Home » » Triết học Cổ điển Đức

Triết học Cổ điển Đức

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012 | 17:53




Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của Cantơ trải qua Phíchtơ, Sêlinh đến triết học duy tâm của Hêghen và triết học duy vật của Phoiơbắc.

1.Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học và đặc điểm của triết học cổ điển Đức
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, khoa học

Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Triều đình vua Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng.

Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản, ở nước Anh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức và những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn, mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển đất nước.

Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện, phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo... Những thành tựu đó chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.

1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức

- Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức của nó cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết học của Cantơ và Hêghen.

- Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức của của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới.

- Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương pháp tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả thuyết hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù của Hêghen đã làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý nghĩa cách mạng trong triết học. Đây là một đặc điểm nổi bật của triết học cổ điển Đức.

- Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do vậy, trong học thuyết triết học của Cantơ, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều vấn đề như: khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.

2. Một số học thuyết triết học tiêu biểu
2.1. Cantơ (1724-1804)

Cantơ sinh năm 1724 trong một gia đình quý tộc Phổ. Thời trẻ từng theo học trường đại học Tổng hợp Kenixbéc. Sau khi tốt nghiệp ông được giữ lại và giảng dạy ở đây. Ông quan tâm chủ yếu đến những vấn đề triết học và bỏ nhiều công sức để viết các tác phẩm triết học; trong đó có những tác phẩm chủ yếu như: “Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời” (1755), “Phê phán lý tính thuần túy” (1781), “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788), “Phê phán khả năng suy diễn” (1790).

Triết học của Cantơ phát triển qua hai thời kỳ chính; thời kỳ từ năm 1746 đến 1770, gọi là “thời kỳ tiền phê phán” bộc lộ quan điểm duy vật gắn với khoa học tự nhiên. Từ năm 1770 trở đi gọi là “thời kỳ phê phán” bộc lộ nhiều quan điểm triết học khó hiểu. Vì vậy để nắm được nội dung triết học của ông, chúng ta nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu sau:

2.1.1. Quan niệm về đối tượng và nhiệm vụ của triết học

Cantơ coi đối tượng của triết học là phải xác định bản chất của con người; ông cho rằng cho đến nay các khoa học vẫn chưa có được một nền tảng vững chắc bởi vì khoa học về con người vẫn chưa được chú trọng và phát triển đúng mức. Do đó, triết học phải hướng vào việc giải quyết những vấn đề cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết học cần đem lại cho con người một cơ sở và nền tảng thế giới quan mới, vạch ra những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống. Để làm được điều đó. triết học phải giải quyết các vấn đề sau:

“Tôi có thể biết được cái gì?
Tôi cần phải làm gì?
Tôi có thể hy vọng cái gì ”

Ba vấn đề trên phản ánh ba khía cạnh cơ bản nhất, trong mối quan hệ giữa con người với thế giới, đó là: Nhận thức - Thực tiễn. Vấn đề thứ nhất mang tính thế giới quan và nhận thức luận được nghiên cứu trong triết học lý luận. Vấn đề thứ hai mang tính thực tiễn được nghiên cứu trong triết học thực tiễn. Vấn đề thứ ba mang cả tính thực tiễn, cả tính lý luận được nghiên cứu trong thẩm mỹ học. Vì vậy, triết học của Cantơ chứa đựng đầy tính nhân đạo, đem lại cho con người một cách nhìn mới về thế giới và chính bản thân mình, đưa con người tới tự do và hạnh phúc.

2.1.2. Quan niệm về thế giới

Quan niệm về thế giới của Cantơ được biểu hiện chủ yếu qua tác phẩm: “Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời”, “Phê phán lý tính thuần tuý”.

Xuất phát từ luận điểm: “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy thế giới ra đời từ vật chất nhưng thế nào” . Ông khái quát định luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn và nghiên cứu bầu trời, trái đất, đại dương; từ đó đưa ra quan niệm sau:

