rất khó mà bị nhồi sọ. Những đại biểu của nghiệp đoàn, của chị em phụ nữ, hay các nông dân trẻ thì không có quyền hạn gì thì tỏ ra thiếu tự tin khi đảm nhiệm vai trò của mình. Như thế, chỉ có một trí thức là Bác Sĩ Phạm Khắc Quang, một người tự trọng và có tiếng tăm mà tôi được biết. Thủ đoạn cộng sản là giao thanh đao cho một người mà quan hệ của người này với người bị buộc tội cho phép họ giáng một cú chém chịnh trị có tính quyết định và đầy ý nghĩa. Trong Cải Cách Ruộng Đất, trẻ con đã được động viên để tố cáo cha mẹ, kẻ thuê nhà buộc tội chủ nhà, người trí thức thiên thần kết án người trí thức quỷ quái! Đó là cái logic trong mọi chuyện của cộng sản.
Uỷ Ban Trung Ương của Mặt Trận tổ chức những buổi họp của họ trong căn phòng khách lớn của toà bin đinh mà trước đây là Toà Đại Sứ của Trung Hoa Quốc Gia trên đường Tràng Thi. Tôi đã có khá nhiều dịp đến đây để tham gia những hôi nghị trong thời gian mà tôi nằm trong nhóm đã được chọn đứng bên phải của Chúa Công. Tôi biết tất cả các “đồng sự” ở đó, những người mà ngày nay đang quyết định số phần của tôi.
Lần này tôi đi vào phòng họp như một con bò tót bị đẩy ra đấu trường. Thật như thế, một đấu trường với những hàng ghế xếp sát cạnh các bức tường để trống một vùng ở giữa. Đằng sau những cái bàn là vô số người, một số ngồi nếu là thành viên của Mặt Trận, một số người tò mò đứng bên trong, đa số là ký giả hay những người thuộc những tổ chức quần chúng. Đây là một trận đấu bò trước một công chúng đang thèm khát những cảm giác mạnh, nóng lòng chờ giờ khai mạc một cảnh tượng độc đáo không thể tả được.
Giống như một con bò tót đang tiến vào trường đấu, tôi nhìn quanh toàn thể hội trường. Trong lúc mọi người đang đứng mở to mắt nhìn và vểnh tai để nghe, các “đồng sự” của tôi ngồi sau dãy bàn tỏ ra không được thoải mái trong nhiệm vụ của họ, một nhiệm vụ mà họ chưa hề quen. Mặc dù những câu hỏi để chất vấn tôi đã được những kẻ “có quyền” đánh dấu, họ vẫn không che dấu được sự lúng túng trong giọng nói và cách đọc. Tôi không tránh khỏi thấy tội nghiệp cho họ đã bị đưa vào một hoàn cảnh như thế.

Những câu hỏi xoay quanh vần đề thứ nhất.
- Đồng chí có thấy là đồng chí đã làm tổn hại đến Cách Mạng và hại chính bản thân đồng chí khi đã để bài tham luận của đồng chí trong hội nghị thoát ra nước ngoài?
Tôi xin bác bỏ sự khẳng định này. Cho đến nay, tôi chưa bao giờ để bài tham luận của tôi thất thoát ra nước ngoài. Đó là chuyện xảy ra ngoài ý muốn và tôi không hề biết có chuyện xảy ra như thế. Khi phong trào Trăm Hoa Đua Nở nổ ra ở Việt Nam, đồng chí Xuân Thuỷ, Tổng Thư Ký của Mặt Trận đã yêu cầu tôi làm một buổi hội thảo về dân chủ ở Âu Châu và ở Pháp. Việc ấy đã xảy ra ngay chính ở phòng họp này, với sự có mặt của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng và nhiều thành viên của Uỷ Ban Trung Ương của Mặt Trận là những người đang xử tôi ngay giờ này đây, suốt cả ngày, gồm ba giờ vào buổi sáng và ba giờ buổi chiều. Chính vào thời điểm này Đảng đã phải nhận lấy sự sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất và đã đưa ra những biện pháp sắp xếp lại Đảng. Hai chữ Trường Chinh đã rung lên hồi chuông đưa mọi người vào tâm trạng buốn chán và tang tóc: “Chúng ta đã tự tấn công mình bằng cách tấn công người khác!”. Một lỗi lầm vô cùng to lớn đã lấy đi hàng chục ngàn sinh mạng vô tội. Hàng ngàn quả phụ và con côi, dưới bộ đồ tang trắng, đã đến văn phòng Luật Sư của tôi, đến từ mọi nơi trên đất nước, yêu cầu tôi giúp phục hồi lại danh dự của những người đã mất và đưa ra vấn đề trách nhiệm của Đảng và của những người trách nhiệm. Với một niềm ân hận to lớn, tôi phải trả lời cho họ là việc đó ở ngoài khả năng của tôi, vì đây là một vấn đề chính trị, nó không nằm trong vòng luật pháp và những kiện tụng bình thường. Cú sốc như một phát búa tạ vào đầu tôi và tôi phải rất khó khăn mới đứng được. Tôi tự bảo và bảo với tất cả những người đã làm việc với tôi là không thể để chuyện kinh hoàng này lập lại trong tương lai. Chuyện tàn sát ấy không thể nào có thể xảy ra trong một cái gọi là “nền dân chủ tư sản”, nơi có những điều luật để quản lý quyền lực công, có những quy định hiệu quả để rào cản ngăn ngừa những điều khùng điên sinh ra bởi chủ nghĩa duy ý chí một cách trẻ con và bởi thứ chuyên quyền đui mù rập khuôn cư xử với các nước “anh em”.
Trường hợp bi đát mà trong đó tôi được mời đến nói chuyện là sự có mặt của một công chúng đã quen với tư duy dân chủ nhưng lại ít kiến thức về những qui định luật pháp làm nên cái nền móng và cơ cấu của những sinh hoạt dân đã dẫn dắt tôi trong phần trình bày. Từ khi tôi đã nói chuyện trong nhiều hội nghị với sự có mặt của nhiều nhân vật lãnh đạo Đảng hay Mặt Trận, tôi tự kềm chế những xúc động mạnh và ngôn ngữ của mình sao cho không tổn hại đến phong thái lịch sự và phép xử thế là những nguyên tắc hướng dẫn tôi trong những quan hệ với giới cầm quyền.
Tôi không có thói quen hay thời gian để soạn thảo bài nói chuyện, như tôi thường hay giảng bài cho sinh viên hay những lời lẽ tranh cãi trước toà. Vì có lời yêu cầu của hai ông Xuân Thuỷ và Dương Bạch Mai nên tôi đã viết bài tham luận ra giấy những ý mà những người nghe vỗ tay tán thưởng. Người ta muốn đọc bài viết để có nhiều suy nghĩ. Tôi đã đánh máy ra hai bản và đã đưa ngay cho Ban Thư Ký của Mặt Trận. Vì thế tôi xin nhấn mạnh hai điểm cốt yếu: không phải tôi là người đưa ra sáng kiến về hội nghị, cũng không phải tôi là người quyết định có bài tham luận bằng chữ viết. Trong hai trường hợp trên, đều là do lời yêu cầu của lãnh đạo Đảng và Mặt Trận mà tôi đã hành động như đã nêu. Hoàn toàn không một dụng ý. Vì vậy, lòng trung thực của tôi là toàn diện.
Liên quan đến chuyện một trong hai bản đánh máy bị lấy và gửi ra nước ngoài, trong thới kỳ chiến tranh lạnh hiện nay, một chút sai lầm hay lỗi nhỏ nhất của thế giới cộng sản cũng sẽ nổ ra không chút e dè, không thể buộc tội tôi chịu trách nhiệm về chuyện này. Không có một chứng cớ nào đã và chưa bao giờ được đưa ra để buộc tôi là có tội, hay chứng minh là tôi đã có những gặp gỡ bí mật với gián điệp nước ngoài, hay làm rõ là tôi đã đưa một bản sao cho một ai đó. Nhưng, theo những thói quen đã thành nếp của chúng ta, thay vì cố gắng xác minh trách nhiệm của kẻ phạm luật, chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu về sự thiếu chu đáo, thiếu thận trọng trong đội ngủ những người của Đảng và Mặt Trận, những người có trách nhiệm nhận và chuyển những hồ sơ hay những người, vô tình hay cố ý, vung vãi lung tung hồ sơ giấy tờ mà họ cho rằng ít quan trọng, thay vì tự hỏi lấy mình để kiếm cách buộc tội người khác. Như thế thì dễ dàng hơn nhưng nó lại đi ngược với những quy định của luật pháp.
Vậy, cho tôi được phép hỏi ông: giữa chuyện những sai lầm của Đảng trong Cải Cách Ruộng Đất mà Đảng đã từng vỗ ngực, và chuyện lơ đễnh của người nào đó đã làm lạc một tài liệu dính đến những sai lầm như thế, hay nói một cách chính xác hơn là ám chỉ những sai lầm đó: chuyện nào nghiêm trọng hơn? Trong cả hai trường hợp, không thể nào tôi phải chịu trách nhiệm về chúng và tôi yêu cầu ông ghi chú đìều này.

- Thôi được, bỏ qua chuyện này và ta sang chuyện khác. Quan điểm của ông đối với Mặt Trận là thế nào? Theo ông, để cải thiện về cơ cấu cũng như hoạt động, Mặt Trận phải theo con đường nào? Chuyện mà chúng tôi rất lấy làm tiếc là có một thành viên của Uỷ Ban Trung Ương đã tung ra những tấn công chống lại Mặt Trận. Trò này không hay lắm. Ông không biết là ông đã làm hại chúng tôi, theo như tục ngữ dân gian, là đã vạch áo cho người xem lưng? Chuyện cãi cọ trong gia đình chớ nên đưa ra sân khấu để người xem.

Tôi nghĩ rằng điều trách cứ của ông nó đi trật chỗ. Ông phải nói những điều ấy với Đảng. Trong những lần cãi cọ “trong gia đình” trong Cải Cách Ruộng Đất, ông còn nhớ lúc ấy chúng ta đã được lệnh xếp đặt cho trẻ con tố cáo cha mẹ chúng không? Những lời nguyền rủa buộc tội, hoàn toàn dựng đứng, phát ra từ cửa miệng của một đứa con đã được giáo dục chu đáo, là một sự thực không thể chối cãi. Được phong cho những danh vọng bởi nhà cầm quyền và được nhận vào hội đoàn của quý ông, mặc dù đó không phải là do tôi mong muốn, tôi không mất nhiều thời gian để hiểu ra bản chất thật của Mặt Trận, nhiệm vụ được giao phó của nó là phải thi hành thành công rực rỡ những chuyện được giao để làm vui lòng lãnh đạo, mặc dù là những chuyện chả có tí gì tác động đến quần chúng. Đó chỉ là những tấm phông được dựng lên dưới sự chỉ đạo của giám đốc xưởng phim, một khi những đoạn phim được quay thì chúng sẽ được đập bỏ và ném vào hố rác. Một bộ óc nào đó chứa đầy những logic và hình thức, đã có sáng kiến tạo dựng một bức tranh hài hoà, một cơ cấu cân bằng giả tạo với những cánh cửa sổ giả mạo đặt để dưới quyền của Quốc Hội. Quốc Hội tập hợp những người được “bầu” lên từ các khu vực cử tri, thường là giới hạn mình trong nhiệm vụ lập pháp. Thật vậy, công việc lập pháp được chia sẻ bởi Hội Đồng Bộ Trưởng chăm lo việc thực hiện những điều Luật đã được Quốc Hội biểu quyết, mà còn phải thi hành những nghị định, thông tư cũng như chuyện làm luật và quản lý đất nước. Hai tổ chức Quốc Hội và Mặt Trận khác nhau là ở chỗ Quốc Hội gồm có những đại biểu được “bầu” lên từ mọi vùng lãnh thổ trên toàn quốc, Mặt Trận gồm những người được chọn lựa trong các đơàn thể quần chúng để tiêu biểu cho mọi ngành nghề xã hội hay khuynh hướng Tôn Giáo khác nhau. Nhưng cả hai đếu gặp nhau trong cùng một thái độ vì Đảng, trong những lần đưa ra đưa ra ý kiến, đều đồng ý với Đảng trên bất cứ chuyện gì và bất cứ lúc nào, hoàn toàn không có một ý kiến khác hay ồn ào kháo chuyện. Toàn Quốc Hội biểu quyết bằng cách đưa tay lên, Mặt Trận biểu quyết bằng cách cúi đầu và buông thõng hai tay. Nhưng cả hai đếu biều hiện một sự nhất trí với lãnh đạo làm cho mặt lãnh đạo ngửa cao với nụ cười mãn nguyện. Đảng tự cho mình là người nắm sự thật và hai tổ chức kia chỉ có nhiệm vụ là phổ biến và tuyên truyền, mỗi tổ chức lo chuyện trong khu vực ảnh hưởng và trong vùng sinh hoạt của mình. Đó là hai cái nạng giúp Đảng tiến bước.
Thưa các đồng chí, tôi chưa bao giờ được mời nạp đơn ứng cử vào những lần bầu cử lập pháp và, nếu tôi có mặt trong nhóm người đáng kính của quý ngài, không phải vì bất đắc dĩ mà do ngoài ý nguyện của tôi là được rời bỏ tất cả những vinh dự chính trị và mong muốn không chuyện gì khác là được thu mình ở ẩn như một kẻ vô danh bất phùng thời, thích hợp cho những sinh hoạt trí thức của tôi!
Một khi gia nhập Mặt Trận, tôi sớm nhận ra ngay tính giả mạo của vị trí mà tôi bị gán cho cũng như sự vô dụng hoàn toàn của vai trò ấy trong Mặt Trận. Tất cả những Luật Lệ và chính sách mà Nhà Nước tự cho mình có bổn phận phải làm như thế được phổ biến mỗi ngày trên Báo Chí và được phóng thanh suốt ngày trên toàn nước, chỉ có những người vừa câm vừa điếc mới không biết chuyện ấy! Mặt Trận không cần phải họp lại để phổ biến tin đến nhân dân trong khi mọi người đã đọc hay đã nghe chúng. Nhưng nếu Mặt Trận không giữ vai trò cái loa, thì thử hỏi Mặt Trận giúp được gì cho Đảng và nhân dân?
Mặt Trận có thể giữ một vai trò tư vấn cho Đảng trong việc xây dựng Luật và đường lối chính sách. Nhờ tập trung được nhiều thành viên tiêu biểu cho nhiều khuynh hướng xã hội, nó có thể đóng góp những suy nghĩ thiết thực và nghiêm chỉnh về những đề nghị hay dự thảo nhận được. Bất hạnh thay, không biết là vì những chỉ thị nhận được hay vì do tự mình sáng kiến, với những lý do hiểu được trong bất cứ trường hợp nào, và cũng không nên săm soi làm chi, Mặt Trận luôn luôn nhất trí với những lần báo cáo hay những văn bản chính thức được gửi đến để giải thích. Sau một vài lần dự những phiên họp như thế, tôi không khỏi nhớ lại thuở nhỏ khi tôi còn chạy chơi trên đường phố, phố Quảng Châu nằm giữa phố Hàng Tơ và phố Hàng Đường, để nhìn những con nộm bẳng sứ với những cái đầu luôn cúi xuống với đôi tay luôn buông thỏng như đang phê chuẩn chuyện gì. Ý nghĩ gì đã nẩy mầm trong trí của người nghệ sĩ thủ công kia khi hình dung ra toàn những con nộm với chiếc bụng bự với cũng chỉ một cử động duy nhất giống nhau? Nó thể hiện chăng một sự coi thường khinh rẽ, một sự cao hứng để diễu cợt và công kích những ông quan triều đình mà sinh hoạt chỉ là một thái độ duy nhất của vâng lời và thuần phục? Khi mà con người đã trở thành một chiếc máy đều nhịp, một con rô bô, máy móc như một cơ động của giây chuyền sản xuất, người ta bảo đời sống ấy đã khô kiệt nguồn sống, một động tác máy móc lập lại đến vô tận chỉ là đấu hiệu báo trước của sự chết. Bergson đã dạy chúng ta rằng mọi vận động, với nhiều biểu hiện đa dạng là một tiêu chuẩn của sự sống, cái tự động hoá tê liệt trong một tư thế là đặc tính của vật chất. Một mặt, sự vận động, sự thay đổi, sự đa dạng là những dấu hiệu của sự sống. Một mặt khác, sự bất động, quán tính, bất biến báo hiệu cho bước tiến của vật chất. Xung đột giữa sự sống và sự chết, giữa linh hồn và vật thể, là một xung đột giữa những gì đang chuyển động, thay đổi, đa dạng và những gì luôn đứng yên một chỗ, luôn cùng một trạng thái, ù lì và bất biến. Để kềm chế, ngăn chận cái lấn lướt của sự vật bất động, duy trì một sự sống nở hoa và có tinh thần trong mọi sinh hoạt, nụ cười sẽ là một phương thuốc bổ thần hiệu. Tôi không chịu trách nhiệm về việc cười ngạo người khác không đúng chỗ, nhưng tôi tự cười tôi rất nhiều khi tôi phải cúi đầu và buông thỏng hai tay.

Một cuộc xét nghiệm phân tích về cái cấu trúc của Nhà Nước, dù là một phân tích ban đầu sơ khởi, cũng làm cho tôi có suy nghĩ rằng lãnh đạo có hai thái độ để chọn:
Hoặc là chủ nghĩa hình thức, tự làm mình thoả mãn với những phương cách hời hợt về con người và sự vật, tìm lấy sự đắc ý với với cái bề ngoài đầy xu nịnh, chấp nhận sự nhất trí của những kẻ chỉ biết cúi đầu vâng dạ, chỉ vui thú được nghe một tiếng chuông, một bản giao hưởng của tung hô, mùi lư hương thơm phức, mắt nhắm như đang được phúc lớn! Trong những điều kiện đó, Đảng cứ tiếp tục bước đi, để mọi sự đứng yên ở nguyên trạng như cũ, dù việc ấy có ích hay gây tổn hại cho nhân dân và vì thế sẽ gây tổn hại cho Đảng là người đã tuyên bố độc quyền chịu trách nhiệm.

Hoặc là lãnh đạo quan tâm lo lắng đến việc thẩm định lòng người và sự tham gia đóng góp của nhân dân, đi kiếm những sự thật đang dấu mình sau những nụ cười, những chào hỏi săn đón, những lời nói ngoa và những tung hô nhất trí. Nhưng làm sao có thể tìm ra những gì mà người đời cảm thấy và nghĩ suy? Thật ra cũng đơn giản thôi. Họ phải được tự do phát biểu, có khả năng gạt bỏ những gì dấu diếm cho đến nay trong tận sâu thẳm của suy tư. Một khi, nhiều quan điểm khác nhau được phát biểu, lãnh đạo sẽ có khả năng điều chỉnh những cái nhìn sai lầm và chưa đầy đủ của mình, để có thể lấy những quyết định chính xác thích đáng, hợp thời và mang lại lợi ích.
Tôi xin các đồng chí nhớ rằng tôi không biện minh cho dân chủ, khi mà dân Âu Châu phải mất hai trăm năm để đạt được nó, như theo một vài người có thẩm quyền đã nêu ý. Tôi cũng không yêu cầu là đảng Cộng Sản phải rút ra khỏi đời sống chính trị, mặc dù, than ôi, đảng đã mất nhiều uy tín và niềm tin từ khi sự mất đạo đức và tham nhũng đã dính vô nhiều đảng viên đang nắm những vị trí khá cao. Tôi chỉ mong muốn là nhân dân có thể nói lên tiếng nói của mình về những suy nghĩ về những người đang trách nhiệm, về tất cả những gì liên hệ đến số phận của họ trong hiện tại cũng như tương lai. Chỉ đến lúc ấy thì mới có thể có được sự hợp tác chân thành giữa Đảng và nhân dân tạo nên những lợi ích cho Đảng và nhân dân! Không thể dành riêng cho chủ nghĩa tư bản được độc quyền áp dụng những quyền tự nhiên của con người trong xã hội. Nhưng càng hơn thế, chúng ta không nên tự giết mình về chữ nghĩa, bằng cách đi đến một cuộc cãi nhau về chữ nghĩa một cách đáng buồn cười. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là những từ ngữ tự nó chẳng có ý nghĩa mà là những từ ngữ tuỳ thuộc vào mùi vị và sự chọn lựa của những người dùng nó. Trên cửa miệng của một người “xã hội chủ nghĩa”, với thói quen không tránh được nhưng không ít quái dị và trẻ con, chủ nghĩa tư bản là luôn dính tới bất cứ chuyện kinh khủng và bất cứ ai đã bị gán cho cái chứng nhận bỉ ổi đó, cuộc đời của họ xem như chấm dứt ở đây. Bất cứ khi nào một chính sách ăn thịt đồng loại được áp dụng, sự xung đột không còn nằm ở chỗ tranh luận văn phạm, nói như Montaigne, lúc ấy sẽ có máu đổ và sự chết.

Thói quen luôn cúi đầu để tỏ vẻ sự tán thành, dùng hai bàn tay luôn để vỗ tay, mồm luôn mở chỉ để nói câu đồng ý, tất cả chỉ cho thấy sự tê liệt của lý trí, cái chết tiệt của trí thông minh, chặt bỏ những phản xạ của phê bình. Trong đời sống của chúng ta hiện nay, có nhiều chữ đưa chúng ta vào trạng thái hôn mê, thí dụ như: 
phản động, chống phản động, phê bình. Đồng chí đã dùng từ “phê bình” để gán ghép cho những đề nghị vô hại mà tôi đã trình bày cho lãnh đạo của Mặt Trận. Đồng chí biết quá rõ chuyện gì sẽ xảy ra: đó là bản án tử hình mà tôi phải đối diện.

- Thôi, đừng thổi phồng chuyện ở đây. Chúng tôi đơn giản chỉ muốn nói là đồng chí cứ luôn phê bình chỉ trích Mặt Trận. Thái độ đó làm chúng tôi ngạc nhiên. Đã khá lâu, chúng ta đã quen sống tôn trọng Đảng, nghe theo lệnh của Đảng vì những thành quả quân sự và chính trị của họ làm chúng ta tin tưởng cũng như toàn thể nhân dân đang tin tưởng nơi Đảng. Chúng ta được đào tạo không phải để nhìn bằng cặp mắt của mình mà bằng cặp mắt của Đảng. Được trang bị bởi chủ nghĩa Marx Lenin, với kinh nghiệm, với sự giúp đỡ của các nước anh em, Đảng chứng minh rằng Đảng có quyền và xứng đáng với niềm tin mà chúng ta giao phó. Sự khôn ngoan của chúng ta là tự rập khuôn những suy xét của mình theo mẫu mực của Đảng và cho tới nay, chúng ta có quyền hãnh diện đã làm như thế. Vì thế, chúng tôi phải thừa nhận rằng chúng tôi không hiểu được đồng chí.
Về phía tôi, trái lại, tôi hiểu rõ là những nhận định của tôi đã gây sốc cho đồng chí. Vì thế tôi cho rằng số phận đang chờ đợi tôi không phải là cái mà tôi đang mơ ước. Mặc cho dù thế nào, tôi có hai con mắt để nhìn, hai cái tai để nghe. Vì những gì tôi đã thấy và đã nghe làm tôi hãi hùng! Tôi thấy cái tương lai mà chúng ta đang dần đến, và những cái giật mình của lương tâm làm tôi mất ngủ. Để tìm được sự thanh thản trong tâm hồn, tôi đã đi tìm trong những duyên cớ đã gây hại vô cùng cho chúng ta, cái nào là cái cần kíp nhất và đâu là phương thuốc chữa trị hửu hiệu nhất. Tôi muốn lập lại một lần nữa, để mà không ai có thể hiểu lầm tôi và những quan điểm của tôi không bị diễn dịch một cách sai lầm với mục đích để kết án tôi dễ dàng. Tôi chỉ xin một điều là các lãnh đạo, những người theo chủ nghĩa Marx Lenin, cho phép mọi người được quyền mở mồm và nói lên những điều mà họ nghĩ. Các lãnh đạo phải nhớ rằng có nhiều người không dám hé răng, rằng cái hình thức và cái dáng vẻ bề ngoài mang cho họ một niềm hãnh diện, chỉ là một cái mặt nạ để che giấu những ý nghĩ và cảm xúc của họ mà thôi. Lãnh đạo chẳng những phải gạt bỏ những gì không chấp nhận được mà còn phải suy nghĩ đến những chuyện khác còn lại, ngay cả những chuyện cỏn con nhưng nó tố cáo ngược lại những dối trá của những kẻ nịnh bợ hay kẻ vô tâm, và những dối trá làm hại những quan điểm của Đảng.
Trong cuộc đấu tranh nhằm tìm ra sự thật, các đồng chí có một vai trò phải làm. Chính các đồng chí phải tự mình tỉnh cơn mê muội thờ ơ, thoát ra khỏi thái độ im lặng của mình, một khi cáv đồng chí tự mình lắng nghe tiếng nói của lương tâm mà chúng ta đang cố gạt bỏ, ném một sợ giây cứu hộ cho lương tâm đang bị chết chìm. Các đồng chí lúc ấy sẽ thấy đây là vì lợi ích của chính các đồng chí, của Đảng và của nhân dân, mà tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ tái lập quyền tự do tư tưởng. Các đồng chí có trách nhiệm trước nhân dân và Lịch Sử, cũng như Đảng có trách nhiệm của Đảng, như não bộ mỗi người có những trách nhiệm của nó. Tôi xin được phép nhắc lại điều cốt yếu đó với tất cả các đồng chí, với bản thân của từng đồng chí, với Đảng, và với những người trí thức khác. Chắc chắn là tôi sẽ chịu lãnh những hậu quả không tránh khỏi và đau đớn, những hậu quả sẽ xảy ra và sẽ trừng phạt tôi vì đã mong muốn gìn giữ danh dự và tư cách cùa mình.

5   Trận đấu bò lần thứ hai ở Đại Học

Trên đường trở về nhà, trong sự cô đơn im vắng, tôi cố gắng nhớ lại những gì đã xảy trong những giờ qua để rút ra một bài học. Đây là lần đầu tiên xảy ra một cuộc xung đột giữa tôi và lãnh đạo. Đây cũng là lần đầu tiên chủ nghĩa cộng sản lập một phiên toà để xử một trí thức. Cho đến bây giờ, tôi luôn giữ yên lặng, và những cơn thịnh nộ chống lại chuyện này, dù rất hiển nhiên, vẫn được tôi kềm giữ không để chúng thoát ra khỏi riêng tôi. Ngay cả vào thời đỉnh cao của Cải Cách Ruộng Đất, khi những chuyện dã man đã làm tôi đau đớn khi nhìn thấy, bóp thắt tim tôi, tôi đã có sự khôn ngoan và nghị lực để giữ yên tôi lại, dù biết rằng vụ biến động này đang xảy ra cuồng điên trên toàn nước, và tôi cũng hiểu rằng tiếng nói riêng rẽ của một trí thức nhỏ nhoi không thể nào đến được giới lãnh đạo đang dấu mình kín bưng trong một thế giới bí ẩn không thể nào xuyên qua được! Như một nhân chứng nhiệt tình nhưng yên lặng, tôi đã chứng kiến những lỗi lầm tai hại và những sai lầm của nhà cầm quyền, tôi hiểu rẳng tai của họ chỉ để sẵn sàng nghe những lời a dua nịnh bợ chứ không sẵn sàng nghe những lời bình luận chói tai, nhất là những lời phê bình liên tục bị gán ghép mấy từ “phản động”. Được trang bị cho mình sự cẩn thận và sáng suốt, tôi đã vượt qua những vùng biển đầy san hô, và cho đến nay đã tránh được một vụ chìm tàu. Nếu, trong suốt quãng nữa đời người đầu, tôi đã nổ lực vượt qua những con đồi của nền văn hoá Địa Trung Hải, nữa đời còn lại tôi phải cố gắng đứng thẳng trên đôi chân dưới sức ép của chủ nghĩa Cộng Sản. Đây là cuộc phiêu lưu lớn nhất đời tôi, những suy nghĩ, cả trong hành động lẫn cảm xúc, tôi đã bị điều kiện hoá trong những cơn lốc của những vùng gió lốc đầy may rủi. Tôi đã trở nên bén nhạy trong việc thủ thế giữ mình, nhìn trước nhìn sau để tự bảo vệ mình tránh những bước sụp lỗ chân trâu, tránh những trò gian trá hay những cạm bẩy giăng dưới chân. Tôi biết, trong những trí thức, tôi là người đang nằm trong tầm ngắm và đang bị công an theo dõi. Tôi biết có vài “con chó săn” đang ở những căn phòng cạnh nhà tôi để có thể để mắt xem ai là những người đến thăm hay xem chừng thư tín của tôi, nghe ngóng những câu chuyện hay tìm hiểu đài phát thanh nào mà tôi hay thich mở nghe.
Nhưng lần này, tôi bị dính vào một hoàn cảnh mà tôi đã trở thành một nạn nhân của một sự lừa dối mà cộng sản đã tung ra phong trào Trăm Hoa Đua Nở, không phải để giải phóng họ ra khỏi những xiềng xích mà để lật mặt nạ của những kẻ ngây thơ tin rằng đã đến lúc có tự do ngôn luận đáp ứng những ước vọng dân chủ của mình. Không thể nào có chuyện một đảng cộng sản độc quyền chính trị lại có thể tự mình thích nghi được với những tự do dân chủ. Dù với bất cứ thể loại dân chủ nào, kẻ phạm tội đếu phải chịu những trừng phạt tệ hại nhất của kẻ cầm quyền. Chính trong cái ý nghĩa đó mà những “đồng chí” của tôi trong Mặt Trận hiểu đâu là tội của tôi. Hoặc quần chúng có thể nổi dậy tự đưa mình lên đỉnh cao của dân chủ hay họ phải mất hàng chục năm thậm chí hàng thế kỷ để thấu đạt được ý nghĩa và những nguyên tắc của dân chủ, chả gì là quan trọng. Tôi chỉ đơn giản đòi hỏi quyền tự do tư tưởng và chỉ với thế tôi đã trở thành kẻ phản bội, kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản. Lãnh đạo hiểu vấn đề tế nhị của tôi: Nếu người dân bình thường có thể nói ra những điều họ nghĩ gì về những chính sách và quyết định của Đảng, thì không thể nào có cái gọi là nhất trí của họ được. Và, chắc chắn ở trong thời kỳ ban đầu của dân chủ, chỉ trích sẽ nhiều hơn là tán dương. Lúc ấy, chuyện gì sẽ xảy ra cho sự độc quyền chính trị của Đảng, sự mất niềm tin sẽ lớn tới đâu vì những chuyện điên rồ của một số lãnh đạo?
Khi tuân phục chỉ thị của lãnh đạo, các “đồng chí” của tôi bắn được hai con chim với một viên đạn: họ chẳng những đã giày xéo lên tôi, mà còn tự học cho mình cách kết án tất cả những ai có những định nghĩa về dân chủ chệch hướng với họ.
Tôi thật lòng rất tiếc cho các đồng chí trong Mặt Trận.
Tất cả họ là những người đàng hoàng chưa bao giờ xin gia nhập vào một hội đoàn không đàng hoàng. Họ đã được đưa vào với lời mời gọi của lãnh đạo mà chính sách đoàn kết quốc gia là qui tụ mọi công dân trong Độc Lập và Tự Do và cũng để hưởng mọi phiếu bầu của họ. Khuynh hướng chính trị, xã hội, tình cảm, tôn giáo của họ có thể khác nhau nhưng tất cả đếu chung một ước vọng và thông cảm. Một tập hợp người như thế, với những bản chất khác nhau, đa dạng về quan điểm của các thành viên, những người được chỉ định bởi Nhà Nước nhưng không đại diện cho ai, chắc chắn sẽ thiếu nội lực, thiếu phần dính kết và chỉ có thể giữ vai trò phụ mà thôi. Chủ nghĩa hình thức mà người cộng sản không thể thiếu buộc Nhà Nước nằm yên trong một cấu trúc đồng bộ với một cái vẻ bên ngoài dễ thương, nhưng hoàn toàn trống rỗng trong nội dung và thiếu vắng tất cả những kỷ năng, một tổ chức mà nhà lãnh đạo không đòi hỏi gì hơn là vổ tay tung hô những quyết định của mình.

Được triệu tập đến để kết án một trong những đồng nghiệp của mình, các “đồng chí” trong Mặt Trận cảm thấy họ bị sập trong một hoàn cảnh trái khuấy. Trận đầu bò mà họ bị buộc phải chứng kiến không phải là một trận đấu mang lại thích thú. Tôi không biết nỗi đắng cay nào đang làm gương mặt của họ giá lạnh, làm ánh mắt họ không còn nét sáng. Tôi đã có nhiều dịp tán gẫu với họ, và họ biết tôi là ai, họ đã từng tâm sự với tôi, đặc biệt là những vị trong Nhà Thờ Công Giáo và các Chùa Phật Giáo rằng chủ nghĩa duy tâm không thể nào thích hợp với chủ nghĩa duy vật vô thần của cộng sản. Những lúc còn kháng chiến chống Thực Dân, ở Phát Diệm, xung đột giữa người Công Giáo và những người cộng sản đã đưa đến máu của người đứng đầu trong huyện phải đổ. Sau đó, Liên Tôn Diệt Cộng là một phiên toà gây xúc động mạnh ở Thanh Hoá, chỉ một thời gian ngắn trước trận Điện Biên Phủ.
Trong những thành viên của Mặt Trận và của Đảng, ai cũng biết phía đối phương muốn gì. Vì thế, những thành viên Tôn Giáo của Mặt Trận như trên giàn lửa: quần chúng không thể hiểu họ, xem họ như những kẻ phản đạo, bội giáo vì họ đã đứng chung với cộng sản. Ngược lại, những người cộng sản thay vì tỏ ra tin họ, thì lại nghi ngờ họ đang có những hành vi thù địch tiềm tàng ẩn dấu. Trong những buổi họp của Mặt Trận ở trụ sở Trung Ương trên đường Tràng Thi, không có gì làm tôi thích thú hơn là được quan sát những điệu bộ đang xảy ra trước mắt và những nụ cười giả tạo nơi này nơi kia. Và họ đang ở đây, được gọi tới để giáng một cú chết người lên cái tên trí thức ác ôn mà số phận cũng y chang như họ, giống họ, không được ngửi mùi thánh thần của Đảng vì những khát vọng dân chủ của nó, xử và kết án nó. Họ càng hiểu là họ đang xử và kết án chính mình. Sự vô nhân đạo của Đảng xảy ra như Pontius Pilatus [*]: sự rửa tay chối tội về chuyện tôi bị đồng nghiệp tôi xử và kết án, và màn hài kịch đã tái diễn ở Đại Học và ở Đảng Xã Hội, trong trận đấu bò lần hai và lần ba. Và với một hòn đá, Đảng đã ném trúng hai con chim: kẻ phạm tội bị trừng phạt, và những kẻ đưa ra trừng phạt phải rút bài học cho chính sự an nguy của mình. Không bỏ một cơ hội nào để giáo dục quần chúng.

Tất cả những suy nghĩ đó đến với tôi trong đêm đầu tiên sau trận đấu thứ nhất ở Mặt Trận Tổ Quốc. Ngày kế tiếp, tôi lại phải đến có mặt ở Đại Học cho trận đấu thứ hai. Con bò tót không được phép ngưng để thở. Những kẻ đấu bò đủ mọi vai trò thay phiên nhau chọc, khủng bố con vật trong lúc chờ hạ thủ cú giết cuối cùng. Mặc dù thế, tôi vẫn không cảm thấy mất can đảm hay tuyệt vọng, hay kể cả mệt mỏi. Tôi phải qua những phiên Toà mà không ai nghĩ là có cho đến ngày hôm nay. Dưới cú đánh, tôi có thể đo lại sức chịu đựng của mình, và sự tò mò đã giúp tôi vượt qua những ức chế! Bất chấp các “đồng sự” đang lay động tấm vải đỏ (đấu bò), tôi đang ở tâm trạng một kẻ tấn công.


Với tâm trạng đó tôi đã đến Đại Học.
Khi nhìn thấy vô số xe đạp đang để kín sân trường, tôi chắc số lượng người đến rất đông. Khỏi cần phải tự hỏi. Khác với lần thứ nhất, trận đấu bò lần hai được mở cho công chúng: bất cứ ai cũng có thể đến xem. Hàng ngàn sinh viên, ban giảng huấn của nhiều Phân Khoa, kể cả phân khoa Y và Dược, các phóng viên được hấp dẩn đến để chứng kiến cái chết của một trí thức khá nổi tiếng ở Hà Nội, thêm một đám người tò mò và nông dân đang tập trung ở hành lang, dồn cứng các phòng đến nỗi như không còn không khí để thở và chuyện di chuyển đi lại xem như là không thể được! Lần này, các quan toà không ngồi sau các bàn mà thay phiên nhau đứng trên cái bục giảng, chỗ mà trong thời trước.
Tôi tự hỏi cái động cơ nào mà khiến cho họ tổ chức một hoạt cảnh hoành tráng như thế? Khi mà những yêu cầu cuối cùng xảy ra sau hậu trường được nói ra, bởi những người điều khiển cho những kẻ lo buộc tội, tôi tin rằng tôi đã thấy ra lý do tại sao có một sự công khai ồn ào như thế. Lý do là cho hai mặt: một mặt cho cá nhân người bị kết án, một mặt là cho quyền lợi của những người xử án và những người đến nghe.
Tôi nhớ, trong mười năm bí mật kháng chiến, mỗi tháng tôi đều đi về các tỉnh để bào chữa miễn phí cho những người bị kết án (nhưng không có tiền thuê luật sư) trong những phiên toà có khi quan trọng và kéo dài suốt đêm. Trong ngày, những cái loa, loan báo khai mạc phiên toà vang xa trong vòng 10 đến 20 km. Những kẻ tò mò phải đạp xe hàng chục cây số để đến xem màn trình diễn hiếm hoi, nhiều khi là duy nhất ở nơi họ ở. Những cái chuông xe đạp thật ầm ĩ đinh tai nhức óc. Những kẻ qua đường, đàn bà, trẻ con, thanh niên nam nữ đi thành từng hàng băng qua những cánh đồng, mỗi nhóm mang theo một cái đèn nhỏ. Đấy là một ngày hội phải đi dự.
Ở Hà Nội, báo chí, đài phát thanh, những cái loa được đẩy hết công suất để chọc vào tính tò mò của mọi người. Tên của kẻ bị kết án cũng đóng góp khá nhiều vào chuyên ấy. Vì thế, tôi hiểu rằng lần đấu tổ chức ở Mặt Trận đã có ý định cách nào đó muốn giữ sự nhạy cảm của tôi bằng cách làm trong yên lặng và kín đáo hợp với Mặt Trận. Lần này, với mục đích làm như một vụ tai tiếng nổ lớn ngay từ lúc mở màn để kéo thanh danh tôi xuống bùn, thuyết phục tôi tính nghiêm trọng của cái mà tôi đã phạm, và để biện minh trước cho cái trừng phạt mà họ sẽ áp dụng cho tôi.
Cùng một lúc, họ cũng có ý định dằn mặt quần chúng, “giáo dục” những người này trong hướng phải tuân phục vô điều kiện những chỉ thị và những quyết định của Đảng, và chấp nhận sự chính thống của cộng sản. Bất cứ vi phạm nào đối với nguyên tắc linh thiêng này đều bị trừng phạt hết sức nặng nề, không kể bất cứ những đóng góp xuất sắc nào của kẻ vi phạm cho Tổ Quốc và cho Cách Mạng.
Dưới chân cái bục giảng, nơi mà tôi đã qua những giờ phút đẹp nhất trong đời, nay cũng nơi ấy tôi lại phải chịu những khoảnh khắc tệ hại nhất trong cuộc đời của tôi. Thật vậy, tôi hiểu ra là chuyện được xếp đặt không chỉ để trừng phạt tôi, à quên, xin lỗi là để “giáo dục” tôi, nhưng tất cả là để làm bẽ mặt và hạ nhục tôi bằng hai cách: buộc tôi đứng với tư cách của một kẻ tội phạm, phía dưới bục giảng nơi mà tôi thường đứng đó trong những ngày huy hoàng và buộc tôi phải nghe những lời thoá mạ thậm tệ và những công kích kịch liệt, không phải từ những đồng nghiệp của tôi như trong trường hợp xử tôi ở Mặt Trận, mà từ những khuôn mặt trẻ mới không biết từ đâu đến và có vẻ là sinh viên hay đã từng là trong đám sinh viên của tôi. Tôi không bận tâm lắng nghe những lời điên rồ láo khoét từ những kẻ đang chỉ trích tôi, tôi hoàn toàn quên đi cái ngoại cảnh nơi mà họ đang tiến hành vỡ kịch và đang cố cắm một những mũi tên xuyên qua người tôi, và tôi tự để suy nghĩ của mình trở về thời Cải Cách Ruộng Đất, những ngày mà những địa chủ bị đấu tố, chịu những sỉ nhục và bị xem như là những kẻ thù của nhân dân và cách mạng, y chang như tôi hiện bây giờ.
Nhưng tôi được hưởng một sự đãi ngộ mà tôi rất cám ơn những kẻ đang hành hạ tôi: họ chỉ tra tấn tôi bằng ngôn từ của đạo đức và tránh cho tôi những đớn đau về thể xác. Tôi chưa bị nhốt kín trong tù, tôi chưa phải mặc trên người những bộ đồ lấm lem bùn đất vì phải ngủ trên sàn đất cứng, tôi chưa phải chịu ngữi những mùi gớm ghiếc của những con vật bị nhốt chung chuồng, tôi chưa bị kéo lê thân mình với vòng xích trên cổ và bị cột ở hai cổ chân, dưới những tiếng la ó và khạc nhổ của đám đông đang hận thù chất ngất. Không, tôi được sống cuộc đời bình thường với gia đình.
Nhưng những tra tấn nhục nhã mà tôi phải gánh chịu không chút nào ít hơn những tra tấn nhục nhã mà những địa chủ bị đoạ đầy trước khi bị giết chết.
Chỉ mới hôm qua, trước ngày những người cộng sản tràn vào các nơi, truyền thống của cha ông ta là dạy học trò phải biết kính trọng Thầy mình, thương yêu và kính trọng Thầy còn hơn cả cha ruột. Cái vinh dự được giao phó là chăm lo đào tạo con người, sao cho được đơm hoa kết trái, đã là khuôn thước do tâm hồn và cách sống của các Thầy Cô. Họ có trách nhiệm với chính mình, với các học trò và cả xã hội. Điều đó đã nuôi dưỡng tâm tánh thuần khiết của Thầy Cô. Những sách dạy của tổ tiên về đạo đức con người được cả thế giới công nhận nay bị ném vào giàn lửa. Đạo đức không còn được dạy trong trường, và ở thời buổi này, người ta dạy trẻ nhỏ nhục mạ Thầy Cô. Chủ nghĩa Marx-Lenin đã thay thế đạo đức trong việc dạy dỗ con người, sự còi cọc chỉ cho ra những loài hoa độc: sự vô đạo đức sản sinh ra thói cay độc yếm thế, tội phạm tăng trưởng cả bề rộng lẫn bề sâu, cả xã hội từ này phát ra những mùi thối tha mà từ trước đần nay chưa hề có. Cộng Sản kịch liệt chối bỏ là không phải nhà nước muốn như vậy, và cũng như mọi người, nhà nước cũng phàn nàn về chuyện xảy ra như thế, nhưng cộng sản không thể chối bỏ trách nhiệm về việc đạo đức bị xuống cấp vì những đường lối chính trị và một cơ cấu xã hội do họ đã đưa ra.

Tôi không nhớ, và cũng chẳng muốn nhớ, tên và nét mặt của những thằng nhãi ranh, kẻ nhận lệnh và được điều khiển bởi kẻ cầm quyền, ném những lời tấn công xúc phạm đến danh dự của tôi, như một người đi đường phải dừng chân cúi xuống để đuổi một con chó đang sủa dưới chân mình. Dù sao, những tên cục súc kia đáng thương hơn là đáng chê trách, chúng nó muốn được hưởng những ban bố của các ông lớn và để có một con đường tương lai trong cuộc sống. Tôi sẵn lòng tha thứ cho chúng, nói một cách chi tiết hơn, với những tư cách như thế mà đổ đống lên tôi thì cũng chẳng làm cho hại cho uy tín mà tôi được các bạn đồng nghiệp và quần chúng dành cho. Tôi đang chờ cái ngày mà, - cũng sẽ tới thôi -, Đảng phải nhận là mình sai lầm về những gì mà họ làm trong Cải Cách Ruộng Đất. Tôi tự an ủi và cho rằng nhân dân sẽ không xử kẻ đã tội phạm thượng đến Đảng cùng một cách như những kẻ cuồng si cộng sản đang mơ tưởng một tương lai huy hoàng, cuồng nhiệt lẽo lự trên cửa miệng và dung bản chải để đánh bóng mình. Tôi cảm thấy hạnh phúc hơn những địa chủ vì đã không bị chính những con của mình đổ lên cha những lời kết án theo lệnh đến từ trên rất cao.
Tôi khinh thường quá sức những kẻ gièm pha đến nỗi không trả lời những tấn công của họ. Tôi chỉ tiến hành trả lời hai người: một là một sinh viên của tôi, còn người kia là một giáo viên tiểu học được nhận làm giảng viên ở Đại Học, và những vấn đề họ nêu lên cũng đáng được xem xét.
[*] Pontius Pilatus: kẻ giết Chúa Giê Su.

8    Trận đấu lần thứ ba tại Đảng Xã Hội Việt Nam

Nếu những người tổ chức cuộc đấu tố ở Đại Học hy vọng là tôi sẽ bị sỉ nhục, mất thanh danh thì họ đã lầm. Ngoại trừ một ít gián điệp, chỉ điểm đang lẫn lộn trong đám đông, cũng như thường lệ trong những cuộc họp quần chúng khác, đại đa số đều đứng về phía tôi, dành cho tôi những cái nhìn đầy thiện cảm, những cái nhìn thật làm tôi ấm lòng. Không ai dám biểu lộ tâm tình của họ một cách nào khác, dù là vài cử chỉ hay lời nói, vì họ sợ bị công an điểm mặt và sẽ bị phiền phức. Chủ nghĩa chính trị cực đoan đã thất bại cay đắng và lãnh đạo đã rút một bài học.
Chính vì thế mà trận đấu ở Trụ Sở Trung Ương của Đảng Xã Hội được xảy ra, nếu tôi nghĩ đúng, là trong vòng riêng tư. Chẳng có gì bất thường đến cuối ngày. Chuyện khác thường trong cảnh riêng tư này là nó không giống như lần ở Đại Học, hôm mà những con rối đã được nhận chỉ thị và những thông tin nhằm để đấu đá tôi, được có ghế ngồi và tung những lời buộc tội. Trong phòng họp, chỉ có tôi và ba người xử ngồi sau một chiếc bàn phủ khăn xanh. Tôi ngồi đối diện với họ trên một cái ghế. Tôi có cảm tưởng là đang trở về với lúc đang bảo vệ luận án Tiến Sĩ, hay đang là thí sinh của một lần thi nào đó. Trong thực tế, tôi sớm nhận ra là tôi đang đứng trước một phiên toà của Đảng được triệu tập để bí mật xét xử một đồng chí đã phạm một tội trọng, một chuyện tai tiếng đã làm nhơ bẩn Đảng, và gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Năm 1951, trong thời kỳ bí mật kháng chiến, Đặng-Châu-Tuệ, một đảng viên Cộng Sản, đến hỏi tôi và một người khác là Bác Sĩ Nguyễn-Xuân-Nguyên, nạp đơn xin gia nhập vào hàng ngũ của Đảng. Những tư cách và hành động của chúng tôi đã được trên cao lưu ý. Khi mà những người cộng sản rất thích chủ nghĩa hình thức và luôn bị ám ảnh bởi chuyện tập thể hoá con người như là những vật sở hữu, xếp mỗi người tuỳ theo tuổi tác, nam nữ, nghề nghiệp để đưa họ vào những tổ chức quần chúng, để giáo dục và dễ dàng quản lý. Một mặt khác, họ không cho phép trí thức được hưởng tự do cá nhân, họ muốn kéo trí thức vào Đảng, vào những vị trí cao và vị trí lãnh đạo, để họ hãnh diện. Thật vậy, vào thời ấy, những kẻ tham vọng, cơ hội chủ nghĩa, mơ ước được đứng vào hàng ngũ cộng sản đã làm nhiều cử chỉ hạ cấp để được chiếu cố dưới mắt của những kẻ tuyển dụng. Hơn nữa, cũng trong thời kỳ đó, khá nhiều trí thức nhận thấy tính hẹp hòi không thể chịu được của lãnh đạo, và tính ngoan cố của họ đã bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về Hà Nội và ở đó họ đã bắt đầu một chân trời mới khá hơn. Hậu quả là mặc dù không ai bảo ai, Bác Sĩ Nguyên và tôi cho rằng việc dành cho chúng tôi cái “vinh dự” chỉ là một hành động chứng tỏ họ nghi ngờ chúng tôi, muốn đưa chúng tôi vào vòng kềm toả chặt chẽ hơn qua sự kiểm soát chặt của chi bộ Đảng và ngăn ngừa chúng tôi có có những ý nghĩ toan tính đó. Cả hai chúng tôi đều từ chối lời mời ấy. Nhưng lãnh đạo không chấp nhận cho chúng tôi đứng ngoài tổ chức. Họ đề nghị chúng tôi gia nhập đảng Xã Hội. Cuối cùng, để được yên thân, chúng tôi chấp nhận đề nghị. Thật không khôn ngoan nếu mình tỏ ra chống đối bằng khẳng định và rõ ràng từ chối ý muốn của Đảng, nhất là trong thời kỳ bí mật kháng chiến, có nhiều cặp mắt vô hình đang theo dõi mọi hành động chúng tôi. Rủi ro quá lớn.
Nhưng đảng Xã Hội mà chúng tôi gia nhập là cái gì? Theo ý kiến riêng cá nhân của tôi, đây là chỗ tập trung một số trí thức, một số rất nổi tiếng như ông Nguyễn Xiển, một cựu giáo sư có Cử Nhân Toán, ông Hoàng Minh Giám, trước đây tốt nghiệp ngành Giáo Dục và đã dạy ở một trường tư thục tên là Thăng Long. Dường như cả hai đã được liên lạc trong thời kỳ bí mật kháng chiến. Vì vậy, trong những ngày đầu tiếp theo Cách Mạng (tháng 8, 1945) Nguyễn Xiển được giao trách nhiệm làm Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Chính Bắc Bộ, Hoàng Minh Giám thành phụ tá cho Hồ Chí Minh và sau đó được đưa làm Bộ Trưởng Ngoại Giao của Việt Nam. Tôi chỉ biết sơ là họ ở trong một đảng thuộc cánh tả, trong đoàn Đại Biểu Quốc Hội lần thứ nhất, họ đã làm cho mọi người chú ý bởi họ đều mang cà vạt đỏ trong suốt kỳ họp. Trong thời bí mật kháng chiến, tôi được biết cái đảng này, được trang hoàng với cái tên “Xã Hội”, đã tập trung một số trí thức trong số những người tham gia kháng chiến tự xưng mình là thuộc đảng trí thức mặc dù một số người gia đầu tiên gia nhập lại là nhưng người mà tôi có dịp gặp trong những vụ án mà tôi được chỉ định là luật sư miễn phí, họ chỉ là những người lao động chân tay không hề có cái gì gọi là trí thức. Trở về Hà Nội, ngoài tổ những người dạy học, đa số là giáo sư Trung Học, còn có tổ bác sĩ y khoa và dược sĩ, và tổ thứ ba là kỷ sư và chuyên viên kỹ thuật, cùng với tổ thứ tư tuyển chọn những thợ thủ công và những viên chúc nhà nước hạng thấp cho từng khu, và cuối cùng là tổ thứ năm gồm những luật gia, những người đã tốt nghiệp trường Luật ở Hà Nội, với đa số trong họ là những quan lại bổ nhiệm ở các tỉnh trước khi được cải biên qua nghề quan toà trong ngành Tư Pháp Việt nam.
Trước vụ án Trăm Hoa Đua Nở, cuối cùng đã biến thành một cuộc tai biến lớn cho giới trí thức, cái mác “Trí Thức” vẫn được xem là có giá. Đảng Xã Hội thường tự cho mình là cao hơn đảng Dân Chủ là đảng bao gồm những “tư sản”, những kỹ nghệ gia, thương gia đã từ bỏ niềm tin quá khứ, đã hiến dâng tài sản cho Nhà Nước, và giữ những ghế trong Mặt Trận Tổ Quốc. Có phải sự xuất hiện của nhiều đảng như thế có nghĩa rằng cộng sản đang thực hiện dân chủ?
Than ôi, chẳng có chuyện ấy đâu. Trong lãnh vực này, cũng như trong những lãnh vực khác, chúng nó bịp bợm một cách đáng xấu hổ, làm quáng mắt nhân dân, và chúng đã tiến quá xa trong nghệ thuật hoá trang và đóng vai giả mạo người khác. Trong cái nhìn đầu tiên và trong những cuộc mít tính trước công chúng, đảng Cộng Sản tỏ vẻ kính trọng hai đảng anh em kia, nhưng cao trên tường, là hai cán cờ đan chéo, một là cờ của Liên Xô với búa liềm và một là cờ đỏ sao vàng của Việt Nam, và trên đó là hình của bộ ba Marx-Lenin-Stalin, và ở dưới nhô ra tượng của Hồ Chí Minh bằng thạch cao đang nhìn cảnh tượng của những nụ cười qua lại, vô số những cú cúi đầu chào nhau giữa ba đảng với nhau và cho thấy cái vẻ rất đoàn kết giữa ba người làm quần chúng rất ngưỡng mộ.
Không có gì còn có ý nghĩa hơn: phông cảnh dàn dựng, sân khấu, thứ tự ưu tiên. Trên đỉnh cao là ba vị thần Marx-Lenin-Staline tiêu biểu cho chủ thuyết Cộng Sản. Dưới nữa là cờ hai nước, và, dưới nữa là lãnh tụ nước. Trên đỉnh cao của khối tháp, trên ngai vàng là chủ thuyết chính trị của quốc tế vô sản nó đang cai trị các nước và các dân tộc. Người ta có thể tranh cãi lâu dài trên những nguyên tắc, chơi với câu cú từ ngữ, ầm ĩ cãi cọ, tung vào nhau những cú đấm qua bài viết, chuyện đấu chữ láp dáp có thể kéo đền muôn đời, nhưng trở về trên cơ sở những sự kiện thì việc dẫn ra câu kết luận là không thể bác bỏ được. Ở Việt Nam, trong tất cả những buổi mít tinh công cộng, việc dàn dựng như vừa nói trên là những chứng cứ cho thấy độc quyền chính trị trên tất cả những sinh hoạt khác của con người. Nó đặt dưới quyền lực tuyệt đối của nó mọi quá trình suy nghĩ và mọi bước đi của linh hồn, một thứ quyền lực đang khống chế toàn diện mọi diễn đạt biểu lộ của con người, nó đặt ra một hệ thống giá trị và buộc mọi người phải tuân theo mà theo đó vô sản quốc tế đã biến chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa cá nhân của nhân dân thành nô lệ.
Văn hoá cộng sản đào tạo ra con người cộng sản chỉ có lời thề nhân danh Marx và Lenin, chĩ biết tin vào Đảng, người nắm giữ Sự Thật, biểu hiện một chủ nghĩa cực đoan làm cho họ không còn biết gì đến những hiện tượng và những chuyện thưc tế đang xảy ra. Họ đã trở thành những con người với những tình cảm thật lạ lung xa lạ và bị người đời kết án. Bất cứ tiến bộ chính trị nào của họ cũng bị trả giá bằng một sự thụt lùi về trí tuệ và lòng dân.
Cũng như thế, mọi bước tiến của vương triều quốc tế vô sản cũng đồng thời là một bước lui cho bản sắc của dân tộc. Điều tuyệt vời mà ai quan sát cũng thấy là cả dân tộc, trước đây bị vướng vào vết lún của phong kiến, nay lại rơi vào vòng kẹp của các nước anh em và phải tung hô những khẩu hiệu của chủ nghĩa công sản. Về phía nhân dân, họ hoan hô tán dương thành quả của những người kháng chiến, trong thời kỳ bí mật và tán dương những người rao giảng sau ngày Cách Mạng thành công, thì cũng có nhiều người khác còn nghi ngại về những chuyện sai trái của đám vẹt. Nhưng dù sao, cũng nên tự hỏi về mức độ thành tín của quần chúng nổi dậy, đặc biệt là giai cấp nông dân, khi họ phát biểu niềm tin mới. Chuyện này đã thấy trong thời kỳ hợp tác hoá ở nông thôn. Nếu giai cấp nông dân càng hoan hô Đảng trong thời Cải Cách Ruộng Đất, trừng trị giới địa chủ và chia nhau những mãnh ruộng của họ, thì họ lại càng ngần ngại gia nhập vào những hợp tác xã nông nghiệp, nơi mà họ không chút gì hăng hái làm việc, lại càng thờ ơ về năng suất, điều này có thể xem như một sự phá hoại công khai! Nếu tiểu tư sản thành phố biểu lộ một cảm tình nồng nhiệt đón mừng Chính Phủ Kháng Chiến trong ngày họ tiến vào Thủ Đô, họ cũng cảm thấy cay đắng khi chuyện tập thể hoá các căn phố, tước bỏ khỏi họ những phương tiện sinh sống, làm cho một vài chủ nhân nhỏ rơi vào cảnh thiếu thốn cơ cực đến mức tự ném mình vào sông Hồng để tự tử. Một số trí thức sẽ nói gì, khi mà họ, những người ngay khi vừa mới vào Đảng, đã kêu gào như thể mình là những người cực kỳ cộng sản hết lòng căm thù chống bọn xét lại đủ cả mầu sắc và, nói một cách chung, là tất cả những kẻ hôm nay bị nghi là dị giáo, nhưng biết đâu một vài chục năm sau, có thể đột ngột thay đổi tư duy và đắm vào đúng những tội lỗi năm xưa mà họ đã trừng phạt một cách hăng say cay độc?
Trên cơ sở những sự kiện mà sự thật không ai có thể chối bỏ, người có thể cho phép mình tự hỏi cái nhiệt tình của kẻ tín đồ mới có đủ sâu, đủ thực như người ta tưởng như thế không?
Đó là cái ngơ ngác kinh hoàng khi người ta nhìn thấy bạo lực nhân dân đã xảy ra tràn ngập các nước Đông Âu. Những kẻ cuồng tín chai sạn nhất bắt đầu cảm thấy những nghi ngờ làm lòng mình kinh hãi khi họ thấy nước Liên Xô vĩ đại đang lung lay sụp đổ, mà đó là lại nước sớm nhất đã dạy chủ nghĩa Mác Lê cho thế giới. Chủ nghĩa hoài nghi càng lớn mạnh khi người ta nghe chính những tay giáo điều mới hôm qua còn hô hào cỗ võ cho một tương lai xã hội chủ nghĩa, thì hôm nay lại gọi chủ nghĩa xã hội với những nhóm từ mà trước đây họ dùng để kết án chủ nghĩa tư bản: kinh tế thị trường với tự do cạnh tranh, luật cung cầu, xí nghiệp tư doanh … Họ tự hỏi với mình là làm sao phân biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, tại sao cùng một thứ câu chữ mà ý nghĩa lại đổi thay một cách nhanh chóng kỳ diệu như thế? Họ lo lắng là vẫn còn một số ít nước vẫn còn bám víu vào thứ chủ nghĩa xã hội mà số lớn các nước “anh em” đã quay lưng chối bỏ, như một cơn ác mộng cần phải quên một khi đã thức. Về phía dân chúng, họ cũng kinh hoàng khi thấy đâu cũng tràn ngập những tội ác đã nhấn chìm một số lớn người của Đảng đang cầm quyền mà bộ mặt đạo đức giả đã bị phơi bày trần trụi.
Nhưng, vào năm 1956, cộng sản Việt Nam đang trên đà vinh quang và tự hào với những niềm vui chiến thắng. Đặc biệt là trong khía cạnh đạo đức, Đảng cầm quyền vẫn còn giữ được mình trong sáng, được nhân dân vinh danh, kính trọng và tin tưởng. Nó cưng chiều bao trùm với cặp mắt đầy thoả mãn hai đảng Xã Hội và Dân Chủ, hai đứa con được sinh ra từ cái tội lỗi dễ thương của chủ nghĩa hình thức, để chúng làm hết khả năng hầu chứng tỏ đạo làm con trung hiếu với người cha sinh thành ra chúng. Đảng đã sinh ra, nuôi dưỡng chúng với những giọt máu đỏ tốt nhất của mình, cho chúng những căn nhà đẹp nhất, cho người phục vụ chúng, và đặc biệt nhất là giúp chúng sống cuộc đời vương giả bằng cách chu toàn mọi tiền bạc để chúng sinh hoạt. Tất cả chỉ để duy nhất yêu cầu chúng thay Đảng đóng tuồng, gây ít nhiều tiếng vang cho Đảng.
Nhưng trò đùa đó không đánh lừa được một ai, ngay cả trong hay ngoài nước. Tính đa đảng tiêu biểu cho một nến dân chủ không có ở đây. chỉ có bức tranh biếm hoạ được sinh ra bởi những ý nghĩ kỳ quặc của chủ nghĩa hình thức tưởng rằng đã đánh lừa thiên hạ mà thật ra là tự mình đánh lừa mình mà thôi. Trò chơi kéo dài trong nhiều năm, đã làm cho lãnh đạo tách mình riêng thoả mãn sống đời phúc đức. Những món tiền kếch xù được tung ra xài cho những chuyện đó và tới lúc công quỹ quốc gia sẽ phải lên tiếng kêu cầu cứu sau khi đã thắt lưng buộc bụng cho tới đồng xu hào cuối cùng! Duy trì hai người bà con đáng thương kia tốn rất nhiều mà chả được tích sự gì, nên đã có quyết định là đá chúng đi, và chúng đã biến mất không kèn không trống, như những kẻ ăn mày xấu hổ lỉnh đi với những cái bát xin ăn từ nay sẽ trống hoác.
Người dân rồi cũng biết trong bầu không khí ngập tràn yên tĩnh và tôn kính, nơi mà bọn ký sinh ăn bám xã hội đang đòi hỏi những kẻ lợi dụng nó phải biết thần phục và ngoan ngoãn, đã xảy ra chuyện điên rồ của một anh trí thức “xã hội chủ nghĩa” mà hậu quả là như một quả bom của bọn khủng bố. Vụ tai tiếng quá lớn để có thể dấu diếm hay chẹt dấu nó dưới thùng gạo. Đưa kẻ tội đồ ra xử trước thẩm quyền của Mặt Trận và của Đại Học là nơi mà nó sinh hoạt cũng chưa đủ; nó phải được giao cho đảng Xã Hội mà nó là một đảng viên xử tội, bất kể nó muốn hay không muốn. Rõ ràng là đang có một yêu cầu cấp bách và cần thiết là tất cả những tổ chức mà nó là thành viên, phải tẩy chay và thẳng thừng loại bỏ nó như một người xấu một cách không thương tiếc, để giáo dục nó cũng như giáo dục những người khác.
Vì thế, trận đấu tố lần thứ ba này được tổ chức tại trụ sở trung ương của đảng Xã Hội. Khác với hai lần trước, không có đám đông tham gia: trong yên cảnh tranh tối tranh sáng của hoàng hôn đang xuống, tôi phải một mình đối diện với các quan toà, với người thẩm phán gốc quan lại mà tôi vừa tả trong phần trước đây, một thẩm phán thuộc Toà Án và một luật sư, cả ba đều thuộc về cho chi bộ Luật Gia mà tôi cũng là một thành viên. Ba người như ba bóng ma trong một cái địa ngục yên lặng cô quạnh đang chờ đợi với một sự kín đáo không ngờ. Tôi thật sự ngạc nhiên và tự hỏi mình vì sao thế. Có phải tại vì thương hại mà người ta muốn cho tôi bớt nhục nhã? Thật sự tôi không thấy là chủ nghĩa cộng sản lại có những đức tính đó, dù là tự nhiên hay được dạy, mà trái lại họ trốn biệt sau lưng sự lạnh lùng dửng dưng, không chút rộng lượng khoan dung đối với những lỗi lầm chính trị đã gây ra những thiệt hại, dù là nhỏ nhoi, cho quyền lợi của họ.
Cuối cùng rồi tôi cũng hiểu ra vì sao có sự thay đổi về tấn tuồng như thế, nó đi với vấn đề dàn dựng và với các kịch sĩ trên sân khấu. Tôi được biết rằng hai lần đầu tố ở Mật Trận và ở Đại Học đã gây hậu quả trái ngược với những gì họ chờ đợi. Tôi đã thoát hai lần đó, không những không bị sỉ nhục và phải đấm ngực thú tội mà còn được tiếng thơm của một kẻ chiến thắng đã biết gìữ vững vị trí của mình, băng mình qua cuồng phong bảo tố để bảo vệ quan điểm của mình đối mặt với những tấn công nhắm vào nó. Người ta đã chờ đợi kẻ phạm tội thành khẩn hối lỗi và nhận thức tội lỗi của mình để hắn có thể giữ lại được chỗ của mình trong Nhà Nước. Nhưng tôi đếch cần để ý đến những lời hiểu ngầm đầy hăm doạ, đến chiếc đao đang treo lơ lửng trên đầu, tôi là một trí thức, với đủ cách lý luận và khôn khéo, đã thọc ngón tay vào vết thương và đã mở mắt cho những kẻ hèn nhát quá sợ chủ nhân trả thù trừng phạt, run sợ trước tù đày và sợ mất quyền lợi của mình và người, tự đâm lủng con ngươi, xuyên lủng màng nhĩ để không phải nghe, không phải thấy bất cứ gì về sự thật. Vì thế họ cảm thấy cần phải tránh không cho quần chúng tham dự và nghe được những lời tự bào chữa mà dường như đã trở thành những lời buộc tội.
Tôi cũng được biết rằng, nếu đã có vài chục trí thức không được mời, có ba luật gia cùng từ chức: Đinh Lộ, Vũ Như Giai và Nguyễn Hữu Đắc, và nếu lần này họ không làm công khai vì họ không muốn làm giới trí thức lưu ý, là vì cuộc tranh cãi giữa những quan toà và bị cáo đã mở ra cuộc tranh luận về thái độ của người trí thức sống trong thế giới cộng sản và đối mặt với chủ nghĩa cộng sản. Những người đến xem không được vào để biết những điều mà họ chưa bao giờ để ý đến từ trước đến nay.
9  Thái độ của người trí thức trong thế giới cộng sản

Viên thẩm phán chủ trì phiên toà là người mà người đọc biết khá rõ là ai, mở màn đợt tấn công. Với cái nhiệt tâm của một kẻ “không-thuộc-đảng-nào” đang mong muốn được chuộc lại cái quá khứ tai hại của mình, với ánh mắt toé lửa, thoả mãn được có dịp tấn công một trí thức mà vị thế xã hội của người đó đã làm cho ông ta ganh tị. Ông ta chuyển giọng giận dữ điên tiết:
- Đồng chí, ông đã đạt những thành công chưa từng có trên con đường Đại Học, đã được lòng tin của lãnh đạo của chúng tôi và ông đã được đưa vào trung ương của mười tổ chức quần chúng, ông còn tham vọng gì nữa chứ? Học sinh và sinh viên không hề quên những bài giảng của ông cũng như họ không hề quên hành động mà ông đã từ chức ngay tức khắc khi tay thanh tra thực dân đến gây khó cho ông, và sau đó quay lại hành nghề luật sư mà ông đã tuyên thệ vào năm 1932 ở Pháp, nhanh chóng đạt được sự tin cậy của thân chủ, và từ đó giành được một vị trí nổi bật trong xã hội. Chúng tôi cũng biết rằng trước khi gia nhập bí mật kháng chiến, ông đã hiến tặng toàn bộ ba căn nhà thừa kế của gia đình, và suốt mười năm trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân trong vai trò vừa là giáo sư vừa là luật sư ông đã cống hiến rất nhiều cho Đất Nước. Đáng lẽ ra ông nên tiếp tục hưởng niềm hạnh phúc của một cuộc sống rất đầy đủ về mọi mặt, không cần xen vào những chuyện đấu tranh chính trị mà ông đã tự đưa ông vào thế đối nghịch để giáng những cú đánh vào Đảng là người đã luôn nuông chiều và đưa ông lên những vị thế làm nhiều người khác ganh tị. Đó là một sự phủi ơn, chỗ này thì tôi không thể lầm! Có bao giờ ông suy nghĩ về một thái độ đúng đắn mà ông phải có đối với những người công sản chúng tôi đang bị kẻ thù tấn công trên mọi mặt trận? Ông phải biết rằng thái độ mà ông đang có là đã làm hại cho ông và hơn thế nữa đã làm hại cho một Đảng đã làm nên những chiến thắng vĩ đại đáng được nhân dân vinh danh, kính trọng và ca ngợi.
Đó là lời buộc tội mà tôi là đối tượng và được đưa ra dưới hình thức những câu hỏi. Cho phép tôi được tóm tắt và cô đọng những đề tài buộc tội chính để có thể dễ dàng đưa ra những nét chính. Mặt khác, cũng xin cho phép tôi được tóm tắt và trình bày những nét chính về những trả lới của tôi để mọi người có thể dễ dàng nắm các ý.
Thưa đồng chí, tôi tin rằng ông sẽ không phiền lòng khi tôi cho rằng ông đã có một nhiệt tâm rất thành thực, ít ra tôi cũng mong là như thế, xây dựng Đảng. Thật ra những vinh dự mà Đảng đã hoang phí ban cho tôi cũng chẳng đáng chi so với những gì mà Đảng đã dành cho những ai hết lòng hết dạ với Đảng. Tôi đã bị loại ra khỏi uỷ ban trung ương của hơn chục tổ chức quần chúng mà chắc ông cũng như tôi đều biết, đó là những chức vụ hoàn toàn có tính lễ nghi, không hiệu năng mà cũng chẳng có thực quyền, đó chỉ là những chức vụ mà tôi là chỉ kẻ dư thừa, trong tinh thần của Mặt Trận Tổ Quốc để làm kẻ đi rao giảng cổ vũ cho sự đoàn kết và hoà hợp, ủng hộ Đảng một cách không sai chạy và toàn diện. Về phần đồng chí, thì ngược lại, đồng chí có một cuộc đời nghề nghiệp rất ấn tượng. Nếu, mới ngày hôm qua đây thôi, đồng chí còn đang mò mẫm trong vũng lầy thối rữa của phong kiến, thì ngày hôm nay đồng chí đang ngồi trên cái ngai Chủ Tịch của Toà Kháng Án trong khi đang chờ ghế khác ở Toà Án Tối Cao. Đảng đã tha thứ cho cái quá khứ của đồng chí, đã coi đồng chí là người xứng đáng. Đồng chí đã thành đạt tốt nghiệp trường Luật, làm vìệc siêng năng và không ngơi nghỉ để trả lời về tất cả những vấn đề mà đồng chí được hỏi ý kiến. Đồng chí là người tiêu biểu cho tinh thần môt công bộc hoàn hảo nhất, luôn bên mình với chiếc cặp da đầy giấy tờ và với thói quen luôn ghi chép mọi góc cạnh của mọi lãnh vực. Hơn thế nữa, tốt hơn thế nữa, đồng chí đã chứng tỏ là cái vững chãi sáng suốt và sắc sảo khôn ngoan đã giúp đồng chí thành công trong tất cả các nhiệm vụ và nghề nghiệp mà đồng chí đã trải qua, và nhờ thế đã thoả mãn được tham vọng của mình. Ngày hôm qua, đồng chí là một mệnh quan của Triều Đình, ngay hôm nay đồng chí chủ toạ Toà Án Hà Nội, lấy những quyết định, và dĩ nhiên với sự phê chuẩn và dưới sự giám sát của Đảng, trên số phận và ngay cả mạng sống của những người bị giao cho đồng chí xét xử. Dù ở bất cứ Toà Án nào mà ông đang triển khai khả năng, ở Huế hay ở Hà Nội, ông luôn luôn chứng tỏ mình là người của Toà Án, đã cống hiến cho cả hai định chế hoàn toàn đối nghịch với nhau, một bên là quân chủ vả phong kiến, một bên là cộng sản và cách mạng, với cùng một nhiệt tình, một sự hết lòng và cùng một sự ngoan ngoãn dễ bảo! Đồng chí cho rằng cuộc sống của tôi là được lấp đây hạnh phúc. Làm sao nó có thể sánh bằng với cuộc đời của đồng chí? Tôi thì như người bị tàn tật không khả năng đùa với nước và lửa. Một người cộng sản dù có đỏ thắm đến đâu vẫn không thể nói gì thêm về những lời lẽ ngôn từ của ông dầu rằng ông vẫn chưa được vào Đảng.
Cho phép tôi được khen tặng ông về sự sắc sảo và con người dễ thay đổi của ông. Ông luôn luôn đứng đúng chỗ, đúng nơi bất kể những thăng trầm của Lịch Sử, và ông luôn luôn là người thắng cuộc. Người “đồng chí” mà ông đang xử án là người đã mất tất cả: những của cải có được với sức lực mồ hôi mà hắn đã cống hiến cho chính nghĩa của Tổ Quốc và Nhân Dân, mất cả vị trí trong Luật Sư Đoàn, ngày mai đây sẽ bị trục xuất ra khỏi Đại Học là nơi hắn đang giảng dạy cho tới nay để kiếm sống.
- Đồng chí, ông đã đi ra ngoài chủ đề. Tôi đã đặt cho ông một câu hỏi rõ ràng và tôi đang mong ông trả lời câu hỏi đó. Tôi chắc rằng ông biết rõ những điều tai hại mà ông đã gây cho chính nghĩa của chúng tôi, của nhà nước Cộng Sản. Ông sẽ cãi với tôi rằng quần áo dơ là phải mang đi giặt. Vâng, chuyện phải là như thế, nhưng phải ở trong gia đình. Nhưng mà ông đã phơi tuột chuyện ấy ra trước thanh thiên bạch nhật! Chủ tịch ngàn lần và ngàn lần kính mến và yêu quí của chúng ta đã thường nói là chỉ có những người chết và những đứa bé nằm trong nôi mới không phạm sai lầm. Chuyện mà Đảng phạm sai lầm cũng là chuyện bình thường! Nhưng đó không phải là chuyện phải đem ra trước công luận, dù ở trong nước hay quốc tế, nhất là hành động đó lại phát xuất từ một trí thức nổi tiếng như ông.

Chuyện giặt đồ dơ phải nên làm trong gia đình, chuyện ấy không sai. Nhưng nếu Đảng mà có làm sai là điều chấp nhận được, và những sai lầm ấy phải được sữa chữa, thì thử hỏi có cách nào báo cho Đảng biết những sai lầm để những sai lầm đó được sửa chữa? Có một cơ quan nào để nhân dân có thể đến đưa những khiếu kiện mà họ hy vọng là sẽ lên đến cấp thẩm quyền có trách nhiệm không? Cái thùng chờ người ta vứt rác giấy tờ vào thì không thể tiết ra được những lời tung hô thơm tho mà lãnh đạo thich ngửi. Hơn thế nữa, nhân dân có quyền hành xử và quyền được phát biểu những gì họ không đồng ý với Đảng. Tôi cũng muốn nhắc với ông rằng, trong những lần họp của Đảng Xã Hội, ngay khi chỉ vừa nghe có người tỏ ý bất đồng quan điểm là ban chủ toạ lập tức loại ngay người bạn ngây thơ đang tưởng rằng mình đang chia sẻ những suy nghĩ cho mọi người. Đảng cầm quyền đã cài đặt một ít người của họ trong Trung Ương cũng như trong các Uỷ Ban Điều Hành địa phương của đảng Xã Hội để theo dõi và ngăn chận mọi tiếng nói chói tai. Những “lãnh đạo” của đảng Xã Hội, mà trong đó có ông, đều biết những hậu quả gì cho mình nếu để một sự chống đối dù là nhẹ nhất hiện diện trong hàng ngũ.
- Nhưng, quả thực đây là một sự khôn ngoan, khi mà trí thức không biết hay không thể biết đi thế nào cho đúng hướng, họ hay có những bước đi loạng choạng, vì thế cần phải có những người giám hộ để giúp họ giữ vững lập trường và có một đầu óc lành mạnh. Tại sao phải bận tâm về những chi tiết tầm thường thấp kém đó khi mà một người đã toàn sức cho một mục tiêu nhằm tạo nên một hình ảnh vĩ đại của một dân tộc đồng lòng đứng sau lưng một đảng đang hãnh diện có được niềm tin trọn vẹn của quần chúng trong nước và được sự hỗ trợ quốc tế của các nước anh em, và các nước tiến bộ trên thế giới?
Thú thật là tôi rất nhạy cảm với cái hình ảnh đẹp đẽ mà trong đó những dân tộc anh em cùng theo sát gót chân của hai ông anh cả Liên Xô và Trung Quốc, cùng kêu gào về sự dẫy chết của chủ nghĩa Tư Bản và tung hô niềm tin vào chủ nghĩa Xã Hội. Nhưng tôi rất ngần ngại khi phải trả một cái giá quá sức cao, quá đáng và không thể hình dung nỗi để đạt cái chiến thắng của chủ thuyết Marx-Lenin và đạt cái gọi là đoàn kết của nước cộng sản, đạt cái hạnh phúc cho các dân tộc, buộc họ phải chấp nhận những giá trị mà tới nay chưa bao giờ ai biết là gì, bất chấp đạo lý của những giá trị mà họ đang có từ lâu đời, cướp mất khỏi tay họ những thứ quyền tự nhiên nhất, đúng đắn và có ích nhất từ hàng ngàn năm nay, đưa họ vào khốn cùng và nghèo đói ở hôm nay và làm họ nghi ngờ cả tương lai. Tôi tôn trọng những ý kiến nhưng tôi càng tôn trọng con người mà chỉ có số phận của họ là làm tôi lo lắng.
Tôi muốn nhấn mạnh ở một điểm. Quan điểm của tôi là có nhiều sắc thái. Những ý kiến, tôi tôn trọng chúng, nhưng tôi luôn giữ thái độ cảnh giác và sáng suốt, tôi dành quyền được xem xét chúng, xuyên suốt nghiên cứu chúng đến từng chi tiết nhỏ nhất, phê bình và suy nghĩ, và cố gắng tách những hạt mầm ra khỏi rơm rạ. Tôi chẳng đẩy tôi thành kẻ thù của bất cứ ai về bất cứ chuyện gì, tôi chỉ muốn phấn đấu phân biệt cái gì là tốt nhất giữa những cái xấu nhất. Khi mà tất cả những cá nhân và những chủng tộc ai cũng có những phẩm chất và những sai lầm, thì tất cả những chủ thuyết cũng có những điều tốt và những điều xấu. Một chiết trung xứng đáng sẽ tránh cho chúng ta một thái độ thờ ơ, một sự bất công trong đánh giá, một thái độ cực đoan trong hành động. Tôi đánh giá cao chủ nghĩa Marx Lenin vì những điều mới lạ dồi dào của nó, về cách tiếp cận trí não mới và độc đáo, về quan điểm biện chứng đối với thực tế của cuộc sống, nhưng tôi không thể lấy màn che mắt mình trước những sai lầm to lớn, tàn ác và đầy tội ác được gây ra bởi những kẻ đang áp dụng nó, và những kẻ vô văn hoá, ích kỷ, đầy định kiến và mê muội một cách đáng xấu hổ đang gây ra đầy dẫy những bất công và vô nhân đạo. Tôi xét đoán dựa trên những sự kiện, và xem xét chúng trên cơ sở nhân và quả. Tôi tự mình tránh xa những logic cong vẹo và có tính hình thức mà lãnh đạo hay dùng để bào chữa cho những quyết định của mình, trong khi cái chuẩn duy nhất để đánh giá một chính sách hay những đường lối chính trị là tự hỏi mình xem nhờ đó mà dân tộc thực tế ngày nay đã được cải thiện những gì? Chúng tôi không phê phán chủ nghĩa cộng sản hay những người cộng sản mà chỉ trích một số lãnh đạo cộng sản đang bị thui chột với những cách thức lý luận phức tạp và đang hành xử một thứ chủ nghĩa duy ý chí bệnh hoạn, quay lưng lại với hiện thực, đưa ra những lời hứa đẹp đẽ để lừa phỉnh quần chúng, sẵn sàng tuốt gươm nhẫn tâm tàn sát những kẻ bất hạnh dám nghi ngờ tính bách chiến bách thắng của họ.
- Có thể thấy rõ là ông đã bị méo mó bởi những gì ông đã học được từ văn hoá phương Tây. Ông đã biến thành người bi quan, đâm ra nghi ngờ mọi chuyện, ông không còn thấy được những gì vĩ đại của con người và sự vật, ông đã tự mình biến mất trong chi tiết và không còn khả năng thấy những gì là tổng thể, đại cuộc và đặc biệt là cái gì cũng bị ông chỉ trích. Người ta tự hỏi có phải chăng chính nền văn hoá Tây Phương đã ngăn chận bước đi để chận con đường dẫn ông về với Dân Tộc và Tổ Quốc?
Năm 1932, khi tôi trở về Việt Nam lần đầu tiên, và đặc biệt là lần vào năm 1940, khi tôi phổ biến những bài viết của tôi bằng Pháp ngữ, ngay trong thời thực dân Pháp, tôi cũng đã bị những lời sỉ nhục tương tự. Tôi không chối là tôi chưa bao giờ đi học ở một trường tiếng Việt nào, tôi đã học trường Paul Bert và sau đó là trường Albert Sarraut đã cho phép tôi lấy xong bằng tú tài vào năm 16 tuổi và lấy hai bằng Tiến Sĩ Quốc Gia về Luật và Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chương vào năm 22 tuổi. Văn hoá Pháp và phương Tây đã đào tạo tôi như ngày nay. Tôi đã hấp thụ những phẩm chất và những yếu kém của tinh thần văn hoá Pháp: yêu mến sự rõ ràng, chính xác và logic, nhưng cũng yêu tính phê phán trong phương pháp tiếp cận con người hay một vấn đề. Tôi luôn đề cao thực tế, sự thực, sự công bằng và tôi rất ghét sự dối trá, kinh hãi đối với sự cuồng tín, tôi muốn đả phá những vĩ đại giả hiệu, những kiêu căng dị hợm. Tôi rất ghét chính trị vì nó làm hư hỏng con người, biến họ thành những người nói láo, bất công và tàn bạo, chất chứa những gì đủ để làm điên loạn lương tâm. Tôi tránh xa quyền lực để không bị vướng vào hai thái độ sống hèn hạ như nhau: hoặc sống xa hoa với cái lưng luồn cúi và nụ cười nịnh bợ, hoặc phải chấp nhận chuyện điên rồ quái dị, theo ý của họ, chia sẻ những thành kiến và luôn đứng chung với họ trong mọi lễ lộc, biến cố. Tôi tránh đi lại với mấy ông lớn và càng tránh xa những kẻ này. Tôi giữ mình được tự do, độc lập trong tư tưởng và hành động, tôi hoàn toàn ý thức về những tội ác của các lãnh đạo tư bản, những đồng thời tôi cũng thấy được những tàn bạo của lãnh đạo cộng sản. Tôi như bị kẹt, ép giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, tôi tìm quên trong tình yêu dân tộc và những truyền thống mà tôi đã biết rất rõ mọi điều vinh nhục. Sống trong một thế giới cộng sản như ngày nay, thái độ sống của tôi là một trí trhức trước sau như một, không thể phản bội lại tư cách của một người có học.
Cái gi đã khiến tôi phải chọn một thái độ sống như thế? Là cái được đề nghị rằng nhân dân phải được quyền quyết định cho số phận của mình, là mọi chuyện phải được quyết định do dân và cho dân. Chọn cái tên nào để đặt cho một chính quyền như thế không quan trọng. Từ “dân chủ” là tên gọi hay nhất nhưng nó cũng chỉ diễn đạt được một khía cạnh: chính quyền dodân. Công thức cái tên gọi phải thể hiện đầy đủ việc chính quyền cho dân. Một nền dân chủ thật sự chẳng cần đến cái tên gọi gán ghép cho nó. Chẳng có gì là vấn đề nếu nó được gọi là “tư sản” hay “xã hội chủ nghĩa”, câu hỏi hiển nhiên nhất là dân có được hạnh phúc và được quyền làm chủ vận mệnh của mình hay không? Dân có thực hiện được mơ ước của mình trên mọi lãnh vực sinh hoạt, cá nhân hay tập thể, thể chất, trí thức, đạo đức và tinh thần hay không?
- Ông không biết những gì đang chờ đợi ông. Nhà Nước cộng sản của chúng tôi chỉ chấp nhận duy nhất một thái độ sống của người trí thức. Họ phải nằm trong đường lối chính trị của cộng sản, biểu lộ lòng tin nơi Đảng, trung thành với Đảng, sống và suy nghĩ dưới sự chỉ đạo và theo cách mà lãnh đạo Đảng đã xếp đặt. Những ai đi chệch xa con đường này, trở thành kẻ xa lạ dị giáo, sẽ bị trừng phạt như những kẻ phản bội phản động. Đây là cơ hội chót để ông tự ăn năn hối cải về sự táo tợn và trơ trẽn của mình. Rán mà biết lấy nhé.
Mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của mình. Nếu xã hội, nói cách khác là nhân dân, có thể đạt đến một trình độ văn hoá cao, ở mức lương tâm trong sáng, biết suy nghĩ chin chắn, thì những người can đảm có tư duy khác với con đường chung cũng không ai sẽ bị trừng phạt, nhưng ngược lại sẽ được khuyến khích, vì mọi tiến bộ của đất nước là tuỳ thuộc vào đó. Nhưng lịch sử của loài người đã chứng minh là không có một dân tộc nào có thể tự mình kiếm ra con đường để ra khỏi khu rừng của ngu dốt, của thành kiến và hèn nhát để đi đến một vùng trời đầy nắng và ánh sáng. Ở thành phố Athenes, Socrates đã uống thuốc độc để làm gương suy nghĩ cho trí thức trên thế giới phải những ngưởi giữ vai trò tiên phong, trinh sát dẫn đường trong cuộc hành trình đầy khó khăn và cực nhọc đê đưa những dân tộc đi tìm chút niềm vui và hạnh phúc.
Hơn nữa, dân tộc ta đã chịu sự du nhập của một chủ nghĩa hoàn toàn ngoại lai. Không hề dính dáng đến cội nguồn của dân tộc. Những nhà yêu nước vĩ đại mà mọi người đang yêu mến và kính phục đã ủng hộ chủ nghĩa đó, bảo trợ nó, đế nghị nó, rồi áp đặt nó trên đầu dân chúng, đồng thời đưa ra lới hứa chắc là nó sẽ là chiếc chìa khoá để mở cửa thiên đường hạ giới. Dân tôc tin vào lời hứa của lãnh đạo và đang chờ giờ lời hứa thành hiện thực. Chính là nhờ vào sự đồng lòng của dân tộc mà chúng ta đã dành lại tự do và độc lập. Những bàn tay lao động và những bộ óc trí thức đã chung sức góp phần quan trọng cho Đảng đang cầm quyền.
Nhưng rủi thay, cuộc hành trình đã xảy ra không suôn sẻ. Những lãnh đạo, luôn hãnh diện với những thành quả quân sự vinh quang đã đạt được mà họ cho rằng chủ nghĩa Marx Lenin là căn cơ chính, niềm tin đó được họ mang đi áp dụng vào mọi lãnh vực, không cần biết đến khoa học và thực tế, mặc dù những người cộng sản luôn tuyến bố tôn trọng chúng. Sự nghèo khổ của nhân dân đã trở nên kinh hoàng mặc dù lãnh đạo vẫn cứ khoe khoang điều ngược lại.
Đối mặt với hoàn cảnh thảm thương như thế thử hỏi người trí thức phải chọn thái độ nào? Có những kẻ tự che mắt bịt tai hoà chung với ban hợp ca gồm những kẻ cơ hội chủ nghĩa và bợ đỡ cùng cao giọng “Chủ nghĩa cộng sản bách chiến bách. Đảng Cộng Sản quang vinh!” Những kẻ này thu góp những vinh quang và đặc quyền và vui sướng hưởng lợi cho đến đời con, đời cháu. Công chúng quá biết họ và không dành cho họ một chút kính trọng nào. Những ai biết suy nghĩ và có lòng yêu thương dân tộc và tổ quốc thì không thể kéo dài sự im lặng và thờ ơ với nỗi đắng cay của một niềm hy vọng đã mất và một giấc mơ bị giễu cợt. Họ lớn tiếng tố cáo những nguyên do của những sai lầm và đề nghị những biện pháp để sửa sai. Họ lại bị đánh gục, bỏ tù suốt đời với cái tội là phản đảng, phản cách mạng và kẻ thù của dân tộc! Họ chỉ còn một niềm an ủi duy nhất là nhân dân hiểu, thương xót họ dù rằng không ai có thể làm được gì để giúp họ. Họ chỉ còn biết chờ một sự công bằng của lịch sử.
Không có một bản án nào được đưa ra. Cộng sản luôn luôn thích bí mật. Mọi quyết định đều lấy và đem áp dụng trong vòng yên tĩnh đến chết người. Không có gì được hé ra cho công chúng biết: sự bí mật được gìữ gìn kín đáo để tránh gây những xúc động không cần thiết hay những xáo trộn đáng tiếc. Cộng sản luôn tiên liệu mọi chuyện và tuỳ đó mà xử lý.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved