Home » » ĐỜI SỐNG HUYỀN BÍ CỦA CON NGƯỜI-P2

ĐỜI SỐNG HUYỀN BÍ CỦA CON NGƯỜI-P2

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012 | 21:55

III

ÐỜI SỐNG CỦA CON NGƯỜI TRÊN CÕI THƯỢNG GIỚI VÀ SAU KHI CHẾT


Nay chúng ta nói về đề tài thứ ba, có lẽ là đề tài hứng thú nhất. Chúng ta sẽ nói đến cái Trí, cảnh giới của nó và sau khi chết đi, cái Trí của con người sẽ ra sao. Chư huynh nhớ rằng trong bài diễn thuyết đầu tiên tôi đã nói đến William Kingdon Clifford. Ông dùng danh từ chất khí tư tưởng, ông Clifford thuộc về phái “Bất khả tri luận” (Agnosticisme), ông còn có thể đi xa hơn thế nữa khi định nghĩa quan niệm triết lý của mình. Ông không tin rằng lương tri con người còn sống sau khi xác thân chết, nhưng ông nghĩ rằng cái lương tri cá nhân này sẽ trở về cái đại dương lương tri của vũ trụ. Cũng giống như các nhà bác học khác, ông luôn luôn thấy rằng mỗi khi sự sống hay sức mạnh biểu lộ ra thì có ngay một hình hài bằng vật chất dùng để làm vận cụ cho sức mạnh ấy sử dụng; vì vậy ông kết luận rằng vì tư tưởng là một hiện tượng hiển nhiên không sao chối cãi được trong thế giới chúng ta thì tất nhiên phải có một loại vật chất riêng biệt, ứng đáp với tư tưởng, nó có công dụng như là một hoạt động trường của tư tưởng và ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Cách lập luận này không vượt mức giới hạn của khoa học thường; nhưng nó không đi xa được nữa. Vậy ông nghĩ rằng trí khôn có thể tự biểu lộ qua chất khí tư tưởng cũng giống như những làn sóng dĩ thái tiếp xúc với thị giác, những làn sóng của không khí mang đến lỗ tai những rung động gọi là âm thanh. Dù chư huynh cùng với chúng tôi coi tinh thần con người như là một Trí khôn bất sinh bất diệt, hay là coi nó là một sự biểu hiệu nhất thời của lương tri, khi mà chúng tôi cho rằng có một loại vật chất tương ứng với Trí khôn đó, cũng như con mắt ứng đáp với ánh sáng, và lỗ tai ứng đáp với âm thanh thì chắc chắn chư huynh không cho chuyện đó vô lý. Theo chúng tôi hiểu thì cái Tinh Thần bất sinh bất diệt của chúng ta, hay là cái Tinh Thần vô thủy vô chung, muốn tiếp xúc với những Cõi Hạ Giới, phải lấy vật chất của những cõi đó đặng bao mình. Như chúng ta đã thấy trong kỳ hội họp đầu tiên, Tinh thần hiện ra như là Ý chí, Minh triết và sự Hoạt động Sáng tạo, cũng giống như thế, Tinh thần phải mượn Vật chất của ba cõi, Thượng Giới, Trung Giới và Cõi Trần, đặng làm cõi ba lớp áo khoác lên mình thì mới có thể biểu lộ ra được. Tôi nói: ba cõi hay ba cảnh giới, đây là cái điểm duy nhất mà tôi xin chư huynh hãy chấp thuận như một giả thuyết thôi, mỗi cảnh giới này đều khác biệt với những cảnh giới kia do kiểu mẫu của hạt nguyên tử căn bản của nó. Dĩ nhiên khoa học người đời không công nhận điều này. Chúng tôi chủ trương rằng những chất đặc, những chất lỏng hay những chất hơi – chúng tôi còn nói thêm cả chất dĩ thái nữa – chỉ là những sự phối hợp của nguyên tử căn bản Hồng Trần; cũng giống như thế, ở Cõi Thượng Giới và Cõi Trung Giới, hạt nguyên tử căn bản của mỗi cõi tạo thành mọi sự phối hợp; những trạng thái vật chất khác nhau chỉ vì tại hạt nguyên tử căn bản ấy xếp đặt theo nhiều kiểu khác nhau mà thôi. Ðã biết những trạng thái vật chất trong Cõi Trần dưới những hình thức chất đặc, chất lỏng, chất hơi, chư huynh có thể tưởng tượng ra những trạng thái đó trong Cõi Thượng Giới và Trung Giới và nghĩ đến một thế giới do chất khí tư tưởng lập thành, nơi đó tư tưởng tự biểu lộ.

Trong ba cảnh giới này, hai cảnh giới đóng kín lại đối với chúng ta, nghĩa là chúng ta không nghĩ thấu được những hiện tượng của chúng nó. Do khối óc, ta chỉ biết được một cảnh giới mà thôi, nhưng lương tri của ta tác động khắp cả ba cảnh giới. Vật chất thanh bai tế nhị nhất cũng có thật như vật chất dày đặc nhất. Tôi xin các bạn Ấn Ðộ đừng bàn cãi bây giờ về danh từ “có thật” này. Tôi không nói theo khoa siêu hình học. Nhưng chư huynh hãy nhớ rằng, trong Cõi Trần của chúng ta, chính nhờ cái vật chất thanh bai tế nhị này mà lương tri tiếp xúc được với ngoại giới. Chư huynh sẽ nói: Ðược rồi, như vậy là đúng lắm. Chúng tôi xin đồng ý với bà rằng chúng ta mà nghe được là nhờ những làn rung động của không khí mà lúc bình thường chúng ta không trông thấy được và những làn sóng dĩ thái giúp cho ta thấy được, mặc dù đối với chúng ta, chúng nó vẫn vô hình. Nhưng bà lại nói rằng còn có những loại vật chất khác di chuyển những sự hiểu biết riêng biệt đến lương tri. Xin chư huynh hãy biết rằng khối óc chư huynh đang tiến hóa, khối óc này chưa được hoàn thiện, nó đang phát triển, nó chưa được đầy đủ. Chư huynh đã làm phát triển cơ quan của ngũ giác trong xác thân và lương tri, đã sử dụng chúng để tiếp xúc với ngoại giới; cũng giống y như thế, bây giờ chư huynh phải làm phát triển trong khối óc hai cơ quan của đời sống tương lai, chúng sẽ giúp cho lương tri của con người, khi thức tỉnh và đang làm việc trong khối óc, biết được các hiện tượng của Cõi Trung Giới và của Cõi Thượng Giới. Dĩ nhiên là quan niệm này không phù hợp với quan niệm của khoa học ngoài đời nhưng sự hiểu biết của chúng ta về đề tài này đã được tăng trưởng đôi chút trong những năm gần đây. Hai cơ quan mà người ta rất ít chú ý đến là hạch mũi (corps pituitaire) và hạch óc tùng quả tuyến (glande pinéale). Những khảo cứu về hai hạch này khiến cho ta biết rằng tùng quả tuyến có phát tiết ra một chất ở bên trong và hạch mũi trong vài trường hợp làm cho xác thân nảy nở một cách bất thường. Các nhà bác học cũng nhìn nhận rằng nếu người ta uống rượu thì hơi rượu sẽ theo những lỗ hỏng bên trong mà bốc lên đến hạch mũi, đầu độc hạch này rất nhanh và rất nặng. Ðó là tất cả những gì mà khoa học đã nói về vấn đề này.

Còn chúng tôi, thì chúng tôi xin nói rằng nhớ hạch mũi chúng ta biết được những hiện tượng của Cõi Trung Giới. Trong tương lai, hạch này sẽ là cơ quan truyền đạt sự hiểu biết về những hiện tượng của Cõi Trung Giới đến lương thức con người khi y thức tỉnh. Do kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi cũng biết rằng nếu người ta cố gắng phát triển Thần nhãn và những giác quan khác thuộc Cõi Trung Giới, thì phải đề phòng cẩn thận, vì khi bắt bộ phận này của khi óc phải cố gắng nhiều quá, người ta có thể làm cho hạch mũi sưng lên [13], bệnh này rất khó chữa, không dễ dàng gì mà chữa khỏi hẳn được. Tôi chỉ nói điều này để chỉ rõ sự liên quan, còn chư huynh muốn suy luận cách nào cũng được.

Theo ý kiến chúng tôi, hạch óc (tùng quả tuyến) có nhiệm vụ làm cho khối óc tiếp xúc với Cõi Thượng Giới. Những sự sưu tầm ra mới đây thật là hữu ích về vấn đề này. Một nhà thần kinh học danh tiếng người Đức, ông Von Frank Hachwart đang tìm học nhiệm vụ của tùng quả tuyến. Ông nói rằng: tuy ông chưa đưa ra được một điều gì rõ ràng minh bạch, nhưng ông chắc chắn rằng có một sự liên quan giữa cơ quan này và cái trí của con người . Có một hiện tượng sinh lý mà người ta biết rõ, đó là vài ba chất do hạch đó tiết ra không thấy có ở trong khối óc của một đứa trẻ sơ sinh, hay của một người già hoặc của một người ngu. Người ta chỉ thấy những chất này trong óc của một người chết đi trong lúc trí khôn của y đang hoạt động. Ðó chỉ là một dấu hiệu – tôi không dám nói đó là một sự gì khác hơn là một dấu hiệu – mở đường khai lối cho những sự nghiên cứu vị lai. Và tôi không ngần ngại gì mà nói rằng – cũng như trước kia tôi đã nói nhiều lần, quan niệm của những người có Thần nhãn và những người Thần bí sau này sẽ được khoa học vị lai chấp thuận. Tôi không nhấn mạnh thêm nữa.

Vậy vấn đề này sẽ được giải quyết trong tương lai khi nào lương tri ta đang thức tỉnh mà cũng biết về những cảnh giới vô hình. Tôi xin nói quả quyết với chư huynh rằng người ta có thể có được Thần nhãn bằng cách cảm đến những cơ quan đó ở trong óc, đồng thời phải tham thiền trong một thời gian khá lâu. Một số người, ở ngay đây và ở cả nơi khác nữa, đã phát triển cái khả năng biết được và nhận xét được, trong khi thức tỉnh, những hiện tượng của Cõi Thượng Giới và Trung Giới. Tôi cũng xin nói với chư huynh về những người Thần bí khi đề cập đến một buổi diễn thuyết rất hay do vị Tu viện trưởng nhà thờ Saint Paul thuyết trình, chư huynh có thể đọc bài tường thuật trong nhật báo Times, báo này bình luận đôi ba nghi vấn được nêu lên.

Theo quan niệm của chúng tôi, cái Trí, hay là cơ quan của trí khôn trong xác thân ta, là do chất Thượng Thanh Khí cấu thành, và tư tưởng có nhiệm vụ tổ chức nó. Chư huynh càng tập luyện tư tưởng của mình, thì cái Trí của chư huynh càng được tổ chức chu đáo. Cái công việc sáng tạo của tư tưởng ảnh hưởng về phương diện vật chất đến khối óc, về phương diện trí thức nó làm cho trí khôn mở mang, về phương diện luân lý đạo đức thì nó đào tạo tính tình. Chư huynh hãy nhớ rằng chúng ta nói đến một phần ảnh hưởng của Năng lực Sáng tạo thiêng liêng, sự hoạt động của ngôi thứ ba của Ðức Thượng Ðế, Ngài đã sinh hóa các thế giới. Tinh thần chư huynh, Trí khôn chư huynh đối với chư huynh, thì cũng giống như Tinh thần Sáng tạo thiêng liêng đối với một vũ trụ, đó là cái khả năng sáng tạo duy nhất để chư huynh sử dụng, nhờ quyền lực đó mà chư huynh có thể tự cải tạo khối óc đến một mức độ nào đó, tự cải tạo rất nhiều trong phạm vi trí khôn, và tự cải tạo hoàn toàn trong phạm vi đức hạnh. Quyền lực này ở nơi chư huynh, chư huynh chỉ cần phải học cách sử dụng nó. Tôi sẽ rán chỉ cho chư huynh con đường phải theo nó và làm cho huynh thấy rằng quyền lực này là một Ðịnh luật của Thiên nhiên.

“Con người nghĩ đến điều gì thì y sẽ trở nên điều đó”. Câu này là một đoạn văn có trong Upanishads Ấn Ðộ mà đa số chư huynh đều biết. Salomon, vị vua Do Thái cũng diễn tả tư tưởng ấy như sau đây: “Con người nghĩ đến điều gì thì y chính là điều đó vậy”. Chư huynh muốn nói theo câu châm ngôn của nhà hiền triết Ấn Ðộ hay nhà hiền triết Do Thái điều này không quan hệ gì, cả hai vị đều dạy một định luật của thiên nhiên ngày nay thường bị lãng quên quá nhiều.

Về phần khối óc, tư tưởng có tính cách sáng tạo ảnh hưởng đến nó và kích thích nó phát triển. Chư huynh hãy lấy một cuốn sách hay dạy về cơ thể học và hãy học về cách cấu tạo của khối óc. Chư huynh sẽ thấy rằng khối óc của một đứa trẻ thì tương đối bóng láng nhẳn nhụi, khối óc của nhà tư tưởng chết đi trong lúc đứng tuổi thì có rất nhiều những nếp răn, những làn xoay vần gọi là não hồi. Và nếu chư huynh đọc một cuốn sách về sinh lý học chứ không phải cuốn sách cơ thể học, chư huynh sẽ thấy rằng khối óc có một số tế bào lớn có cái hột nhưng mà số tế bào này tương đối ít ỏi. Ở trong óc của một trẻ sơ sinh thì những tế bào này triệt để rời xa nhau ra. Sau khi trẻ đã lên bảy tuổi rồi thì chúng bắt đầu nối liền với nhau bằng những cái cuống từ những tế bào đó đâm ra. Khi tư tưởng phát triển, khi đứa trẻ bắt đầu lý luận, phán xét, so sánh thì trí khôn tác động trên khối óc là khí cụ của tư tưởng, nó kích thích sự tăng trưởng của cái óc và biến đổi những tế bào của cái óc. Những tế bào này đâm ra những rễ nhỏ. Những rễ này tiếp hợp với nhau và dần dần tạo thành một thứ lưới nối liền tất cả những tế bào lại với nhau. Những tế bào này không tăng số lượng, nhưng chúng trở nên to lớn hơn và các rễ nhỏ cứ càng nhiều mãi ra. Khi nhờ sự lập luận mà trí khôn của đứa trẻ càng ngày tiến tới thì chất của cái óc nở ra, và dụng cụ của tư tưởng thành hoàn hảo hơn. Vì vậy, nhiều y sĩ kết luận rằng nên tìm cách phát triển khiếu quan sát nhận xét hơn là khiếu lập luận ở một trẻ em dưới bảy tuổi; cũng không nên bắt em này phải có một trí khôn quá lớn, vì não tủy của nó chưa được phát triển đầy đủ. Như vậy, chư huynh thấy rằng, tư tưởng hoạt động có tính cách sáng tạo ảnh hưởng đến cả cái khối óc cứng rắn làm toàn bằng vật chất hồng trần dày đặc.