Tất cả các hành tinh, vũ trụ không phải ngay từ đầu đã có được trạng thái tồn tại như hiện nay. Từ thời xa xưa nhất, cả thế giới đều nằm trong trạng thái hỗn độn. Nhờ lực hấp dẫn mà các hạt vật chất khuếch tán khắp không gian đã dần dần tụ lại thành đám mây lớn. Thông qua lực hút và lực đẩy, trong lòng đám mây xuất hiện những luồng gió xoáy làm cho các hạt vật chất kết lại theo hình cầu. Do ma sát khi va chạm nên chúng ở nhiệt độ cao. Vì lực hút chiếm ưu thế nên các hạt vật chất liên kết với nhau tạo thành mặt trời và các hành tinh có độ nóng khác nhau tuỳ theo mức độ ma sát. Nhưng vì khoảng không vũ trụ quá lớn và do có lực đẩy nên lực hấp dẫn không đủ sức hút tất cả lượng vật chất của vũ trụ thành một khối, mà tạo thành nhiều hành tinh độc lập với nhau. Do lực hấp dẫn tỉ lệ thuận với khối lượng, nên những hành tinh ở gẫn mặt trời thì nặng hơn so với các hành tinh ở xa. Trái đất cũng hình thành như vậy. Lúc đầu nhiệt độ rất cao, sau do có sự tỏa nhiệt nên nhiệt độ bề mặt hạ thấp dần, đông cứng lại tạo thành lớp bên ngoài. 
Nhiệt độ tiếp tục hạ thấp đến mức độ phù hợp thì các loại sinh vật hình thành. Còn lớp ruột bên trong vẫn ở dạng nóng chảy. Như vậy, không chỉ mọi sự vật mà cả toàn bộ vũ trụ nói chung đều nằm trong quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong như một quy luật “sắt đá của tự nhiên”.

Quan điểm duy vật trên được ông phát triển thêm trong khi bàn đến “vật tự nó”. Ông cho rằng trong thế giới luôn tồn tại “vật tự nó” một cách khách quan độc lập bên ngoài con người, chính nó tác động tới con người tạo ra kinh nghiệm cảm tính.

Quan niệm về thế giới của Cantơ chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật và hoàn chỉnh hơn so với các giả thuyết về vũ trụ trước đó, nó đem lại cho con người một cách nhìn mới – cách nhìn phát triển về thế giới; bước đầu xây dựng nền tảng cho quan niệm phát triển biện chứng về tự nhiên.

2.1.3. Quan niệm về nhận thức

Quan niệm nhận thức của Cantơ được trình bày chủ yếu trong tác phẩm “phê phán lý tính thuần túy”, nhằm trả lời câu hỏi “Tôi có thể biết được cái gì”.

Theo Cantơ trước khi nhận thức phải xác định rõ đối tượng và nghiên cứu giới hạn của tri thức con người. Ông khẳng định đối tượng nhận thức là các sự vật trong thế giới và nó tồn tại khách quan. Nhưng do còn bị ảnh hưởng của quan niệm siêu hình nên ông chia đối tượng nhận thức thành hai phần: Hiện tượng (phênomen) và “Vật tự nó” (numen). Ở đây hiện tượng bao gồm hình vẻ bề ngoài, các thuộc tính bề ngoài của đối tượng. Còn “Vật tự nó” bao gồm các mặt cơ bản, bản chất bên trong và các quy luật vận động nội tại của đối tượng. Hiện tượng và “Vật tự nó” phân định tuyệt đối không có mối liên hệ.

Về tri thức của loài người ông chia thành hai loại: “Tri thức kinh nghiệm cảm tính” và “ Tri thức tiên nghiệm” . “Tri thức kinh nghiệm cảm tính” chỉ nắm bắt được những hiện tượng riêng biệt hỗn độn. “Tri thức tiên nghiệm” có sẵn trong ý thức của mỗi người có khả năng sắp đặt lại tri thức kinh nghiệm theo một trình tự liên kết chặt chẽ với nhau thành mối liên hệ có tính tất yếu, phổ quát. Như vậy, một mặt Cantơ thừa nhận đối tượng nhận thức (các sự vật) tồn tại khách quan, mặt khác lại cho rằng quy luật của thế giới là sản phẩm của ý thức con người. Đây là một biểu hiện của quan điểm nhị nguyên luận.

Ông cho rằng mục đích của con người là nhận thức “vật tự nó”, muốn thế phải trải qua quá trình phát triển lần lượt qua ba giai đoạn sau:
Giai đoạn trực quan cảm tính. Sự vật bên ngoài tác động vào giác quan của con người một cách đơn lẻ, riêng biệt cho nên con người chỉ thu nhận được một mớ cảm giác hỗn độn, kết quả đó chưa phản ánh đúng sự vật. Sau đó, nhờ có hai hình thức tiên nghiệm là không gian và thời gian (là hai hình thức có sẵn từ trước trong ý thức) mà mớ cảm giác được xếp đặt lại theo một trình tự trở thành tri giác. Những tri giác này còn mang tính chủ quan và đơn lẻ chưa phổ quát vì nó phụ thuộc vào độ nhạy cảm của cơ quan cảm giác ở mỗi con người. Trực quan cảm tính mới giúp con người hiểu những gì sự vật biểu hiện ra bên ngoài, tức hiện tượng; chưa nhận biết được “vật tự nó”.

Giai đoạn giác tính. Để khách quan hóa, phổ quát hóa kết quả trực quan cảm tính thì phải chuyển lên giai đoạn giác tính. Giác tính là hoạt động của tư duy quy tụ sự đa dạng của các tri giác cảm tính thông qua các khái niệm và phạm trù. Giác tính biến các tri giác cá nhân thành các tri thức khách quan được mọi người công nhận. Trong giai đoạn này con người thường phải sử dụng 12 phạm trù được chia thành bốn nhóm: phạm trù lượng (thống nhất, nhiều vẻ, chỉnh thể); phạm trù chất (hiện thực, phủ định, hạn chế); phạm trù quan hệ (phụ thuộc, độc lập, nhân, quả, tác động); phạm trù trạng thái (khả năng, tồn tại, tất nhiên, ngẫu nhiên). Theo Cantơ nguồn gốc của phạm trù là tiên nghiệm. Các phạm trù lúc đầu mới chỉ là các hình thức tư tưởng chưa có nội dung. Vì thế các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm cảm tính nhờ phép suy diễn thông qua thời gian hình thành các lược đồ. Đây là những quy tắc hình thành trong tư duy. Nhờ các lược đồ mà các lý luận khoa học được hình thành; từ đây mới có cơ sở để sáng tạo ra các quy luật của tự nhiên. Ông kết luận: “Quy luật tự nhiên cần được tìm trong chính chúng ta, nghĩa là trong giác tính của chúng ta”.

Như vậy, nguồn gốc của mọi tri thức con người xuất phát từ giác tính; chúng là kết quả của phép suy diễn tiên nghiệm các phạm trù của giác tính vào kinh nghiệm cảm tính. Kết quả của giác tính đã tạo ra cơ sở để nhận thức “vật tự nó”.

Giai đoạn lý tính. Theo Cantơ, lý tính là giai đoạn cao nhất trong quá trình nhận thức. Nó không nghiên cứu các quan niệm cụ thể như giác tính mà chuyên nghiên cứu các quy tắc, nguyên tắc liên kết giác tính thành các nguyên lý chung để nhận thức “vật tự nó”. Thế nhưng lúc này tư duy con người gặp phải những mâu thuẫn (antinomic) không thể vượt qua được:

- Chỉnh đề: Thế giới có một điểm đầu trong thời gian, có một giới hạn trong không gian; phản đề: thế giới không có điểm đầu trong thời gian và không có giới hạn trong không gian.

- Chỉnh đề: Bất cứ sự vật phức tạp nào cũng đều do vật đơn giản, bộ phận đơn giản hợp thành; phản đề: Trên thế giới không có cái gì đơn giản cả, mọi cái đều phức tạp.

- Chỉnh đề: Trên thế giới ngoài tính nhân quả và tính tất nhiên ra, còn có tự do; phản đề: Trên thế giới không có cái gì tự do cả.

- Chỉnh đề: Trên thế giới có một thực thể tuyệt đối; phản đề: Trên thế giới không có một thực thể tuyệt đối nào cả. 

Trong quá trình giải quyết “Tôi có thể biết được cái gì?” Cantơ vừa bộc lộ quan điểm nhị nguyên luận, vừa biểu hiện quan điểm của thuyết không thể biết. Một mặt thừa nhận các sự vật tồn tại khách quan, mặt khác lại khẳng định các quy luật của thế giới là sản phẩm của tư duy. Một mặt thừa nhận khả năng nhận thức của con người không ngừng vươn lên, mặt khác lại khẳng định con người không thể nhận biết được “vật tự nó” tức bản chất, quy luật vận động bên trong của các sự vật.

2.1.4. Quan niệm về con người

Khác hẳn với các nhà triết học Anh, Pháp, Cantơ không chỉ bàn đến lĩnh vực bản thể luận, nhận thức luận mà còn bàn đến con người với tính cách là một chủ thể hoạt động. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” Cantơ đã đưa ra quan điểm như sau: Con người là chủ thể hoạt động là nền tảng và là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người vừa là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của chính mình. Bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Mỗi cá nhân hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình và tự ý thức về mình. Bên cạnh quan điểm tiến bộ đó, Cantơ cùng bộc lộ hạn chế ở chỗ, đề cao sự mạnh trí tuệ của con người tới mức cực đoan: sáng tạo ra các quy luật của thế giới. Thần thánh hóa con người tới mức coi bản thân thế giới tự nhiên phải hoạt động theo ý chí con người.

2.1.5. Quan niệm về chính trị xã hội

Quan niệm về đạo đức: Để trả lời câu hỏi “Tôi cần phải làm gì?” Cantơ đã xây dựng một số quan niệm về đạo đức, những quan niệm đó chứa đựng trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn”. Ông cho rằng, trong xã hội cần phải có các quy tắc đạo đức. Các quy tắc đó không thể xuất phát từ yếu tố cảm tính nhất thời mà phải xuất phát từ lý tính. “Lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực đạo đức” bởi vì các khát vọng cảm tính chỉ đưa con người tới ích kỷ, phi đạo đức.
Cantơ đưa ra nguyên lý cơ bản của đạo đức, gọi là mệnh lệnh tuyệt đối. Mệnh lệnh đòi hỏi mọi người sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình, tôn trọng người khác, sống theo lẽ phải, tôn trọng sự thật, sống bình đẳng trong cộng đồng. Người này có quyền nào đó, thì mọi người khác phải có quyền như thế, tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó. Mọi người cần phải ngăn chặn những hành động trái với mệnh lệnh tuyệt đối.

Ông còn cho rằng: Tự do là phạm trù trung tâm của đạo đức, là lý tưởng cao cả nhất của nhân loại, là cái cao quý nhất trên trần gian.

Quan điểm đạo đức tuy có nhiều điểm không tưởng phi lịch sử, phi giai cấp, thiếu cơ sở hiện thực nhưng chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc vì nó góp phần xóa bỏ quan niệm ích kỷ hẹp hòi, giải phóng tư tưởng con người khỏi gông cùm của ý thức hệ phong kiến.

Quan niệm về lịch sử: Ông cho rằng lịch sử là phương thức tồn tại của con người như một chủ thể, trong đó bằng hoạt động của mình con người ngày càng phát triển những khả năng và bản chất của mình. Bản thân lịch sử là một quá trình thống nhất, phát triển theo quy luật nội tại của nó, chứ không phải do chúa trời hay lực lượng siêu nhiên nào tạo. Vì thế, các cuộc xung đột giữa các giai cấp khác nhau là một điều hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Quan điểm về lịch sử trên biểu hiện Cantơ đang tiếp cận dần với tư tưởng biện chứng.

Quan niệm về nhà nước: Thừa nhận và phát triển tư tưởng về khế ước xã hội, Cantơ cho rằng: Nhà nước là sự liên kết của mọi người trong khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát và bảo đảm bình đẳng cho mọi công dân. Nhà nước ra đời không phải là ngẫu nhiên, mà do mâu thuẫn của xã hội nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều hoà sự phát triển của xã hội theo hướng ngày càng hoàn thiện. Cantơ mong muốn giải quyết mâu thuẫn đó bằng hòa bình, ông muốn xóa bỏ chiến tranh vì theo ông, chiến tranh phá hoại các chuẩn mực đạo đức của con người.

Mặc dù quan niệm về chính trị xã hội của Cantơ còn hạn chế ở chỗ chưa nhận thấy nền tảng kinh tế làm nảy sinh các mặt khác nhau của xã hội, nhưng nó đã bao hàm nhiều giá trị tư tưởng quý báu. Nó đặt nền móng cho quan điểm duy vật lịch sử sau này.

2.1.6. Quan niệm về thẩm mỹ

Để trả lời câu hỏi “Tôi có thể hy vọng cái gì?” Cantơ xây dựng một số quan niệm về thẩm mỹ. Những quan niệm đó được biểu hiện qua nội dung của tác phẩm “Phê phán năng lực phán đoán”.

Ông quan niệm: Vươn lên cái đẹp là khát vọng của con người, chỉ có trong con người mới có lý tưởng của cái đẹp. Con người tự tạo cho mình khả năng đánh giá và thưởng thức cái đẹp. Cái đẹp là phạm trù trung tâm của thẩm mỹ học. Nhưng ông lại cho rằng, quan niệm về cái đẹp cũng có mâu thuẫn. Một mặt cái đẹp mang tính phổ quát tất yếu; mặt khác cái đẹp mang tính cá biệt bởi vì nó là kết quả thưởng thức của từng cá nhân.

I.Cantơ là một trong những nhà triết học của nước Đức thời kỳ thế kỷ XVIII-XIX, những quan điểm triết học của ông cả thời kỳ “tiền phê phán” và “thời kỳ phê phán”” đã đặt nền móng cho quan niệm biện chứng tự nhiên, lịch sử; đồng thời đặt ra nhiều vấn đề sâu sắc cho sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại.



2.2. Hêghen (1770 -1831)

Heghen sinh năm 1770 ở Stuttgart là con một công chức cao cấp. Hồi còn trẻ theo học trường đại học Tubingue. Sau khi tốt nghiệp ông làm giáo sư dạy tư trong các gia đình, làm hiệu trưởng trường trung học Nuremberg, rồi làm giáo sư trường đại học Heldeberg. Trong quá trình giảng dạy ông để nhiều thời gian nghiên cứu và viết các tác phẩm triết học như: “Hiện tượng học tinh thần” (1807), “Khoa học logic” (1812-1814), “Bách khoa toàn thư các khoa học triết học” (1817), ... 
Hêghen là một nhà biện chứng lỗi lạc, nội dung triết học bao quát nhiều lĩnh vực. Do vậy chúng ta không thể có điều kiện nghiên cứu tất cả mà chỉ nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu sau:

2.2.1. Kết cấu của hệ thống triết học Hêghen

Hệ thống triết học của ông gồm ba phần:

- Lôgic học, đây là học thuyết về các quy luật phổ biến của vận động và phát triển, về các nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho mọi dạng tồn tại. Lôgic học bao gồm ba bộ phận: Tồn tại, bản chất, khái niệm.

- Triết học về tự nhiên, đây là học thuyết về sự phát triển của giới tự nhiên dưới hình thức duy tâm. Triết học tự nhiên bao gồm cả ba bộ phận: Thuyết máy móc, thuyết hóa học, thuyết hữu cơ.

- Triết học về tinh thần, đây là học thuyết về lịch sử của con người và sự nhận thức của con người, nguồn gốc tạo thành mọi dạng tồn tại. Phần này được chia thành ba bộ phận: Tinh thần chủ quan, tinh thần khách quan, tinh thần tuyệt đối.

2.2.2. Quan niệm về thế giới

Quan niệm về thế giới của ông được thể hiện trong tác phẩm “Hiện tượng học tinh thần” và “Lôgic học”.

Theo Hêghen thì đầu tiên có tinh thần tuyệt đối tồn tại, bên trong chứa đựng các mặt đối lập; hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau làm cho nó luôn vận động phát triển khi đạt tới dạng hoàn thiện thì “Tha hóa” (biến thành cái khác nó, nhưng chính là nó ở trạng thái khác và hình thức khác) biểu hiện thành giới tự nhiên. Trong giới tự nhiên cũng chứa đựng các mặt đối lập chúng vừa thống nhất và đấu tranh với nhau cho nên tạo ta động lực thúc đẩy giới tự nhiên phát triển từ vô cơ đến hữu cơ rồi đến con người. Vì trong con người chứa đựng các mặt đối lập cho nên, luôn nằm trong quá trình hoàn thiện, nhưng không phải là hoàn thiện mặt thể xác mà hoàn thiện, phát triển về mặt tinh thần ý thức. Khi phát triển đến mức độ hoàn thiện nhất con người không những nhận thức được thế giới tự nhiên, tự nhận thức được mình mà nhận thức được tinh thần tuyệt đối biểu hiện qua hình thức tôn giáo, nghệ thuật, triết học.

Ở đây điểm khởi đầu là “tinh thần” điểm kết thúc của sự phát triển cũng là “tinh thần”, chỉ có khác lúc đầu là “tinh thần thế giới”, còn điểm kết thúc là “tinh thần tuyệt đối” tồn tại ở mỗi cá nhân con người. Do đó, triết học của Hêghen xét theo hệ thống là triết học duy tâm khách quan. Bởi vì, ông thừa nhận tinh thần có trước, giới tự nhiên (vật chất) có sau phụ thuộc và phát sinh từ tinh thần tuyệt đối.

Hêghen còn cho rằng, khi các dạng tồn tại được “tinh thần tuyệt đối” tạo ra thì không ngừng biến đổi theo các nguyên lý:

- Một là: mỗi dạng tồn tại không những khác nhau mà còn làm “trung giới cho nhau” tức có liên hệ với nhau.

- Hai là: Mỗi dạng tồn tại đều trải qua quá trình vận động, phát triển; quá trình đó được thực hiện trên cơ sở của ba nguyên tắc:

Nguyên tắc thứ nhất: Chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển hóa về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và người lại.

Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập với tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển tạo ra sự chuyển hóa giữa nội dung với hình thức, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, khả năng và hình thức, v.v.

Nguyên tắc thứ ba: Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển diễn theo hình thức xoáy ốc. 

Những nguyên lý và nguyên tắc trên là nội dung chủ yếu của phép biện chứng mà Hêghen xây dựng. Phép biện chứng này tuy có hạn chế ở chỗ trình bày trên cơ sở của quan điểm duy tâm nhưng nó đã phản ánh đầy đủ quá trình vận động và phát triển chúng; trong nó đã chứa đựng hạt nhân hợp lý: không có cái gì nhất thành bất biến, mọi cái luôn biến đổi. Đây là một giá trị lý luận chủ yếu của triết học Hêghen.

2.2.3. Quan điểm về nhận thức 

Quan điểm nhận thức của Hêghen được trình bày trong tác phẩm “Hiện tượng học tinh thần” và “Lôgic học”.

Nếu như Cantơ cho rằng đối tượng nhận thức là sự vật thì Hêghen lại cho rằng đối tượng của nhận thức là nguyên nhân tạo thành các dạng tồn tại tức “tinh thần tuyệt đối”. Trong “Lôgic học” ông khẳng định nhận thức của con người là sự tự nhận thức “tính thần tuyệt đối”.

Với quan điểm biện chứng Hêghen cho rằng, nhận thức là một quá trình phát triển, tự hoàn thiện; quá trình này gắn với lịch sử phát triển của xã hội. Trong thời kỳ thượng cổ con người chỉ mới có ý thức cảm tính, người thượng cổ nhìn thế giới một cách trực tiếp. Đến giữa thời kỳ chiếm hữu nô lệ theo ông, con người mới tự ý thức được sự tồn tại của chính mình. Thời trung cổ, ý thức con người bước vào bất hạnh vì chỉ biết tuân theo ý chúa. Chỉ đến thời kỳ khoa học phát triển thì khả năng trí tuệ của con người mới đạt tới trình độ lý tính, mới mang tính xã hội. Lúc đó con người sử dụng khái niệm để tư duy do vậy mới nhận thức được “tinh thần tuyệt đối”.

Mặt khác ông còn cho rằng, sự phát triển của khả năng nhận thức cá nhân như là sự lặp lại và thu gọn toàn bộ tiến trình lịch sử mà nhận thức con người đã trải qua.

Như vậy, Hêghen bộc lộ quan điểm có thể biết trên cơ sở thế giới quan duy tâm.

2.2.4. Quan điểm về con người và chính trị xã hội

Quan điểm về con người và chính trị xã hội được Hêghen trình bày trong tác phẩm “Triết học về pháp quyền” và “Triết học lịch sử”.

Khi bàn đến vấn đề con người, ông không giống như các nhà triết học Anh và Pháp thế kỷ XVI - XVIII chia tách con người thành hai phần mà ông quan niệm con người là chỉnh thể thống nhất. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình, chính qua quá trình hoạt động mà ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức và ý chí tự do của con người mới phát triển. Do đó, con người mới hoàn thiện. Như vậy, ở đây Hêghen không bàn đến con người cụ thể mà bàn đến con người trìu tượng, lý tính phi lịch sử.

Quan niệm con người trong triết học Hêghen thường gắn với quan điểm về nhà nước và pháp quyền. Theo ông “luận điểm khẳng định mọi người về bản tính vốn bình đẳng là không đúng ..., cần phải nói ngược lại rằng con người về bản tính vốn bất bình đẳng”. Từ đây dẫn tới quan điểm: mọi sự bất công trong xã hội là hiện tượng tất yếu xuất phát từ bản tính con người. Vì thế trong xã hội thường xuyên xảy ra những mẫu thuẫn, xung đột giữa các tầng lớp, đẳng cấp xã hội khác nhau. Chính từ đó nhà nước xuất hiện. Theo Hêghen, nhà nước ra đời nhằm dung hòa các mẫu thuẫn giữa các đẳng cấp nhằm định hướng sự phát triển của xã hội. Nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp mà là tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực về mọi lĩnh vực đạo đức, pháp quyền, văn hóa. Vì thế nhà nước tồn tại trên bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử.

Nhà nước theo ông là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời sống xã hội nó có quá trình phát triển. Nhà nước Phổ là đỉnh cao của sự phát triển đó, vì nó là đại biểu cho công lý, đạo đức; nhà nước đó sẽ tồn tại mãi. Bởi vì, “Cái gì hợp lý, thì sẽ hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý”; ở đây, Hêghen đã lập luận để bảo vệ sự tồn tại của nhà nước phong kiến Phổ.

Khi bàn đến chiến tranh, Hêghen cho rằng, chiến tranh là một hiện tượng vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử, nhờ có chiến tranh mà thể trạng đạo đức của dân tộc được bảo tồn; chiến tranh bảo vệ các dân tộc tránh khỏi sự thối nát.

Hêghen cho rằng, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan trong hoạt động của con người. Nhưng lịch sử không diễn ra theo ý muốn chủ quan của con người mà phát triển theo xu hướng tất yếu trải qua các thời đại. Sự phát triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của thời đại này so với thời đại khác. Nhưng ông hiểu tự do một cách duy tâm: tự do còn thể hiện trong sự hiểu biết và làm theo ý chúa.

Tóm lại, vai trò lịch sử của triết học Hêghen là ở chỗ đã xây dựng được phép biện chứng, những vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng hiện đại đã được ông đề cập đến một cách bao quát và sâu sắc. Vì vậy, ông được Ph. Ăng ghen đánh giá rất cao "ông không chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên trong mọi lĩnh vực ông xuất hiện ra là một người vạch thời đại".

2.3. Lutvích Phoiơbắc (1804-1872)

Ông là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức, sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư ở Đức. Ông theo học trường đại học tổng hợp Beclin, tham gia nhóm Hêghen trẻ. Về sau tách khỏi nhóm này trở thành người phê phán Hêghen, xây dựng hệ thống triết học, duy vật của mình. Ông viết nhiều tác phẩm triết học, trong đó có những tác phẩm lớn như: "Phê pháp triết học Hêghen" (1839); "Bản chất của đạo đức thiên chúa", "Luận cương sơ bộ về cải cách triết học" (1842), "Những nguyên lý của triết học tương lai" (1843), "Bản chất của tôn giáo", v.v. Học thuyết triết học của ông thể hiện qua những nội dung chủ yếu sau:

2.3.1. Sự phê phán triết học Hêghen

Sau khi Hêghen mất thì lực lượng kế tục có sự phân chia thành hai phái, phái Hêghen già ủng hộ sự thống trị của "tinh thần tuyệt đối" đối với thế giới hiện thực; phái Hêghen trẻ coi sự thống trị đó là những xiềng xích trói buộc con người. Do chịu ảnh hưởng của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII và sự phát triển khoa học đầu thế kỷ XIX, Phoi Ơ Bắc đã nhận thấy những mặt rất hạn chế của cả hai phái và bắt đầu thực hiện phê phán toàn bộ triết học Hêghen. Theo ông, triết học Hêghen mắc sai lầm ngay từ khởi điểm xuất phát và cả trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với tinh thần, giữa con người với thế giới. Hạn chế cơ bản nhất của Hêghen là ở chỗ dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm để xây dựng học thuyết triết học. Cho nên triết học Hêghen không tạo ra được bức tranh trung thực về thế giới. Ông cho rằng muốn xây dựng được một học thuyết triết học đúng đắn phải dựa trên lập trường duy vật. Ông nhận xét "Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng, chỗ dựa hợp lý của thần học".

2.3.2. Quan niệm về thế giới

Xuất phát từ luận điểm: "Quan hệ thực sự của tư duy với tồn tại là: tồn tại, chủ thể; tư duy, thuộc tính" Phoiơbắc bảo vệ và chứng minh những nguyên lý duy vật của mình. Ông quan niệm, vật chất có trước, ý thức có sau, tự nhiên tự nó tồn tại và người ta chỉ có thể giải thích tự nhiên xuất phát từ bản thân nó. Ý thức không tự nó tồn tại được vì nó chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất.

Nếu như Cantơ quan niệm không gian và thời gian là hình thức "tiên nhiên" thì Phoiơbắc quan niệm, không gian và thời gian tồn tại khách quan, không có vật chất tồn tại vận động bên ngoài không gian và thời gian. Ông thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên, của quan hệ nhân quả; thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên diễn ra một cách khách quan, từ đó dẫn tới sự xuất hiện của đời sống hữu cơ, con người.

Ở đây, Phoiơbắc chưa khắc phục được hạn chế của duy vật siêu hình, coi vật chất như là một cái gì thuần nhất. Tuy thừa nhận vật chất vận động nhưng chưa lý giải được nguồn gốc, động lực, hình thức của vận động.

2.3.3. Quan niệm về nhận thức

Phoiơbắc phê phán hệ thống duy tâm khách quan của Hêghen ở chỗ, coi đối tượng tư duy không có gì khác với bản chất của tư duy. Từ đó ông khẳng định, đối tượng nhận thức nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên và con người. Ông kêu gọi: Hãy quan sát giới tự nhiên đi, hãy quan sát con người đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn, những bí mật của triết học. Phoi Ơ Bắc cho rằng, chủ thể nhận thức không phải trìu tượng mà là con người cụ thể, con người có khả năng nhận thức được giới tự nhiên, một người thì không thể nhận thức được hoàn toàn thế giới tự nhiên, nhưng toàn bộ loài người thông qua các thế hệ thì có thể nhận thức được. Con người nhận thức được thế giới trước hết thông qua cảm giác; "Bí quyết của sự hiểu biết trực tiếp tập trung trong tính cảm giác".

Phoiơbắc cũng đã xác định được mối quan hệ giữa hình thức nhận thức cảm tính với lý tính, nhưng khi tiến lên giai đoạn tư duy lý tính thì ông không rút ra được kết luận rõ ràng.

Như vậy, Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm duy vật về nhận thức; đã khẳng định, con người có khả năng nhận thức. Nhưng trong lý luận nhận thức đã bộc lộ hạn chế ở chỗ, chưa hiểu được quá trình phát triển biện chứng của nhận thức, vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức. Cho nên, quan điểm nhận thức của Phoiơbắc vẫn nằm trong khuôn khổ của những phương pháp suy nghĩ siêu hình.

2.3.4. Quan niệm về con người

Phoiơbắc phê phán Hêghen đã quan niệm con người một cách trìu tượng và thần bí coi đó như một lực lượng siêu tự nhiên; đây là một quan niệm sai. Do vậy, theo ông phải xây dựng một quan niệm mới về con người.

Phoiơbắc quan niệm con người như một thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, có ước mơ, có tình yêu thương; lòng yêu thương vốn là bản chất của con người. Trong con người có sự thống nhất giữa cơ thể với tư duy. Con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên.

Thế nhưng trong xã hội con người bị kìm hãm trói buộc bởi giáo lý tôn giáo và bởi các quy định của xã hội. Cho nên, cần phải giải phóng con người khỏi sự ràng buộc đó; nhằm đem lại cho con người một quan niệm mới về chính mình, tạo điều kiện để con người trở nên hạnh phúc. Theo ông, đây cũng là nhiệm vụ của các nhà triết học.

Xác định vấn đề con người giữ vị trí trung tâm của triết học Phoiơbắc trở thành đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa duy vật nhân bản. Đây là mặt tiến bộ so với các nhà trước học trước ông. Tuy nhiên ông đã không thấy được phương diện xã hội của con người. Con người mà ông quan niệm là con người bị tách khỏi điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Do vậy về lĩnh vực này ông chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quan điểm duy tâm.

2.3.5. Quan niệm về xã hội

Trong quan niệm về tự nhiên, Phoiơbắc là nhà duy vật; còn trong quan niệm về xã hội ông lại thể hiện quan điểm duy tâm. Ông khẳng định những thời kỳ lịch sử loài người sở dĩ khác nhau chỉ do những thay đổi các hình thức tôn giáo; thay thế tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới sẽ làm cho xã hội tiến lên. Ở đây, Phoiơbắc chưa thấy được vai trò của thực tiễn xã hội quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài người.

Khi bàn đến tôn giáo, Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và của sự tưởng tượng của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và điều kiện của xã hội. Chính con người đã bày đặt ra thần thánh bằng cách trìu tượng hóa bản chất con người. Do vậy, cần thay thế tôn giáo cũ bằng thứ tôn giáo mới không cần có thần thánh, chúa trời mà lấy tình yêu giữa người với người làm nền tảng.

Những quan điểm trên đây của Phoiơbắc về cơ bản vạch ra được nguồn gốc tâm lý con người đối với tôn giáo. Tuy nhiên, ông chưa chỉ rõ nguồn gốc thực sự của tôn giáo, chưa đề cập đến những cơ sở kinh tế - xã hội của vấn đề.

Mặc dù còn những hạn chế siêu hình trong quan điểm về tự nhiên duy tâm trong quan điểm về xã hội, chưa có quan điểm duy vật triệt để về con người nhưng Phoiơbắc đã có công lao trong việc khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật chống lại quan điểm duy tâm và tôn giáo; vì thế, quan điểm duy vật của Phoiơbắc cùng với tư tưởng biện chứng của Cantơ và phép biện chứng của Hêghen trở thành tiền đề lý luận hình thành triết học Mác - Lênin.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved