8.
Hôm ấy là ngày mồng Bảy tháng Bảy âm lịch, Ngưu Lang và Chúc Nữ gặp nhau. Trong nhà ngột ngạt, muỗi nhiều tới mức có thể quơ được cả nắm. Mẹ trải chiếu dưới gốc cây thạch lựu; lúc đầu chúng tôi ngồi, sau đó là nằm trên chiếu nghe mẹ thủ thỉ kể chuyện. Lúc chạng vạng tối, trời mưa nhẹ. Mẹ bảo đó là nước mắt Chúc Nữ. Không khí ẩm ướt, gió mát thổi đến từng cơn. Dưới gốc cây lựu, những chiếc lá lấp lánh. ở trong chái dông và chái tây, các binh sĩ thắp những ngọn nến tự tạo. Muỗi cắn, mẹ xua chúng bằng lá bồ đề. Ngày hôm nay, tất cả chim khách đều bay lên trời xanh, tầng tầng lớp lớp, cắn đuôi nhau, bắc nhịp cầu Ô Thức trên sông Ngân phong ba cuồn cuộn. Chúc Nữ và Ngưu Lang qua cầu Ô Thức đến với nhau, mưa và móc là những giọt lệ nhớ thương của họ. Trong lời thủ thỉ của mẹ, tôi và Niệm Đệ, thằng nhỏ nhà Tư Mã, ngước nhìn bầu trời đầy sao. Chị Tám tuy bị mù nhưng cũng ngẩng mặt nhìn trời, mắt chị còn sáng hơn sao. Ngoài ngõ vang lên tiếng chân nặng nề của những người đổi gác trở về. Cánh đồng xa xa, ếch nhái đang hợp xướng. Trên dàn biển đậu chân tường, chim Thợ Dệt cất tiếng hỏi: - Chiu chiu chiu... chiu chiu. Trong màn đêm mờ ảo, một số chim lớn nặng nề bay qua, chúng tôi lờ mờ trông thấy bóng trắng của chúng và tiếng vỗ cánh rào rào. Những con dơi kêu chít chít, những giọt nước trên cành rơi tí tách. Sa Tảo Hoa nằm trong lòng mẹ, ngáy đều đều. Chái đông vang lên tiếng kêu như mèo của Lãnh Đệ, cái bóng đồ sộ của thằng câm lắc lư trước ánh đèn. Hai người đã lấy nhau. Chính ủy Tưởng là người làm mối. Tịnh thất thờ Nàng Tiên Chim trở thành phòng cô đâu với những cuộc truy hoan. Nàng Tiên Chim thường xuyên mình trần chạy ra sân. Thằng câm đeo trên hai núm vú chị hai quả lục lạc nhỏ, khi chạy kêu loong chong. Một binh sĩ nhìn trộm vú chị, suýt bị thằng câm đánh gãy cổ. Khuya rối, vào nhà ngủ đi, mẹ nói. - Trong nhà nóng, lắm muỗi, cho chúng con ngủ ở đây. Chị Sáu nói. Mẹ bảo, không được nhiễm sương là ốm, với lại, trên trời có... Chúng tôi hình như nghe thấy có tiếng người đang trao đổi, bông hoa đẹp quá, hái đi! Lúc về hãy hái. Đó là tiếng của những con nhện thành tinh, chuyên cưỡng dâm những bông cúc vàng. Chúng tôi nằm trên giường, không tài nào ngủ được. Điều kỳ lạ là chị Tám lại ngủ rất ngon lành, khóe miệng có một tia nước bọt trong suốt và thơm lựng. Cây ngải hun muỗi bốc khói cay cay. Cây nến trên cửa sổ của các binh sĩ chiếu sáng cửa sổ chúng tôi, cảnh vật trong sân mờ ảo. Những con cá biển chị Lai Đệ gửi cho đã ươn, đang bốc mùi trong nhà xí. Chị còn gửi cho bao nhiêu của cải, vải vóc tơ lụa, đồ dạc, đồ chơi, nhưng bị đại đội bộc phá tịch thu tất. Then cửa buồng chính kêu khẽ. - Ai đấy? - mẹ quát, thuận tay vớ con dao thái rau. Không một chút động tĩnh. Có lẽ chúng tôi nghe lầm. Mẹ đặt con dao vào chỗ cũ. Cây ngải hun muỗi khẽ lóe lên những tia sáng ngắn ngay dưới chân giường. Một bóng đen gầy gầy đột nhiên đứng ngay ở đầu giường. Mẹ kinh hoảng kêu lên. Chị Sáu cũng hoảng hốt kêu lên. Bóng đen chồm lên giường bịt miệng mẹ. Mẹ sờ soạng tìm con dao định chém thì bóng đen nói: - Mẹ, con là Lai Đệ. Con dao rơi xuống chiếu. Chị Cả về rồi! Chị Cả quì trên giường, khóc nức nở. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn khuôn mặt lờ mờ của chị. Tôi trông thấy có những gì lấp lánh trên đó. - Lai Đệ, đúng là con đấy ư? Con là ma chăng? Con là ma mẹ cũng không sợ, để mẹ xem mặt con một tí. Mẹ tìm bao diêm trên đầu giường. Chị Cả giữ tay mẹ lại, hạ thấp giọng, nói: - Mẹ đừng thắp đèn. - Lai Đệ, con nhẫn tâm lắm, những năm qua con với thằng Lượng đi những đâu? Con làm khổ mẹ quá! - Mẹ ơi, chuyện dài lắm. Chị Cả nói: - Con gái con- Mẹ trao Sa Tảo Hoa đang ngủ say cho chị, nói: - Thế mà cũng là mẹ, đẻ mà không nuôi, không bằng con vật.... Vì nó mà em Tư và em Bảy... - Mẹ ơi. Ân tình của mẹ thể nào cũng có lúc con đền đáp, cả em Tư và em Bảy nữa Lúc này chị Sáu bước tới gọi: - Chị Cả? Chị Cả ngửng lên, vỗ vỗ chị Sáu, nói: - Em Sáu. Còn Kim Đồng đâu, Ngọc Nữ đâu? Kim Đồng Ngọc Nữ còn nhớ chị không. Mẹ nói: - Nếu không có đại đội bộc phá thì cả nhà ta chết từ lâu rồi! Chị Cả nói: - Mẹ ạ, lão Tưởng và thằng tha Lỗ không phải con người! Mẹ nói: - Người ta không đối xử tệ với mình thì nói gì cũng phải có lương tâm chứ? Chị Cả nói: - Mẹ, đó là âm mưu của họ, họ viết thư cho anh Lượng ép phải đầu hàng, nếu không, sẽ bắt con gái của con làm con tin. Mẹ hỏi: - Lại có chuyện ấy hả? Họ đánh nhau thì việc gì đến con bé? Chị Cả nói: - Mẹ ơi, con về lần này là để cứu cháu. Mẹ ạ, con có đem theo mười mấy người, chúng con đi ngay bây giờ, để cho bọn thằng Lỗ mừng hụt! Mẹ ơi, công ơn của mẹ cao như núi, cho phép con được báo đáp sau này. Con đi đây! Chị Cả chưa nói dứt câu, mẹ đã giằng lại bé Tảo Hoa, giận dữ nói: - Lai Đệ, mày đừng đánh lừa tao. Trước kia mày quẳng con mày cho tao như quẳng một con chó. Tao không quản nguy hiểm nuôi nó đến bây giờ. Khá nhỉ, lại về đây ăn sẵn! Nào là đội trưởng Lỗ, chính ủy Tưởng, mày bịa ra tất! Mày muốn làm mẹ rồi hả? Đú đởn với thằng Lượng đủ rồi hả? - Mẹ, anh ấy bây giờ là Lữ trưởng bộ đội liên hiệp Thiên hoàng, cai quản cả nghìn người? - Tao không cần nó có bao nhiêu người, tao cũng chăng cần chức Trưởng của nó! - Mẹ nói - Mày bảo nó đến mà bế đi. Mày bảo nó, những con thỏ mà nó treo trên cây, tao vẫn để đó. - Mẹ ơi, đây là chuyện lớn, liên quan đến hàng ngàn vạn người, mẹ đừng lẩm cẩm! - Tao lẩm cẩm cả đời người rồi, ngàn vạn người tao cũng thây kệ! Tao chỉ biết con Hoa là do tao nuôi, tao chẳng cho ai hết! Chị Cả vồ lấy Tảo Hoa nhảy xuống giường chạy ra ngoài. Mẹ quát: - Đồ mất dạy, dám cướp hả? Tảo Hoa òa khóc. Mẹ nhảy xuống giường, đuổi theo. Ngoài sân rộ lên những tiếng súng, cảnh hỗn loạn trên nóc nhà, có người rú lên thê thảm rồi lăn xuống sân. Một bàn chân dẫm thủng nóc nhà chúng tôi, đất rơi xuống rào rào cùng với những ánh sao. Trong sân cực kỳ hỗn loạn tiếng súng, tiếng gươm chạm nhau, tiếng quát tháo của đám binh sĩ: - Không cho chúng nó thoát? Binh lính của đại đội bộc phá cầm trong tay mười mấy cây được tẩm dầu chạy tới, trong sân sáng như ban ngày. Ngoài ngõ, sau nhà đều có tiếng đàn ông. Sau nhà có tiếng người thét: - Trói nó lại, xem nó còn chạy nữa không? Đại đội trưởng Lỗ bước vào sân, nói với chị Lai Đệ lúc này đang bế Tảo Hoa đứng nép vào chân tường: - Bà Sa, bà làm vậy có đẹp không? Sa Tảo Hoa khóc to. Mẹ bước ra sân. Chúng tôi bám cửa sổ nhìn ra ngoài. Một người đàn ông nằm bên lối đi, trên người thủng lỗ chỗ, máu chảy thành vũng rồi bò ra tứ phía như rắn. Mùi máu tanh lợm, nóng hôi hổi. Mùi dầu hỏa xộc lên mũi. Máu vẫn chảy ra từ các vết đạn, sủi bọt. Anh ta chưa chết hẳn, một chân vẫn co giật. Miệng cạp đất, cổ vổng lên, không trông thấy mặt anh ta. Lá cây như dát vàng. Thằng câm tay cầm đao, vừa ú ớ vừa ra hiệu với Lỗ đại đội trưởng. Tiên Chim chạy ra, rõ khéo, khoác chiếc áo rõ ràng là áo của thằng câm, vạt áo dài đến đầu gối, cặp vú nửa kín nửa hở. Đôi chân thon dài, trắng muốt. Người chắc lẳn, bắp chân trắng mịn. Miệng hé mở, mắt lim dim, lúc nhìn cây đuốc này, lúc nhìn cây đuốc khác. Một tốp binh sĩ dẫn về ba người mặc quân phục xanh, một ngoi bị thương ở tay, máu đang chảy, mặt tái nhợt. Một người chân khập khiễng, một người bị trói vít đầu xuống. Anh ta cố súc ngẩng đầu lên, nhưng một bàn tay khỏe ấn đầu anh ta xuống. Chính ủy Tưởng cũng tới, trong tay cầm chiếc đèn pin có buộc dải lụa dỏ. Mẹ nhón gót chạy ra vì không kịp đi giày. Mùn giun đùn lên từng đống trên mặt đất. Không hề sợ, mẹ mặt đối mặt với đại đội trưởng Lỗ: - Có chuyện gì vậy? Đại đội trưởng Lỗ nói: - Chuyện này không liên quan gì đến bác! Chính ủy Tưởng làm một động tác thừa là dùng miếng vải đỏ che mặt đèn pin. Anh ta chiếu đèn vào mặt Lai Đệ. Lai Đệ thân hình mảnh đẻ như một cây bạch dương. Mẹ đi tới trước mặt chị Cả giằng lấy bé Hoa. Bé Hoa. Ôm chầm lấy bà ngoại. Mẹ dỗ nó: - Cháu ngoan, đừng sợ, có ngoại đây! Bé Hoa khóc nhỏ dần, rồi chỉ còn tiếng sụt sịt. Cánh tay chị Cả vẫn giữ nguyên tư thế bế con cứng nhắc, trông rất xấu. Mặt chị trắng bệch, hai mắt ngây dại. Chị mặc bộ quần áo xanh kiểu đàn ông, đôi vú đã trưởng thành nhô cao, không dẹt như vú mẹ. - Bà Lượng, chúng tôi đối xử với vợ chồng bà có thể nói là chí nhân chí nghĩa? Không theo chúng tôi cũng chẳng ép, nhưng không nên đầu hàng bọn Nhật? - Đại đội trưởng Lỗ nói. Chị Cả cười nhạt: - Đó là chuyện của các ông, đừng nói với bọn đàn bà chúng tôi. Chính ủy Tưởng nói: - Nghe nói bà Lượng là tham mưu cấp cao của ông Lượng? Chị Cả nói: - Tôi chỉ biết đòi lại con gái tôi. Các ông có giỏi thì chơi nhau bằng gươm bằng súng. Đem trẻ con ra làm những trò mèo, không phải là bậc trượng phu? Chính ủy Tiếng nói: - Bà sai rồi! Chúng tôi đối với tiểu thư có thể nói cực kỳ chu đáo, có bà cụ làm chứng, có các em gái bà làm chứng, có đất dày làm chứng, có trời cao làm chứng! Bản chất của chúng tôi là yêu trẻ, vì trẻ, tất cả hành động của chúng tôi đều vì mục đích đó. Chúng tôi không muốn một cô bé xinh đẹp như thế này mà lại có bố mẹ là Hán gian! Chị Cả nói: - Ông đừng nhiều lời nữa. Tôi đã rơi vào tay các ông, muốn làm gì thì làm! Thằng câm xông ra. Dưới ánh sáng của mười mấy cây đuốc, hắn cao to hung hãn lạ thường. Da đen thui như bôi một lớp mỡ con hoan. Ôà... Ôà... mắt hắn như mắt chó sói, mũi lợn, tai khỉ, mặt hung dữ như mặt hổ hắn vừa gào lên a... a... vừa giơ cánh tay hộ pháp lên lắc lắc nắm đấm, chạy một vòng tròn trước mặt mọi người. Hắn đá cái xác nằm trên lối đi và lần lượt đấm đá ba tù binh, mỗi người một đấm, vừa đấm vừa kêu ố ố. Quả đấm cuối cùng, người tù binh cố ngẩng đầu, ngã lăn ra bất tỉnh. Chính ủy Tưởng ngăn hắn lại, khiển trách: - Tôn Bất Ngôn, không được đánh tù binh. Thằng câm nhếch miệng cười, chỉ vào chị Lai Đệ, lại chỉ vào ngực hắn. Hắn đi tới trước mặt chị, tay trái bóp vai chị, tay phải làm điệu bộ với mọi người. Chị Ba nhìn đăm đăm ngọn lửa luôn thay hình đổi dạng. Chị Cả giơ tay trái tát đánh bốp vào má phải thằng câm. Hắn buông tay, ngơ ngác xoa má, hình như không hiểu cú đánh từ đâu tới. Chị Cả lại giơ tay phải tát đánh bốp vào má trái thằng câm, cái tát vừa nhanh vừa mạnh. Hắn loạng choạng lùi lại. Do lực phản hồi của cú tát, chị Cả cũng thoái lui một bước. Chị Cả dựng ngược mày liễu, trợn tròn đôi mắt phượng, nghiến rằng nghiến lợi, chửi: - Đồ súc sinh, mày hủy hoại em gái tao! Đại đội trưởng Lỗ bảo: - Giải nó đi! Con nữ tặc, hung hăng khiếp! Vài binh sĩ tiến đến kẹp chặt cánh tay chị Cả. Chị nói to: - Mẹ lú lẫn rồi. Con Ba là chim phượng hoàng, thế mà mẹ gả cho thằng Câm! Một binh sĩ thở hồng hộc chạy vào, báo cáo: - Báo cáo đại đội trưởng, báo cáo chính ủy, đại đội nhân mã của Sa Nguyệt Lượng đã vào trấn Sa Lĩnh! Đại đội trưởng Lỗ nói: - Mọi người không được rối lên. Các trung đội trưởng chú ý, hành động theo kế hoạch đã bàn, gài tất cả số mìn hiện có. Chính ủy Tưởng nói: - Để đảm bảo an toàn cho bác và lũ trẻ, bác đến đại đội bộ với chúng tôi! Mẹ lắc đầu, nói: - Không, có chết cũng chết ở nhà? Chính ủy Tưởng khoát tay, một tốp lính kèm chặt mẹ, tốp khác ùa vào trong nhà. Mẹ gào to: - Chúa ơi, xin Chúa chứng giám! Cả nhà tôi bị giam trong phòng xép nhà Tư Mã. Trước cửa có lính gác. Bên cạnh là đại sảnh, đèn khí sáng trung, người nói ầm ĩ. Bên ngoài thôn, tiếng súng nổ như ngô rang. Chính ủy Tưởng xách chiếc đèn bão, chụp đèn bằng thủy tinh. Khói trong đèn bốc lên cuồn cuộn, khiến anh ta phải nheo mắt lại. Anh ta để đèn lên bàn, nhìn chúng tôi từ đầu đến chân, nói: - Đứng làm gì nhỉ, ngồi xuống cả đi! Anh ta chỉ những ghế tựa bằng gỗ hoa lê bày xung quanh chân tường, nói: - Chàng rể thứ hai nhà bác ra vẻ đấy! Anh ta ngồi xuống chiếc ghế tựa, hai tay ôm gối, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt châm biếm. Chị Cả ngồi phịch xuống ghế, đối diện với anh ta qua chiếc bàn. Chị bĩu môi, nói: - Thưa ông chính ủy, ông bắt tôi thì dễ nhưng thả tôi thì khó đấy! Chính ủy Tưởng cười: - Khó khăn lắm mới mời được bà đến đây, sao lại thả? Chị Cả nói: - Mẹ cứ ngồi đây, xem họ dám làm gì chúng ta? - Chúng tôi quả thật không định làm gì các vị. - Chính ủy Tưởng nói: - Mời bác ngồi! Mẹ bế Sa Tảo Hoa, ngồi xuống chiếc ghế ở xó nhà. Tôi và chị Tám cầm vạt áo mẹ đứng bên ghế. Công tử nhà Tư Mã thì ngoẹo đầu trên vai chị Sáu. Chị Sáu buồn ngủ đến nỗi người cứ lắc lư. Mẹ kéo tay chị ngồi xuống ghế. Chính ủy Tưởng móc ra một điếu thuốc lá, gõ gõ đầu thuốc lên móng tay cái rồi lục lọi các túi rõ ràng là tìm diêm. Không thấy! Chị Cả cười nhạt, trong cái rủi có cái may. Anh ta đến bên chiếc đèn, miệng ngậm điếu thuốc, châm phía trên ngọn lửa. Anh ta nheo mắt, hít bập bập. Ngọn lửa kéo dài trong chụp. Đầu điếu thuốc đỏ lên rồi bắt cháy. Anh ta ngẩng lên, gỡ điếu thuốc trên miệng, ngậm miệng lại rồi tuôn khói ra hai lỗ mũi. Bên ngoài thôn vọng lại tiếng mìn nổ cửa kính rung leng keng, những đốm lửa nhảy múa trên không. Tiếng gào khóc, tiếng quát tháo lúc gần lúc xa, lúc rõ mồn một. Chính ủy Tưởng mỉm cười với thái độ khiêu khích, nhìn chị Lai Đệ. Chị Lai Đệ như ngồi phải gai, nhấp nhổm trên ghế, đến nỗi cái ghế kêu kèn kẹt. Mặt chị trắng nhợt, hai tay bám thành ghế run bần bật. - Đội kỵ binh của Lữ trưởng Lượng rơi vào trận địa mìn rồi! - Chính ủy Tưởng ra vẻ tiếc rẻ, nói tiếp - Tiếc mấy chục con ngựa quá! - Các ông... đừng tưởng bở! Chị Cả vịn ghế đứng dậy. Một loạt tiếng nổ dữ dội hơn, ấn chị ngồi xuống. Chính ủy Tưởng đứng lên, thanh thản gõ gõ tấm ngăn bằng ván gỗ giữa phòng xép với dại sảnh, làm như nói một mình: - Toàn là thông dầu, ngôi nhà này dùng hết bao nhiêu gỗ? Anh ta ngước nhìn chị Cả, hỏi: - Bà đoán xem, dùng hết bao nhiêu gỗ: dầm xà, cửa ra vào, cửa sổ, sàn, ván thung, bàn ghế. Chị Cả nhấp nhổm không yên. Phải cả một cánh rừng chứ chả chơi! Chính ủy Tưởng xót xa, làm như cánh rừng bị chặt quang đang trải ra trước mắt anh ta. Sớm muộn phải thanh toán chuyện này! - Nét mặt rầu rầu, rồi quên phắt cánh rừng bị tàn phá, anh ta đi tới trước mặt chị Cả, đứng dạng chân thành hình chữ A, tay phải chống nạnh, khuỷu tay gập lại thành một góc nhọn. - Tất nhiên, chúng tôi cho rằng Sa Nguyệt Lượng có khác với những kẻ cam tâm làm Hán gian. Ông ta có một lịch sử chống Nhật rất vẻ vang. Nếu ông ta quyết tâm sưa chữa sai lầm, chúng tôi vui lòng gọi ông ta là đồng chí. Bà Lượng này, lát nữa chúng tôi bắt được ông ấy, bà nên khuyên răn ông ấy một tí! Chị Cả ngồi nhũn ra trên ghế, rít lên: - Các ông không thể bắt được anh ấy! Tưởng bở! Xe Jeep Mỹ nhanh hơn ngựa của các ông! - Mong rằng như thế. Chính ủy Tưởng nói. Anh ta bỏ tay xuống, hai chân cũng đổi thế đứng. Anh ta rút một điếu thuốc dưa cho Lai Đệ. Lai Đệ co người lại theo bản năng, chính ủy Tuởng đưa dấn theo. Lai Đệ vênh mặt quan sát nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt của chính ủy Tưởng. Chị rụt rè giơ tay ra, bàn tay có những ngón ám khói thuốc, dùng hai ngón tay kẹp điếu thuốc. Chính ủy Tưởng vẩy tàn điếu thuốc trên tay, thổi phù một cái cho nó đỏ lên, rồi đưa tới trước mặt chị Cả. Chị Cả lại vênh mặt lên, chính ủy Tưởng vẫn mỉm cười. Chị Cả vội ngậm điếu thuốc, dướn về phía thuốc, châm lửa ở đầu diếu thuốc trên tay chính ủy Tưởng. Tôi nghe rõ tiếng bập môi của chị. Mẹ thẫn thờ nhìn bức tường, chị Sáu và cậu ấm nhà Tư Mã nửa thức nửa ngủ, Sa Tảo Hoa không động cựa. Khói thuốc tỏa ra trên mặt chị Cả. Chị ngửa mặt, người ngả về phía sau, tay buông thõng. Ngón tay kẹp điếu thuốc ướtnhèm y hệt con cá trạch lôi ra khỏi nước. Lứa ở đầu điếu thuốc bén rất nhanh về phía môi chị. Đầu tóc rối bù, những nếp nhăn hằn hai bên mép, mắt thâm quầng. Nụ cười tắt dần trên môi chính ủy Tưởng như giọt nước cạn dần trên tấm thép nóng, từ xung quanh cạn vào giữa, cuối cùng còn như một mũi kim, lóe lên một cái rồi biến mất. Anh ta quẳng mẩu thuốc đã bén sát ngón tay, dùng chân đi cho tắt hẳn, rồi bước những bước dài, đi ra. Có tiếng hét to từ phòng khách bên cạnh vọng lại: - Nhất định phải bắt sống Sa Nguyệt Lượng, dù hắn rúc vào hang chuột cũng phải đào mà lôi ra! Tiếp theo là tiếng đèn pin dằn mạnh xuống bàn. Mẹ ái ngại nhìn chị Cả đang ngồi nhũn ra trên ghế như bị rút hết xương, buộc tới cầm lấy những ngón tay ám khói thuốc của chị, lắc đầu. Chị Cả tụt từ trên ghế xuống, quì trước mặt mẹ, miệng lập bập như đang mút vú, những tiếng kêu kỳ quặc tuôn ra, lúc đầu tôi tưởng chị cười, nhưng ngay lập tức tôi biết là chị khóc. Chị quệt nước mắt nước mũi vào chân mẹ. Chị nói: - Mẹ ơi, không có lúc nào là con không nhớ mẹ, nhớ các em... Mẹ hỏi: - Hối hận rồi ư? Chị Cả do dự một thoáng, lắc đầu. Mẹ nói: - Vậy là tốt, làm gì thì cũng do Chúa sắp dặt, hối hận là trái ý Chúa! Mẹ trao Sa Tảo Hoa cho chị, nói: - Ngắm nó một lúc đi! Chị Cả vuốt nhẹ khuôn mặt đen nhẻm của con bé, nói: - Mẹ, nếu họ xử bắn con thì mẹ nuôi cháu cho con. Mẹ nói: Họ không bắn chết con thì mẹ vẫn nuôi con bé! Chị Cả định trao lại bé Hoa cho mẹ, mẹ bảo: - Hãy bế nó một tí, mẹ còn cho Kim Đồng ti sữa. Mẹ bước tới bên ghế, vén áo lên. Tôi quì trên ghế ti vú mẹ. Mẹ nâng tà áo, khom lưng xuống, nói: - Bình tâm mà xét, tay Lượng không phải đồ tồi, chỉ riêng chuyện những con thỏ treo trên cây, mẹ cũng phải nhận anh ta là con rể. Nhưng anh ta không làm nên trò trống gì đâu, chỉ chuyện mấy con thỏ, mẹ biết anh ta không làm nên trò trống gì. Gộp cả hai đứa cũng không địch nổi lão Tưởng. Lão là loại thâm hiểm, mát nước thối đá. Nhớ lại khi trước, những con thỏ treo đầy các cây trong vươn khiến mẹ tức điên lên. Vậy mà trong khoảnh khắc, chính những con thỏ đó lại là lý do để mẹ nhận Sa Nguyệt Lượng là con rể. Và cũng vẫn những con thỏ đó, là cơ sở để mẹ đoán chắc Sa Nguyệt Lượng sẽ thua chính ủy Tưởng. Vào lúc tranh tối tranh sáng trước bình minh, một đàn chim thước đi bắc cầu trên sông Ngân trở về đậu trên nóc nhà, kêu chiêm chiếp vì mệt mỏi. Lũ chim thước làm tôi thúc giấc. Tôi nhìn thấy mẹ bồng Sa Tảo Hoa ngồi trên ghế, còn tôi thì ngồi trên đầu gối lạnh ngắt của chị Lai Đệ Chị ôm chặt eo tôi bằng hai cánh tay thanh mảnh của chị. Chị Sáu và công tử nhà Tư Mã ngủ gối đầu lên nhau. Chị Tám ngồi tựa bên mẹ như cũ. Cặp mắt mẹ vô cảm, hai mép trễ xuống chúng tỏ đã quá mệt mỏi. Chính ủy Tưởng bước vào đưa mắt nhìn chúng tôi, nói: - Bà Lượng, có đi thăm ông Lượng một chút không? Chị Cả đẩy tôi ra, đứng phắt dậy, giọng khản di: - Ông nói láo? Chính ủy Tưởng chau mày, nói: - Láo hả? Vì sao tôi phải nói láo kia chứ? - Anh ta bước tới bên bàn, cúi xuống thổi tắt ngọn đèn. Những tia nắng lập tức ùa vào phòng. Anh ta ngả tay ra, lễ phép - chưa hẳn là lễ phép mời. - Xin mời, vẫn chỉ một câu thôi, chúng tôi không muốn bịt chặt tất cả các ngả đường. Nếu ông Lượng quay lại thì có thể cho ông giữ chức đại đội phó đại đội bộc phá. Chị Cả bước ra như một cái máy, ra đến cửa, chị quay lại nhìn mẹ. Chính ủy Tưởng nói: - Bác có thể đi cùng, cả các em bé nữa. Chúng tôi đi qua rất nhiều lần cửa nhà Tư Mã, qua những sân trong mà sân nào cũng giống sân nào. Đi qua năm lớp sân, chúng tôi nhìn thấy ở sân chính có nhiều thương binh, cô Đường đang băng bó cho một thương binh bị thương ở chân. Chị Năm Phán Đệ đang phụ với cô Đường. Chị chăm chú đến nỗi không phát hiện ra chúng tôi. Mẹ nói nhỏ với chị Cả: - Đó là em Năm của con. Chị Cả liếc nhìn chị Năm. Chính ủy Tưởng nói: - Chúng tôi đã phải trả giá quá đắt! Sân trong thứ sáu có kê một bộ ván trên đặt cái xác, che mặt bằng miếng vải trắng. Chính ủy Tưởng nói: - Đại đội trưởng Lỗ của chúng tôi đã anh dũng hi sinh, tổn thất không thể lường được. Anh ta lật miệng vải, chúng tôi trông thấy một khuôn mặt chữ điền, râu quai nón, đầy máu. Anh ta nói: - Các chiến sĩ chỉ muốn lột da Sa Nguyệt Lượng, nhưng chính sách không cho phép. Bà Lượng này, sự chân thành của chúng tôi có lẽ trời đất quỉ thần cũng phải cảm động chứ nhỉ? Qua sân trong thứ bảy, vòng qua một bức tường làm bình phong, chúng tôi đã đứng ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, trên bậc tam cấp. Trên đường phố, những binh sĩ của đại đội bộc phá chạy đi chạy lại như kiến vỡ tổ. Mặt người nào người ấy lấm đầy bụi đất. Mười mấy binh sĩ dắt mười mấy con ngựa dọc theo phố đi từ dông sang tây. Có mấy binh sĩ chỉ huy mấy chục người dân, dùng dây thùng kéo một chiếc xe Jeep đi ngược lại từ tây sang đông. Hai tốp gặp nhau ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, hai người có vẻ như tiểu đầu mục cùng chạy lên, cùng đứng nghiêm, cùng giơ tay chào, cùng báo cáo lên chính ủy. Một người báo cáo thu được mười ba con ngựa. Một người báo cáo tịch thu được một chiếc xe Jeep, đáng tiếc là bị vỡ két nước, đành cho trâu kéo về. Chính ủy Tưởng nhiệt liệt biểu dương họ. Trong khi biểu dương, các binh sĩ đứng ưỡn ngực, mắt sáng lên. Chính ủy Tưởng dẫn chúng tôi đến cổng nhà thờ. Hai bên cổng có mười sáu binh sĩ bồng súng đứng gác. Tưởng giơ tay, đám lính gác đứng nghiêm, bồng súng chào. Đám phụ nữ trẻ con chúng tôi nghiễm nhiên trở thành những vị tướng đi quan sát chiến trường. Có khoảng sáu mươi tù binh quân phục xanh chen chúc ở góc dông nam trong sân nhà thờ, trên đầu họ là những tấm liếp bị hư hỏng vì nước mưa, mọc đầy nấm. Trước mặt họ là bốn binh sĩ xếp hàng ngang, tay cầm tiểu liên, tay trái nắm băng đạn cong cong như sừng trâu, tay phải dặt trên báng súng bóng mịn như đùi phụ nữ, ngón tay trỏ ***g vào lẫy cò như chiến lưỡi vịt. Họ quay lưng về phía chúng tôi. Sau lưng họ là một đống thắt lưng bằng da bò trông như những con rắn chết. Các tù binh muốn đi lại, phải hai tay giữ cạp quần. Một nét cười thoáng qua trên nét mặt chính ủy Tưởng. Anh ta húng hắng ho, có lẽ để gây sự chú ý. Các tù binh uể oải ngẩng đầu nhìn chúng tôi. ánh mắt họ chợt lóe lên, có người chớp một cái, người hai cái, người ba cái, người bốn năm cái, người nhiều nhất không quá chín cái Những ánh mắt lạ lùng đó là do sự có mặt của chị Lai Đệ, nếu như chị đúng như lời chính ủy Tưởng, là một nửa của Sa Nguyệt Lượng trong công tác chỉ huy bộ đội. Không rõ do một tình cảm nào đó chi phối, chị Cả đỏ hoe mắt, mặt trắng nhợt, đầu cúi gập xuống ngực. Những tù binh này khiến tôi phảng phất nhớ lại những con lừa đen của đội Hỏa-mai. Họ tụ tập trong nhà thờ này, và cũng thích cái góc này. Hai mươi tám con lừa ghép thành mười bốn cặp, con nọ gặm yêu mông con kia, chăm sóc cho nhau, yêu mến lẫn nhau, giúp đỡ lân nhau. Một đội lừa đoàn kết thân mật đã bị diệt ở nơi nào? Ai đã diệt đội lừa? Bị diệt ở núi Tai Ngựa bởi đội du kích của Tư Mã Khố, hay ở gò Khuỷu Tay bởi đội Tiện Y Nhật Bản? Trong cái ngày thiêng liêng làm lễ rửa tội cho tôi, mẹ bị cưỡng hiếp. Chúng là những tên lính quân phục xanh của đội Hỏa-mai, là kẻ thù của tôi. Giờ đây, nhân danh Cha, Con và thánh thần, phải trừng phạt chúng, A men! Chính ủy Tưởng dọn giọng, nói: - Các anh em lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, đã đói chưa? Các tù binh lại ngẩng lên, có người định trả lời nhưng không dám, có người không thèm trả lời. Một vệ binh đứng bên cạnh chính ủy Tưởng nói: - Các ông trẻ, điếc cả rồi hay sao? Chính ủy đại đội hỏi các người đấy! - Không được mắng người ta! Chính ủy Tưởng khiển trách nghiêm khắc anh vệ binh. Anh vệ binh đỏ mặt, cúi đầu xuống. Tưởng nói: - Các anh em, biết anh em vừa đói vừa khát, người nào mắc bệnh dạ dầy chắc đang đau hoa cả mắt, lạnh cả sống lưng. Hãy kiên nhẫn, cơm sắp có rồi. ở đây điều kiện thiếu thốn, chẳng có gì ngon, tạm nấu nồi cháo đậu xanh để anh em ăn cho đỡ đói, đỡ khát. Buổi trưa chúng ta ăn màn thầu bằng bột mì trắng, rau phỉ xào thịt ngựa. Các tù binh tỏ vẻ vui mừng, vài người còn mạnh dạn nói chuyện riêng với nhau. Chính ủy Tưởng nói: - Ngựa chết nhiều lắm, toàn là ngựa tốt, rất tiếc, các anh đã sa vào bãi mìn của chúng tôi! Lát nữa thịt ngựa mà các anh ăn, rất có thể là con ngựa mình cưỡi. Nói rằng lừa ngựa là quân tử, những dù sao vẫn là lừa ngựa, các bạn cứ ăn thỏa thích, con người là chúa tể mà lại! Đang nói chuyện ngựa thì hai người lính già khênh một thùng to từ ngoài cổng đi vào, vừa đi vừa hò nhường đường. Hai chú lính trẻ bê hai chồng bát to tướng cao đến tận cằm, chệnh choạng bước theo sau. - Cháo đây, cháo đây? Người lính già hét to, làm như có ai cản đường không bằng. Chú lính trẻ ôm chồng bát trước bụng, loay hoay tìm chỗ đặt xuống. Hai người lính già cùng nhún thấp xuống, khi cái thùng chạm đất thì họ cũng vừa vặn ngồi xổm. Hai chú lính trẻ vẫn giữ cho thân ở tư thế thẳng đuỗn đồng thời khuỵu hai chân, đặt chồng bát xuống nền nhà, rồi loạng choạng đứng dậy, lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt. Chính ủy Tưởng cầm lấy chiếc môi lớn bằng gỗ, khuấy cháo cho đều, hỏi người lính già: - Cho đường đỏ chưa? Người lính già nói: - Báo cáo chính ủy, không kiếm được đường đỏ, phải lấy đường trắng của nhà họ Tào. Bà cụ nhà họ Tào tiếc của, cứ ôm chặt cái hũ, không bỏ tay ra... - Được, chia cháo đi - Chính úy vừa nói vừa đặt cái môi xuống, rồi như chợt nhớ ra, quay lại sốt sắng hỏi chúng tôi: - Nên chăng mỗi người làm một bát? Chị Cả lạnh nhạt: - Ông chính ủy mời chúng tôi đến đây, chắc không phải đến để ăn cháo? Mẹ nói: - Sao lại không ăn? Bác Trưởng, cho mẹ con chúng tôi mấy bát! Chị Cả nói: - Mẹ cẩn thận thuốc độc! Chính ủy Tưởng cười lớn, nói: - Bà Lượng tưởng tượng phong phú quá đấy? Anh ta múc một môi đầy giơ lên rồi từ từ rót xuống để mọi người thấy cháo ngon như thế nào. Mùi thơm tỏa ra xung quanh. Anh ta đặt cái môi xuống, nói: - Cháo này đã bỏ vào hai gói thạch tín, hai gói thuốc chuột, ăn vào bụng, đi năm bước đứt ruột đứt gan, đi bảy bước thất khiếu chảy máu, có ai dám ăn không nào? Mẹ bước tới cầm bát lên, dùng ống tay áo lau sạch bụi đất, rồi cầm môi múc đầy bát cháo, đưa cho chị Cả. Chị Cả không cầm. Mẹ nói: - Vậy mẹ ăn bát này. Mẹ thổi phù phù, húp thử một ít, rồi húp nhiều hon. Mẹ múc ba bát nữa, đưa cho chị Sáu chị Tám và cậu ấm nhà Tư Mã. Các tù binh nói: - Múc cho chúng tôi, múc cho chúng tôi, độc hay không độc cũng xin ba bát. Hai lính già cầm môi, hai lính trẻ đưa bát, bát nọ tiếp bát kia. Những chú lính cầm súng đứng dạt sang một bên, chênh chếch với chúng tôi. Chúng tôi nhìn được mắt họ. Mắt họ chỉ nhìn đám tù binh. Cái tù binh đứng cả dậy, tự động xếp thành hàng, một tay giữ quần, một tay buông thõng, đợi đến lượt. Người nào đã có bát cháo trong tay thì hết sức thận trọng, sợ ngón tay bị bỏng. Các tù binh, người nọ tiếp người kia, tay giữ quần, tay bê bát cháo đi vòng xuống phía sau, ngồi xuống, bê cháo bằng cả hai tay, vừa thổi vòng quanh vừa húp. Người nào có kinh nghiệm thì húp từng người nhỏ, húp người to là bỏng miệng. Cậu ấm nhà Tư Mã chưa có kinh nghiệm, húp ngay một người to, nhổ ra không được, nuốt vào không trôi, bỏng đến nỗi nước mắt ràn rụa. Một tù binh khi đưa tay ra nhận bát cháo, khẽ gọi: - Chú dượng ơi! Người lính già cầm môi ngẩng lên nhìn. - Chú dượng không nhận ra cháu sao? Cháu là Xương đây mà! Người lính già đập cái môi vào mu bàn tay chú tù binh, mắng: - Ai là chú dượng của mày? Lầm rồi! Ta không có thằng cháu nào làm Hán gian, mặc quân phục xanh cả! Tù binh Xương ái một tiếng, bát cháo đổ ụp xuống bàn chân, anh ta lại ái một tiếng nữa, vội bỏ tay giữ quần để xoa chân bị bỏng, cái quần tụt xuống đến đầu gối, để lộ chiếc quần lót đen bẩn, anh ta lại ối một tiếng, hai tay xốc quần lên. Khi anh ta đứng thẳng người lên, hai mắt đã mọng nước. - Lão Trương, phải có kỷ luật chứ - Chính ủy Tưởng nổi giận - Ai cho phép lão đánh tù binh? Báo cho quân pháp, phạt giam ba ngày bây giờ? Lão Trương lầu bầu: - Nó dám bảo tôi là chú dượng nó!... Chính ủy Tưởng nói: - Lão đúng là chú dượng nó, úp mở mà làm gì? Động viên nó tham gia đội bộc phá của ta! Chú em, bỏng ra sao? Lát nữa y tá đến, bôi tí thuốc mỡ 202 là khỏi. Cho chú ta bát khác, thêm ít đậu vào! Chú lính rủi ro được bát cháo ưu đãi, tập tễnh lui về phía sau. Những người khác nhích lên. Giờ đây, tất cả tù binh đều đang ăn cháo, tiếng húp soạn soạt vang lên đây đó. Hai người lính già và hai chú lính trẻ tạm thời không có việc làm. Chú lính trẻ liếm môi, chú kia nhìn chúng tôi chằm chằm. Bác lính già dùng môi vét đáy thùng vì không biết làm gì, còn bác kia thì lấy túi thuốc và tẩu ra định hút thuốc. Tôi lợm giọng đẩy bát cháo ra. Cái miệng của tôi không quen với bất cứ thứ gì, trừ bầu vú của mẹ. Chị Cả hừ lên một tiếng bằng giọng mũi, chính ủy Tưởng nhìn chị, nét mặt chị cũng biểu lộ sự khinh miệt cực dộ. Chị nói: - Tôi cũng nên húp một bát chứ nhỉ? Chính ủy Tưởng nói: - Nên quá đi chứ, bà nhìn lại khuôn mặt bà xem, như một quả cà héo! Lão Trương, múc cho bà Lượng một bát, đặc đặc vào! Chị Cả nói: - Tôi thích loãng. Chính ủy Tưởng nói: - Loãng đấy! Chị Cả bê bát cháo, húp một ngụm, nói: - Có đường thật, chính ủy Tưởng, tôi khuyên ông cũng nên húp một bát, ông nói nhiều thế chắc khô cả cổ? Chính ủy Tưởng nắn nắn cổ họng, nói: - Đúng là hơi khát. lão Trương, cho tôi một bát, loãng thôi nhé! Chính ủy Tưởng bưng bát cháo, cùng chị Cả thảo luận về các loại đậu. Anh ta kể rằng, ở quê anh ta có giống đậu xanh, đun sôi lên là nhuyễn thành bột, không như đậu xanh ở đây, phải ninh đủ hai tiếng đồng hồ mới nhuyễn. Hết chuyện đậu xanh lại bàn sang đậu vàng. Con người này như một chuyên gia về đậu. Hết tất cả các loại đậu chính ủy Tưởng chuyển sang bàn về lạc, nhưng vừa chuyển đê tài, chị Cả quăng cái bát xuống đất, hỏi: - Anh Tưởng, anh chơi cái trò gì vậy? Tưởng mỉm cười, nói: - Bà Lượng, bà đa nghi quá! Ông nhà chắc sốt ruột vì chờ đợi rồi! - Anh ấy ở đâu? - Chị Cả hỏi mỉa. Tưởng nói: - Tất nhiên là ở nơi mà các vị không thể quên! Trước cổng nhà tôi, lính đứng gác còn nhiều hơn ở nhà thờ. Ngay ở của vào chái đông còn một trạm gác nữa. Người trực gác là Tôn Bất Ngôn. Hắn ngồi trên khúc gỗ tròn dưới chân tường đùa nghịch thanh đao trong tay, Tiên Chim ngồi vắt vẻo trên chạc cây đào, tay cầm quả dưa chuột gặm từng tí một. - Vào đi - Chính ủy Tưởng bảo chị Cả - Cố gắng khuyên ông ta, chúng tôi mong rằng, ông ta sẽ trở về với chính nghĩa. Chị Cả bước vào trong chái đông, rú lên một tiếng. Chúng tôi chạy ùa vào: Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng. Trong trí nhớ của tôi anh ta không cao lắm, nhưng giờ đây trông anh ta dài thượt. |
9.
Tôi trườn từ trên giường xuống, chưa mở mắt đã sà vào ngực mẹ, thô bạo lật áo mẹ lên, hai tay chộp lấy hai bầu vú, há miệng ngoạm một đầu vú. Một cảm giác cay xè lưỡi lan khắp miệng, nước mắt tôi ứa ra. Tôi nhả đầu vú ra ngửa mặt lên, vừa tủi thân vừa nghi hoặc. Mẹ vỗ nhẹ đầu tôi, cười tỏ vẻ hối lỗi, nói: - Kim Đồng, con lên bảy rồi, là một trang hảo hán rồi, phải cai sữa thôi? Lời mẹ chưa dứt, Kim Đồng đã nghe thấy tiếng cười ròn tan của chị Tám. Mắt tối sầm, tôi ngã chổng bốn vó lên trời. Tôi tuyệt vọng khi thấy rằng, bầu vú với hai núm vú bôi ớt chẳng khác đôi chim câu mắt hồng đã vỗ cánh bay đi. Để giúp tôi cai sữa, mẹ bôi đủ các thứ lên núm vú: gừng sống, tỏi sống, nhớt cá; thậm chí cứt gà, lần này lại thêm tương ớt. Lần cai sữa nào mẹ cũng thất bại vì động tác giả chết của Kim Đồng. Tôi nằm trên mặt đất đợi mẹ đi rửa đầu vú như mọi lần. Cơn ác mộng hồi đêm hiện rõ mồn một trước mắt: Mẹ xẻo vú vút xuống đất, nói: - Ti đi, mày ti nữa di? Một con mèo đen ngoạm bầu vú chạy mất. Mẹ dựng tôi dậy, ấn tôi ngồi xuống bên bàn ăn. Mẹ nghiêm mặt nói: - Nói gì thì nói, con phải cai sữa. Chẳng lẽ con muốn mẹ chỉ còn như que củi, hả Kim Đồng? Cậu cả nhà Tư Mã, Sa Tảo Hoa, chị Tám ngồi xung quanh bàn ăn miến. Họ nhìn tôi bằng cặp mắt khinh miệt. Bà nội cười nhạt trên đống tro bên cạnh bếp. Người bà gầy đét, da nhăn nheo như giấy bản, tróc ra từng mảng. Cậu ấm nhà Tư Mã giơ cao một sợi miến loằng ngoằng trước mặt tôi. Sợi miến như con giun chui vào miệng hắn. Tôi thấy lợm giọng. Mẹ đặt lên bàn một bát miến bốc hơi nghi ngút, đưa cho tôi đôi đũa, nói: - Ăn đi, nếm thử tài nghệ của chị. Chị Sáu đang cho bà nội ăn bên bếp lò. Chị ngoẹo đầu nhìn tôi bằng ánh mắt thù địch, nói: - Lớn rồi mà còn bú tí, đồ đốn mạt? Tôi ném bát miến vào người chị Sáu. Chị nhảy dụng lên, trên người đầy những sợi miến như những con giun. Chị giận dữ nói: - Mẹ nuông chiều nó quá đấy. Mẹ đứng phía sau cho tôi một bạt tai. Tôi chồm lên người chị Sáu, hai tay chộp chính xác hai bầu vú của chị. Tôi nghe thấy bầu vú chị kêu chiếp chiếp chẳng khác gà con bị chuột cống ngoạm lấy cánh. Chị Sáu vùng dậy, cúi gập ngoi vì đau. Tôi ra sức cấu véo, khuôn mặt hơi gầy của chị đổi thành màu vàng, chị vừa khóc vừa gọi: - Mẹ, mẹ ơi, mẹ xem thằng Kim Đồng! Mẹ bọp cho tôi một cái vào sau gáy, giận dữ mắng: - Thằng súc sinh! Tôi ngã lăn ra, ngất đi. Tôi tỉnh dậy, đầu như muốn vỡ ra. Cậu ấm nhà Tư Mã vẫn điềm nhiên biểu diễn trò ăn miến bay. Sa Tảo Hoa ngẩng khuôn mặt dính đầy sợi miến do áp mặt vào gờ bát, sợ hãi nhìn tôi, đồng thời cũng để tôi cảm thấy rằng nó rất kính nể tôi. Chị Sáu bị thương ở vú, đang ngồi khóc trên ngưỡng cửa. Bà nội nhìn tôi, thâm hiểm. Bà Lã nét mặt đầy tức giận, cúi xuống xem những sợi miến rơi trên mặt đất. - Đồ lộn giống, mày tưởng kiếm được bát miến dễ nắm phải không? Bà bốc một nắm sợi miến dưới đất, bịt mũi tôi lại cho há miệng ra, rồi nhét nắm miến vào miệng tôi. Mày nuốt đi hộ tao, nuốt đi. Xương tủy tao bị mày hút cạn rồi, cái đồ oan nghiệt này! Tôi nôn ọe, vùng ra khỏi tay bà, chạy ra vườn. Ngoài sân, chị Lai Đệ vẫn cái áo chùng đen bốn năm chưa cởi, đang gò lưng mài con dao găm. Chị nhìn tôi cười cười tỏ vẻ thân thiện, đột nhiên chị đổi sắc mặt, nghiến rằng nói: - Lần này ta phải thịt nó bằng được. Con dao trong tay tôi sắc như nước, tôi phải cho nó biết giết người thì phải đền mạng! Tôi trong lòng không vui nên không bắt chuyện với chị. Mọi người cho rằng chị bị bệnh tâm thần. Tôi biết chị giả điên nhưng không hiểu vì sao chi lại giả điên. Một bận, trong gian chái chị ở, chị ngồi vắt vẻo trên cối xay bột, thả hai chân khuất trong chiếc áo chùng đen, kể lại những ngày chị cùng Sa Nguyệt Lượng chu du khắp thiên hạ, nếm đủ phú quí vinh hoa, chứng kiến bao chuyện kỳ thú. Chị từng có một chiếc hộp biết hát, có một ống kính kéo được vật ở xa lại gần, khi ấy tôi cho rằng chị nói những chuyện điên khùng nhưng ngay sau đó tôi được trông thấy cái hộp biết hát. Đó là chiếc hộp chị Phán Đệ đem về. Chị là con cưng của đại đội bộc phá, béo quay ra, giống một con ngựa đang mang thai. Chị để cái đồ chơi có gắn chiếc loa màu vàng lên giường, đắc ý gọi chúng tôi: - Lại đây, cho các em mở rộng tầm mắt! Chị bỏ miếng vải che màu đỏ ra. Đây là tất cả bí mật của chiếc hộp. Chị quay cái tay quay một chập, quay xong, chị nở một nụ cười bí ẩn, nói: - Nghe nhé, người ngoại quốc đang cười. Tiếng người chợt vang lên trong hộp khiến chúng tôi giật thót, tiếng cười của người ngoại quốc không khác tiếng cười của ma quỉ! - Đem đi, đem ngay đi! Mẹ quát to - Đem cái hộp ma quỉ ấy đi! Chị Phán Đệ nói: - Mẹ lạc hậu quá, đây là máy quay đĩa, không phải hộp ma quỉ? Bên ngoài cửa sổ, chị Lai Đệ giọng lạnh như tiền: - Kim mòn rồi, phải thay kim mới. - Thưa bà Lượng! - Chị Năm hỏi mỉa - Bà khoác lác cái gì vậy? - Cái trò này tôi đã chơi chán rồi! - Chị Cả giọng khinh miệt - Tôi đã đái vào cái loa, không tin cô ngửi xem. Chị Năm ghé lại gần cái loa ngăn ngăn. Chị nhăn mặt. Chị không cho chúng tôi biết chị ngửi thấy mùi gì. Tôi tò mò ghé mũi ngửi, một mùi tanh như mùi cá biển xộc vào mũi. Chị Năm gạt tôi sang một bên. - Con yêu tinh - chị Năm hằn học nói - Lẽ ra phải xử bắn chị, nhưng tôi đã xin cho chị thoát. - Lẽ ra tôi có thể giết hắn, nhưng cô đã ngăn cản tôi!- Chị Cả nói - Các người xem, nó đâu còn là cô gái trinh trắng nữa! Hai cái vú của nó, thằng cha Tưởng đã biến thành hai nắm bã củ cải rồi? - Đồ Hán gian chó chết! Con Hán gian! - Chị Năm cố ý lấy cánh tay che cặp vú mướp, chửi - Con vợ thối tha của thằng Hán gian chó chết! - Chúng mày cút hết đi cho tao! - Bà Lã giận điên lên, nói - Cút hết đi, chết hết đi! Đừng để tao thấy mặt chúng mày nữa! Tôi đâm ra kính nể chị Lai Đệ. Chị dám đái vào cái loa quí hiếm đến như thế. Cái ống nhòm có thể kéo vật ở xa lại gần thì cũng khẳng định là có thực. Đó là ống nhòm, người chỉ huy nào cũng có một cái đeo trước ngực. Chị Lai Đệ ngồi thoải mái trên máng cỏ đã trải lên một lớp cỏ khô, thân mật nói với tôi: - Thằng ngốc! - - Em không ngốc, em chẳng ngốc tí nào! - Tôi thanh minh. - Chị cho rằng em rất ngốc? Đột nhiên chị vén áo dài lên, giơ cả hai chân lên cao, bảo tôi: - Em nhìn vào mà xem! Một tia nắng soi rõ chân, bụng và cặp vú như hai con lợn sữa tí hon của chị. - Rúc vào - chị mỉm cười bảo - Rúc vào mà bú tí! Mẹ cho con gái chị ti sữa mẹ, chị cho em ti sữa chị? Tôi rụt rè nhích lại gần máng, chị ưỡn người ra như con cá chép lúc vọt lên mặt nước, hai tay nắm hai vai tôi, thả vạt áo xuống cho trùm lên đầu tôi. Trước mắt tôi là một màu đen, tôi dò dẫm trong bóng tối đó, vừa tò mò vừa sốt ruột, lại có vẻ bí ẩn, thú vị. Tôi ngửi thấy cái mùi giống như ở miệng loa máy quay đĩa. Chỗ này, chỗ này, tiếng nói của chị nghe như rất xa. - Chú ngốc! Chị nhét núm vú vào miệng tôi. - Ti đi thằng chó con! Chú dứt khoát không phải giống nhà Thượng Quan, chú là đồ con lai. Đất bụi đắng ngắt bám trên đầu vú chị tan trong miệng tôi. Nách chị tỏa ra một mùi chua chua. Tôi cảm thấy sắp chết ngạt đến nơi, nhưng hai tay chí vít đầu tôi, người chị, dướn thẳng như muốn nhét cả bầu vú to bự và rắn chắc vào miệng tôi. Tôi chịu không thấu, cắn vào đầu vú chị. Chị đứng bật dậy, tôi chui ra khỏi áo dài, nằm co duỗi chân chị, chờ đợi một cú đá hoặc hai cú đá của chị. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt vừa đen vừa gầy của chị. Hai bầu vú co giật dữ dội bên trong chiếc áo dài, như hai con chim mái đập đập đôi cánh xinh xinh sau trận giao phối. Tôi cảm thấy vô cùng ân hận, lấy ngón tay gại gại vào mu bàn tay của chị. Chị giơ tay xoa gáy tôi, nói khẽ: - Em yêu, đừng nói chuyện này với ai nhé! Tôi thành thật gật đầu. Chị nói: - Chị nói riêng với em chuyện này, anh rể em báo mộng cho chị, nói rằng anh ấy chưa chết, hồn vía anh ấy nhập vào một người đàn ông tóc vàng da trắng. Tôi đi trong ngõ, trong đầu luôn nghĩ đến mối quan hệ bí mật giữa tôi và chị Lai Đệ. Năm đội viên của đại đội bộc phá chạy trên phố như những thằng điên, mặt mày rạng rỡ. Một anh béo trong khi chạy còn thụi tôi một quả, hét to: - Thằng nhóc, bọn Nhật đầu hàng rồi! Mau về nhà cho mẹ mày biết, bọn Nhật đầu hàng rồi, kháng chiến thắng lợi rồi! Tôi trông thấy từng đám binh sĩ nhảy múa trên đường phố, trong đó có lẫn mấy người dân. Nhật đầu hàng, Kim Đồng mất bầu vú? Thượng Quan Lai Đệ vui lòng cho tôi ti sữa của chị, nhưng vú chị không có sữa, đầu vú ghét bám đầy. Nghĩ tới đây tôi cảm thấy thất vọng ghê gớm. Thằng câm chồng chị Ba kéo chị chạy những bước dài từ đầu ngõ phía bắc chạy xuống. Hắn và tiểu đội của hắn bị mẹ đuổi khỏi nhà tôi sau vụ Sa Nguyệt Lượng chết. Hắn dẫn tiểu đội chuyển về ở trong ngôi nhà của hắn, Tiên Chim cũng đi theo hắn. Tuy đã dọn đi, nhưng tiếng rên la không biết xấu hổ của Tiên Chim cứ đêm đêm từ nhà thằng câm vọng ra, luồn theo ngõ phố ngoằn ngoèo đập vào tai tôi. Giờ đây hắn kéo chị cùng ra phố. Chị phưỡn bụng ngồi trên cánh tay hắn, trên mình mặc một áo dài trắng, kích thước y hệt cái áo dài đen của chị Cả, chỉ khác ở màu sắc. Thế là từ cái áo dài của Tiên Chim tôi nghĩ tới cái áo dài của chị Lai Đệ, từ cái áo dài của chị Lai Đệ tôi nghĩ tới hai bầu vú của chị, từ bầu vú của chị tôi nghĩ tới bầu vú của Tiên Chim. Bầu vú của Tiên Chim là loại tốt nhất trong hàng loạt những bầu vú của nhà Thượng Quan, gọn ghẽ và lanh lợi, núm vú sống động như cái miệng con nhím và hơi vểnh lên. Bầu vú Tiên Chim thước loại cao cấp, vậy vú của chị Cả có huộc loại cao cấp không? Tôi không thề trả lời dứt khoát, bỏi vì từ khi tôi hành động có ý thức đến nay, tôi thấy cái đẹp của vú là một phạm trù rất rộng, không thể tùy tiện mà nói rằng vú nào xấu vú nào đẹp. Con nhím có khi cũng đẹp, lợn sữa cũng có khi đẹp. Thằng câm đặt chị Tiên Chim xuống trước mặt tôi, miệng kêu ồ... à... Hắn giơ nắm đấm to như vó ngựa huơ huơ một cách thân thiện trước mặt tôi. Tôi hiểu ồ... à... của hắn đồng nghĩa với Nhật đầu hàng rồi!. Hắn lao ra đường phố chính như một con trâu rừng. Tiên Chim ngoẹo đầu nhìn tôi. Bụng chị to đến phát khiếp, y hệt bụng con nhện khổng lồ. - Em là chim cưu hay chim nhạn. - Chị hỏi tôi với giọng nhỏ nhẹ, và cũng khó nói là chị hỏi tôi. - Con chim của em bay mất rồi! Chim của em bay rồi! Chị bối rối thật sự. Chị đang rộng hai tay, bàn chân trần dí dí những cục đất dưới chân, miệng kêu chíp chíp chạy ra phố. Chị chạy rất nhanh, chăng lẽ bụng to không gây trở ngại gì sao? Nếu không vướng cái bụng to, chắc chị chạy đến lúc nào đó là bay lên trời. Nghĩ rằng mang thai ảnh hưởng đến tốc độ khi chạy là một ý nghĩ chủ quan, trên thực tế, khi đàn sói chạy hết tốc lực, bị tụt lại không phải là những con sói có chửa. Trong đàn chim bay cấp tập, dứt khoát có những con mái mang trứng. Tiên Chim như một con đà điểu khỏe mạnh, thoáng cái đã nhập vào đám người trên phố. Chị Năm từ trên phố chạy về nhà. Bụng chị cũng tròn căng, quân phục đầy mồ hôi, vú ướt đẫm. Khi chạy, chị tỏ ra nặng nề, không như Tiên Chim. Tiên Chim vung tay khi chạy, chị Năm hai tay ôm bụng mà chạy. Chị Năm thở phì phò như con ngựa cái kéo xe lên dốc. Trong số chị em nhà Thượng Quan, chị Năm có thân hình đấy đà cao lớn hơn cả, hai bầu vú ngạo nghễ như được bơm đầy hơi, vỗ kêu bồm bộp. Chị Cả trùm mạng đen, mặc áo dài đen, vào một đêm tối trời giơ bàn tay không thấy ngón, chị từ con mương bò vào sân nhà Tư Mã. Chị lần theo mùi chưa chưa áp sát căn phòng đèn sáng trưng. Cái sân lát đá xanh mọc đầy rêu trơn, tim chị như muôn nhảy khỏi ***g ngực, bàn tay cầm dao tê dại, miệng tanh như ăn phải nhớt cá. Qua khe cửa, chị Cả chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng, đồng thời cũng khiến chị tâm thần rung động: một cây bạch lạp đang nhỏ những giọt lệ bằng sáp, ánh nên lắc lư, bóng người thấp thoáng. Mặt đất lát gạch men xanh vút bừa bãi quân phục màu xám của Thượng Quan Phán Đệ và chính ủy Tưởng, một chiếc tất bằng vải thô vắt ngang miệng thùng nước. Phán Đệ trần truồng, phục trên người Tưởng Lập Nhân: Chị Cả xô cửa xông vào nhưng sững lại khi trông thấy cái mông vổng lên của cô em và những hạt mồ hôi lấp lánh khoảng giữa sống lưng. Kẻ thù mà chị định giết, được che kín. Chị giơ dao quát to: - Tao thì giết chúng mày? Tao thì giết chúng mày! Phán Đệ lăn xuống đất. Tưởng Lập Nhân vớ lấy cái chăn chụp lên người chị Cả, đè chị xuống. Hắn giật khăn trùm trên mặt chị, cười: - Tôi đoán ngay là bà! Chị Năm đứng ngoài cổng lớn, gào lên: - Bọn Nhật đầu hàng rồi! Khi chạy trở ra phố, chị kéo tôi theo, bàn tay chị mồ hôi nhơm nhớp, mùi chưa loét. Từ mùi chua ấy, tôi nhận ra mùi thuốc lá. Thuốc lá là mùi của Lỗ Lập Nhân. Để kỷ niệm đại đội trưởng Lỗ anh dũng hy sinh trong trận tiêu diệt Lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, Tưởng Lập Nhân đổi họ thành họ Lỗ. Cái mùi của Lỗ Lập Nhân tỏa ra trên phố qua mồ hôi chị Năm. Đại đội bộc phá nhảy múa trên đường phố, nhiều người nước mắt ràn rụa. Người ta cố ý hích vào nhau, đấm vào vai nhau. Có người trèo lên tháp chuông chênh vênh, kéo chuông ầm ĩ. Người đổ ra đồng ngày càng nhiều, người xách thanh la, người dắt theo con dê sữa, có người bê cả một gói thịt còn tươi nguyên, gói bằng lá sen. Một phụ nữ đeo những quả lục lạc trên núm vú khiến mọi người đặc biệt chú ý. Chị ta nhảy một điệu quái gở, khiến bầu vú nhảy tưng tung, lục lạc rộ lên những âm thanh ròn rã. Bụi bay lên dưới chân, họng khản đặc. Tiên Chim ngó nghiêng trong đám đông. Thằng câm giơ nắm đấm thụi tất cả những ai đến gần hắn. Sau đó, một đám binh sĩ khênh Lỗ Lập Nhân như khênh một khúc gỗ từ trong sân nhà Tư Mã đi ra. Các binh sĩ tung hắn lên trời, ngang tầm ngọn cây, đón lấy rồi lại tung lên. - Ôi, ố, ối! - Chị Năm ôm bụng, chảy nước mắt, gào lên: - Lập Nhân ơi, Lập Nhân - Chị định len vào đám binh sĩ, nhưng bị những cái mông đầy chai cứng của họ hất ra... Cuộc vui như điên khiến mặt trời chạy nhanh hơn. Ông đã xuống sát mặt đất, tựa vào ngọn cây trên Bãi-Cát-Dài mà thư giãn, toàn thân một màu hồng, khắp người bọt nước, nhễ nhại mồ hôi, hơi nóng hùng hục, chẳng khác một ông già vừa ngồi thở vừa ngắm đám người trên đường phố. Đầu tiên là một người ngã gục trong đám bụi, tiếp theo là cả một mảng người ngã xuống. Đám bụi bay lên rồi từ từ rơi xuống mặt, xuống tay, trên quần áo đẫm mồ hôi. Trong nắng chiều đỏ như máu, những người đàn ông nằm thẳng cẳng như những xác chết. Trời nhập nhoạng tối, làn gió mát từ đầm cói thổi tới, những tiếng va dập danh gọn của đoàn tàu chạy qua cầu. Mọi người lắng nghe, có lẽ chỉ mình tôi lắng nghe, kháng chiến thắng lợi rồi, nhưng Kim Đồng đã bị bầu vú vút bỏ. Tôi nghĩ đến cái chết, tôi muốn nhảy xuống giếng, tôi muốn nhảy xuống sông! Trong đám người, một phụ nữ áo dài trắng từ từ ngồi dậy. Người ấy quì trên mặt đất, lôi ra một, rồi hai vật cùng màu với cái áo dài của chị ta, cùng với màu trên đường phố. Hai vật cất tiếng khóc như cá nhân ngư. Chị ba Tiên Chim trong cuộc vui mừng kháng chiến thắng lọi, đã đẻ sinh đôi hai con trai. Tiên Chim và những đứa con của chị khiến người ta tạm thời quên đi những điều phiền muộn, tôi nhẹ nhàng nhích tới gần để xem mặt hai đứa cháu gọi bằng cậu. Tôi lách qua những cẳng chân của đàn ông, bước qua những cái đầu dưới đất, cuối cùng, trông thấy hai đứa da màu vàng đất, những vết nhăn đầy trên mặt, trên người, đầu trọc lốc như quả bầu be. Chúng ngoác miệng ra khóc trông phát khiếp, tôi có cảm giác trên người chúng sẽ mọc đầy vảy như vảy cá. Tôi lùi lại, vô ý dẫm phải cánh tay một người đàn ông. Người này hừ lên một tiếng, không đánh cũng không chửi tôi. Anh ta từ từ ngồi dậy, rồi từ từ đứng lên, vuốt đất bụi trên mặt, tôi biết anh ta là ai. Là Lỗ lập Nhân, chồng chị Năm. Lỗ Lập Nhân tìm ai vậy? Tìm chị Năm tôi. Chị Năm nặng nhọc ngồi dậy trong đống cỏ khô, nhào vào lòng Lỗ Lập Nhân, ôm đầu anh ta mà vò tóc. Thắng lợi rồi, thắng lợi rồi, cả hai cứ nói lảm nhảm, vuốt ve nhau. Đặt tên con là Thắng Lợi, chị Năm nói. Lúc này, mặt trời đã mỏi mệt đi ngủ, mặt trăng tỏa ánh sáng trong suốt, đẹp như người quả phụ thiếu máu. Lỗ Lập Nhân định dìu chị Năm đi về. Chính khi đó, chồng chị Hai là Tư Mã Khố dẫn đại đội biệt động của anh ta tiến vào thôn. Đại đội biệt động của Tư Mã Khố có ba trung đội trực thuộc. Trung đội một là trung đội kỵ mã, có sáu mươi tư con ngựa lai giữa giống ngựa I-li với ngựa Mông Cổ, các chiến sĩ nhất loạt trang bị súng trường Mỹ, loại súng nhỏ nhắn, bắn liên thanh. Trung đội hai là trung đội xe đạp, có sáu mươi tư chiếc xe đạp nhãn hiệu lạc đà, trang bị loại tiểu liên Đức bắn hai mươi phát, có kính ngắm. Trung đội ba là trung đội la, gồm sáu mươi tư con la khỏe mạnh, chạy nhanh như gió. Ngoài ra, còn có một tiểu đội đặc biệt gồm mười ba con lạc đà, chuyên việc sửa chữa, thồ dụng cụ và phụ tùng sửa chữa xe đạp, súng ống và chuyên chở đạn được, chở Tu Mã Khô, Thượng Quan Chiêu Đệ và hai con gái của họ: Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng; chở một người Mỹ tên là Bác-bít. Con lạc đà cuối cùng chở Tư Mã Đình, mốc thếch như con khỉ đột. Lão mặc quần nhà binh, áo sơ mi lụa màu ngó sen, nét mặt rầu rĩ, hình như trong lòng có điều không vui. Bác-bít có cặp mắt dịu dàng, mái tóc bạch kim mềm mại, đôi môi nhỏ, mình mặc áo da màu đỏ, quần vải bò có đến mười mấy cái túi to nhỏ, chân đi ủng bằng da thuộc mềm nhũn. Anh ta ăn mặc khác người như vậy, ngồi ngất ngưởng trên lưng con lạc đà đực cùng Tư Mã Khố, Tư Mã Đình đi vào thôn. Trung đội kỵ binh của Tư Mã Khố ào tới như một cơn lốc Tiểu đội một sáu con ngựa đen tuyền, trên lưng sáu con ngựa ô này là sáu thanh niên tuấn tú, mặc quân phục màu da cam, cúc đồng sáng loáng trước ngực và trên tay áo, ủng đi ngựa cao cổ, bóng loáng, súng đeo trước bụng bóng loáng, mũ sắt trên đầu cũng bóng loáng, cái mông con ngựa cũng bóng loáng. Khi gần đền đám người năm ngổn ngang, đội kỵ mã đi chậm lại, những con ngựa đi đầu ngẩng đầu lên, chuyển sang chạy nước kiệu. Sáu lính kỵ chĩa súng lên trời, bắn một loạt đạn vào khoảng không mênh mang, những vỏ đạn sáng trưng bắn ra tứ phía. Súng nổ khiến tai điếc đặc, lá cây rụng ào ào. Lỗ Lập Nhân và Thượng Quan Phán Đệ giật mình, vội buông nhau ra. Lỗ Lập Nhân quát: - Các anh thuộc đơn vị nào? Một kỵ binh đáp: - Ông già ở bộ phận nào vậy? Lời chưa dứt, một tràng tiểu liên quét ngang ngay trên đầu Lỗ Lập Nhân. Anh ta luống cuống nằm xoài xuống đất, nhưng lập tức nhảy đứng lên, quát to: - Tôi là đại đội trưởng kiêm chính ủy đại đội bộc phá, tôi cần gặp chỉ huy của các anh! Tiếng nói của Lỗ Lập Nhân bị chìm trong hàng loạt tiểu liên bắn chỉ thiên. Các đội viên đội bộc phá nháo nhào ngồi dậy, **ng nhau ngã dúi dụi. Đội kỵ mã cho ngựa chồm lên, đường phố hỗn loạn nên đội hình của họ cũng hỗn loạn. Loại ngựa lai này thấp bé, linh hoạt, như một lũ mèo đực nhanh nhẹn và ngổ ngáo, hích ngã những người không kịp né tránh hoặc năm dưới đất vừa vùng dậy. Tiểu đội một vừa qua, tiểu đội hai ập tới, những người trên đường phố bị kỵ binh dồn đuổi, hích ngã, muốn chạy mà chạy không thoát. Mọi người chưa hiểu sự thể ra sao, thì trung đội Lừa hàng ngũ tề chỉnh, các binh sĩ cầm ngang súng, vênh váo chẳng khác những con lừa. ở đầu phố đằng kia, trung đội kỵ binh chỉnh đốn hàng ngũ, rồi quay lại, hình thành hai mũi giáp công, mọi người bị dồn vón cục ở giữa, có người định chạy vào ngõ, nhưng lập tức bị trung đội ba, những binh sĩ cưỡi xe đạp nhãn hiệu lạc đà, mặc tiện y hoa đỏ tía, súng tiểu liên băng đạn cối, ngăn lại. Họ xả súng ngay trước mặt những người chạy trốn, đất bụi mù mịt, mọi người hốt hoảng chạy trở lại đường phố. Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan binh lính đại đội bộc phá bị dồn tới trước cổng nhà Phúc Sinh Đường. Vì sao họ không lợi dụng khu dinh cơ kín cổng cao tầng và những lô cốt ngầm, lô cốt nổi của nhà Phúc Sinh Đường để tổ chức chống cự. Vì rằng Tư Mã Khố đã cho điệp viên trà trộn vào hàng ngũ đội bộc phá, nhân lúc hỗn loạn đã đóng chặt cổng lớn cổng bé nhà Phúc Sinh Đường, hơn nữa, còn gài hàng loạt mìn trước cổng. Theo lệnh, các binh sĩ nhất loạt nhảy xuống lừa, dàn sang hai bên để chừa một lối đi. Đây là dấu hiệu một nhân vật quan trọng sắp xuất hiện. Các binh sĩ của đại đội bộc phá nhìn con đường. Những người dân rủi ro bị kẹt giữa đám lính cũng nhìn con đường. Tôi mờ mờ cảm thấy rằng, nhân vật quan trọng đó chắc chắn có liên quan đến nhà Thượng Quan. Mặt trời đã chìm một nửa dưới Bãi-Cát-Dài, chỉ còn lại một quầng đỏ làm nền cho bầu không khí bi thảm. Những con quạ bay vụt lên từ nóc lều những người ngụ cư. Vài con đợi thỏa sức biểu diễn kỹ thuật phi hành trên không trung. Khoảnh khắc yên lặng là dấu hiệu của nhân vật quan trọng đã tới. Thắng lợi? Thắng lợi! Lính kỵ và lính lừa hô to. Nhân vật quan trọng đã tới. Nhân vật quan trọng từ phía tây đi tới, trên mình con lạc đà. Trên đầu con lạc đà có ngù dỏ. Tư Mã Khố mặc quân phục xanh bằng dạ cao cấp, đầu đội chiếc mũ mà chúng tôi gọi đùa là mũ trôn lừa, ngực đeo hai huân chương vàng chóe to bằng vó ngựa, lưng thắt một đai dạn, sườn bên phải đeo khẩu Xanhtêchiên. Con lạc đà vươn dài cổ rồng, rung cặp môi ngựa dâm đãng, dựng hai tai chó nhọn hoắt, lim dim cặp mắt hổ lông mi rậm, giơ ngược những móng guốc như móng trâu, ve vẩy đuôi rắn dài và mảnh, co rúm mông dê gầy guộc, bước những bước dài giữa hai hàng quân. Lạc đà như con thuyền nhấp nhô, Tư Mã Khố như một thủy thủ. Hắn duỗi thẳng hai chân, ngực ưỡn ra, người hơi ngả ra sau, giơ tay đeo găng trắng lên sát vành mũ trôn lừa, khuôn mặt dài màu đồng điếu rắn câng, những nốt ruồi trên má đỏ như lá phong uống no sương. Khuôn mặt hắn như tạc bằng gỗ dàn hương, quang đầu ba lớp để chống mục chống ẩm. Bọn lính kỵ và lính lừa bồng súng hoan hô. Đi sau lạc đà của Tư Mã Khố là lạc đà của Tư Mã Khố phu nhân: Thượng Quan Chiêu Đệ. Mấy năm không gặp, nét mặt Chiêu Đệ chẳng đổi khác là bao, vẫn thanh tú và dịu dàng. Chị khoác chiếc áo gió bằng lụa trắng, bên trong là chiếc áo chẽn bằng đoạn màu vàng, quần lụa hồng, chân đi giày da nhỏ màu vàng cực kỳ tinh xảo. Hai cổ tay đeo hai vòng ngọc bích, trừ hai ngón tay cái, tám ngón khác đeo tám nhẫn vàng. Hai dái tai đeo hai hạt nho xanh biếc, sau này tôi mới biết đó là ngọc phỉ thúy. Không nên quên hai cháu ngoại cao quí của tôi. Lạc đà của chúng đi ngay sau lạc đà của Chiêu Đệ. Giữa hai bướu có một sợi dây thừng to buộc chặt hai giỏ có hình dáng như chiếc ghế dựa, ngồi bên trái đầu cài đầy hoa là Tư Mã Thượng, ngồi bên phải hoa cài đầy đầu là Tư Mã Hoàng. Tiếp theo là Bác-bít, anh chàng người Mỹ. Cũng khó như đoán tuổi chim én, không thể đoán được tuổi anh chàng người Mỹ này. Nhưng cặp mắt mèo xanh biếc của anh ta vô cùng linh hoạt khiến tôi cảm thấy anh ta rất trẻ, rất giống chú gà trống choai vừa đạp mái. Tóc anh ta mới bóng mượt làm sao! Anh ta ngồi trên lưng lạc đà, người lắc lư theo nhịp, nhưng dù lắc lư đến mấy, thân của anh ta vẫn thẳng đuỗn, y hệt pho tượng gỗ buộc chặt vào cái phao thả trên sông. Cái biệt tài ấy của anh ta khiến tôi có ấn tượng sâu sắc, nghĩ mãi mà không hiểu. Sau này, khi tôi được biết Bác-bít là phi công của không lực Mỹ, tôi mới hiểu anh ta giữ thói quen ngồi trên buồng lái khi ngồi trên lưng lạc đà. Anh ta không nghĩ rằng ngồi trên lưng con lạc đà, mà ngồi trong máy bay khu trục nhãn hiệu lạc đà, bị rớt xuống một phố chính của thủ phủ vùng Cao Mật. Đi sau cùng là Tư Mã Đình, tuy có vinh dự là thành viên của gia đình Tư Mã, nhưng ông ta rũ như táu lá héo, không phấn khởi chút nào. Con lừa của ông ta cũng xấu mã, thọt một chân. Lỗ Lập Nhân cố làm ra vẻ chững chạc. Anh ta tới trước con lừa của Tư Mã Khố, ngạo nghễ giơ tay chào, nói to: - Chi đội trưởng Tư Mã, hoan nghênh quí bộ đội đến thăm căn cứ địa của chúng tôi, trong cái ngày cả nước tưng bùng này! Tư Mã Khố cười ngặt nghẽo, thiếu nước ngã lăn xuống đất. - Ha ha ha... Hắn vỗ vỗ đám lông trên bướu lạc đà, nói với đám lính và dân phố đứng trước và sau hắn: - Các người có nghe hắn phun cút phun đái những gì chưa? Đồ giòi bọ! Căn cứ địa nào? Thăm ai? Thằng lạc đà nội địa kia, đây là nhà của ông, đây là đất thấm máu của ông! Đường phố này đã thấm máu của mẹ ông khi đẻ ông! Chúng mày là đồ giòi bọ, hút no máu vùng Cao Mật, bây giờ là lúc phải cuốn xéo. Chuồn về cái hang thỏ của chúng mày, trả lại nhà cho ông! Hắn nói rất hăng, lời lẽ đốp chát, nói một câu, vỗ vào bướu lạc đà một cái. Mỗi cái vỗ, cổ con lạc đà lại giật lên. Mỗi cái vỗ, các binh sĩ của hắn lại gầm lên một tiếng. Mỗi cái vỗ, mặt Lỗ Lập Nhân lại tái thêm một ít. Cuối cùng, con lạc đà bị kích thích, rúm người lại, một chất nhầy như cháo, thối hoắc, từ hai lỗ mũi nó phun thẳng vào mặt Lỗ Lập Nhân. - Tôi phản đối! - Lỗ Lập Nhân chùi mặt, giận điên lên - Tôi cực lực phản đối. Tôi sẽ kiện lên cấp cao nhất! - ở đây ông là cấp cao nhất! Ông tuyên bố, hạn trong nửa giờ phải cút khỏi thị trấn Đại Lan, quá hạn, ông sẽ sát giới! Lỗ Lập Nhân lạnh lùng nói: - Rồi sẽ có ngày gậy ông đập lưng ông! Tư Mã Khố không thèm đếm xỉa câu nói của Lỗ Lập Nhân, lớn tiếng ra lệnh cho bộ hạ: - Tiễn quân bạn ra khỏi địa giới! Trung đội kỵ binh và trung đội lừa ken thành đội hình dày đặc, dồn các binh sĩ đại đội bộc phá vào ngõ nhà tôi. Hai bên đường dọc theo ngõ, cách vài thước lại có một lính tiện y cầm súng. Một số lính tiện y khác đứng trên nóc nhà, giám sát từ trên cao. Sau nửa giờ, phần lớn đội viên của đại đội bộc phá bò lên bờ bên kia sông Thuồng Luồng, ướt như chuột lột. ánh trăng lạnh lẽo chiếu trên mặt họ. Một số ít đội viên lợi dụng lúc nhốn nháo chui vào những bụi rậm trên đê hoặc bơi xuôi dòng xuống phía dưới rồi lên bờ ở quãng không người, vắt nước trên quần áo, chạy suốt đêm về quê. Mấy trăm đội viên đội bộc phá ướt lướt thướt trên bờ đê. Họ nhìn nhau, có người chảy nước mắt, có người mừng thầm. Lỗ Lập Nhân thấy bộ đội của mình đã bị giải giáp hoàn toàn, quay ngoắt lại định đâm đầu xuống sông, nhưng bị bộ hạ ôm chặt. Anh ta im lặng hồi lâu, chợt ngẩng đầu hét to với những người thị trấn Đại Lan đang ồn ào bên kia sông: - Tư Mã Khố, Tư Mã Khố, hãy đợi đấy, có ngày ta sẽ trở lại! Quê hương Cao Mật là của chúng tao, không phải của chúng mày? Bây giờ tạm thời là của chúng mày, nhưng cuối cùng là của chúng tao! Hãy để Lỗ Lập Nhân liếm láp vết thương của anh ta, tôi phải trở về với những vấn đề của mình. Giữa nhảy xuống sông tự tử hay nhảy xuống giếng tôi chọn nhảy xuống sông, vì tôi nghe nói nhảy sông thì có thể trôi theo dòng nước mà ra biển. Thời Tiên Chim trổ phép thần thông, trên sông từng có những chiếc thuyền lớn hai cột buồm ngược dòng tới nơi này. Tôi mục kích cảnh tượng các binh sĩ của Lỗ Lập Nhân tranh nhau bơi qua sông Thuồng Luồng dưới ánh trăng lạnh lẽo. Phì phà phì phèo, hết bò lại lăn, nhốn nháo nhộn nhạo, mặt sông sùi bọt. Người của Chi đội Tư Mã không tiếc đạn, bắn như vãi trấu xuống lòng sông, khiến mặt sông như một cái chảo đang sôi. Nếu họ định tiêu diệt đại đội bộc phá thì chắc chắn không sót một mống, nhưng họ chỉ thi hành chiến thuật dọa dẫm, không bắn chết ai. Vài năm sau, khi đại đội bộc phá biên chế lại thành trung đoàn độc lập trở lại Cao Mật, ai cũng bất nhẫn trước cảnh những binh sĩ và sĩ quan của Chi đội Tư Mã bị bắn chết. Tôi lội chầm chậm ra chỗ sâu hơn, mặt sông trở lại êm đềm; hàng vạn tia sáng nhảy múa. Những bụi cỏ nước quẩn chân tôi, những con cá nhỏ đớp nhẹ đầu gối tôi. Tôi thử bước thêm mấy bước, nước sông ngang bụng, tôi cảm thấy ruột thắt lại, cái đói không chịu nổi đã hành hạ tôi. Thế là bầu vú đáng yêu đáng kính và đẹp vô cùng của mẹ đột nhiên hiện ra trong đầu tôi. Nhưng mẹ đã bôi ớt ở đầu vú, mẹ đã nhiều lần nhắc tôi: - Con lên bảy rồi, phải cai sữa! Vì sao tôi phải sống đến lên bảy nhỉ? Vì sao tôi không chết khi lên bảy? Tôi cảm thấy nước mắt chảy vào miệng. Vậy hãy để cho tôi chết, tôi không muốn để cho những thứ ô uế làm bẩn miệng tôi. Tôi mạnh dạn tiến thêm mấy bước nữa, nước đã ngập đến vai, cơ thể tôi đã cảm thấy lực xung kích của dòng nước ngầm. Tôi cố đứng vững hai chân chống lại sức đẩy của nước. Một cái xoáy lớn ngay trước mặt tôi, dụ tôi tiến lên. Tôi sợ. Tôi cảm thấy bùn dưới chân lở từng mảng, người tôi lún sâu hơn ngoài ý muốn, tiến lên, tiến vào cái xoáy nước đó. Tôi cố sức lùi lại và gào tướng lên! Lúc này tôi nghe thấy tiếng gọi thất thanh của mẹ: - Kim Đồng, Kim Đồng! Con oi, con ở đâu? Cùng với tiếng gọi của mẹ, tôi còn nghe thấy tiếng bơi của chị Sáu Niệm Đệ, chị Cả Lai Đệ và một giọng the thé vừa quen vừa lạ, tôi đoán đó là chị Chiêu Đệ tay đầy nhẫn vàng. Khi tỉnh lại, đập vào mắt tôi đầu tiên là bầu vú căng tròn của mẹ, núm vú nhãi con mắt hiền từ, dịu dàng nhìn tôi, còn một bầu thì đang trong miệng tôi, nó chủ động mơn trớn đầu lưỡi tôi, hàm rằng tôi, sữa chảy vào họng tôi như những tia suối nhỏ. Tôi ngửi thấy mùi thơm sực núc từ bầu vú của mẹ. Về sau tôi mới biết mẹ dùng xà phòng thơm Hoa Hồng do chị Chiêu Đệ tặng rửa sạch ớt trên vú và xịt nước hoa giữa hai khe vú. Trong nhà đèn được sáng trưng, trên giá nến cao cao có mấy cây nến đỏ. Tôi trông thấy nhiêu người đứng ngồi xung quanh mẹ. Ông anh rể Tư Mã Khố đang khoe với mẹ bửu bối của anh ta: chiếc bật lửa chỉ cần ấn một cái là tia lửa vọt ra. Cậu ấm Tư Mã đứng cách một quãng xa nhìn bố, thái độ lạnh nhạt, chẳng tỏ vẻ thân thiện chút nào. Mẹ thở dài nói: - Tôi phải trả nó cho anh chị, tội nghiệp thằng bé, đến nay vẫn chưa có tên. Tư Mã Khố nói: - Bố là Khố (nhà kho) thì con là Lương (lương thực) đặt tên cho nó là Tư Mã Lương. Mẹ nói: - Nghe rõ chưa, cháu tên là Tư Mã Lương. Tư Mã Lương nhìn bố một thoáng, vẫn với thái độ lạnh nhạt. Tư Mã Khố nói: - Thằng nhóc, y hệt bố hồi nhỏ. Nhạc mẫu, xin cảm ơn nhạc mẫu đã giữ gìn cho nhà Tư Mã một người nối dõi. Từ nay, nhạc mẫu cứ mà hưởng phúc Cao Mật là giang sơn của ta rồi! Mẹ không hiểu đầu đuôi ra sao, lắc đầu bảo Chiêu Đệ: - Con định báo hiếu mẹ thì cho mẹ vài tạ kê, mẹ sợ đói lắm rồi! Tối hôm sau, Tư Mã Khố tổ chức lễ mừng công, một là mừng kháng chiến thắng lợi, hai là mừng anh ta trở về nhà. Họ nối cả một xe pháo tép thành một dây pháo, quấn một vòng quanh tám cây hòe, lại nghiền nát trên hai chục cái chảo gang, đào lấy số thuốc nổ mà đại đội bộc phá chôn giấu, làm một quả pháo hoa lớn. Dây pháo nổ đúng một nửa đêm, vặt trụi cả cành lẫn lá tám cây hòe. Pháo hoa với những tia lửa lộng lẫy, chiếu sáng cả một khoảng trời. Họ giết mấy chục con lợn, vài con trâu, đào lên hơn chục hũ rượu. Thịt nhím bày đầy những mâm đặt trên bàn ngoài đường, bên cạnh để mấy con dao nhọn, ai thích ăn thì cứ việc xẻo thịt mà ăn, ngay cả cắt tai lợn quẳng cho chó cũng không ai can thiệp! Các hũ rượu đặt bên bàn thịt, miệng hũ treo gáo sắt, ai thích uống thì uống, tắm bằng rượu cũng không ai phản đối? Hôm ấy là ngày hội của những kẻ đói khát. Con trai cả nhà họ Trương là Trương Tiền Nhi chết vì bội thực ở trên phố. Khi mọi người đến lượm xác anh ta, rượu và thịt ứa ra ở miệng và mũi. |