Nay chúng ta hãy nói đến tính nết. Tôi không hề có tham vọng rằng chư huynh đệ đồng ý với tôi về vấn đề này. Tôi chỉ xin chư huynh tự mình làm thử một thí nghiệm này để chứng minh rằng cái định luật mà tôi sắp nói đến đây là có thật. Theo một định luật của Thiên nhiên, khi trí khôn chú ý vào một đức tánh nào thì đức tánh đó sẽ dần dần thành một phần tử của tánh nết mình; về sau đức tánh ấy biểu lộ ra một cách tự động không khó nhọc chút nào. Vậy một người có thể tự ý mình mà xây dựng tánh nết mình một cách thích đáng chỉ cần phải hành động đúng với luật đó, tuân theo nó và kiên tâm trì chí tùy theo những sự kinh nghiệm đòi hỏi.

Ðây là phương pháp phải theo. Chư huynh hãy tìm hiểu tánh nết mình và chư huynh hãy ngừng lại ở một nhược điểm của mình như thiếu thành thực, hèn nhát hay nóng giận, hay là một tật xấu hay một thói xấu tệ hại nào đó. Khi chư huynh thấy rằng mình thường sa ngã trước tật xấu xa đó, thí dụ một người làm trái ý chư huynh thì chư huynh nổi giận, nếu chư huynh phải đương đầu với một sự nguy hiểm thì chư huynh tỏ ra hèn nhát, nếu gặp một sự khó khăn thì chư huynh lại nói dối để thoát thân; chư huynh hãy dẹp mọi chuyện đó qua một bên và đừng nghĩ đến chúng nữa. Chư huynh hãy nhấn mạnh vào cái tính tốt đối lập và đừng bao giờ nghĩ đến tật xấu nữa. Mỗi khi cái trí trụ vào một nhược điểm nào thì nhược điểm đó sẽ tăng trưởng, vì tư tưởng đã thêm sức cho nó; nó còn mãi thay vì biến mất đi. Dầu chư huynh chỉ hối tiếc thôi thì sinh lực của tư tưởng cũng khiến cho nhược điểm hóa ra mạnh mẽ; sự hối tiếc của chư huynh tăng cường cho nhược điểm và làm cho nó bám chặt vào tính nết mình. Hãy để nó lại ở phía sau . Ðừng bao giờ chư huynh để cho trí mình ngưng lại nơi đó cả, dù chỉ trong một lát thôi, nhưng chư huynh hãy nghĩ đến tính tốt đối lập lại. Chỉ thình lình nghĩ đến tính tốt thì không đủ đâu. Mỗi sáng khi ngủ dậy, trước khi đi ra ngoài và xen lẫn với người đời, chư huynh hãy định trí trong năm ba phút vài tính tốt mà chư huynh muốn xây dựng, tùy theo cái sức chú ý của mình. Mỗi sáng chư huynh hãy làm như vậy một cách kiên nhẫn, đừng nghỉ một ngày nào cả; nếu không thì hình tư tưởng mà chư huynh muốn có sẽ tan ra và huờn lại chất thượng thanh khí như trước. Rồi mỗi ngày, một cách tự nhiên, chư huynh phạm vào cái lỗi mà chư huynh đang tìm cách sửa chữa; chư huynh đừng lo chi điều đó; chư huynh cứ mỗi buổi sáng tiếp tục định trí đi, chư huynh hãy tập trung tư tưởng vào tính tốt mà chư huynh muốn có. Thí dụ chư huynh đang tìm cách hoạch đắc tính kiên nhẫn, buổi sáng chư huynh nghĩ đến tính đó, trong ngày hôm đó, nếu có ai làm cho chư huynh bực mình chư huynh sẽ đáp lại một cách quạo quọ, nhưng trong khi đang trả lời, chư huynh bỗng nghĩ rằng: “Ôi tôi muốn được kiên nhẫn biết bao.” Ðiều này không quan hệ gì cả. Khi nào chư huynh đã tham thiền về tính kiên nhẫn được bốn năm ngày, thì ngay khi những lời nói tức giận tự miệng chư huynh sắp thốt ra, chư huynh tự nhũ: “Tôi muốn kiên nhẫn.” Chư huynh cứ tiếp tục một cách bền chí, và chẳng bao lâu, cái tư tưởng kiên nhẫn sẽ hiện ra trước khi câu trả lời sắc bén được thốt ra. Cứ bền chí mà tiếp tục như thế đi, kết quả sẽ thu thập được nhanh hay chậm là tùy theo sự chú ý của chư huynh, tùy theo quyền lực tư tưởng của chư huynh, nhưng chẳng sớm thì muộn, tính hay tức giận sẽ biến mất và sẽ có tính kiên nhẫn thay thế vào. Chư huynh sẽ nhận thấy rằng chư huynh tự động lấy sự kiên nhẫn mà đáp lại sự khiêu khích, lấy sự dịu dàng mà đáp lại sự tức giận. Chư huynh đã xây dựng nơi mình tánh tốt mong muốn. Chư huynh có thể tham thiền nhiều cách, chư huynh tùy theo sự khéo léo của mình mà tự phác họa cho mình một chương trình. Khi còn trẻ, tôi hay tức giận nên một trong những phương pháp ưa thích của tôi là cố gắng làm tượng trưng cho tánh kiên nhẫn; trong khi tôi tham thiền, chư huynh không hề gặp một vị Thánh mẫu nào như tôi vậy. Dù ở ngoài giờ tham thiền, tính tôi có thế nào đi chăng nữa, nhưng trong giờ tham thiền đó, tôi là một người hoàn toàn triệt để, tuyệt đối kiên nhẫn. Trong trí, tôi tưởng tượng xung quanh tôi có đủ những người đáng ghét, những người đáng bực mình nhất mà tôi đã biết; rồi trong trí tưởng tượng, tôi phác họa một cách quá đáng những cử chỉ khiêu khích của họ, và cùng một lúc, tôi cũng tìm cách tăng trưởng tính kiên nhẫn của tôi theo cái đà đó. Tôi tưởng tượng trong trí một tấn bi kịch nhỏ trong đó người ta làm hết cách để chọc giận tôi, tôi trả lời những sự khiêu khích đó như là một Griselda [14] kim thời. Sau một thời gian, tôi nhận thấy rằng khi tôi gặp những người đó, họ không còn có thể nào làm cho tôi nổi giận được nữa. Tôi tự hỏi rằng: “Sao trước kia tôi lại cho họ là những người đáng ghét !” Một cách vô tâm, nhờ những sự cố gắng của tôi tính kiên nhẫn đã trở thành một phần tử cố hữu của hạnh kiểm tôi rồi. Mỗi người trong chư huynh đều có thể làm như vậy. Chư huynh hãy làm thử coi, vì một kinh nghiệm bé nhỏ do chư huynh làm còn có giá trị bằng một trăm bài diễn thuyết được nghe trong sự ngờ vực, không tin là đúng. Vì định luật là bất di bất dịch thì lẽ tự nhiên thế nào chư huynh cũng thành công. Theo lối đó chư huynh có thể hoạch đắc hết tánh tốt này đến tánh tốt nọ, cứ chú ý đến mỗi nét đặc biệt cho đến khi chư huynh thấy rằng mình giống với lý tưởng của mình thêm được đôi chút, tuy bây giờ chư huynh còn ở xa lý tưởng, nhưng rồi chư huynh cũng biết rằng mình đang leo lên núi và lý tưởng ở trên đỉnh núi đang chiếu sáng rực rỡ và vì thế cho nên chư huynh không chịu dừng lại nhịp bước ở chân núi. Tôi không đủ thời giờ để đưa ra những thí dụ khác nữa.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét đến trí khôn. Nếu chư huynh muốn phát triển nó một cách mãnh liệt, chư huynh phải suy nghĩ cho sâu xa, chư huynh đừng lo ngại vì phải cố gắng suy nghĩ. Mỗi ngày chư huynh phải đọc dù chỉ trong nửa trang thôi một cuốn sách khó hiểu để tập luyện trí thông minh của mình làm cho nó thêm mạnh mẽ. Nhưng tham thiền là một phương pháp rất tốt để phát triển cái Trí. Nhiều người trong chư huynh nghĩ rằng tham thiền chỉ là một lối công phu có tính cách thuần túy tôn giáo. Dĩ nhiên là có tính cách tôn giáo, vì tất cả những điều gì lành thiện đều ở trong phạm vi của tôn giáo; nhưng ngoài cái giá trị tôn giáo của nó ra, sự tham thiền còn có một giá trị lý trí nữa. Nó khiến cho ta có thể tập trung tư tưởng, không để cho một vật phù du làm cho ta lảng trí, lo ra, nếu không tham thiền, vật đó sẽ thu hút tất cả sự chú ý của ta; nhờ tham thiền ta định trí vào một tư tưởng duy nhất và không rời bỏ tư tưởng đó cho đến khi hoàn toàn hiểu thấu nó; đó là kết quả của sự tham thiền, vừa hữu ích ở cõi trần này, vừa cần thiết để chuẩn bị đời sống của ta ở bên kia cửa tử. Chư huynh chỉ cần tham thiền mười hay mười lăm phút mỗi ngày, chư huynh sẽ thấy quyền năng của tư tưởng mình được tăng cường. Sau khi tập luyện như vậy, những đoạn sách mà chư huynh đã đọc mà chưa được hiểu lúc ban đầu, nay bỗng trở nên rõ ràng dễ hiểu, vì con người có thể sửa đổi cái trí cũng như có thể sửa đổi hạnh kiểm của mình. Khi chư huynh đọc sách với mục đích phát triển trí khôn, thì chư huynh phải hiểu cho thấu đáo tư tưởng của tác giả, nếu ta xem những câu văn được viết ra thì thật là không đủ. Từ ngữ chỉ diễn tả được có phân nửa tư tưởng, và có khi còn ít hơn thế nữa; nếu chư huynh đọc nhanh một cuốn sách, giở hết trang này đến trang nọ, chỉ nhớ những điểm chánh thì trí khôn của chư huynh sẽ không phát triển được bao nhiêu. Chư huynh hãy chọn một đề tài khó hiểu và suy nghĩ vào một đoạn văn lâu hơn là khi đọc nó, điều này sẽ giúp cho trí thông minh của chư huynh được phát triển; ngoài ra chư huynh sẽ bỏ được cái tật xấu thông thường của thời đại hiện tại là tự đem sự chú ý của mình chia sớt cho hàng chục đề tài khác nhau, do đó mà chư huynh không hiểu biết một cách rõ ràng và sâu xa về một điều gì cả; trí khôn phải làm chủ đề tài của nó nghiên cứu.

Tư tưởng tạo cho trí khôn một thói quen. Chư huynh có bao giờ để ý thấy rằng khi ta đọc những nhật báo với các bài tường thuật ngắn nói về tin tức của mọi xứ trên hoàn cầu thì tư tưởng của nó bị tản mát đi, không chủ định lại được. Ngày nay ta cần đọc nhật báo; ta cần phải biết những gì xảy ra xung quanh ta. Nhưng muốn trừ thói bay nhảy của cái trí, chư huynh phải có một cuốn sách diễn tả một tư tưởng vững chắc và liên tục dù chư huynh có rất ít thời giờ để đọc nó. Ðiều này sửa chữa cái thói quen hay xao lảng của cái trí của chư huynh, một thói quen không sao tránh khỏi được, nó phát sinh từ việc đọc hằng ngày những bài báo ngắn. Bây giờ [15] ít có tờ nhật báo nào đăng tải một bài đúng đắn, bắt ta phải suy nghĩ. Những người bỉnh bút (biên tập viên) cố gắng tóm tắt đưa ra một ý kiến rồi để cho độc giả truyền đi. Ít khi một cột báo trình bày cho chúng ta một lý luận được chặt chẽ và liên tục, nhưng mỗi nhật báo đều dành một cột cho những bài ngắn độ mười hay hai mươi hàng chữ. Nếu người ta ưa thích những bài ngắn này hơn là những bài bắt buộc ta phải suy nghĩ, thì đó là dấu hiệu của một sự kém học thức giống như con bướm bay từ bông này đến bông khác, con người không thu thập được một món ăn đầy đủ cho những ngày sắp tới. Vì chúng ta bắt buộc phải đọc nhật báo nên chúng ta phải lấy sự tham thiền hay sự đọc sách mà suy nghĩ sâu xa để bổ túc vào những điều bất lợi cố hữu của sự thông tin của báo chí; như thế chúng ta sẽ không nhiễm cái thói quen có hại là đi từ đề tài này sang đề tài khác, chúng ta sẽ không phung phí sức lực trí não của mình, nếu không thì một khi chúng ta cần đến sức mạnh đó, nó đã mất đi rồi.

Một thói quen trọng hệ khác là sự làm chủ tư tưởng. Xin hỏi đã có bao nhiêu người trong chư huynh đã làm chủ tư tưởng được, dù trong một mức độ nhỏ bé. Cái Trí của chư huynh đã chẳng ngự trị chư huynh đó sao ? Muốn kiếm bằng cớ về việc này thì thật là dễ dàng. Một sự lo lắng có làm cho chư huynh mất ngủ chăng ? Nếu như vậy thì chính là cái Trí của chư huynh nó đã sai khiến chư huynh, chớ không phải chư huynh làm chủ nó. Cái Trí của chư huynh phải tùng phục chư huynh cho đến đỗi nếu ban ngày chư huynh đã lo nghĩ việc nào rồi, thì ban đêm chư huynh phải đuổi sự lo nghĩ đó ra khỏi trí mình, chư huynh phải có thể suy xét mà không cho nó thâm nhập trí óc mình khiến cho ngày hôm sau chư huynh phải kiệt sức. Chư huynh phải làm chủ tư tưởng mình, cho đến đỗi chư huynh không băn khoăn bứt rứt. Người ta công nhận rằng những nỗi lo âu làm hao mòn con người, còn công việc thì không bao giờ có điều đó. Những nỗi lo âu giống như một cái máy mà những bánh xe quay cuồng không mục đích và như vậy máy sẽ hư hỏng một cách nhanh chóng hơn là khi máy chạy một cách hữu ích. Khối óc của chư huynh là một cái máy. Chư huynh đừng để cho tư tưởng làm cho cái óc mỏi mệt khi tư tưởng đó không tạo được điều gì có ích. Chư huynh phải canh gác cửa ra vào và giữ chìa khóa, và để ra ngoài tất cả những gì không cần thiết và những điều này chính là tất cả những gì không cần nghĩ tới trong lúc đó. Làm như thế mới là khôn ngoan, không bao giờ được nghĩ đến một vấn đề làm cho ta rối trí, trừ ra khi nào nó có thể tăng gia quyền năng của ta để giúp ta vượt qua những nỗi khó khăn; và điều này không thể áp dụng cho hai chữ bứt rứt. Bứt rứt nghĩa là cứ nhớ đi nhớ lại mãi một nỗi u buồn, nghĩ đến những điều mà người này hay người nọ sẽ nói ra. Chư huynh hãy bỏ những ý nghĩ đó, nếu chư huynh chú trọng đến quyền năng của tư tưởng. Chư huynh phải kiểm soát cái Trí, chư huynh phải bắt cái Trí tuân theo mạng lịnh của ý chí của chư huynh.

CÕI THƯỢNG GIỚI CÓ THẬT. Khi nói về tư tưởng, tôi đã bảo rằng nó tự biểu lộ nơi cõi trần này nhờ khối óc, trong lương tri ta khi ta thức tỉnh. Nhưng cái cõi riêng biệt của tư tưởng, cõi Thượng giới cũng có thật – còn “thật nhiều” hơn là cõi Hồng trần nơi chư huynh sống đây. Ở cõi Thượng giới, đúng như người ta nói, những tư tưởng là những vật, chúng có hình hài rõ ràng, nên người ta nhận biết được chúng; mỗi khi chư huynh suy nghĩ, chư huynh ảnh hưởng đến chất Thượng Thanh Khí xây dựng những hình tư tưởng, những hình này có thể truyền đi xa. Chư huynh đã hiểu bầu không khí tư tưởng là gì. Mỗi quốc gia có một tư tưởng đặc biệt. Chư huynh không sao hiểu nổi một hiện tượng thuộc về trí não, nếu chư huynh không thoát ra khỏi bầu không khí tư tưởng của xứ sở của chư huynh và cách suy nghĩ của chư huynh nữa. Chúng ta hãy xem xét những quốc gia trước khi họ đánh nhau. Ða số những vụ xung đột đều phát sinh từ những vụ hiểu lầm nhau. Trước một sự việc đã xảy ra, họ đều thấy một cách khác nhau. Một người Pháp và một người Đức không thể có một quan điểm giống nhau trong sự nhận xét về vấn đề Alsace Loraine được. Cái bầu không khí quốc gia của mỗi người làm cho họ thấy vấn đề này sai lạc. Luôn luôn bầu không khí tư tưởng đó bao vây chúng ta; tại xứ Ấn Độ nơi đó nhiều giống dân sống chung đụng với nhau, phân nửa trong số những sự hiểu lầm đều phát sinh tự cái bầu không khí quốc gia đặc biệt nó bao bọc mỗi người. Mỗi người hiểu và nhận xét tất cả những vấn đề, tất cả những sự cảm xúc, tất cả những sự hành động của đồng loại xuyên qua bầu không khí đó. Người Ấn Độ nhìn xét mọi việc xuyên qua một bầu không khí Ấn Ðộ, và người Anh thì xuyên qua một bầu không khí Anh; vì vậy tình trạng bất hòa mới xảy ra. Ða số những tai họa không phát sinh tự những sự bất đồng ý kiến thật sự mà phát sinh tự những sự hiểu lầm, mỗi bên đều muốn bắt đối phương phải chấp thuận những ý kiến phát sinh do lớp vỏ tư tưởng của mình nó hoàn toàn khác hẳn với đối phương.

Bởi vì những tư tưởng, những hình tư tưởng đó là những vật bao vây chúng ta, và mọi tư tưởng đều có thể truyền đi xa. Cái lối chuyển di tư tưởng đặc biệt mà người ta gọi là Thần giao cách cảm là một trường hợp đặc biệt của sự chuyển di tư tưởng (một người tự ý mình gởi một tư tưởng đến kẻ khác bằng cách cố gắng truyền cho họ cái tư tưởng phát sinh nơi mình). Chư huynh cũng có thể làm thử thí nghiệm này nữa, tuy nó khó hơn cái trước. Ðể khởi đầu, hai người trong chư huynh cùng ngồi trong một gian phòng, cách xa nhau chút đỉnh, quay lưng lại với nhau. Một người phải cố gắng tưởng đến một vật gì nhất định một cách hết sức mạnh mẽ, như một cái hình tam giác hay một cái hình kỷ hà học nào đó, vì đó là một việc dễ làm. Một người thì tư tưởng, còn người kia thì rán hết sức mình để cho trí óc mình trống rỗng; mỗi người đều có một cái bút chì và một mảnh giấy. Một người lập lại tư tưởng trong trí mình, còn người kia vẽ cái hình đó đột nhiên hiện ra trong trí y mà đừng bàn cãi gì về nó, cũng đừng tự hỏi nó có đúng không. Ðó là một trong những điều kiện khiến cho sự thí nghiệm này thành công. Sau một hay là hai tuần lễ, chư huynh đổi ngược lại vai trò sau khi so sánh kết quả của sự gởi tư tưởng đi và sự tiếp thu tư tưởng. Không phải một người cứ tiếp thu tư tưởng mãi, như thế y trở nên thụ động quá, thụ cảm quá đối với những cảm giác bên ngoài. Chúng ta không nên thụ động ở một thế giới như cõi Trần của chúng ta đây, có biết bao nhiêu tư tưởng xấu xa bao vây chúng ta. Khi chư huynh nhận thấy mình thành công nhiều lần, chư huynh cũng cứ tiếp tục thí nghiệm như thế, nhưng mỗi người ngồi riêng trong một cái buồng, rồi mỗi người ngồi riêng trong một căn nhà khác nhau: sau hết chư huynh hãy thí nghiệm ở cách xa nhau, càng xa nhiều chừng nào càng tốt chừng nấy. Trừ phi chư huynh khác hẳn với hằng trăm người cũng đã thí nghiệm như thế rồi (Hội Khảo cứu Tâm linh đã ghi được rất nhiều kết quả như thế), chư huynh sẽ thấy rằng tư tưởng gởi đi và tư tưởng nhận được càng ngày càng giống nhau; về sau chư huynh có thể dùng phương pháp này một cách chắc chắn như dùng vô tuyến điện, cái điều mà người ta thu nhận được bằng máy điện báo, bằng sức mạnh của điện khí, thì chư huynh dùng sức mạnh của tư tưởng mà thâu nhận được vậy.

NAY TÔI XIN NÓI ÐẾN TRẠNG THÁI SAU KHI CHẾT TRÊN CÕI THƯỢNG GIỚI.

Một phần của cõi Thượng Giới là nơi mà ta gọi là Thiên Đàng – Svarga – nơi chôn nhau cắt rún và nơi cư ngụ thiệt thọ của chư huynh. Khi chúng ta bắt đầu học hỏi về Thượng Giới bằng thể Trí – chư huynh nên nhớ rằng dân cư bình thường của cõi này hằng sống trong cái Trí – chúng ta nhận thấy rằng những người tự cõi Trung Giới đi sang cõi Thượng Giới này, phải cởi bỏ thể Vía của mình ra, giống như khi mới chết họ đã để lại ở cõi Hồng Trần xác thân họ. Vậy, khoác lên mình một cái thể Trí mà họ đã sử dụng khi còn sống, họ đi vào cõi Thiên Ðàng, nó là một phần của Thượng Giới, họ được che chở, không còn có những nỗi đau khổ buồn rầu, khó khăn, nơi đó họ sống một cuộc đời cực lạc, sung sướng vô cùng và tiếp tục sự tiến hóa mà họ đã khởi đầu khi họ còn sống ở cõi Trần.

Chư huynh có thể chia sơ lược những dân cư cõi Thiên Đàng này ra làm bốn hạng:

1/ Những người hồi còn ở trên thế gian đã đặc biệt có những mối tình thương đậm đà nhưng vô tư lợi, nhất là đối với những cá nhân, gia đình, bạn bè v. v. . . Họ sống trong một thời gian rất lâu với những người mà họ đã mến yêu nơi trần thế, trong một sự thân mật hơn, khắn khít hơn, hoàn toàn hơn là khi còn bức tường xác thịt chia cách họ.

2/ Hạng thứ hai gồm những tín đồ các tôn giáo dù Đấng Thiêng Liêng mà họ thờ phượng là vị nào, và dù họ là người Cơ Ðốc Giáo, Ấn Ðộ Giáo, Phật Giáo, Bái Hỏa Giáo hay là Do Thái Giáo, điều này cũng không quan hệ. Hình thức vẫn vô số nhưng ở nơi những vị mà chư huynh tôn sùng, sự sống chỉ là một mà thôi; lẽ tự nhiên tất cả những tư tưởng, tất cả những hoài vọng đều dâng lên một vị Thượng Ðế duy nhất mà thôi. Chư huynh hãy gọi Ngài bằng cái từ ngữ thích hợp nhất với mình; cái nhãn hiệu bề ngoài không quan hệ, tấm lòng của Thượng Ðế bao hàm tất cả. Những ai trong khi sống ở cõi Trần đã thờ phượng một hình hài đặc biệt, thì khi lên Thiên Ðàng, họ lại tìm thấy hình hài ấy tượng trưng cho Thượng Ðế trong những hoài vọng Hồng Trần của họ. Vì Thượng Ðế luôn luôn ẩn tàng trong cái hình hài thân mến của tín đồ; trên cõi Thiên Ðàng, không ai là một người xa lạ cả. Mỗi người đều thấy rõ ở đây cái lý tưởng cao siêu nhất của mình.

3/ Rồi đến một hạng người rất đông, những ai đã mến yêu, nhưng một cách rộng rãi và phong phú hơn: đó là những người thương yêu nhân loại, làm những việc hữu ích cho con người, những ai vì mến yêu tôn giáo đã hi sinh một phần lớn những tiện nghi và thú vui để giúp đỡ các đồng loại mình. Họ mãng chăm lo trù hoạch phác họa những dự định, nghiên cứu những phương pháp để đem thực hiện trong tương lai đặng giúp đỡ thế gian. Giống như kiến trúc sư hoàn thành những bức họa đồ của mình, họ cũng hoàn thành cái tòa lâu đài bác ái và phụng sự mà họ sẽ xây dựng trong những thế kỷ vị lai để giúp đời.

4/ Trong hạng thứ tư có những đại tư tưởng gia, những đại nghệ sĩ, những ai áp dụng sự công bằng vì yêu mến sự công bằng chớ không phải vì cái phần thưởng mà tôn giáo mang ra để lòe mắt họ; những ai đi tìm kiếm sự hiểu biết, những ai trau dồi nghệ thuật. Tất cả những người đó đều ở Thiên Ðàng, gặt hái những gì mà họ đã gieo và gieo thêm hạt cả trên đó nữa, tùy theo cái kết quả mà họ vừa gặt được, để cho ở một kiếp phụng sự vị lai, họ lại gặt hái được nữa.

Tôi đã nói quá nhanh về đề tài này, nhưng nó thật là quá rộng rãi khi nghiên cứu về vấn đề này, chư huynh bắt đầu hiểu rằng cái đời sống ở Thiên Ðàng là cái kết quả trực tiếp của đời sống của mình nơi Ðịa cầu. Nếu chư huynh vun trồng lòng bác ái, chư huynh hãy mến yêu hết sức mình; người yêu của chư huynh có xua đuổi chư huynh, bạn bè của chư huynh có phản bội chư huynh, điều này không quan trọng. Tình yêu không thể nào chết được. Nếu mặc dù ác ý, mặc dù phản bội, mặc dù sự láo dối, chư huynh cứ vững lòng thương yêu, thì rồi trên cõi Thiên Ðàng, bạn bè của chư huynh sẽ trở lại với chư huynh, điều gì đã mất đi nơi thế gian, chư huynh sẽ lại tìm thấy nó nơi Thiên Ðàng. Nhưng muốn được như vậy, chư huynh đừng có chán nản trong tình thương bởi vì phải đem dệt sợi chỉ vàng ở trên Thiên Ðàng thì không nên để bị cắt đứt ở cõi Trần này. Ðối với những ai trong chư huynh thờ phượng một hình ảnh Thiêng Liêng thì cũng thế. Chư huynh đừng cảm thấy bối rối khi thấy lòng mình lạnh lùng, lãnh đạm; đó không phải là đời sống thiệt thọ của chư huynh đâu, đó chỉ là những cảm xúc của chư huynh khi lên khi xuống như dòng nước thủy triều. Chư huynh hãy giữ cho tấm lòng Sùng tín của mình được trong trắng và mạnh mẽ, và trên cõi Thiên Ðàng, chư huynh sẽ quì dưới chân Thần tượng của mình trong nhiều thế kỷ lâu dài, chư huynh sẽ thưởng thức cái Diễm Phúc Vô Tận Vô Biên nơi đó qui tụ những hoài vọng của chư huynh; sẽ không có một tấm màn nào ngăn cách trái tim của chư huynh với trái tim của Ngài. Nếu chư huynh muốn hoạch đắc sự hiểu biết, chư huynh phải gieo hạt ở cõi Trần này. Chư huynh phải khởi sự tại nơi đây cái việc mà chư huynh sẽ tiếp tục trong cõi Thiên Ðàng; lúc đó chư huynh sẽ gặp những nhà đại văn hào mà khi còn ở cõi Trần, chư huynh đã đồng một quan điểm với họ. Chư huynh sẽ được tự do lựa chọn bạn bè vì trên cảnh giới này, người ta được sum họp với những ai đồng tâm đồng chí với mình; trên những quãng vô tận của cõi trời, chư huynh sẽ sống thân mật với những đại văn hào đó, những người mà chư huynh đã có thiện cảm về mặt tư tưởng khi xưa. Nếu chư huynh có xu hướng về nghệ thuật và nếu những tác phẩm của chư huynh không được xuất sắc, chư huynh hãy có hoài vọng luôn luôn tiến lên cao và tiếp tục chiến đấu; dù cách cấu tạo còn vụng về, thì đó cũng không quan trọng gì, không một sự cố gắng nào của chư huynh lại bị mất đi cả. Nơi Thiên Ðàng, chư huynh lại tìm thấy những hoài vọng đó, chúng sẽ là những tài liệu cho chư huynh làm việc.

Nếu lý tưởng của chư huynh là phụng sự nhân loại, làm nhẹ bớt gánh đau khổ của thế gian, an ủi những nỗi thương tâm của con người, tìm một giải pháp cho những nỗi cơ hàn của nhân loại, chư huynh hãy cố gắng cho nhiều, hãy kiên tâm chiến đấu nơi cõi Trần; vì tất cả những gì ta ham muốn nơi Hồng Trần, thì sẽ được biến thành quyền năng trên cõi Trời; những hi vọng và những hoài vọng sẽ trở thành những năng khiếu khiến ta thực hiện được những sở nguyện đó; điều này giống hệt như một người muốn dệt một tấm lụa tuyệt đẹp: họ thu lượm nơi đây một sợi chỉ màu này, nơi kia một sợi chỉ màu khác, chỗ nọ vài ba sợi chỉ vàng, rồi những sợi chỉ bạc. Tất cả những sợi tơ và sợi kim tuyến đó gom góp lại, y sẽ ngồi tại nhà y, trước khung cửi và sẽ dệt tấm áo tuyệt đẹp sẵn sàng để mặc, đó là sự liên hệ giữa đời sống Hồng Trần và đời sống trên Thiên Ðàng. Nơi trần thế này chư huynh thâu thập những mối hi vọng, những tư tưởng, những hoài vọng huy hoàng, chư huynh góp những sợi chỉ đó lại mang chúng về nơi cư ngụ thiệt thọ của mình, khi chư huynh bước qua cửa tử đặng đi đến cõi Thiên Đàng; nơi đó tư tưởng được biến thành quyền năng. Nơi đó chư huynh tự dệt cho mình tấm áo mà chư huynh sẽ mặc lại khi đầu thai xuống Trần. Không một hoài vọng nào bị quên lãng, không một tư tưởng nào bị mất đi, không một món báu vật nào bị chiếm đoạt. Sự đau khổ sẽ biến đổi thành quyền năng, những nỗi đau đớn giống như một vòng gai nhọn sẽ trở thành những vòng trân châu sáng ngời, vòng trân châu này tượng trưng cho quyền năng cứu rỗi nhơn loại; vì mỗi đau khổ đều chất chứa bên trong cái mầm mống của một năng lực mới, như Edward Carpenter đã nói. Ðó là sự liên quan giữa đời sống Hồng Trần này và đời sống nối tiếp trên Thượng giới. Chư huynh phải hiểu nó, đó là một việc quan trọng, vì nếu đời sống Hồng Trần của chư huynh nghèo nàn về tư tưởng và hoài vọng, thì đời sống Thiên Ðàng của chư huynh cũng sẽ nghèo nàn; trên Thiên Ðàng, chư huynh không thể bắt đầu làm một việc mới; lý do này rất giản dị, ở cõi Trần, tư tưởng đã xây dựng nên thể Trí của chư huynh, và chỉ khi nào lên cõi Thượng Giới chư huynh mới tiếp xúc với những sự vật mà chư huynh đã nghĩ đến khi còn sống. Chư huynh phải làm việc với những tài liệu đó.


THỂ TRÍ.


Trong lúc sinh tiền, tư tưởng của ta rút chất Thượng Thanh Khí đặc biệt phù hợp với nó để nuôi dưỡng thể Trí và chỉ có chất Thượng Thanh Khí đó mới khiến cho con người tiếp xúc được với Thượng Giới. Ngoài nó ra không có dụng cụ nào khác để tiếp xúc, và vì thế cho nên đành phải bó tay trước chất Thượng Thanh Khí đã làm ra cái Trí của y. Y không nhận thức được bất cứ sự vật gì ở xung quanh y, nếu y không có những cơ quan giúp y tiếp xúc được với các sự vật ấy. Cũng giống y như thế, ở cõi Trần chúng ta không nhận thức được hằng hà sa số những làn rung động; chúng ta không ứng đáp được với chúng bởi vì chúng ta không có cơ quan thích hợp. Vì hiện giờ chúng ta vô ý thức nên không biết rằng ta thiếu thốn một vật nào đó; ở bên kia cửa tử thì cũng giống hệt như vậy. Nhưng mà chúng ta có thể ứng đáp với những làn rung động ấy thì chân trời của đời sống càng trở nên rộng rãi hơn.

Ðó là những vật liệu duy nhất để cho huynh sử dụng, và nếu chư huynh thiếu chúng thì chư huynh không thể làm gì khác được. Ðiều này làm cho chư huynh thấy rằng đời sống hiện tại của mình thật là vô cùng quan trọng. Nó cung cấp cho chư huynh những tài liệu của đời sống ở Thiên Ðàng; đời sống này phong phú nhiều hay ít tùy theo cái sống kinh nghiệm quí báu mà chư huynh đã thu thập được. Chư huynh hãy đứng về phương diện ấy mà xem xét; chư huynh hãy tự phán xét lấy mình, hãy suy xét những quyền năng của riêng mình, những khả năng của mình, và hãy bắt đầu làm ở tại đây những gì mà chư huynh muốn tiếp tục ở Cõi cao.

Trước đây, tôi có đề cập đến một buổi diễn thuyết của ông Tu viện Trưởng nhà thờ Saint Paul. Nói về nhà Thần bí Cơ Ðốc, ông bảo: “Tất cả những nhà Thần bí đều cho rằng lúc nào Thiên Ðàng cũng ở xung quanh ta đây”. Và điều này thật là rất đúng vậy. Do thể Trí của chư huynh tiếp xúc được với cõi Thượng Giới, vì Thiên Ðàng là cõi Thượng Giới như tôi đã nói với chư huynh; tuy nhiên cõi Thiên Ðàng là một miền của cõi Thượng Giới được che chở một cách đặc biệt. Vậy thì chư huynh có thể đem cõi Thiên Ðàng lại với mình tùy theo sự phát triển thể Trí của chư huynh và tùy theo cách chư huynh sống và thức tỉnh ở cõi đó càng ngày càng nhiều hơn trước. Giữa những âm thanh hỗn loạn của cõi Trần này, chư huynh có thể nghe thấy những khúc nhạc thiêng liêng, chư huynh có thể mang cái ánh sáng rực rỡ, cái diễm sắc, cái vẻ huy hoàng của Thiên Ðàng vào trong miền u tối và xấu xa của Trần gian. Đó thật là cái điều mà Saint Paul muốn nói khi Ngài bảo: “Chúng ta là dòng dõi của nước Thiên Ðàng. Chúng ta từ Thiên Ðàng xuống Trần, và chúng ta cũng sẽ về nơi đó”. [16] Nếu chư huynh nhớ kỹ điều này thì chư huynh cũng như bao kẻ khác sẽ không bao giờ có ý muốn hỏi rằng: “Trên Thiên Ðàng, tôi có nhận ra những bạn hữu của tôi không”. Vì chư huynh bao giờ cũng sẽ là chính chư huynh, không hề có sự thay đổi. Chư huynh cũng vẫn cùng mang một thể Trí như bây giờ, chư huynh đang suy nghĩ trong đó, và chư huynh sẽ gặp những bạn bè của mình với những thể Trí mà họ đang mang trong lúc này đây. Vậy chư huynh sẽ nhìn nhận được họ, chớ không sao có thể khác được. Những sợi dây liên kết chư huynh với bạn bè không phải có tính cách vật lý mà thôi; chư huynh cũng đã liên kết với họ bởi những cảm xúc và trí thông minh nữa, đó là những sợi dây của chính chư huynh chớ không phải của những lớp vỏ, quần áo của chư huynh mặc. Một người cũng có thể nói: “Chiều nay khi về tới nhà, tôi cởi áo choàng ngoài ra, và vợ tôi thay đồ mát thì tôi có sẽ nhận ra được nàng không? ” Thế nào chư huynh cũng sẽ nhìn nhận ra những người thân mến, những người mà chư huynh cảm phục. Còn những kẻ thù của chư huynh? Không, chư huynh sẽ không hề gặp họ đâu. Họ cũng sẽ hưởng hạnh phúc nơi Thiên Ðàng, nhưng sẽ không thể có sự gặp gỡ đáng tiếc giữa họ và chư huynh, vì nơi Thiên Ðàng, tình thương yêu là Ðịnh luật tối cao; và lòng thù hận không tìm thấy được thứ vật chất nào để tự biểu lộ được. Vì thế đời sống của chư huynh chỉ là một. Hiện nay chư huynh sống ở cả ba cảnh giới. Ðể khởi đầu, xin chư huynh coi quan niệm này như một giả thuyết. Rồi nếu những sách mà chư huynh đọc đã giúp cho những tư tưởng đó được mạnh mẽ thêm thì chư huynh hãy tự mình học hỏi mình dưới ánh sáng của những ý niệm ấy, và chư huynh hãy xem thử coi chúng có soi sáng cho nhiều chỗ tối tăm chăng, chúng có giúp chư huynh hiểu được rành rẽ những người xung quanh và tự hiểu lấy mình không. Nếu chư huynh nắm vững được điều này, chư huynh sẽ có hi vọng, vì dù bây giờ chư huynh vẫn ít tiến bộ trên con đường phát triển mà chư huynh muốn theo đuổi thì điều đó cũng không quan trọng gì. Chư huynh hãy hết sức vun trồng những khuynh hướng của mình, và rồi trên cõi Thiên Ðàng một sức mạnh mới mẻ sẽ làm cho chúng trở nên nồng nhiệt hơn; chư huynh hãy trau dồi những thiên tư của mình một cách sốt sắng, và ở bên kia cửa tử, chư huynh sẽ được đền bù lại công lao khó nhọc một cách rộng rãi. Nhưng nếu chư huynh bóp nghẹt hoài vọng và năng khiếu của mình thì mùa gặt trên Thiên Ðàng sẽ thất bát vì chư huynh chưa làm đầy đủ những điều kiện cần thiết để khi lên Thiên Ðàng, chư huynh sống được một cuộc đời lâu dài và sung sướng.

Nhưng nếu chư huynh không chấp nhận được quan niệm Thông Thiên Học, nếu quan niệm này không phù hợp với những sự hiểu biết mà chư huynh đã hoạch đắc được, thì ít ra chư huynh hãy để cho quyền năng sáng tạo của tư tưởng trở thành một sự luyện tập thường lệ đối với mình, và chư huynh hãy nhận định rõ sự luyện tập ấy là như thế nào. Tất cả chư huynh đều nghe người ta nói đến những tư tưởng nhất định chúng ám ảnh con người. Có khi vì vậy mà ta sinh ra điên khùng, có khi tư tưởng đó khiến một người tầm thường trở nên một vị anh hùng. Tư tưởng nhất định của một người điên là một ý niệm sai lầm không phù hợp với thiên nhiên, mà cũng không phù hợp với những việc xung quanh. Kẻ điên tưởng rằng người y làm bằng thủy tinh và vì vậy y cứ sợ nó bể đi mãi, y là một người điên vì tư tưởng nhất định của y sai lầm. Nhưng chư huynh hãy xem xét về tư tưởng nhất định của một người đại ái quốc như ông Arnold Von Winkelried; khi thấy hàng ngũ chặt chẽ của quân địch và thấy dân quân do ông chỉ huy lùi bước trước cái mũi giáo song song của đoàn quân Áo thiện chiến, ông bèn xông tới trước quân thù, giơ hai tay ôm lấy những ngọn giáo khiến cho bao nhiêu mũi giáo nhọn đều đâm vào ngực ông, ông hi sinh đời mình để thọc phủng hàng ngũ quân địch, những người của ông mới phá tan hàng rào quân địch được và mới thắng trận. Tư tưởng nhất định của ông là lòng yêu nước, nó đã làm cho ông thành một vị anh hùng hi sinh đời mình để cho tổ quốc được độc lập.

Phải xem xét về bản chất của tư tưởng nhất định; sự quan trọng tối cao là tư tưởng đó phải đúng với sự thật, tư tưởng nhất định bắt buộc chư huynh phải vâng lời nó một cách mù quáng bất chấp mọi lý luận, mọi bằng chứng, mọi ý kiến của một người bạn; bỏ qua cả những quyền lợi của chính chư huynh nữa; tư tưởng nhất định ra lịnh và chư huynh vâng lời, dù cho có sự gì xảy đến cho chư huynh trong cõi đời phù du này cũng mặc.

Khi tư tưởng nhất định cao thượng và đúng với sự thật, thích hợp với cơ tiến hóa, tượng trưng cho những hi vọng cao nhất của chư huynh, những tư tưởng nhân từ nhất, khoan dung nhất, những hoài vọng cao cả nhất, thì ta gọi nó là một Lý Tưởng.

Mỗi người cần phải có một lý tưởng, nhất là đối với những người trẻ tuổi nhất trong chư huynh, những thanh niên. Hãy chọn lý tưởng của mình lúc còn xuân xanh và đến khi tuổi cao tác lớn, chư huynh sẽ thực hiện gần được nó. Người ta không thể sống một cách khôn ngoan, đúng đắn, nếu người ta không có một lý tưởng để hoài vọng, một lý tưởng mà chư huynh yêu quí hơn bất cứ vật gì mà đời có thể hiến cho chư huynh và hơn bất cứ cái gì mà người ta có thể tìm được. Vậy thì chư huynh phải có một lý tưởng mỗi buổi sáng, chư huynh hãy nghĩ đến nó trong chốc lát và dần dần chư huynh sẽ thành ra phản ảnh của lý tưởng đó. Giống như hình dáng của chư huynh phản chiếu trong một tấm gương, lý tưởng của chư huynh sẽ thành hình trong trí chư huynh và chư huynh sẽ giống y cái điều mà chư huynh thường suy nghĩ đến, cái điều mà chư huynh tôn kính. Chư huynh đừng sợ hãi mà không dám nêu lên cho mình một lý tưởng quá đẹp đẽ, quá cao thượng, chư huynh đừng nghĩ rằng chư huynh sẽ không đạt được nó; nội một việc nghĩ ra lý tưởng đó cũng là một sự bảo đảm cho sự thành công của chư huynh. Tất cả những gì mà chư huynh có thể tưởng tượng ra trong trí, chư huynh sẽ có thể thực hiện được sau này; chung cuộc, tất cả những mối hi vọng của chư huynh đều sẽ thành tựu. Ðời sống của chư huynh vốn vô cùng vô tận, chư huynh không bị thời gian hạn chế, nhưng chư huynh có trước mặt mình những thời đại vô tận vô biên. Sau cùng, chư huynh sẽ đạt được lý tưởng của mình và sẽ lấy đời sống của chính mình mà tượng trưng nó trên cõi Trần này.

Chư huynh hãy có một mục đích, chư huynh đừng sống một cuộc đời vô tư lự, vô ích, không xứng đáng với danh từ “con người”, chư huynh đừng để cho trên những cõi cao siêu người ta nói về chư huynh như vầy: “Người nam hay người nữ này đầu thai làm người sớm quá”. Chư huynh hãy tạo cho mình một lý tưởng, chư huynh hãy thờ phụng nó, hãy thờ phụng bằng đời sống của mình hơn là bằng những lời nói, hãy lấy tư tưởng, hoài vọng, hành động của mình mà thờ phụng nó. Như thế đời sống của chư huynh sẽ dần dần trở nên đẹp đẽ, hùng cường và khôn ngoan giống như trong lý tưởng. Và dù cho ở cõi Trần này, chư huynh không thực hiện được những mối hoài vọng của mình, khi chết đi, chư huynh cũng hoạch đắc được một sự cao cả mà chư huynh sẽ không sao đạt được nếu làm cách khác. Trên cõi Thiên Ðàng, cái lý tưởng của chư huynh sẽ ra nghênh tiếp chư huynh, với cái vẻ huy hoàng của đời sống trường tồn bất diệt: nó khắn khít với chư huynh, chia xẻ với chư huynh cái tinh hoa của đời sống của nó, và những hi vọng của chư huynh hồi còn ở cõi Trần sẽ được thực hiện trên cõi Thiên Ðàng, và sau nhiều ngày, chư huynh sẽ trở xuống cõi Trần đầu thai lại và thành ra Người Phụng Sự Nhân Loại.

IV

TINH THẦN CON NGƯỜI VÀ ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG


Tôi đã nói với chư huynh về những thể của con người: Thể Trí, Thể Vía và Xác thân. Hôm nay tôi xin chư huynh theo tôi đến một cảnh giới cao siêu hơn, tinh khiết hơn. Tôi xin chư huynh tiến lên cao hay thâm nhập vào – chư huynh ưa thích dùng từ ngữ nào thì xin tùy ý – những nơi cao cả, những chốn thâm sâu của Lương Tri trong nội tâm, nơi đó chư huynh nhìn nhận được cái Bản Thể Thiêng Liêng của mình, thực hiện được sự cao cả mà chư huynh muốn vượt tới, nơi đó chư huynh sẽ giữ vững vị trí của mình trong tương lai. Xin chư huynh để cho tôi dắt dẫn đến những cảnh giới của Lương Tri nó nâng chư huynh lên cao, vượt khỏi những nỗi lo âu của cõi Trần này và khiến cho chư huynh được yên tĩnh giữa những sự náo động xung quanh mình, sung sướng tuy có những nỗi u buồn bên ngoài, bình thản khi mà những sự tranh đấu và những huyên náo bao vây chư huynh, vui vẻ ở nơi mà thế nhân chỉ trông thấy những lý do để bất mãn và lo sợ. Chư huynh cũng vẫn nhớ rằng người ta nói: Mục đích của các triết lý chơn chánh là diệt trừ được sự đau khổ. Có một miền kia không có sự đau khổ, một vương quốc không có những nỗi lo phiền. Con người có thể sống như một Thực Thể Tinh Thần, y có thể sống nơi Bản Thể mà ta thường một đôi khi gọi là Chơn Ngã, và sống như vậy, y biết được nguồn an lạc vô biên ở giữa những hiện tượng của thời gian. Muốn sống được như thế, y phải vượt lên khỏi những nỗi buồn rầu của cõi Trần này, nhưng y không cần phải rời bỏ cõi Trần là nơi số mệnh đã đặt y vào đó; không cần phải tìm chốn rừng rậm hay động cả non cao để lánh mình, không cần phải xa lánh những nơi phồn hoa đô hội. Y vẫn có thể làm việc ở nơi công cộng, biện hộ ở Tòa án, săn sóc các bệnh nhân ở dưỡng đường, giúp việc trong một tiệm buôn hay là chiếm cái địa vị cao sang của người trị nước. Làm đầy đủ mỗi nhiệm vụ của mình hơn là một thế nhân, không bao giờ lùi bước trước bổn phận nhưng tận dụng những khả năng và sức làm việc của mình mà làm đầy đủ bổn phận, và tuy đang sống nơi thế tục mà vẫn hiểu được Bản Thể Thiêng Liêng của mình, và làm việc không phải để mưu cầu những của cải phù du của Trần gian, nhưng với tư cách là một dụng cụ trong sự hoạt động của Thượng Ðế – đó là tất cả những điều cần thiết để hưởng được sự an lạc và sống một cuộc đời Tinh Thần.

Bây giờ đây Tinh Thần là gì? Vì nếu chúng ta không biết Chơn Ngã hay Tinh Thần là gì, thì chúng ta không sao hiểu nỗi đời sống Tinh Thần là gì vậy. Tinh Thần chính nó là Con Người, là một Ðiểm Linh Quang mà Shri Krishna đã gọi là: “Một phần tử của chúng ta, một Sinh vật”. Chư huynh sẽ hiểu một cách dễ dàng hơn ý nghĩa của Tinh Thần nếu chư huynh suy nghĩ một chốc lát đến cái câu mà ai cũng biết trong kinh Bhagavad Gita: “Đấng ngự trong xác thân”. Chúng ta đã học về những thể rồi; nay chúng ta học đến “Đấng ngự trong xác thân, Con Người.” Con người thiệt thọ ấy là Đức Thượng Đế ẩn tàng trong lớp áo nhục thể. Chư huynh hãy nhớ rằng người ta nói: “Không nên than khóc cho người sống cũng như cho kẻ đã chết” và lý do của sự vượt qua khỏi những nỗi khốn cùng của nhân loại, lý do của sự lãnh đạm này đã được giải nghĩa một cách thanh bai khéo léo và hoàn toàn cho đến đỗi thật là làm một sự liều lĩnh nếu tôi kể những lời đó ra đây, xen lẫn vào những lời hèn mọn của chính tôi. Chư huynh hãy nhớ người ta đã nói về mỗi con người rằng:

“Chơn Thần vô thủy thì vẫn vô chung. Ðấng ngự trong xác thân vốn bất sinh bất diệt. Ngài tồn tại đời đời kiếp kiếp. Khi xác thân bị tiêu hủy, Ngài cũng không chết. Cũng giống như một người liệng bỏ những quần áo hư cũ đi và mặc những y phục khác. Con người ngự trong xác thân liệng bỏ những thể hư hoại để vào ở trong những thể mới khác”.

Rồi lời của Đức Giáo chủ lại vang dội lên:

“Không một sự gì có thể phá hoại được Đấng ngự trong xác thân. Đấng ngự trong xác thân bất khả phân ly, nước lửa không xâm phạm được, không thể hư hoại được, trường tồn bất diệt, đâu đâu cũng có Ngài, bất di bất dịch, cố cựu, ẩn tàng, bất khả tri, bất biến; biết được như thế rồi người ta không nên lo âu cái gì cả”.

Vậy thì tất cả đều được chứa đựng trong cái vỏ của trái hồ đào. Nếu chư huynh chính là chư huynh, Ðấng ngự trong xác thân, nếu trong những thể hữu hoại của mình, chư huynh biết được rằng sự sinh và sự tử đều không ảnh hưởng đến mình, trường tồn bất diệt, vô thủy vô chung, thì tại sao chư huynh lại có lý do để đau khổ than van, vì đã biết rằng mình chia sớt đời sống của Thượng Ðế và cũng trường tồn bất diệt như Ngài.

Sự liên quan giữa Ðấng ngự trong xác thân và những thể mà Ngài khoác lên mình là thế nào? Nếu đối với đôi ba người trong chư huynh, cái ý niệm về đời sống vô tận vô biên có thể làm cho ngạc nhiên, thì xin chư huynh hãy để cho tôi nhắc lại với chư huynh một sự tương tự như thế trong thiên nhiên, nó khiến cho chư huynh hiểu rõ được sự khác biệt giữa Ðấng ngự trong xác thân với xác thân đó. Chư huynh hãy nhớ đến lời tuyên bố của nhà đại bác học người Anh, Thomas Huxley, về thuyết Luân hồi: “Những sự tương tự mà người ta tìm thấy trong thiên nhiên là những bằng cớ rõ rệt của tín ngưỡng này, và không có một sự gì phủ nhận nó được”. Chư huynh hãy lấy sự so sánh một khu rừng rộng rãi và xem xét về đời sống của cái cây nó mọc và phát triển trên mặt đất; trong những xứ ở miền bắc thì cái thí dụ này lại còn rõ rệt hơn là những xứ ở miền nam này. Chư huynh thấy mỗi năm một lần cây trổ những lá non xanh mướt, những lá cây này hút đồ ăn trong không khí và nhờ chất đó biến đổi ra cây mới sống được. Những chất này đều gom góp trong nhựa cây khi lá rụng và khi nhiệm vụ của lá hoàn thành. Nhựa cây chứa đầy những chất bổ mà lá đã gom góp được, liền từ thân cây chảy xuống rễ cây tỏa ra dưới gốc và nằm đó trong một thời gian, mắt con người không trông thấy được. Nhưng Ðông vừa mãn thì Xuân lại sang, tiếng chim hót líu lo, cùng trong một lúc, cảnh vật bừng tỉnh với một đời sống mới; nhựa cây lại đi lên, theo thân cây đến nhánh nhóc. Nhựa lan tràn trong mỗi bộ phận của cây và ban rải sự sống. Những mầm non nở lần, những lá mới lại đơm ra, và một lần nữa, cây lại khoác lên mình cái tấm áo rực rỡ của mùa hè, và lá cây lại tái lập cái công việc tiêu hóa đồ ăn nhờ đó mới sống được. Ðời sống con người cũng giống như thế, Tinh thần giống như cái cây, một mầm mống của Thượng Ðế đem gieo trên miếng đất của đời sống nhân loại. Những chiếc lá cây thì giống như những kiếp sống của con người, tự biểu lộ ra để gom góp chất sống nhờ đó Tinh thần mới hiện ra được. Chúng gom góp chất bổ và chuyển di nó cho đời sống, đời sống này là nhựa cây. Những lá cây rơi xuống và chết đi. Chúng bị chôn vùi dưới đất hay là bị thiêu ra tro mạt, nhưng sự sống là nhựa cây đi lên phía Tinh thần, mang đến cho nó chất bổ dưỡng, đó là kết quả của kinh nghiệm Hồng Trần. Ở trong Tinh thần, chất này biến đổi thành quyền lực, những quan năng khi trở xuống trần đầu thai, Tinh thần ban rải sự sống mới mẻ cũng như cái cây trổ lá vậy. Một lần nữa, Trường đời lại dạy dỗ chúng ta và khiến cho Tinh thần biểu lộ được. Ðó là sự liên quan giữa Tinh thần và các thể Xác, Vía, Trí, đó là sự khác nhau giữa cái Trường tồn vĩnh cữu và cái phù du nhất thời. Và nếu chư huynh so sánh đời sống Hồng Trần với những lá cây, nếu chư huynh tự coi mình như một cái cây không bao giờ chết và chỉ trổ những lá mới trong đời sống của mình, chư huynh sẽ có một hình ảnh tốt đẹp của Chơn Ngã; nhờ những thể mới, Tinh thần tìm kiếm được chất bổ cần thiết để tự phát triển, còn chính Tinh thần thì vẫn hằng có đời đời và bất sanh bất diệt; luôn luôn làm phát sinh, tự những khả năng vô cùng vô tận của nó, những quyền năng cụ thể để chứng tỏ sự tiến hóa của con người.

Theo cách đó, chúng ta nhìn thấy được những sự tiến bộ của đời sống trường tồn thỉnh thoảng bị che đậy dưới tấm màn nhục thể. Chúng ta vừa nói rằng đời sống này là một phần đời sống của Ðức Thượng Ðế. Tôi đã thuật lại những Thánh ngôn, những lời châu ngọc của Shri Krishna khi Ngài nói về cái tính cách thiêng liêng và tuyên bố rằng Chơn Thần Jivatma là một phần của Bản thể Ngài; điều này khiến ta hiểu được những đặc tính của Tinh thần, và nếu ta suy nghĩ chút đỉnh, ta sẽ biết rằng đời sống Tinh thần hiện ra nơi ta cách nào trong khi chúng ta còn chìm đắm trong đời sống vật chất của những cõi Hạ giới. Vì chúng ta biết rằng trong Bản thể của Thượng Ðế có ba đặc tính lớn tự biểu lộ, và nếu con người là một phần tử của Ngài, thì đặc tính đó cũng phải tự biểu lộ, nhưng chúng bị hạn định, còn ở nơi Ngài chúng nó vô biên, chúng đương phát triển nơi ta, còn ở nơi Ngài chúng là hoàn hảo và đầy đủ. Và bởi chúng ta biết rằng một trong những đặc tính của Ðấng Tối Cao là quyền năng, và bởi vì Ngài cai trị các thế giới, cho nên chúng ta nhìn thấy ngay cái phản ảnh của quyền năng của Ngài trong Tinh thần của con người, đó là Ý chí, tuy rằng trong một thời gian nó bị hạn chế rất nhiều và rất kém tiến hóa. Và cũng như ta đã nhìn nhận nơi Thượng Ðế cái Lương Tri hoàn hảo, nó tự biết mình cũng như tất cả những gì có nơi Ngài, vì Ngài là Ðấng Ðộc Nhất vô nhị. Chúng ta cũng nhìn thấy nơi con người cái trạng thái kỳ diệu đó, tức là sự khôn ngoan, sự minh triết, nó chính là sự hiểu biết về Ðấng Duy Nhất, là sự thực hiện Thượng Ðế nơi con người, sự thực hiện Chơn Ngã nơi con người có thể nói được, không phải bằng lời nói suông, mà trong thực thể rằng: “Tôi là Ngài”. Sự minh triết này là sự hiểu biết về Đấng Duy Nhất, và chư huynh hãy nhớ rằng người ta đã viết (trong Thánh kinh) như vầy: “Tất cả những gì ở ngoài Chơn Như đó thì đều là vô minh cả”. Cho nên chúng ta trông thấy cái trạng thái Sáng Tạo nơi Thượng Ðế phản chiếu trong Trí khôn con người, nhờ quyền năng Sáng Tạo đó mà con người có thể ban cho mọi vật một hình dáng mới mẻ. Nhưng dù có thừa nhận ba Ngôi nơi con người, Ý Chí, Minh Triết, Trí Sáng Tạo, người ta có thể tự hỏi rằng làm sao mà chúng ta biết được: đến lúc nào những Ðặc tính Thiêng liêng đó bắt đầu tự biểu lộ nơi đời sống thấp hèn, và không biết chúng ta có thể nhìn nhận sự hiện hữu của Tinh Thần, phân biệt nó với vô số hoạt động của nhục thể không? Sự khác biệt giữa cái gì thiêng liêng và những sự kích thích của dục vọng nó ngự trị loài người là thế nào? Một người theo đuổi thú vui, danh vọng, uy quyền, thế lực chính trị, y hăng hái muốn đoạt cho được việc đó, chúng bao vây y tứ phía trong cõi đời đẹp đẽ này. Tùy theo hoài vọng của y, y chạy từ vật này đến vật khác, nếu thú vui quyến rủ y, y tìm kiếm những nơi nào có nó; nếu y tham vọng được có danh tiếng, thì y làm việc suốt ngày, cố công gắng sức thêm mãi nắm lấy mối cơ hội để tiến thân; y đi từ chỗ này đến chỗ khác cùng khắp mọi nơi, y đến chốn nào mà y tưởng chốn đó có cái gì cần thiết cho mục đích của y, có thể thỏa mãn sự ham muốn của y. Khi mà con người còn bị dục vọng chỉ huy, khi mà còn bị phong trần lôi cuốn thì y hãy còn sống một cuộc đời phàm tục chớ không phải một cuộc đời tinh thần; y chưa nhận thức được cái Chơn Ngã thiệt thọ của mình. Nhưng khi mà dù bị dục vọng tấn công, y vẫn đứng vững, khi y bị những vụ quyến rủ bao vây, y vẫn không lay chuyển, trơ như đá, vững như trồng, khi sự giàu sang ở kề bên mình mà y không màng đến bởi vì sự giàu sang làm cho y tổn thương danh dự, khi y có thể đạt được quyền thế mà phải hi sinh những nguyên tắc đạo đức của mình, khi thú vui quyến rủ y mà xét ra có tổn hại cho kẻ khác, khi y tự xem xét cõi lòng của y và tự nhủ: “Tôi không muốn phạm tội, tôi không muốn tự mình làm nhơ danh, tuy rằng dục vọng đang kích thích tôi và sự quyến rủ đang lôi cuốn tôi”. Lúc đó từ nơi sâu thẳm của Tinh Thần, ý chí con người toàn năng bỗng vươn lên cao và đời sống Tinh thần bắt đầu điều khiển y, vì ý chí không phát sinh tự nơi xác thịt mà phát sinh tự nơi Tinh Thần. Và khi mà con người bắt đầu hiểu được sự sống vẫn duy nhất ở tất cả những người thân mến xung quanh y, khi y hiểu rằng tất cả mọi người đều là những anh em, tình thương yêu bắt đầu liên kết y với họ, y đem tấm lòng thương yêu đứa con ruột của y ban rải cho tất cả những đứa trẻ mồ côi nghèo khổ không người che chở ; khi y đem tấm lòng thương yêu người mẹ ruột đáng tôn kính của y chia sớt cho những người già cả vì y coi những người bô lão như là cha mẹ của y, khi y coi những đứa trẻ như con ruột của y; khi tình thương yêu hòa hợp với sự biết được “Vạn Vật Nhất Thể” và đem ban rải cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, nòi giống, giai cấp, môn phái; thì lúc đó sự Minh Triết biết được Ðấng Duy Nhất bắt đầu cảm hóa con người, và cái tình yêu riêng tư cạn hẹp, rất tuyệt đẹp theo cách thế của nó bỗng biến đổi ra thành Bác ái Thiêng liêng ban rải cho vạn vật. Và khi ở giữa những sự náo động cuồng loạn của Hạ trí, con người lẹ làng nhận ra cái ảnh hưởng cao siêu; khi y nghe tiếng nói của Thượng trí nó bắt đầu điều khiển và sửa đổi Hạ trí để đạt được mục đích nhất định thì lúc đó sự hoạt động sáng tạo của trí khôn khởi sự nắm giữ quyền hành không cho cái Trí chăm chú mãi vào sự nhận xét những hiện tượng. Trong trường hợp này, người ta thấy rõ ràng sự hiện diện của Tinh Thần, và đời sống của Tinh Thần ẩn dưới nhục thể bắt đầu biểu lộ ra.

Và ngay lúc đó người ta nêu câu hỏi này: Ðời sống Tinh Thần là gì? Ðời sống Tinh Thần không bao giờ liên quan tới những đặc tính của cái Vía và của cái Trí, mà người Ấn Ðộ gọi là Siddhis, còn người Tây phương gọi là những phép thần thông. Ðời sống Tinh Thần không phải là thần nhãn, thần nhĩ, nó không bắt buộc những thể Xác, Vía, Trí, phải làm việc trong ba cảnh hạ giới. Ðời sống Tinh Thần không phải là sự hiểu biết sâu rộng về những cõi vô hình, mấy cõi này cũng đầy dẫy những hiện tượng như cõi Trần. Ðời sống Tinh Thần không hề liên quan, liên hệ đến tất cả những điều đó. Tính chất và nét đặc biệt của nó hoàn toàn khác hẳn. Ðời sống Tinh Thần cũng gọi là Ðạo Tâm, là Sự hiểu biết về Ðấng Duy Nhất, và bao hàm một đời sống phù hợp với sự hiểu biết đó.

Có lẽ vài ba người trong chư huynh còn nhớ đến bác sĩ Miller – chư huynh nên kính trọng bác sĩ vì ông là một tín đồ Cơ Ðốc tính tình cao thượng – ông có viết thơ cho những người học trò cũ của ông cách đây vài ba năm, lời lẽ thanh bai mà tôi xin chư huynh nhớ lấy ba chữ đầu. Ông nói: “Ấn Độ Giáo đã hiến dâng cho nhân loại hai món quà rất quí báu: ấy là những lý thuyết về Thượng Ðế tự tại (Thiên lý tự tại) và nhân loại tương liên”. Một tín đồ chơn chánh của một tôn giáo tuyên dương một cách tốt đẹp cái giá trị của một tôn giáo khác với tôn giáo mình, như vậy chứng tỏ ông có tầm mắt rộng rãi, tâm hồn cao thượng, đó luôn luôn là những đặc điểm của người Cơ Đốc Giáo. Tôi nhấn mạnh vào câu: “Đức Thượng Đế tự tại”. Có thể đối với chư huynh, câu này dường như khô khan, lạnh lùng và vô duyên; có cần phải phiên dịch lại nó để chư huynh hiểu được ý nghĩa thiệt của nó không ? Dĩ nhiên câu này có nghĩa là Thượng Ðế ngự trị khắp nơi và trong mọi vật; nhưng như thế cũng chưa đủ. Câu này còn có nghĩa là khi chư huynh đi dọc theo bờ biển, ngắm nhìn những lượn sóng của đại dương bủa vào bờ như sấm dậy. Chư huynh nhận thấy cái quyền năng thiêng liêng, oai nghi của Thượng Ðế biểu hiện trong đó. Chư huynh băng qua một cánh rừng đẹp đẽ, chư huynh thưởng thức cái cảnh âm u, tịch mịch, bốn bề vắng lặng, bóng mát rợp che giữa buổi nắng chang đúng ngọ. Ôi ! chừng đó chư huynh mới biết được cảnh an lạc thiêng liêng; chư huynh mới biết được sự trầm lặng nó biểu lộ Đức Thượng Đế.

Nhờ tất cả những mối cảm giác này mà chư huynh tiếp xúc được với Thượng Ðế và cảm thấy được sự hiện diện của Ngài. Khi chư huynh ở trên những rặng núi Hi mã lạp sơn cao vút, xa xăm, nếu chư huynh xem xét sự bền vững kỳ diệu của chúng, những miền tuyết phủ quanh năm trùng trùng điệp điệp, không đường lối ra vào, trong những rặng núi đó, chư huynh thấy được cái oai hùng và sự vĩnh cữu của Ðức Thượng Ðế, và ở trong băng tuyết chư huynh thấy được sự thanh bạch, thuần khiết của Ngài. Rồi khi chư huynh quan sát những từng trời cao vút, nơi đó các nhà thiên văn chỉ thấy những tinh cầu luân chuyển, khoảng không gian bao la bát ngát kia đã nói cho chư huynh rõ cái Uy linh trầm mặc của Ngài. Không có cái chi trên đầu ta ở mấy từng trời cao rộng, không có cái chi ở dưới chơn ta, trong những hang sâu vực thẳm mà lại không chứng tỏ sự hiện diện của Ngài và không nói rằng: Ngài là Linh hồn của vạn vật. Thế nên chư huynh ngắm xem phong cảnh, chư huynh thấy Đức Thượng Đế xuyên qua y phục của Ngài. Đó mới thật là cái nghĩa của câu Ðức Thượng Ðế ngự trị khắp nơi hay là Thiên lý tự tại, bởi vì có một mình Ngài hiện tồn mà thôi. Nếu chư huynh muốn, chúng ta hãy xem xét ý niệm này cặn kẽ hơn. Nhiều người bài xích Ða thần giáo, nhưng khi người ta hiểu rõ thuyết này thì thấy nó chỉ là sự cố gắng của con người vì bị hạn chế trong sự diễn tả tư tưởng nên phải lấy vô số hình ảnh để cắt nghĩa về Ðức Thượng Ðế giáng trần. Nhờ như vậy ai nấy đều thấy thật là rõ ràng sự biểu lộ của Ðức Thượng Ðế, còn nhà triết học biện luận về vấn đề này một cách mập mờ, khó hiểu. Thật sự, nhân loại đáng thương hại này chỉ hiểu được Ðức Thượng Ðế là khi nào Ngài biến hình, hiện ra trong vô số Thần linh. Nếu chư huynh khôn ngoan chớ không đến đỗi phi lý, chư huynh không để cho khoa học chỉ nhận xét những vẻ bề ngoài mà lại chỉ trích cái sự hiểu biết sâu xa hơn, nó dạy cho chư huynh những điều huyền bí về đời sống của con người và của Thượng Ðế. Nếu chư huynh muốn thì chư huynh cứ học hỏi với khoa học Tây phương, nhưng về phần chư huynh thì chư huynh hãy dạy cho Tây phương biết về đời sống vô biên và sự hiện diện của Thượng Ðế khắp mọi nơi. Nếu chư huynh làm như vậy, thì thật ra thuyết Ða thần của chư huynh sẽ là một điều rất tốt đẹp. Vì khi nhìn thấy người vợ âu yếm cúi xuống với mình, chư huynh sẽ thấy đó là Lakshmi, ánh sáng và Nữ Thần Nội Trợ chiếu sáng ngời qua cặp mắt của người vợ thân yêu; và khi người vợ nhìn người chồng, kẻ đảm đương và trụ cột của gia đình, nàng sẽ thấy chàng là Thượng Ðế Vishnou, Đấng duy trì và bảo tồn Ðời sống của Vũ trụ. Nhìn qua ánh mắt của con cái mình, chư huynh sẽ thấy ánh mắt của Đức Krishna và trò chơi trẻ nít của Ngài với những nữ mục đồng Gopis. Và khi người mẹ cúi xuống chiếc nôi với con, chư huynh sẽ nhìn thấy Ðức Thánh mẫu Durga, Ðức Mẹ thiêng liêng của Vũ trụ chăm nom săn sóc thế giới. Ðúng như vậy, thuyết Ða thần là sự sống của con người đã được Tinh thần hóa; những hình hài không còn làm cho chúng ta bị mù quáng nữa, chúng ta quả quyết nhìn thấy sự sống ở trong những hình hài đó. Sự sống chỉ có một, mà hình hài thì vô số; Sự sống chỉ có một, mà nhãn hiệu thì vô cùng. Trong Thánh kinh há chẳng có câu này: “Kẻ nào thờ phụng tất cả những hình hài, thì chính kẻ đó không thờ phụng Ta (Đức Thượng Đế) hay sao ! Dù không thờ phụng theo tục cổ truyền”. Như thế chư huynh sẽ bắt đầu hiểu rằng Ðời sống Tinh Thần hay là Ðạo Tâm có nghĩa là sự nhận biết được Thượng Ðế ở khắp mọi và ở trong mọi vật.

Nay tôi xin nói qua với chư huynh sự liên quan giữa Ðời sống Tinh Thần hay là Ðạo Tâm và nền thương mãi, nơi công sở, ngoài đường phố, và nếu có thể được, tôi xin giải nghĩa cho chư huynh rõ làm cách nào mỗi người trong chúng ta đều có thể thành một người có tâm đạo nếu chư huynh quả quyết muốn được như vậy. Chúng ta hãy xem xét vô số hoạt động của đời sống Hồng Trần, những đường lối khác nhau để giúp đỡ và duy trì thế gian: nền thương mãi nó liên kết những quốc gia lại với nhau và dự phần vào việc nuôi dưỡng nhân loại luôn luôn sinh sôi nẩy nở; những thương thuyền vượt qua đại dương chở đầy những hàng hóa từ quốc gia này đến quốc gia khác, những người lái buôn và những thương gia phân phát hàng hóa đó cho tất cả mọi người, khiến cho ai ai cũng có được những thứ cần dùng; trật tự được gìn giữ trong xã hội, những sự cố gắng của những người ngăn cấm không cho kẻ mạnh hiếp kẻ yếu trong những vụ buôn bán; tất cả cái guồng máy luật pháp vĩ đại – ông quan tòa nơi tòa án, vị luật sư nơi pháp đình, viên cảnh sát ở ngoài đường, những ai giúp cho guồng máy xã hội chạy đều, bênh vực kẻ yếu khỏi kẻ mạnh lấn át; đời sống gia đình, căn bản của mọi quốc gia; sự che chở của người cha, tình yêu thương của người mẹ, sự vui vẻ của đứa con, nhiệm vụ của vị lương y không sợ sự truyền nhiễm và liều thân làm giảm bớt sự đau khổ, nhà giải phẫu có bàn tay khéo léo và nhờ kinh nghiệm có thể cứu sống một mạng người trong cơn nguy hiểm; tất cả những ai dạy học và cung hiến cho quốc gia những kẻ nam nhi hùng tráng và những bực anh thư; tất cả những ai làm việc để giữ gìn nhân loại, họ là gì ? nếu không phải là những cán bộ của công việc duy nhất của Thượng Ðế, họ là những bàn tay, những bàn chân, họ là trái tim của Thượng Ðế tác động trong mỗi nghề nghiệp trần gian. Chư huynh còn nhớ câu chuyện cổ tích về bốn giai cấp và nguồn cội của chúng, những người Bà la môn tự miệng của Thượng Ðế mà sinh ra, những vị Kshattryas (Sái đế lị), các vị đế vương và chiến sĩ tự vai Ngài, những người Vaishyas (Tỷ xá) buôn bán tự các ngón tay cái Ngài, còn những người Sudras (Su tra) tôi tớ tự chân Ngài. Nghe câu chuyện lạ lùng đó, chư huynh phát tức cười và nói: “Chuyện này chỉ nên mang ra mà kể cho con nít nghe trong buổi hoàng hôn”. Tuy nhiên có một chơn lý ở trong câu chuyện đó, không những nó chỉ liên quan đến bốn giai cấp ở Ấn Ðộ, mà còn liên quan đến bốn giai cấp lớn của mỗi quốc gia, dù chư huynh có gọi chúng là những giai cấp hay không cũng vậy. Vì những người có học thức dạy dỗ dân chúng, những ai mang kiến thức của mình mà chia xẻ cho người khác, những vị giáo sĩ điều khiển những sự thờ phụng trong các tôn giáo, những giáo sư ban rải sự hiểu biết, đó phải chăng là lời nói của Thượng Ðế thốt ra nơi miệng con người hay sao ! đó há chẳng phải là giai cấp Bà la môn, những nhà thông thái và những vị giáo chủ của nhân loại hay sao ! Còn hạng Kshattryas (Sái đế lị) có những người tiêu biểu là các vị hoàng đế, các vị vương hầu, các tòa nội các, các nghị viện, các quan lại, từ bậc cao cấp nhất xuống tới bậc hạ cấp nhất, từ ngôi cửu ngũ tới hạng tiểu quan lại, há chẳng phải là những cánh tay của quốc gia được ủy nhiệm điều khiển và bảo tồn dân chúng để cho người thợ lương thiện có thể hành nghề mọn của mình mà không sợ bị húng hiếp và thiên hạ hưởng cảnh thanh bình của Ðức Thượng Ðế do Đức Vua ban ra hay sao? Còn hạng Vaishyas (Tỷ xá), những người thương gia, những người có tài tổ chức các công việc, những ai nắm trong tay mình bí quyết làm cho mọi người được sung sướng, những người há chẳng phải những vị Quốc vương hay sao? Nước nhà há chẳng phải nhờ họ để được an toàn, cường thịnh và giữ vững địa vị mình trên trường quốc tế hay sao? Bây giờ ta hãy nói đến hạng Sudras (Su tra) họ há chẳng phải là nền tảng của xã hội tổ chức cần thiết cho các cơ quan hay sao? Những người thợ thuyền, những người khai thác tài nguyên của xứ sở, những người tôi tớ giúp cho đời sống vật chất của gia đình được dễ dàng, mấy người đó há chẳng phải là những bàn chân của Thượng Ðế, nhờ họ mà công việc mới hoàn thành sao?

Còn người tu sĩ Sanyasi vượt lên trên bốn giai cấp của xã hội, chẳng phải đó là những người thi ân cho đời trong một lãnh vực cao rộng hơn hay sao ? Nếu người Sudras (Su tra) phụng sự cho con người thì người tu sĩ Sanyasi làm tôi cho nhân loại; thế thì đẳng cấp hạ tiện nhất là phản ảnh của bậc cao quí nhất trong nhân loại. Than ôi ! trong cái tôn giáo cao thượng và cổ kính của chư huynh còn có biết bao nhiêu điều mà chư huynh chưa hiểu, còn có biết bao nhiêu điều mà chư huynh cũng chưa từng thấy thoáng qua trong những giấc mộng của mình nữa.

Xin chư huynh để cho tôi nói rõ sự ứng dụng. Thoạt đầu tôi xin nói về một nghề mà dường như thường bị chỉ trích: tôi muốn nói đến ngành Tư pháp. Hôm trước đây, tôi sung sướng được nghe một diễn giả bênh vực những vị cầm cân luật pháp đã bị người ta công kích; diễn giả nói ông biết chắc những vị này chơn chánh – có lẽ chơn chánh còn hơn một số đông đồng loại của họ mà người ta không tìm cách buộc tội. Nếu một vị luật sư là người có một bản tính tinh thần và không có một lý do gì mà ông ta lại không phải là một người như vậy – tôi thường diễn thuyết trước một số đông luật sư thì ông ta sẽ tự coi mình như là hiện thân của sự công bình của Thượng Ðế ở cõi trần này. Không bao giờ ông lại cãi cho một người để y thắng kiện trong sự bất công; ông sẽ tự coi mình là có trách nhiệm trong sự công bình thiêng liêng, ông sẽ rất cẩn thận làm cho sự công bình ấy được thực hiện. Có lẽ chư huynh sẽ hỏi tôi rằng ông không nên bênh vực một kẻ phạm tội ác hay sao? Nên chứ, ông phải bênh vực y vì kẻ phạm tội ác cũng có quyền được hưởng sự công bình, vì tình trạng của y cũng như tình trạng của nguyên cáo phải được xem xét kỹ lưỡng vậy. Một kẻ phạm tội dù có xấu xa độc ác đến đâu, người đại diện cho công lý thiêng liêng cũng phải nêu cái phần phải của nó ra bởi vì luật thiêng liêng đều trả cho mỗi người cái phần của y đáng hưởng. Ông coi chừng để không có một sự gì bị xóa đi, bị bớt đi, để không có một sự gì làm chứng gian dối. Như thế có nghĩa không được làm cho tội trạng nặng thêm lên, như thế có nghĩa là phải trình bày sự việc một cách rất khéo léo và rất nhiều thiện cảm: không được che giấu sự thật, sự công bình sẽ không bị sự gian dối làm cho lem ố. Nếu ông hiểu được sự cao thượng của nhiệm vụ mình, ông sẽ xem thường không thèm dùng đến mưu mô và bất chánh. Sự công bình ở cõi Trần phải phát sinh tự nơi công lý của Thượng Ðế, nó phải bênh vực kẻ yếu đuối và kẻ bị ức hiếp, phải sửa chữa những lỗi lầm của kẻ làm thiệt hại đến đồng loại. Tôi xin hỏi chư huynh, nếu vị luật sư mà hành động như vậy há chẳng phải trọn giới Tư pháp được tiếng khen thanh liêm, trong sạch hay sao ? và chẳng phải đó là một cơ quan cao quí đại diện cho công lý thiêng liêng trên mặt đất hay sao? Như thế những người lương thiện sẽ được sung sướng hơn trước và những người hung dữ, độc ác sẽ bớt ngạo mạn khi ra trước công lý vì đã biết rằng luật pháp vô tư, không có sự bất chánh nào hay là thế lực nào làm cho lay chuyển được nó. Chư huynh cũng xem xét công việc của người thương gia. Y là bàn tay của Thượng Ðế, phân phát khắp thế gian những gì cần thiết cho sự sống của con người. Nếu y quan niệm việc làm của mình theo cách đó thì cái cửa hàng chật hẹp của y sẽ trở nên thanh khiết và cao thượng biết bao. Sự buôn lậu, sự lường gạt, sự giả mạo sẽ không còn nữa. Người ta sẽ không còn ngụy tạo những hàng vải, không còn trộn cát vào đường, không còn bỏ nhánh cây vào trà, không còn gian lận trong việc bán hàng nữa. Nếu được như thế thì cũng như những điều đã nói về pháp luật ở trên đời sống tinh thần sẽ mang hạnh phúc tới.

Xin chư huynh cũng nghĩ về gia đình theo quan điểm đó, nghĩ về người chồng và người vợ. Người chồng tự coi mình như là người chồng thiêng liêng, là Thượng Ðế, và chính Ðức Krishna đã tự gọi mình là: “Ta là Ðức phu quân” – người chồng sẽ hiểu rằng không phải người vợ sinh ra chỉ để cho người chồng được sung sướng và vui vẻ, để làm thỏa mãn thú vui xác thịt của y, để tăng trưởng hạnh phúc của y đâu. Giống như Ðức Vishnou đối với Vũ trụ của Ngài, người chồng đối với người vợ phải là một người bạn, một người che chở, và nâng đỡ cái gánh nặng đang đè lên đôi vai yếu đuối của nàng, ban rải cho nàng một tấm tình thương yêu âu yếm mà người chồng có đặc quyền hiến cho vợ mình. Và người vợ phải nhớ rằng đối với Vishnou nàng là nữ thần Lakshmi, nàng coi chồng như một người gìn giữ và che chở nàng: tình thương yêu của nàng là một sự tự ý hiến dâng, như thế mới quí báu, vì đó không phải là một mối tình bị bắt buộc phải theo quyền một người chồng mà đó là những bông, những trái được hái về để dâng lên cho chàng giống như những bông hoa dâng lên vị Thần mà nàng thờ phụng. Nếu người cha trong gia đình thừa nhận cái lý tưởng thiêng liêng đó trong đời sống của mình thì y sẽ là tượng trưng cho cái chức vị cao thượng nhất của Thượng Ðế, là Ðấng Từ phụ và người Bằng hữu của nhân loại. Ôi, chư huynh sẽ giúp đỡ các con trai và các con gái của chư huynh được biết bao nhiêu nếu chư huynh cố gắng làm được một người cha thiêng liêng. Trong sự buồn rầu, trong cơn nguy khốn, các con của chư huynh sẽ chạy lại với chư huynh chớ không lẫn trốn như chúng thường làm, vì chúng sợ hãi nhiều hơn là yêu mến. Chúng sẽ biết rằng cha chúng là người bạn thân nhất, là người chở che âu yếm nhất; chúng biết rằng chúng có thể tâm sự tất cả với cha và chúng sẽ luôn luôn được tha thứ vì cha chúng cố gắng để tượng trưng cho Ðức Chúa Cha trên Trời. Ai ai cũng có những tật xấu. Trong những lúc yếu đuối của chư huynh, khi chư huynh lầm lỗi, chư huynh cầu xin lượng bao dung của Thượng Ðế; vậy đối với con cái chư huynh, chư huynh cũng phải xót thương chúng và giúp đỡ chúng một cách thích hợp. Như vậy, khi chư huynh già cả, chúng sẽ tận tâm với chư huynh như đối với Ðức Chúa Cha, chúng sẽ nâng đỡ chư huynh, vì xưa kia khi chúng còn trẻ dại chư huynh đã che chở và dìu dắt chúng. Còn về các đứa con gái của chư huynh, chư huynh đừng tưởng rằng chúng không có quyền đòi hỏi chư huynh nếu chư huynh thật muốn sống như Ðức Chúa Cha. Chúng mới lên bảy, lên tám, lên chín tuổi mà chư huynh đã ràng buộc chúng trong những sợi dây trói của một cuộc hôn nhân không sao thay đổi được, trong khi đó chúng không hiểu gì cả, không hiểu rằng sau này chúng sẽ góa chồng sớm và đời chúng bị đen tối, chúng chỉ còn giữ trong lòng kỷ niệm của một người chồng đã chết mà chưa hề ăn ở với chúng. Ôi ! xin chư huynh hãy nghĩ đến những kẻ góa bụa hãy còn trinh tiết ấy, và xin nói cho biết, như vậy những người cha của chúng có làm đầy đủ bổn phận mình, cái bổn phận thiêng liêng không. Một người cha có quyền để cho một đứa con gái đang cần được sự che chở và giữ gìn, đương đầu với những nỗi lo âu và những sự nguy hiểm của sự sanh con đẻ cái không ? Chư huynh là người có những hoài vọng thiêng liêng, chư huynh phải sửa đổi nhiều về quan niệm đó, để cho con trai và con gái của mình khi lớn lên sẽ thành những công dân của một quốc gia xứng đáng được tự trị và được tự do [17] vì người chồng còn con nít và người vợ cũng còn con nít thì không thể là những người công dân xứng đáng của một nước độc lập; suốt đời chúng là những kẻ yếu đuối vì trưởng thành quá sớm. Chư huynh hãy hiểu rõ đời sống thiêng liêng là gì; đó là bổn phận, đó là tình thương yêu, đó là phải làm đầy đủ nhiệm vụ của mình trong đời sống gia đình và trong xã hội, tự coi mình như những người đại diện của các vị thần minh, dự phần vào cái công nghiệp mà Thượng Đế làm cho vũ trụ của Ngài. Còn phải nhận xét về một quan điểm khác nữa. Chúng ta đều hoài vọng nhiều hay ít về đời sống thiêng liêng. Chúng ta nói đến sự hợp nhất với Thượng Ðế; chúng ta nói chúng ta muốn vượt lên cao mãi trên những nấc thang thanh bạch, thông hiểu và từ ái, và như vậy thì chúng ta rất hữu lý. Nhưng có một điều mà chư huynh không được quên vì nó không cần thiết cho đời sống tinh thần. Sự sống chỉ là một; dù nó tác động nơi kẻ tội lỗi hay nơi một vị Thánh nhân, nơi kẻ nghèo hèn hay nơi một người quí phái; sự sống này có tính cách thiêng liêng, vì nó phát sinh tự Thượng Ðế. Chư huynh muốn được hợp nhất với Ngài, với các nhà Ðại hiền Rishis, với các Chơn Sư hay các vị Thánh, mà chư huynh có sẵn sàng hợp nhất với kẻ kiêu sa dâm dật, với kẻ buôn hương bán phấn và với kẻ cường đồ cướp đảng hay không? Sự sống thiêng liêng cũng có nơi họ vậy. Nét đặc biệt của Ðạo Tâm là gì? Chư huynh tinh khiết và tại sao lại có sự tinh khiết đó? Ấy là để cho chư huynh có thể sống riêng rẽ và được hài lòng vì mình cao thượng hơn kẻ khác hay sao? Ôi ! không phải như thế, chư huynh được tinh khiết là để chư huynh có thể trà trộn với những kẻ nhơ nhớp để tinh khiết họ và dắt dẫn họ đến gần sự thực hiện đời sống thiêng liêng. Chư huynh có học thức, chư huynh không ưa thích kẻ ngu dốt, chư huynh lánh xa kẻ vô học, cộc cằn, thô bỉ. Nhưng nếu chư huynh có học thức, ấy là để cho kẻ ngu dốt, kẻ thấp hèn trụy lạc hưởng nhờ sự hiểu biết của chư huynh, chư huynh được khôn ngoan để dạy họ, để chia sớt cho họ những ánh sáng của đời sống duy nhất nó chỉ là một, ở nơi họ cũng như ở nơi chư huynh. Ðó là một bài khó học thuộc lắm. Luôn luôn chúng ta cầu xin Ðấng Cao Cả cúi xuống để nâng đỡ chúng ta lên cao. Vậy chúng ta có sẵn sàng giơ tay ra nắm kẻ ở dưới mình để nhấc họ lên đến trình độ của chúng ta hay không? Nếu không có điều đó thì không có Ðạo Tâm, không có Tôn giáo chơn chánh; thì đó chỉ là lòng ích kỷ ẩn mình dưới cái lớp mặt nạ của lòng sùng Ðạo và kẻ thấp hèn lại muốn tỏ ra mình là cao thượng. Khi nghĩ đến đời sống Tinh thần, xin chư huynh nhớ rằng nó bao hàm tất cả, không loại ra ngoài một cái chi cả. Nó bao trùm mọi sự, không bài trừ cái nào, nó sẵn sàng chia sớt với mọi người những kho tàng quí báu thiêng liêng của nó, chúng chỉ có giá trị khi được sử dụng để làm cho đời sống nghèo nàn khổ cực của đồng loại được trở nên giàu có sung sướng và rộng rãi hơn.

Có lẽ một tư tưởng được tượng trưng bằng một hình ảnh, sẽ được chư huynh ghi nhớ kỹ càng hơn là những lời nói rất chóng bị lãng quên. Trước khi từ biệt chư huynh, tôi xin nói tư tưởng đó ra. Có lẽ đôi khi chư huynh đứng gần một nhà điêu khắc làm việc giỏi như vài nhà nghệ sĩ đại tài bây giờ. Trong khối đá hoa, y tạc nên một bức tượng để diễn tả ý niệm của mình cho được rõ ràng và linh động trước tâm trí loài người. Nếu chư huynh hỏi han nhà nghệ sĩ đó thì y sẽ nói rằng đối với y đó không phải là khối đá hoa mà y biến đổi thành một pho tượng; chính trong khối đá hoa này một bức tượng đang ẩn mình, mỗi lần đục đẽo y đánh vỡ một mảnh đá hoa, khiến cho hình càng lộ thêm ra, nhờ như vậy lần lần được gần pho tượng hơn. Y làm việc hoài, làm việc mãi, con mắt thiên tài của y nhìn thấy cái hình dáng mà chư huynh và tôi, chúng ta không nhận ra được, cái đục và cái chàng gọt đẽo đá hoa nhưng nó không tạc được tứ chi tuyệt đẹp của pho tượng vì pho tượng này có sẵn trong khối đá. Ðối với chư huynh thì cũng giống như vậy. Tinh Thần thiêng liêng tức là Thượng Ðế vẫn ngự trị trong mỗi người của chư huynh ẩn tàng dưới xác thịt, bị nhốt trong những thể, bị giấu kín đằng sau những sự cảm xúc và trí khôn, cho nên con mắt phàm không nhìn nhận được Ngài. Chư huynh không phải sáng tạo ra cái hình ảnh này. Xưa nay vẫn có nó ở đó. Chư huynh không cần phải xây dựng nó, chư huynh chỉ cần giải phóng nó mà thôi. Thượng Ðế ngự trị nơi chư huynh, Ngài chờ đợi để tự biểu lộ, chư huynh có cái vinh hạnh làm tiêu tan tất cả những gì cản trở sự biểu lộ đó. Chư huynh có một cái đục đó là tư tưởng của mình, còn cái chàng của chư huynh chính là quyền năng của Ý chí. Chư huynh hãy sử dụng Ý chí và tư tưởng mình, hãy xua đuổi những cảm xúc của xác thân và của tâm trí; tất cả những gì không phải là Ngài thì phải tiêu tan đi. Rồi thì một pho tượng thiêng liêng tuyệt đẹp sẽ được tạc trên đời sống hồng trần; vẻ huy hoàng của Thượng Ðế nội tâm sẽ sáng chói, sẽ soi đường và sưởi ấm mọi người với cái ánh sáng rực rỡ của nó. Thượng Ðế giáng phàm để trở thành người sống trên mặt đất, và chư huynh sẽ có cái vinh hạnh giải thoát Ngài để Ngài giúp đỡ nhân loại. Vậy thì trong đời sống hằng ngày, chư huynh hãy là những nhà nghệ sĩ, nhà điêu khắc làm việc trong xưởng đời. Và khi chư huynh từ giả cõi đời này, chư huynh sẽ biết rằng mình là Tinh thần trường tồn vĩnh cửu, chư huynh sẽ không còn lầm mình với những thể bị bỏ lại phía sau. Và như thế chư huynh sẽ đi vào một đời sống rộng rãi hơn, kiếp số của chư huynh sẽ tốt đẹp, tương lai của chư huynh sẽ rực rỡ vì chư huynh sẽ được tự do, chư huynh sẽ là Chơn thần được giải thoát, chư huynh sẽ là Thượng Ðế biểu lộ ra; chư huynh đã đạt được mục đích của nhơn sinh.


H Ế T.



[1] Tiềm thức là sự hoạt động tinh thần ngoài ý thức của mình nó có nghĩa là những hoạt động mà ý thức của mình không kiểm soát nổi. Tiềm thức hay là bán ý thức cũng một nghĩa. (Lời dịch giả)
[2] Đức Chúa Trời dựng nên loài người giống như hình Ngài. Sáng Thế Ký 27. (Lời dịch giả.)
3 Cũng gọi là Tinh thần.
[4] Gọi là chất Thượng Thanh Khí. (Lời dịch giả)
[5] Gọi là chất Thanh Khí. (Lời dịch giả)
[6] Máy phát động này tức là cái phách (double éthérique). (Lời dịch giả)
[7] Equilibre instable.
[8] Alchimiste.
[9] Màu này là màu của lòng sùng đạo (bleu dévotionnel). (Lời dịch giả)
[10] La philosophie du Mysticisme par Du Prel.
Xin đọc cuốn « Những giấc chiêm bao » (Les rêves) của Đức Leadbeater (Lời dịch giả)
[11] La personnalité humaine par Frederick Myers.
[12] Trong xứ Balkans 1912 (ghi chú của dịch giả từ Anh văn ra Pháp văn).
[13] Hạch mũi sưng lên thì hai con mắt mở trao tráo mà không thấy đường (Lời dịch giả).
[14] Griselda là một người đàn bà gương mẫu về đức tính kiên nhẫn và vâng lời chìu lụy chồng. Bà là vợ của Hầu tước Saluzzio. Hầu tước bắt bà làm những công việc khổ sở, dù mệt nhọc, bà luôn luôn tuân theo không bao giờ than van hay oán trách. Trong cuốn Decameron của Boccacio và cuốn Canterbury Tales của nhà văn hào Chaucer cũng có thuật chuyện này.
[15] Xin chư quí độc giả nhớ “Bây giờ” đây là năm 1912. Thuở đó, văn chương, khoa học, mỹ thuật chưa tiến bộ như ngày nay. Hiện giờ có những báo chí chuyên khoa và báo chí dự một phần lớn vào việc mở khai dân trí, cải tiến dân sanh. 50 năm đã qua, nhiều biến cố đã xảy ra và sửa đổi cuộc diện thế giới, nhưng luật trời vẫn bất di bất dịch. (Lời dịch giả. B.L.)
[16] Thế nên người ta mới nói “chết là về quê về kiểng” (Lời dịch giả)
[17] Xin nhớ Bà A. Besant thuyết bài này năm 1912 tới nay đã nửa thế kỷ rồi, cuộc đời đã biến thiên rất nhiều. (Lời dich giả)
HẾT
------------------------------------------------------------------------------


Thông Thiên Học là Khoa Học của linh hồn.

Thông Thiên Học là Minh Triết Cổ Truyền được trình bày lại theo thời đại hiện nay

Phương pháp có khác nhau, tư tưởng có khác nhau, cách thức có khác nhau, thì việc làm của chúng ta mới linh động chớ không suy giảm, miễn hành vi ấy có tình thương dẩn dắt và lòng nhân ái xét soi. (Annie Besant)


Hội Thông Thiên Học là một tổ chức quốc tế, với ý nghĩa rộng rãi của từ, mà hội viên thuộc tất cả các giống dân, tín ngưỡng và ý kiến khác nhau nhưng họ hợp tác làm việc với nhau cùng chung một mục đích: sự tiến bộ của nhân loại - Nhưng với danh nghĩa là Hội, Hội hoàn toàn không thuộc về bất cứ quốc gia nào hoặc đảng phái chính trị nào.

Về phương diện Hội, họ chỉ có thể hành động tập thể cho các vấn đề chung có liên quan với Thông Thiên Học; về phương diện cá nhân, họ được hoàn toàn tự do để theo tư tưởng và hành động chính trị riêng biệt, miễn hành động đó đừng đi ngược lại nguyên lý của Thông Thiên Học và không có điều hại nào cho chính Hội Thông Thiên Học.
(Bí Quyết Thông Thiên Học, H. P. B
.)

Nếu mọi viên sỏi đều trở thành một viên hồng ngọc vô giá thì viên sỏi và hồng ngọc ắt có giá trị giống như nhau.

Mọi người đều nghĩ rằng sự khôn ngoan của mình là hoàn hảo, cũng như mọi bà mẹ đều cho rằng con của mình là đẹp nhất.

“Con tôi là của tôi, tài sản này là của tôi”: một kẻ điên rồ bị giằn vật vì những tư tưởng như thế. Bản thân y còn chưa thuộc về y chứ đừng nói tới con cái và của cải.

Bánh xe hi sinh có trục là Tình Thương, lốp là Hành Động và căm là Tình Huynh Đệ.

Thông Thiên Học không phải là việc thu tóm quyền lực dù là về mặt thông linh hay trí tuệ, mặc dù cả hai quyền năng đó đều phục vụ cho Thông Thiên Học.

Thông Thiên Học cũng theo đuổi hạnh phúc như người ta thường hiểu về từ ngữ này. Đó là vì bước đầu tiên của nó là sự hi sinh, còn bước thứ nhì là sự từ bỏ.

Thông Thiên Học là khoa học về sự sống, là nghệ thuật sống.

Thông Thiên Học là hiện thể của tinh thần mang lại sự sống; do đó không một điều gì mang tính giáo điều có thể thuộc về Thông Thiên Học.

Ngay cả trong rừng rậm cô liêu, tội lỗi vẫn chiến thắng kẻ không thánh thiện; kềm chế được giác quan ở ngay chính nhà mình mới là tu khổ hạnh vậy.(CNPĐ)

Xin dắt tôi từ cõi gỉa đến cõi CHƠN,
Xin dắt tôi từ chỗ tối tăm đến nơi SÁNG SUỐT,
Xin dắt tôi từ cửa tử đến cõi TRƯỜNG SANH BẤT TỬ.
(Dưới Chơn Thầy)

Cái Trí là tay đại phá hoại Sự Thật. (Tiếng Nói Vô Thinh)

Ngươi hãy tiêu diệt lòng tham vọng, nhưng hãy làm việc như những kẻ lòng đầy tham vọng.
Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham sống, nhưng hãy tôn trọng sự sống.
Ngươi hãy tiêu diệt lòng ham muốn sự tiện nghi, nhưng hãy sung sướng như những kẻ chỉ sống để hưởng lạc thú.

5.- Hãy diệt mọi ý thức chia rẽ. (Kill out all sense of separateness)

Chú giải : Bạn chớ tưởng là bạn có thể sống riêng biệt với những kẻ hung dữ, hạng người điên dại. Họ chính là bạn đó, mặc dầu họ ở trình độ kém hơn người bạn hoặc vị Thầy của bạn. Nhưng nếu bạn để nảy sinh cái ý nghĩ bạn không liên đới với một điều nào hoặc một tội lỗi nào tức là bạn tạo ra một nghiệp quả, nó sẽ buộc bạn vào điều đó hoặc người đó, cho đến ngày nào tâm hồn bạn nhận thấy rằng nó không thể sống riêng rẽ được. Bạn hãy nhớ rằng tội lỗi và nhục nhã của đời là tội lỗi và nhục nhã của bạn, bởi vì bạn là một phần tử của thế gian; nghiệp quả của bạn dệt chung và không thể tách rời Đại Nghiệp Quả được. Trước khi bạn được giác ngộ, bạn phải trải qua mọi chỗ dơ cũng như chỗ sạch. Như thế bạn hãy nhớ rằng cái áo dơ mà bây giờ con nhờm gớm có thể là cái áo của bạn bữa qua hoặc bữa mai. Nếu bạn tỏ vẻ ghê sợ, thì khi nó đặt lên vai bạn, nó sẽ càng bó chặt lấy bạn hơn. Kẻ nào có lòng tự kiêu về đức hạnh của mình tức là dọn cho mình một chỗ trong vũng bùn nhơ. Bạn tránh, vì đó là điều nên tránh chớ chẳng phải để giữ cho bạn được trong sạch.
(Ánh Sáng Trên Đường Đạo) xem tiếp

58. Bạn không thể nào đi trên đường Đạo, nếu chính bạn chưa trở nên con Đường đó (32).

59. Hãy để cho Hồn bạn lắng tai nghe mọi tiếng đau khổ, như bông sen nở lớn để hứng ánh sáng mặt trời buổi ban mai.

60. Bạn chớ để nắng gắt làm khô một giọt nước mắt đau khổ nào, trước khi bạn lau ráo lụy cho cặp mắt của người buồn khổ.

61. Bạn hãy để cho tất cả nước mắt của thế gian rơi vào lòng bạn, đọng lại ở tim bạn, chớ không khi nào chùi đi, trước khi nguyên nhân gây đau khổ tiêu tan.

62. Hỡi con người có tấm lòng từ bi, những giọt nước mắt đó là những suối nước tưới mát cánh đồng từ thiện bất diệt. “Chính nơi miếng đất đó trổ được bông nửa đêm của Phật (33), thứ bông này còn khó tìm, khó gặp hơn bông cây Vogay. Ðó là hột giống để thoát ly đường sanh tử. Nó tách riêng vị La Hán ra ngoài vòng tranh đấu và tham vọng, nó dắt người băng ngang qua những cánh đồng của Thực Tại để đến nơi an lạc, chân phúc, chỉ thấy được nơi cõi Tịch Mịch, Hư Vô. (Tiếng Nói Vô Thinh) xem tiếp


Bạn hãy nhớ rằng: mọi việc khổ não trên thế gian đều là tạm thời, bổn phận của bạn phải luôn luôn vui vẻ và giữ lòng thanh tịnh.
Bởi vì chính bạn với Đường Ðạo phải trở nên một. Đường Đạo tức là bạn. Bạn bước trên Ðường Đạo mà không cần nghĩ tới nó, và bạn cũng không thể rời nó được nữa. Bạn là Chơn Thần, bạn đã quyết định như vậy. Nếu bạn lìa bỏ nó tức là bạn lìa bỏ chính bạn vậy.
Có minh triết bạn mới có thể giúp đời, còn ý chí để dắt dẫn sự minh triết, và từ ái lại gây ra ý chí. Ấy là những điều kiện mà bạn cần phải có. Ý chí, minh triết, từ ái là ba trạng thái của Ðức Thượng Ðế. Nếu bạn muốn hiến mình phụng sự Ngài, thì bạn phải biểu lộ ba trạng thái ấy trong thế gian này.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved