|
Cát Hoàng
Bến Cát thuộc
xã Tân Phú Trung xưa, bao gồm ba làng: Tân Định, Phú Long và Định Trung (Nay
tách làm 2 xã: Định Trung, Phú Long, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre). Địa hình nằm
vắt ngang trục đất giồng tiếp giáp hai con sông lớn Cửa Đại và Ba Lai (chung
dòng Mêkông).
Đặc trưng Bến Cát chính là cát.
Khoảng thập kỷ 60 thế kỷ 20 trở về trước, con đường từ Bến Bạ (giáp sông Cửa
Đại) đến Ao Vuông (giáp sông Ba Lai) tràn ứ cát, lớp học trò nhỏ chúng tôi đi
về lúc trời trưa nắng là phải chạy cách quãng núp vào bóng cây để tránh chân
bỏng rát; còn chạy xe đạp (rất ít) không khéo thì ngoẹo cổ xe té lăn quay là
chuyện thường.
Bến Cát cũng lắm
vườn cây cho bọn học trò con nít tha hồ leo trèo nhẳn nha mãng cầu, mít, xoài,
khế, ổi,...Nhưng khoái nhất có lẽ là món duối; thứ trái ngòn ngọt, thơm thơm vừa
có dư vị đăng đắng, chua chua, chát chát ăn từ trưa tới chiều còn đa đã cái
miệng; cây duối thì bự chảng ông cả, nhánh dai dẻo, leo lên cao nằm vắt võng
ngắm tư bề nhà cảnh lại càng ngon, càng sướng.
Thời chiến tranh giao thông đi lại rất khó khăn, ai có việc thật
cần lên đô thị (Bến Tre, Mỹ Tho) thì phải đi đò máy (xe đò rất ít, đi lại rất
khó khăn do cầu đường quá xấu). Bờ sông Cửa Đại (còn gọi là sông Tiền) có một
bãi cát
dài thoai thoải (nay bùn đã bồi lấp, mọc cả rặng bần gọi là Bãi Bần) đò
máy ghé vào để đón hoặc trả khách - Có lẽ vì thế nên có tên gọi là Bến Bạ (?).
Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in cảnh bọn con nít chúng tôi nôn nao chờ đón má
đi chợ Mỹ Tho về (Chiều đò mới về, nhưng đã đón từ xế trưa. Trong khi chờ chẳng
biết làm gì, chúng rủ nhau tắm sông và chia phe đánh trận giả). Quà má hoặc
người thân cho đâu nhiều nhỏi gì, chỉ là ổ bánh mì hay vài viên kẹo. Vậy mà bọn
trẻ vui mừng nhảy cửng, tung tăng chân sáo suốt đường về quanh quẩn thương
thương.
Bến Cát có đình thờ thần hoàng bổn
cảnh, mỗi năm hai lệ cúng: Thượng ngươn và hạ ngươn. Cúng đình thường có hát bội
(hát bộ), con nít khoái, người lớn cũng khoái, người cầm chầu thường
là ông chánh bái hoặc ông cả hay những người có uy tín được làng cả nể trọng
vọng (Những người nầy đều có lễ vật cúng thần, thường là mâm xôi, gà trống hoặc
heo quay, heo trắng). Có nhiều mẩu chuyện xung quanh việc cúng đình và hát bội,
chỉ xin kể hai mẩu chuyện vui về xem hát bội: Có anh Th chơi ác lén lấy cắp Ông
Tổ gánh hát bội, làm buổi đó gánh hát chảy re, nghe và xem mọi người thấy trớt
quớt không giống như buổi trước, khiến Ông Bầu gánh phải xin lỗi bàn dân thiên
hạ cho gánh hát tạm ngưng lo tìm Ông Tổ mới hát lại được (Thú thiệt đến bây giờ
chúng tôi
cũng chưa cắt nghĩa được hiện tượng ly kỳ nầy!). Có một thím mê hát quá
chừng lo chen vô cố xem cho được, khi chen lại chắp ngược hai tay ra phía sau
đít, khiến cho chú T cắc cớ "gát cu" mình lên, thím ta chẳng nói chẳng rằng, rút
nhẹ một tay nắm lấy cái móc tai búi tóc, một tay nắm chặt "con cắc cớ" kéo đi
vòng vòng khắp bãi hát. Qua vụ việc têu tếu nầy anh Th và chú T được công chúng
ban cho hai cái nicname khá mỹ miều, mà tôi xin phép không kể nghe bất
tiện.
Bến Cát có chùa Tân Lâm. Những ngày rằm
tháng giêng, tháng 7 âl,...hoặc ngày Đại lễ Phật đản là dịp quy tụ hầu hết mọi
nhà, mọi người viếng bái cầu sự an lành. Dịp nầy lũ con nít mê tít thò lò luôn,
chúng chơi diễn đủ trò trong-ngoài khuôn viên nhà chùa, chỉ trừ gian chánh điện
do sợ tượng Ông Thiện, Ông Ác. Riêng tôi ngán nhất là hàng năm đến mùa cúng sao
(tháng 8 âl), vì tôi luôn bị mẹ bắt quỳ đội sớ (gia đình có bao nhiêu người là
bấy tờ sớ), quỳ gần như suốt buổi, hai đầu gối tê đau muốn xỉu. Bây giờ lớn già
đầu còn bày đặt mần thơ: "Đêm qua nghe tiếng chuông chùa/khiến con nhớ mẹ nhớ
mùa cúng sao/thèm quỳ cho gối thật đau/...". Thiệt không biết xấu
hổ!.
Chuyện chùa chiềng cũng nhiều. Song, tôi ưa nhất là
khi có nàng nói với mình: "Phật không cấm yêu". Câu nói nầy có sức mạnh
giác ngộ tôi, để tôi thông cảm ba cái chuyện yêu đương khá dữ dội của mấy vị sư
sãi ở chùa Tân Lâm. Trong đó, có nhiều vị tu hành nghiêm nghị trong thời chiến
tranh, sang thời bình các vị "tung áo cà sa ra tìm tổ
ấm".
Tôi có thói quen từ nhỏ là mỗi lần về quê là sang chùa thắp nhang
lễ Phật (dù tôi không theo đạo). Nhưng, sau những đợt tu sửa, làm mới, chùa Tân
Lâm trở nên xa lạ đối với tôi đến độ không ngờ. Kiến trúc cùng biết bao tượng
phật gỗ xưa rất có giá trị đều mất hết, bị ciment hoá ráo trọi. Cái ao sen phía
trước chùa thay vì được hồi phục thì họ làm như "vườn tượng". Cũng may
còn mấy cây cột gỗ. A di đà, buồn thay!
Bến Cát có trường
học nằm trong vòng rào bót. Chẳng biết ai đó đã có sáng kiến lấy thân học
trò che chắn cho lính trán. Khoảng năm 1963 đã xảy ra một cuộc chiến thật sự
giữa hai phía, may mà bất phân thắng bại, đủ để 2 đứa học trò lớp tư (lớp 2 bây
giờ) bị thương nặng, nếu không có thầy Luận dũng cảm cứu nguy giữa hai làn đạn
chắc gì chúng sống.
Bến Cát có hai cái xóm khá đặc biệt:
Xóm Giồng Nần toàn người theo Quốc gia. Đối nghịch với xóm Giồng Nần là xóm Bến,
toàn người theo Việt cộng. Lạ đến độ là chúng chơi đánh trận giả từ lúc còn để
chỏm, lớn lên chúng đánh nhau chết sống thật. Hằn thù nhau đến thế, nhưng mỗi
năm chúng chừa ra ba ngày Tết Nguyên đán, ngày rằm tháng bảy âl, ngày lễ Noel là
tự do đi lại, không bắn giết nhau, mà còn có thể gặp nhau uống trà tranh luận
sai đúng về lý tưởng của mỗi bên đang theo đuổi - Nó trở thành một thứ luật bất
thành văn được hai bên tự giác chấp hành mà đến nay hỏi ra cũng không
ai nhớ nổi nó được hình thành từ lúc nào và do ai.
Còn nhiều chuyện vui buồn lý thú về Bến Cát. Song,
cứ ê a kể mãi e rằng bạn đọc sẽ nhàm chán. Tôi xin thay đổi không khí bằng một
bài thơ "Bông bí lòng con" gọi là kết thúc bài viết cho có
hậu:
Bơi trong mù sương
mặt trời hiền như trái bí rợ
mùa giáp hạt:
"Lúa chín vàng mơ
Đói mờ con mắt"Đi xa...
Trái tim con se sắt
nhớ lá nhám tay Mẹ mùa bí rợ
ôi! Đọt rau quê nghèo
ngọt bùi hơn gạo tha hươngTha hương...
thương giồng cát cũ
từng ủ nồng
mỗi bước chân emBước chân quen...
hằng khuya Vạn Cấy
hoà tiếng chuông chùa Tân Lâm
vọng đêm xa xứ.
Cát Hoàng