Phạm Trần Lê |
Việc cải thiện chất lượng
giáo dục đào tạo đại học được nhắc đến thường xuyên trong công luận như một vấn
đề bức thiết nhưng cho đến nay vẫn chưa có những giải pháp mang tính toàn diện
và triệt để, vừa đạt được mục tiêu về cải thiện chất lượng dạy và học đồng thời
giúp cho bài toán quyền lợi của các cá nhân liên quan được giải quyết hợp lý.
Một giải pháp như vậy đòi hỏi được xem xét qua tư duy kinh tế với ba câu hỏi căn
bản là: xã hội có nhu cầu gì ở giáo dục đại học; hiện trạng đào tạo đại học hiện
cung ứng tới đâu; lộ trình nào để từng bước giúp cung và cầu gặp
nhau.
Cung và cầu tri thức chưa gặp nhau
Nói theo tư duy kinh tế thì con người cần tri
thức để thỏa mãn tối ưu cho các nhu cầu của nó trong điều kiện hạn chế các nguồn
tài nguyên. Như vậy là xã hội cần tri thức để có thể sử dụng các nguồn tài
nguyên với hiệu quả tối ưu. Bên cạnh đó, xã hội cũng cần đội ngũ nhân lực có khả
năng vận dụng những tri thức này. Trong hoàn cảnh các nguồn tài nguyên của đất
nước còn hạn hẹp, nhu cầu tri thức để giúp tối ưu hóa là rất lớn, không đâu là
không có.
Đứng trước nhu cầu với tri thức và nhân lực như vậy, các trường đại
học đáp ứng được tới đâu? Thu nhập bình quân người Việt Nam còn
rất nghèo chính vì thiếu khả năng tận dụng các nguồn lực. Đa số các sản phẩm con
người làm được trong nền kinh tế chỉ mới dừng ở mức độ sử dụng trực tiếp hoặc sơ
chế các nguồn nguyên liệu tự nhiên. Điều đó hiển nhiên là do xã hội thiếu tri
thức, thiếu nhân lực chất lượng cao. Hai cái thiếu này là do nguồn cung ứng tri
thức và nhân lực còn chưa đáp ứng được.
Vì cung và cầu tri thức không gặp nhau nên trường học buộc phải biến thành công cụ để cân bằng một thức cung – cầu khác, cung – cầu bằng cấp và danh hiệu |
Người đi dạy không xác định rõ được xã hội cần
những sản phẩm tri thức gì và mức độ năng lực nào. Người đi học thì lệ thuộc thụ
động vào thầy cô chứ không biết được cần phải tự mình phải chủ động rèn luyện
những phẩm chất và kiến thức gì. Nhưng không hẳn là thầy cô và sinh viên thiếu
khả năng đáp ứng thị trường. Nếu thị trường đưa ra các đơn đặt hàng cụ thể và
thiết thực, rất có thể nhà cung ứng giáo dục sẽ có xu hướng phát triển để từng
bước đáp ứng được nhu cầu.
Khi xã hội không đặt ra các yêu cầu cụ thể, thầy
và trò sẽ tập trung vào sản xuất những tri thức và nhân lực xa rời thực tiễn.
Quá nhiều những nhân lực xa rời thực tiễn khiến cho khi các đơn vị, tổ chức,
doanh nghiệp có các nhu cầu cụ thể về tri thức và nhân lực thì họ không biết ai
là người có thể làm được việc. Vì cung và cầu tri thức không gặp nhau nên trường
học buộc phải biến thành công cụ để cân bằng một thức cung – cầu khác, cung –
cầu bằng cấp và danh hiệu.
Lộ trình nào
để cung và cầu tri thức trong xã hội gặp
nhau?
1) Cải thiện phương pháp cung
ứng
Nhìn sang phương pháp cung ứng của các trường đại
học tiên tiến trên thế giới thì thấy rằng họ tổ chức nhiều hội chợ việc làm (job
fair) để các bên quan tâm có thể gặp được nhau. Ở đó, các nhà tuyển dụng và lứa
sinh viên chuẩn bị ra trường có cơ hội gặp được nhau. Từng nghe câu trai
khôn kén vợ chợ đông. Những hội chợ việc làm như vậy tạo điều kiện cho các
bên liên quan có hàng chục, hàng trăm lựa chọn một cách chủ động thay vì trông
chờ vào một hai lựa chọn mang tính thụ động. Yếu tố chủ động rất quan trọng. Nó
cho phép con người có sự chuẩn bị đầy đủ hơn để đáp ứng các đòi hỏi thiết thực
từ phía đối tác.
Hội chợ việc làm chỉ là một trong nhiều hình thức
để cung và cầu nhận biết lẫn nhau trong lĩnh vực giáo dục. Một trường đại học
tiên tiến còn phải tổ chức các hội thảo chuyên ngành, trong đó không chỉ các nhà
nghiên cứu và giảng dạy gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm, mà họ có cơ hội để trực
tiếp gặp gỡ các doanh nghiệp và tổ chức xã hội. Nhà nghiên cứu khoa học và nhà
giảng dạy phải biết xã hội cần gì thì mới có định hướng đúng cho hướng đúng cho
công việc. Qua đó nhân lực mà họ đào tạo ra mới đáp ứng được đòi hỏi của thị
trường.
2) Tạo cơ hội để sinh viên động
não
Có hệ thống cung ứng rồi nhưng để
bán được hàng về lâu dài thì sản phẩm phải có chất lượng đủ sức cạnh tranh. Sản
phẩm ở đây là nhân lực cho xã hội. Cần những con người nhìn ra vấn đề cần giải
quyết và những người giải quyết được vấn đề. Tóm lại là cần những người biết
cách động não.
Cách giáo dục đại học ở nước ta hiện nay chưa bắt
người học phải động não. Không có những buổi thảo luận giữa thầy và trò hay giữa
trò với trò, để phân tích góc cạnh các vấn đề học trên lớp. Không có những bài
thuyết trình diễn tập để người học thể hiện khả năng tổng hợp và chắt lọc nội
dung kiến thức. Ít ra trong giáo dục phổ thông thì với từng môn học còn có nhiều
bài kiểm tra và bài tập bắt buộc, nhưng đến cấp đại học thì các yêu cầu này sút
giảm hẳn. Chỉ có quá nhiều buổi học nối tiếp nhau trong đó người học chỉ ngồi
nghe câu được câu mất một cách thụ động. Như vậy là người học không phải động
não. Ngược lại, người muốn được động não thì lại không có cơ hội, không được
khuyến khích và khẳng định. Đây cũng là một vấn đề với bản chất cung – cầu không
gặp nhau.
Đội ngũ trợ giảng là cánh tay nối dài của
người giảng viên, giúp công tác giảng dạy đạt hiệu quả sâu và rộng
hơn.
|
3) Xây dựng hệ dữ liệu để tự hoàn thiện
mình
Chúng ta chỉ chấm điểm người đi học mà không cho
người đi học chấm điểm và nhận xét người đi dạy. Lại không có hệ thống trợ giảng
để truyền đạt nguyện vọng của người đi dạy tới các giảng viên, từ đó lưu giữ,
chọn lọc, và hệ thống hóa các nguyện vọng này vào phương pháp giảng dạy. Cũng
không có biện pháp lưu giữ các bài giảng, từ đó chọn ra bài giảng hay để người
sau học hỏi và rút kinh nghiệm từ người trước. Các thiếu sót này khiến người dạy
và người học xa rời nhau.
Các trường đều có phòng hợp tác phát triển nhưng không có bộ phận
thăm dò, khảo sát các ngành, nghề, các đơn vị doanh nghiệp, qua đó đoán biết thị
trường đang cần tri thức gì, năng lực gì. Đã có các hội thảo và lớp đào tạo ngắn
hạn để đối tượng khách hàng là các tổ chức chính trị, xã hội, các doanh nghiệp
tham gia hòng tiếp thu kiến thức và tìm nhân sự từ trường đại học; tuy nhiên do
thiếu sự hỗ trợ của những người trợ giảng nên người thuyết giảng chỉ cốt thuyết
phục người nghe chứ chưa chắc đã giúp giải quyết vấn đề cụ thể của từng người
nghe, càng không thể học hỏi thêm từ dòng thông tin phản biện từ phía người
nghe. Không có thông tin nên không thể lập thành kho dữ liệu, qua đó tự mình
chắt lọc lại kiến thức và định hướng làm việc cho phù hợp. Các thiếu sót này
khiến kho môi trường học thuật và thực tiễn đời sống xa rời nhau.
Việc để cho các trường đứng độc lập về tài chính
không có nghĩa là cắt trợ cấp từ NN cho giáo dục. Duy trì trợ cấp của NN cho đào
tạo giáo dục ở một mức độ nhất định là cần thiết vì đây là loại dịch vụ mang
đặc thù hàng hóa công cộng (public good). Tuy nhiên, không thể duy trì tình
trạng hiện nay ở nước ta, đó là các trường học vì ỷ lại vào trợ cấp mà không coi
cải thiện chất lượng là mục tiêu sống còn. Một chính sách giáo dục đã phổ biến ở
nhiều quốc gia là chú trọng trợ cấp cho người đi học thay vì trợ cấp cho các
trường học. Với cách làm này, người đi học được tự do lựa chọn trường đúng với
khả năng và nguyện vọng trong khi các trường sẽ phải chú trọng vào chất lượng
giảng dạy trong quá trình cạnh tranh nhau để tồn tại và phát
triển.
|
Nếu coi trường đại
học như một cơ sở sản xuất ra tri thức đáp ứng nhu cầu từ thị trường thì trách
nhiệm của nó là phải làm ra đủ để tự nuôi sống mình. Đã có không ít bài viết phê
phán thành quả giáo dục và nghiên cứu khoa học của Việt Nam căn cứ trên
số lượng ít ỏi những công trình nghiên cứu khoa học công bố trên các tạp chí có
uy tín của thế giới. Tuy nhiên, mấu chốt của việc công bố nghiên cứu khoa học là
sáng tạo ra những kiến thức mới cho nhân loại. Nhưng những kiến thức
hữu ích đóng góp thiết thực cho xã hội ta hiện nay đâu nhất thiết phải là kiến
thức mới cho thế giới?
Khi nào ta biết mình đã có đóng góp thiết thực?
Khi ta làm ra cái xã hội cần, được xã hội công nhận và trả công xứng đáng. Chưa
có nhiều bài nghiên cứu lý thuyết đóng góp vào kho tàng tinh hoa của nhân loại,
chưa đến mức phải buồn. Nhưng chưa có đóng góp thiết thực để xã hội có thể vui
vẻ trả công cho anh một cách sòng phẳng, đó là điều phải trăn
trở.
Xã hội nên khuyến
khích những trường học tự đứng vững về tài chính nhờ vào đáp ứng nhu cầu tri
thức (không phải nhu cầu bằng cấp) của xã hội. Động cơ để một người tự đứng độc
lập là được hưởng thành quả lao động chính đáng. Tức là không có giới hạn về thu
nhập, thu nhập tỉ lệ với lợi nhuận.
Giải pháp toàn diện để các trường
đại học cải thiện chất lượng giáo dục đại học bao gồm bốn mấu
chốt:
-
Phát triển
hệ thống cung ứng kết nối trường học với nhu cầu tri thức xã
hội.
-
Tạo hệ thống trợ giảng
để giúp học và người giảng dạy liên tục được động não.
-
Lập kho lưu
trữ thông tin để liên tục tự rút kinh nghiệm, tự cải thiện cho phù hợp với đòi
hỏi thực tiễn
-
Thu nhập
không giới hạn và tỉ lệ với thành quả từ công việc.
Bốn yêu cầu này có thể chưa khả thi cho nhiều trường đại học của
chúng ta. Nhưng rất hi vọng trong tương lai không quá xa sẽ có những cơ sở đi
tiên phong. Xã hội đang đòi hỏi bức thiết cải thiện chất lượng giáo dục và sẽ
đền đáp xứng đáng cho những cải cách đúng hướng.