Home » » Chủ nghĩa bảo thủ mới

Chủ nghĩa bảo thủ mới

Written By kinhtehoc on Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2012 | 04:34

TIẾP SAU CHỦ NGHĨA BẢO THỦ MỚI (*)
 
      F.FUKUYAMA (**)
Chủ nghĩa bảo thủ mới ở Hoa Kỳ được khởi nguồn từ một số trí thức Do Thái đã gia nhập nhóm Đại học Thành phố New York (C.C.N.Y) vào cuối những năm 30, đầu những năm 40 của thế kỷ trước. Đến những năm 90, nó được tiếp sức bởi một số dòng học thuật khác, như nhóm của L.Strauss, nhóm của A. Wohlstetter Chủ nghĩa bảo thủ mới đã làm cho quan hệ giữa Hoa Kỳ và thế giới có sự thay đổi và ngày càng phức tạp hơn. Theo tác giả, đã đến lúc chủ nghĩa bảo thủ mới phải bị vượt qua và Hoa Kỳ cần hoạch định lại chính sách ngoại giao của mình theo nhiều đường hướng cơ bản; phải chuyển sự chú ý sang việc cải tổ, tái cơ cấu và đầu tư một cách chính xác cho những thiết chế của Chính phủ Hoa Kỳ.

Khi chúng ta tiến tới kỷ niệm lần thứ ba cuộc tấn công vào Irắc, dường như không phải là lịch sử sẽ phán xét bản thân sự can sự thiệp cũng như những ý tưởng cổ vũ cho sự can thiệp đó một cách thiện ý. Bằng việc xâm lược Irắc, chính quyền Bush đã tiên đoán đầy đủ về chính nó: giờ đây, thay cho Ápganixtan, Irắc trở thành một lực hấp dẫn, một cơ sở huấn luyện và một căn cứ tác chiến của bọn khủng bố Hồi giáo với rất nhiều mục tiêu để nhắm bắn là người Hoa Kỳ. Hoa Kỳ vẫn có cơ hội tạo dựng một Irắc dân chủ do người Shiite điều hành, nhưng chính quyền mới sẽ rất non nớt trong nhiều năm; hậu quả là khoảng trống quyền lực đó sẽ thu hút những thế lực bên ngoài từ các nước láng giềng của Irắc, kể cả Iran. Với nhân dân Irắc, việc loại trừ chế độ độc tài của Saddam Hussein rõ ràng có lợi cho họ, và có lẽ những tín hiệu tích cực cũng tác động tới cả Libăng và Syria. Song, thật khó để đánh giá bản thân những tiến triển này sẽ biện hộ như thế nào cho máu và của cải mà Hoa Kỳ đã phải trả giá cho dự án này tới lúc đó.
Cái gọi là học thuyết Bush, đã tạo cơ sở cho chính quyền đó trong nhiệm kỳ thứ nhất, giờ đây đang lung lay. Học thuyết đó (đã được trình bày tỉ mỉ ở nhiều chỗ khác, trong Chiến lược An ninh Quốc gia Hoa Kỳ năm 2002) lập luận rằng, sau sự thức tỉnh bởi các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, nước này sẽ phải dấn thân vào những cuộc chiến ngăn chặn có kỳ hạn để tự vệ chống lại những nhà nước ma quỷ và bọn khủng bố với vũ khí huỷ diệt hàng loạt (W.M.D.); rằng, nếu cần, một mình Hoa Kỳ sẽ làm việc đó; sẽ hành động để dân chủ hoá hơn vùng Trung Đông như một giải pháp lâu dài cho vấn đề khủng bố. Tuy nhiên, muốn thành công, việc “ngăn ngừa trước” phải phụ thuộc vào khả năng dự báo chính xác và tin tức tình báo đúng đắn, nhưng điều này lại chưa sẵn sàng; trong khi đó, thuyết đơn phương của Hoa Kỳ đã cô lập nó hơn bao giờ hết. Không có gì đáng ngạc nhiên khi trong nhiệm kỳ thứ hai, chính quyền Bush đang tự mình tách khỏi những chính sách này và đang trong quá trình soạn thảo lại văn kiện chiến lược an ninh quốc gia.
Song, chính cái nỗ lực duy tâm muốn sử dụng sức mạnh kiểu Hoa Kỳ hòng thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ở khắp nơi là điều có thể gây nên sự tụt hậu lớn nhất. Chính thất bại mà Hoa Kỳ phải gánh chịu ở Irắc đã làm phục hồi thẩm quyền của chính sách ngoại giao “duy thực”(1) trong truyền thống của H.Kítxingiơ. Đã có một loạt sách và bài báo công khai chỉ trích chủ nghĩa Uynxơn của Hoa Kỳ là khờ khạo và công kích ý đồ cố gắng dân chủ hoá thế giới. Những nỗ lực trong nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền này nhằm thúc đẩy nền dân chủ rộng rãi hơn ở Trung Đông, được giới thiệu trong diễn văn nhậm chức lần thứ hai với những lời hùng biện bay bổng của Bush, đã gây ra những hậu quả đáng tranh cãi. Hồi tháng 11 và 12, Hội Ái hữu những người Hồi giáo đã làm nên một bằng chứng hùng hồn trong cuộc bầu cử quốc hội ở Ai Cập(2). Trong khi việc tiến hành các cuộc bầu cử ở Irắc vào tháng 12 vừa qua, tự thân chúng đã là một thành công thì số phiếu bầu lại dẫn đến uy thế của cộng đồng người Shiite có quan hệ gần gũi với Iran (tiếp sau cuộc bầu chọn ông M.Ahmadinejad, một người theo phái bảo thủ, làm tổng thống Iran hồi tháng 6). Song, điều đáng nói nhất chính là thắng lợi có ý nghĩa quyết định của nhóm Hamas trong cuộc bầu cử của người Palétxtin tháng trước đã đem lại sức mạnh cho một phong trào công khai hiến mình trong việc diệt trừ Ixraen. Trong lễ nhậm chức lần thứ hai của mình, ông Bush đã nói: “Giờ đây, những lợi ích sống còn của Hoa Kỳ và những niềm tin sâu sắc nhất của chúng ta là một”. Nhưng, ngày càng có nhiều lời buộc tội rằng, chính quyền Bush đã mắc sai lầm lớn khi khuấy động cái ao tù; rằng, Hoa Kỳ lẽ ra phải làm tốt hơn để gắn kết với những người bạn độc tài truyền thống ở  Trung Đông. Quả thực, cái nỗ lực thúc đẩy dân chủ trên toàn thế giới ấy đã bị chỉ trích là một hành động bất hợp pháp bởi cả người cánh tả, như J.Sachs, lẫn người bảo thủ truyền thống, như P.Buchanan.
Phản ứng chống lại việc tăng cường dân chủ và chính sách ngoại giao chủ động có lẽ không dừng lại ở đó. Những người mà W.R.Mead gọi là những người bảo thủ kiểu Jackson - tức là những người Hoa Kỳ cực hữu, mà con cái họ đang chiến đấu và tử trận ở Trung Đông đã ủng hộ cuộc chiến chống Irắc; bởi, họ tin rằng con cái mình đang chiến đấu để bảo vệ Hoa Kỳ trước chủ nghĩa khủng bố hạt nhân, chứ không phải để tăng cường dân chủ. Họ không muốn bỏ rơi tổng thống nửa chừng trong một cuộc chiến ác nghiệt, nhưng rốt cuộc, sự thất bại được báo trước của cuộc can thiệp vào Irắc có thể đẩy họ đến chỗ chấp nhận một chính sách ngoại giao biệt lập hơn, mà với họ, đó là một quan điểm chính trị tự nhiên hơn. Một cuộc thăm dò mới đây cho thấy trong công luận có xu hướng nghiêng về chủ nghĩa biệt lập; tỉ lệ người Hoa Kỳ cho rằng nước này “trước hết nên lo cho chính mình” chưa bao giờ cao hơn thế, kể từ khi kết thúc chiến tranh Việt Nam.
Hơn bất cứ nhóm nào khác, chính những người bảo thủ mới, cả trong lẫn ngoài chính quyền Bush, đã đẩy mạnh việc dân chủ hoá Irắc và làm rộng thêm vấn đề Trung Đông. Họ được thừa nhận (hay bị buộc tội) một cách rộng rãi là có những tiếng nói quyết định thúc đẩy sự thay đổi chế độ ở Irắc. Tuy nhiên, trong những năm tháng sắp tới, chính chương trình nghị sự duy tâm ấy của họ sẽ bị đe doạ trực tiếp nhất. (…).
Di sản của chủ nghĩa bảo thủ mới
Làm thế nào mà những người bảo thủ mới đã theo đuổi những đích quá xa, tới mức mạo hiểm huỷ cả những mục đích của chính họ? Chính sách ngoại giao trong nhiệm kỳ thứ nhất của chính quyền Bush đã không xuất phát từ quan điểm của những thế hệ đi trước, những người tự coi mình là bảo thủ mới, bởi vì bản thân những quan điểm ấy rất phức tạp và là chủ đề cho những cách giải thích khác nhau. Kể từ khi kết thúc chiến tranh lạnh, có bốn nguyên tắc hay đường hướng xuyên suốt quan điểm này: sự quan tâm đến dân chủ, nhân quyền và một cách chung hơn, đến đời sống chính trị nội bộ của các quốc gia; một niềm tin rằng sức mạnh Hoa Kỳ có thể được sử dụng cho những mục đích đạo đức; một quan điểm hoài nghi đối với khả năng của luật pháp và những thiết chế quốc tế trong việc giải quyết những vấn đề an ninh nghiêm trọng; và cuối cùng là quan điểm cho rằng, chương trình xã hội đầy tham vọng sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn, do đó sẽ phá huỷ những mục đích của chính nó.
Vấn đề là ở chỗ, hai trong số những nguyên tắc đó chứa đựng sự xung đột tiềm tàng. Thái độ hoài nghi đối với chương trình xã hội đầy tham vọng – những năm trước đây chương trình như vậy phần lớn được áp dụng cho những chính sách đối nội – đã nêu ra cách tiếp cận thận trọng đối với việc tái thiết thế giới và một nhận thức rằng những sáng kiến đầy tham vọng luôn dẫn đến những hậu quả không lường trước được. Mặt khác, niềm tin vào tiềm năng đạo đức của sức mạnh Hoa Kỳ lại hàm ý rằng chủ nghĩa tích cực kiểu Hoa Kỳ có thể định hình lại cơ cấu chính trị toàn cầu. Vào thời điểm diễn ra chiến tranh Irắc, niềm tin vào việc sử dụng cái sức mạnh cải biến ấy đã vượt qua được những hoài nghi đối với chương trình xã hội.
Ngẫm lại thì sự việc đã không tiến triển theo cách đó. Nguồn gốc của chủ nghĩa bảo thủ mới nằm trong một nhóm những trí thức Do Thái có tầm cỡ, những người đã gia nhập nhóm Đại học Thành phố New York (C.C.N.Y) hồi nửa cuối những năm 30 và đầu những năm 40. Nhóm này gồm I.Kristol, D.Bell, I.Howe, N.Glazer và muộn hơn là D.P.Moynihan. Lịch sử của nhóm này đã từng được nhắc đến trong một số tài liệu, đáng chú ý nhất là trong bộ phim tài liệu của J.Dorman có tên là “Luận bàn về thế giới”. Di sản quan trọng nhất của C.C.N.Y là một niềm tin duy tâm vào tiến bộ xã hội, vào tính phổ quát của quyền lợi cùng với chủ nghĩa chống cộng mãnh liệt.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người trong C.C.N.Y đã xuất phát từ quan điểm Trốtxkit. (…). Trái với cánh hữu truyền thống của Hoa Kỳ, những người cánh tả chống cộng đã từng có thiện cảm với các mục tiêu kinh tế và xã hội của chủ nghĩa cộng sản. (…). Trong khi không phải tất cả các nhà tư tưởng của C.C.N.Y đều trở thành các nhà bảo thủ mới thì vấn đề nguy cơ của những mục đích đúng đắn bị đẩy đến cực đoan chính là chủ đề cho sự nghiệp của nhiều thành viên trong nhóm này.
Nếu như có một chủ đề duy nhất bao quát toàn bộ những phê phán đối với chính sách xã hội đối nội, được đưa ra bởi những người viết cho tạp chí Lợi ích cộng đồng của phái bảo thủ mới, do I.Kritol, N.Glazer và D.Bell sáng lập năm 1965, thì đó là vấn đề những hạn chế của chương trình xã hội. Các tác giả, như Glazer, Moynihan và sau này là G.Loury, cho rằng những nỗ lực đầy tham vọng muốn tìm kiếm công bằng xã hội thường khiến cho các xã hội tồi tệ hơn trước đó; bởi vì, chúng đòi hỏi hoặc là sự can thiệp nhà nước với quy mô lớn làm đảo lộn những quan hệ xã hội có từ trước hoặc sẽ sinh ra những hậu quả không lường trước được (chẳng hạn, sự gia tăng những gia đình chỉ có cha, hoặc mẹ là hậu quả của vấn đề phúc lợi). Chủ đề chính xuyên suốt những tác phẩm bao quát của J.Q.Wilson khi bàn về tội phạm là tư tưởng cho rằng, không thể giảm tỉ lệ tội phạm bằng cách cố gắng giải quyết những vấn đề ẩn sâu như đói nghèo và phân biệt chủng tộc; các chính sách xã hội hiệu quả cần tập trung vào những biện pháp ngắn hạn ngay khi có những triệu chứng của sự bức bách xã hội (như việc xuất hiện các hình vẽ grafitô ở đường xe điện ngầm hay nạn ăn xin) hơn là giải quyết căn nguyên.
Vậy, làm thế nào mà một nhóm có dòng dõi như vậy lại đi đến kết luận rằng, “nguyên nhân sâu xa” của chủ nghĩa khủng bố nằm trong tình trạng thiếu dân chủ ở Trung Đông; rằng, Hoa Kỳ có cả sự khôn ngoan lẫn năng lực giải quyết vấn đề này; rằng, dân chủ sẽ đến với Irắc một cách nhanh chóng và không đau đớn? Những người bảo thủ mới lẽ ra đã không tiến tới bước ngoặt này nếu không có sự kiện cuộc chiến tranh lạnh đã kết thúc một cách khác thường. R.Rigân đã bị những kẻ thạo đời cánh tả ở Hoa Kỳ và châu Âu chế nhạo về việc gọi Liên bang Xôviết và những đồng minh của nó là “đế chế tội ác”, cũng như việc buộc M.Gorbachev không chỉ cải tổ hệ thống của ông ta, mà còn “làm cho thành trì đó sụp đổ”. R.Perle, trợ lý của Rigân về vấn đề chính sách an ninh quốc tế, đã bị lên án như là “vua bóng tối” vì quan điểm không khoan nhượng; đề xuất của ông ta về “hai không” trong các cuộc đàm phán về vũ khí hạt nhân tầm trung (tức là giải trừ toàn bộ những tên lửa tầm trung) đã bị các chuyên gia chính sách ngoại giao ôn hoà thuộc Ủy ban Quan hệ quốc tế và Bộ Ngoại giao chỉ trích là không khả thi. Chính nhóm này đã cho rằng, những người theo chủ trương của Reagan mắc chứng không tưởng nghiêm trọng khi hy vọng vào thắng lợi thực sự, khi phản đối sự kiềm chế, trong chiến tranh lạnh.
Tuy thế, thắng lợi tuyệt đối trong chiến tranh lạnh thực sự đã diễn ra trong những năm 1989 – 1991. Gorbachev không những đã chấp nhận “hai không”, mà còn chấp nhận cả việc cắt giảm mạnh các lực lượng thông thường và đã không ngăn chặn được Ba Lan, Hunggary và Đông Đức ly khai khỏi đế chế. Cùng với sự thay đổi chế độ ở Đông Âu cũng như Liên bang Xôviết cũ, Hiệp ước Vácsava, mối đe doạ đối với phương Tây, cũng tiêu tan.
Cái cách mà chiến tranh lạnh kết thúc đã định hình tư duy của những người ủng hộ chiến tranh Irắc, bao gồm những người bảo thủ trẻ tuổi như W.Kristol và R.Kagan theo hai kiểu. Trước hết, dường như nó đã tạo nên được một điều mong đợi là tất cả những chế độ chuyên chế đều trống rỗng từ nhân lõi và sẽ sụp đổ chỉ bằng một cú hích nhẹ từ bên ngoài. Kiểu mẫu cho trường hợp này là Rumani dưới chế độ Ceausescus: một khi mụ phù thuỷ xấu xa chết đi, các chú tí hon sẽ thức dậy và bắt đầu hát lên một cách vui vẻ vì được giải phóng. Trong cuốnNhững nguy cơ hiện tại xuất bản năm 2000, Kristol và Kagan viết: “Đối với nhiều người thì tư tưởng về việc Hoa Kỳ sử dụng sức mạnh của mình để thúc đẩy những thay đổi chế độ ở các quốc gia bị điều khiển bởi nhóm những kẻ độc tài theo chủ nghĩa không tưởng. Song trên thực tế, rõ ràng đó là kiểu của chủ nghĩa hiện thực. Có điều gì đó quá đáng trong tuyên bố về tính bất khả thi của việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi dân chủ ở khắp nơi khi như những gì đã xảy ra trong ba thập kỷ vừa qua”.
Chủ nghĩa lạc quan thái quá về thời quá độ từ hậu chiến sang dân chủ này giúp ta lý giải sự thất bại khó hiểu của chính quyền Bush trong việc giải quyết một cách thoả đáng tình trạng nổi loạn thường xuyên ở Irắc. Những người ủng hộ chiến tranh dường như đã nghĩ rằng, dân chủ là một loại điều kiện mặc định mà các xã hội sẽ quay trở lại khi xẩy ra những đổ vỡ nặng nề do thay đổi chế độ, chứ không hẳn là một quá trình cải cách và xây dựng thể chế lâu dài. Giờ đây, họ quả quyết là đã biết trước sự chuyển hoá dân chủ của Irắc sẽ còn lâu dài và khó khăn, nhưng rõ ràng họ đã bị sửng sốt.
Vào những năm 90, chủ nghĩa bảo thủ mới lại được tiếp sức bởi một số dòng học thuật khác. Một trong số đó là nhóm sinh viên của L.Strauss, nhà lý luận chính trị người Đức gốc Do Thái. Là một độc giả nghiêm túc của các giáo trình triết học, ông thường không bộc lộ ý kiến về các vấn đề chính sách và đời sống chính trị đương thời. Thật ra, L.Strauss chỉ quan tâm đến vấn đề “sự khủng hoảng của tính hiện đại”, được đặt ra trong thuyết tương đối của Nítsê và Haiđơgơ, và vấn đề cả những tín điều tôn giáo, lẫn những định kiến sâu sắc về bản chất của cuộc sống tốt đẹp đều không thể bị loại bỏ khỏi đời sống chính trị, giống như hy vọng của các nhà tư tưởng châu Âu thời Khai sáng. Một dòng khác khởi nguồn từ A.Whohlstetter, chiến lược gia của tập đoàn Rand, từng là thầy của R.Perle, Z.Khalizad (đại sứ Hoa Kỳ tại Irắc) và P.Wolfowitz (nguyên thứ trưởng Bộ Quốc phòng), cùng một số người khác. Wohlstetter đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển hạt nhân và kẽ hở đủ rộng mà Hiệp ước hạn chế vũ khí huỷ diệt hàng loạt năm 1968 đã tạo ra, để những nước như Irắc và Iran lách qua, nhằm ủng hộ năng lượng hạt nhân “hoà bình”.
Tôi có một số quan hệ với các nhánh khác nhau của phong trào bảo thủ mới. Tôi đã từng là sinh viên của A.Bloom, người bảo trợ của Strauss, đã viết cuốn sách Sự kết thúc của tinh thần Hoa Kỳ ăn khách nhất, đã làm việc tại tập đoàn Rand cùng với Wohlstetter về các vấn đề vịnh Pécxích và cũng đã hai lần làm việc với Wolfowitz. Nhiều người hiểu cuốn Kết cục của lịch sử và con người cuối cùng của tôi như là một tiểu luận mang tính bảo thủ mới, rằng nó ủng hộ quan điểm cho là có một nỗi khao khát hướng đến tự do phổ biến trong tất cả mọi người, nỗi khao khát đó sẽ dẫn họ một cách tất yếu tới dân chủ tự do; rằng, chúng ta đang sống giữa một trào lưu xuyên quốc gia, ngày càng hướng mạnh mẽ tới nền dân chủ tự do ấy. Đây là sự hiểu lầm về lập luận của tôi. Thật ra, Kết cục của lịch sử là một luận chứng về hiện đại hoá. Cái phổ quát ban đầu không phải là khao khát dân chủ tự do, mà là ước muốn sống trong một xã hội hiện đại – tức là xã hội thịnh vượng và tiến bộ về công nghệ; xã hội ấy, nếu được thoả mãn, sẽ hướng tới nhu cầu tham gia chính trị. Nền dân chủ tự do chỉ là một trong những phụ phẩm của quá trình hiện đại hoá và sẽ trở thành nguyện vọng phổ quát nhưng chỉ trong tiến trình lịch sử.
Nói cách khác, Kết cục của lịch sử đưa ra một kiểu luận chứng mácxít cho sự tồn tại của quá trình tiến hoá xã hội lâu dài, song đó là quá trình hoàn thành trong nền dân chủ tự do. Với tư cách vừa là biểu tượng chính trị, vừa là một dòng tư tưởng, chủ nghĩa bảo thủ mới đã tiến triển thành cái gì đó mà tôi không thể tiếp tục ủng hộ. Chính quyền Bush và những người ủng hộ chủ nghĩa bảo thủ mới không chỉ đánh giá thấp những khó khăn của việc gây ra các tác động chính trị thích hợp ở những nơi như Irắc, mà còn hiểu sai cách thức phản ứng của thế giới đối với việc sử dụng sức mạnh của Hoa Kỳ. Tất nhiên, thời chiến tranh lạnh từng có đầy những thí dụ như nhà phân tích chính sách ngoại giao S.Sestanovich gọi là tối đa luận kiểu Hoa Kỳ. Khi ấy, Washington đã ra tay trước và sau đó mới tìm kiếm tính hợp pháp, cũng như sự ủng hộ từ các đồng minh của mình. Nhưng, trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, thực trạng kết cấu đời sống chính trị thế giới đã thay đổi theo nhiều hướng, khiến cho kiểu sử dụng sức mạnh trở nên có vấn đề ngay cả dưới con mắt của những đồng minh thân cận. Sau sự sụp đổ của Liên bang Xôviết, nhiều nhà bảo thủ mới, như C.Krauthammer, W.Kristol và R.Kagan, đã cho rằng, Hoa Kỳ sẽ sử dụng sức mạnh dư thừa của nó để khẳng định “quyền bá chủ nhân từ” đối với phần còn lại của thế giới, giải quyết những vấn đề như các nhà nước ma quỷ có vũ khí huỷ diệt hàng loạt, tình trạng lạm dụng nhân quyền, những nguy cơ khủng bố khi chúng xuất hiện. Trước chiến tranh Irắc, Kristol và Kagan đã từng xem xét liệu thái độ này có kích động sự đối kháng từ phần còn lại của thế giới và kết luận: “Chính vì chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ được truyền thêm tính đạo đức ở trình độ cao khác thường tới mức mà các quốc gia khác thấy rằng họ không phải sợ hãi cái sức mạnh có tính đe doạ của nó”.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved