Như ta đã biết, việc một quốc gia rơi vào bẫy thu nhập trung bình và bị mắc kẹt tại mức thu nhập này vì nhờ có nguồn tài nguyên và những lợi thế ban đầu nhất định nhưng thời gian dài vẫn không vượt qua được ngưỡng đó.
Nói một cách dễ hiểu “bẫy thu nhập trung bình” là một khái niệm chỉ tình trạng một quốc gia thoát nghèo, gia nhập vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng phải mất nhiều thập kỷ mà chưa chắc trở thành một nước phát triển.
Các nước như Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philipine đều không vượt qua được “bẫy” thu nhập trung bình sau những bước phát triển nhảy vọt đáng ngạc nhiên trong suốt 2 thập niên 1970 – 1980; trái lại các nước khác như Hàn Quốc, Đài Loan đã vượt qua bằng con đường hướng tới phát triển công nghệ cao dựa vào cơ sở của nguồn lao động chất lượng cao.
Theo Kenichi Ohno (2011), một quốc gia có thể đạt được mức thu nhập trung bình nhờ tự do hóa, hội nhập với nền kinh tế thế giới và quá trình tư nhân hóa nhưng sẽ chỉ dừng ở đó và điều đó cũng có nghĩa là, nếu không thoát khỏi ngưỡng này thì nước đó đã “lọt bẫy”.
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng vướng vào bẫy có mức thu nhập trung bình được mô tả: (i) sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư sau quá trình kinh tế tăng trưởng, (ii) tiếp tục tình trạng của một nền kinh tế gia công (nền kinh tế trong nước không đủ sức tạo ra giá trị gia tăng mới để tham gia vào chuỗi giá trị công nghiệp toàn cầu do chất lượng nguồn nhân lực thấp, (iii) sự thống trị của các tập đoàn mang thương hiệu nước ngoài, (iv) sự phân hóa thu nhập đưa đến phân cực v.v…
Quá trình phát triển từ thu nhập trung bình, bản thân nó cũng ngầm chứa những yếu tố là nguyên nhân để một nước rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Đó là sự hủy hoại môi trường sống cần phải mất nhiều nguồn lực và thời gian để khắc phục (nhưng lại có những yếu tố vĩnh viễn không thể khắc phục được), sự thay đổi môi trường xã hội (văn hóa, xã hội biến đổi trong thời gian quá ngắn) dễ tạo ra những xung đột; sự tự tin thái quá của các tầng lớp dẫn dắt đến thành công, tâm lý đòi tưởng thưởng công trạng biểu hiện ở nhu cầu hưởng thụ sớm (Võ Hoàng Dũng, 2010).
Kenichi Ohno (2011) cho rằng, Việt Nam đang bị bẫy thu nhập trung bình thách thức là do tư tưởng trước đây dựa chủ yếu vào mở cửa thương mại (ODA, FDI, kiều hối, đầu tư vào chứng khoán, bất động sản) thay vì dựa vào năng suất lao động có được từ nguồn nhân lực có chất lượng cao và đổi mới – vốn là 2 yếu tố then chốt cho tăng trưởng bền vững và giúp thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.
Theo Huruhiko Karoda (2011) và một số chuyên gia kinh tế, để thoát khỏi “bẫy”, Việt Nam cần phải (i) Tập trung đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực vì nguồn lực thực sự cho tăng trưởng phải là giá trị do người dân và doanh nghiệp trong nước tạo ra; (ii) Thay đổi thể chế kinh tế, tập trung phát triển khu vực kinh tế tư nhân; (iii) Xác định một số công nghệ chủ đạo đến năm 2020, nghiên cứu những thuộc tính tốt nhất trên thế giới để có chiến lược phù hợp và giám sát tiến độ do cấp cao nhất thực hiện.
Bốn yếu tố trên cần đặt trong một tổng thể chiến lược mang tính dài hạn. Tuy nhiên với phạm vi bài này, xin được đề cập đến một số yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt, đó là việc tập trung đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Những yếu tố bức xức đối với việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta
Từ những gì đã sơ lược đề cập ở trên, cho thấy nguồn nhân lực có chất lượng cao trở thành một yếu tố cực kỳ quan trọng, trong số các yếu tố quan trọng khác nhằm vực dậy nền kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi “bẫy thu nhập trung bình” bởi lẽ “bẫy thu nhập trung bình” chỉ là một khái niệm tương đối, thay đổi theo thời gian và hoàn toàn không phải là điều không thể vượt qua.
Ở tất cả các nước, ở mỗi giai đoạn phát triển đều có những khó khăn khác nhau và có vượt qua được hay không còn phụ thuộc vào thể chế chính trị và sức mạnh của cộng đồng doanh nghiệp, trên cơ sở nguồn nhân lực chất lượng cao mà quốc gia đó đã tạo ra.
Để chuyển nền kinh tế có mức thu nhập trung bình, bắt nguồn từ việc khai thác và sử dựng nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có sang nền kinh tế phát triển – một nền kinh tế sử dụng kỹ thuật và công nghệ cao có được từ chất lượng nguồn lao động, không chỉ đúng với tất cả các nước mà còn rất đúng đối với nước ta.
Như chúng ta đã biết, ở bất kỳ quốc gia nào nguồn tài nguyên thiên nhiên dù phong phú đến đâu cũng chỉ là hữu hạn, trong khi đó trí tuệ của con người là luôn luôn và mãi mãi là vô hạn. Chính vì lẽ đó, việc chuyển sự tăng trưởng kinh tế có được chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sang một nền kinh tế tri thức là một yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia nào, thể chế chính trị nào, ở bất kỳ thời đại nào và trong bất kỳ nền văn minh nào.
Là một nước đi lên từ một nước kém phát triển, chắc chắn có những khó khăn nhưng cũng có những thuận lợi hết sức cơ bản: Đó là thừa hưởng những thành tựu khoa học và kỹ thuật của nhân loại đã tích lũy được từ những nước phát triển, mà không phải mất công và thời gian để tìm tòi, khám phá và sáng tạo.
Đặc trưng của một nền kinh tế có trình độ phát triển cao chính là việc đưa vào sử dụng các kỹ thuật công nghệ hiện đại thuộc “đời chót”, từ đó làm thay đổi toàn diện và sâu sắc quá trình công nghệ đã từng tồn tại trước đó, tạo ra không chỉ năng suất lao động cao mà còn là chất lượng sản phẩm, với những tính năng ưu việt của nó, diễn ra trong mọi lĩnh vực của của đời sống kinh tế và xã hội.
Việc chuyển đổi một nền kinh tế có mức thu nhập trung bình như nước ta có được chủ yếu từ việc tận dụng và khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có, chuyển sang một nền kinh tế phát triển bằng việc đưa “chất xám” tham gia phần lớn trong mỗi một sản phẩm – là cơ sở quan trọng trong quá trình bức phá đi lên đầy ngoạn mục, khó khăn và phức tạp, cần có những quyết sách táo bạo, sát thực, phù hợp tình hình cụ thể của đất nước ta, con người Việt Nam ta, liên quan đến chính sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Căn cứ và những quan điểm lớn liên quan đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo theo cương lĩnh do Đại hội Đảng lần thức 11 đưa ra, theo tôi những vấn đề sau đây cần phải được nhận thức và xử lý phù hợp.
Một là, thúc đẩy quá trình tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại của thế giới với các hình thức thích hợp.
Quá trình du nhập công nghệ và kỹ thuật cao vào đất nước ta chắc chắn phải được tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau thông qua nhập khẩu kỹ thuật và công nghệ - đặc biệt là công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra sau đó là quá trình sử dụng kỹ thuật và công nghệ cao, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đã trải qua quá trình chuẩn bị nghề nghiệp đạt chuẩn quốc tế để có khả năng sử dụng kỹ thuật và công nghệ đó.
Điều kiện tiên quyết đó chỉ có thể có được thông qua quá trình đào tạo với chất lượng đào tạo cho phép. Với một đội ngũ lao động được đào tạo căn cơ và bài bản không những có thể sử dụng kỹ thuật và công nghệ du nhập mà còn có khả năng khám phá, phát minh trong quá trình sử dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại đó.
Như vậy, xét cho cùng yếu tố con người được được chuẩn bị nghề nghiệp là yếu tố cực kỳ quan trọng và không thể thay thế. Để làm được việc đó, theo chúng tôi cần phải có những giải pháp cụ thể sau đây tiếp theo liên quan đến giáo dục và đào tạo.
Hai là, phải mở rộng sự hợp tác quốc tế trong đào tạo
Việc hợp tác quốc tế trong đào tạo cần được coi là điều kiện cần cho quá trình tiếp thu và ứng dụng công nghệ và kỹ thuật hiện đại, dĩ nhiên phải được tiến hành bằng những hình thức khác nhau, như việc liên kết các trường đại học có uy tín của thế giới, chúng ta có điều kiện để cập nhật để sớm đưa vào ứng dụng trong đời sống thực tế ở nước ta. Theo lý thuyết đó, bên cạnh việc đưa người đi đào tạo ở các nước, cần thiết xác lập cơ sở pháp lý cho các trường đại học có tầm cỡ quốc tế và khu vực liên kết với các trường đại học ở nước ta.
Nếu chúng ta coi đây là giải pháp quan trọng thì trước hết cần đổi mới các thủ tục pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho quá trình liên kết này, dù đó là trường công lập hay là ngoài công lập. Cần nhận thức một thực tế đang diễn ra ở nước ta hiện nay là do nhiều cách nhận thức và xử lý khác nhau, quá trình này đang diễn ra hết sức chậm chạp và còn nhiều ách tắc. Phải làm sao cho quá trình liên kết đó được điễn ra một cách đơn giản nhất, thuận lợi hơn và hiệu quả hơn.
Ba là, nhận thức đúng đắn trong việc coi đào tạo là một hình thức đầu tư phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ đi lên CNXH (bổ sung cương lĩnh 1991) đã khởi động “đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển” và chính từ cách đặt vấn đề đó, phải xem xét cơ cấu ngân sách trong đầu tư, trong đó quan tâm thích đáng cho đầu tư giáo dục và đào tạo, theo hướng nâng dần tỷ trọng ngân sách cho giáo dục và đào tạo.
Mức ngân sách hiện nay dành cho giáo dục và đào tạo của đất nước ta đã tăng lên nhiều so với trước, chiếm khoảng 20% của ngân sách nhà nước tức chiếm đến 6,5% GDP (số liệu 2008) nhưng xét về nhiều phương diện mức tăng đó chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo và còn thua kém xa so với các nước phát triển trên thế giới và khu vực. Đó chính là nguyên nhân chính làm cho khoảng cách của sự tụt hậu giảm đi một cách hết sức chậm chạp.
Bốn là, làm sâu sắc hơn chủ trương xã hội hóa giáo dục và đào tạo
Như chúng ta đã biết, chủ trương xã hội hóa giáo dục và đào tạo là một trong những chủ trương mang tầm chiến lược, không chỉ đáp ứng nhu cầu được đào tạo hết sức to lớn và bức bách mà còn là tạo ra một kênh dẫn vốn rất quan trọng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo, để nhà nước có được điều kiện tái cấu trúc ngân sách cho sự nghiệp giáo dục và đào theo hình thức công lập.
Tuy nhiên, dù là công lập hay ngoài công lập đích cuối cùng vẫn là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước và do vậy, bên cạnh việc quan tâm đến các trường công lập, cần thiết phải dành sự quan tâm thích đáng đối với sự phát triển giáo dục và đào tạo ở các trường ngoài công lập.
Chỉ tính gọn trong 15 năm qua, trên đất nước ta hàng trăm cơ sở đào tạo ngoài công lập thuộc nhiều cấp học và ngành đã ra đời, tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Hàng năm, các cơ sở đào tạo thu hút hàng vạn con em nhân dân lao động thuộc mọi vùng, miền của đất nước vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp và học nghề, trong đó với một số lượng không nhỏ được thu hút vào các cơ sở đào tạo ngoài công lập và từ đó hàng năm cung ứng cho xã hội những lao động đã được chuẩn bị nghề nghiệp, bổ sung vào đội ngũ những người lao động được đào tạo vận hành trong các ngành kinh tế của cả nước, góp phần khắc phục bước đầu tình trạng thiếu nguồn lao động có chất lượng và là cơ sở quan trọng để họ có thể tiếp tục phát triển và nâng cao trình độ chuyên môn, thích ứng từng bước cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế.
Những kết quả mà chủ trương xã hội hóa giáo dục mang lại là không thể chối cải. Nó không những chứng minh trong thực tế tính đúng đắn mang tầm trí tuệ của Đảng và nhà nước, sát hợp với tình hình thực tế của nước ta, mà còn phù hợp với xu hướng phát triển giáo dục và đào tạo của thế giới và từ đó, thu được những kết quả rất đáng khích lệ.
Tuy nhiên, đối với các trường ngoài công lập vẫn đang đứng trước một cuộc cạnh tranh không bình đẳng với các trường công lập, xuất phát từ các cơ chế, chính sách và quan trọng hơn là cách nhìn của một sô cán bộ lãnh đạo và một bộ phận dư luận.
Nhà giáo dục Hoàng Xuân Sính – Chủ tịch HĐQT Đại học Thăng Long đã từng thốt lên rằng: “Chẳng có ai khổ như những nhà đầu tư giáo dục chúng tôi. Ngậm ngùi, đắng cay chúng tôi đã trải qua, đó là quãng đường mệt mỏi, có những lúc như muốn khuỵu xuống vì khó khăn quá nhiều. Nhưng chúng tôi đã đứng dậy, vươn mình lên để khẳng định nhiệt huyết của mình, và giờ đây chúng tôi đã phần nào chiến thắng khó khăn.”
Để khắc phục những bất cập và góp phần đưa các trường Đại học phát triển, chắc chắn sẽ có những đóng góp khác nhau của các nhà khoa học, nhà giáo và các nhà giáo dục khác.
Ở đây theo chúng tôi, để góp phần khắc phục những bất cập đã và đang xảy ra đối với các trường ngoài công lập và đưa vị thế các trường ngoài công lập ngang tầm với các trường Đại học khác, cần thiết phải khắc phục có hiệu quả các tồn tại, bất cập và yếu kém đã và đang xảy ra, được thể hiện thông qua thực tế sau đây:
Như chúng ta đã biết, đến nay sự khác nhau cơ bản ban đầu của các trường đại học công lập và ngoài công lập chủ yếu là sự khác nhau về trình độ ở chuẩn đầu vào. Và sự khác nhau đó không chi phối hoàn toàn và quyết định đến chất lượng đào tạo để cho ra kết quả cuối cùng ở đầu ra, bởi lẽ mọi người đều thừa nhận, ngoài chất lượng ở chuẩn đầu vào, chất lượng đào tạo còn phụ thuộc vào một số yếu tố nữa, đó là, chất lượng giảng dạy của đội ngũ thầy cô giáo, chất lượng giáo trình và sách giáo khoa, cơ sở vật chất của đào tạo và các liên kết bên trong và bên ngoài của chính quá trình đào tạo đó v.v…
Vì lẽ đó, việc quan tâm khác nhau đến các yếu tố quyết định chất lượng đào tạo khác nhau ở các cơ sở đào tạo, khoảng cách về chất lượng đào tạo giữa các trường công lập và ngoài công lập cũng sẽ khác nhau, nghĩa là nó có thể thu hẹp khoảng cách và cũng có thể làm giãn nở khoảng cách đó, điều đó cũng có nghĩa là không phải cứ là trường ngoài công lập thì chất lượng đầu ra ắt phải kém hơn các trường công lập mà tùy thuộc vào sự quan tâm đến chất lượng đào tạo.
Mặc dù chưa có điều tra số liệu để nói về chất lượng đào tạo các trường ngoài công lập, nhưng qua các số liệu của một số trường thì tỉ lệ sinh viên được các tổ chức sản xuất – kinh doanh thu nhận trước khi ra trường khá cao, có trường lên đến trên 90% (như Lạc Hồng, Văn Lang v.v…) đã chứng minh điều đó.
Trên cơ sở những gì đã đạt được, thiết nghĩ cần phải có những quyết sách phù hợp, sáng tạo nhằm làm sâu sắc hơn chủ trương xã hội hóa giáo dụng và đào tạo – yếu tố quan trọng góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta.
Kết luận
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cùng với các yếu tố khác tạo nên sự bức phá để sớm đưa nước ta vượt qua “bẫy” nước có mức thu nhập trung bình là hoài bảo của thế hệ hiện nay và tương lai. Mặc dù đưa ra những nội dung cơ bản liên quan đến sự bức phá này, tuy nhiên đây là vấn đề khó và phức tạp. Chính vì vậy, khi bài này khép lại, cũng đồng thời mở ra các hướng nghiên cứu mới đối với những ai đã và đang từng trăn trở đến vấn đề hệ trọng này – vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta.