Home » » Báu vật của đời - Mạc Ngôn - p7

Báu vật của đời - Mạc Ngôn - p7

Written By kinhtehoc on Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012 | 01:25


5.



Cho đến tiết thanh minh ấm áp, mười tám cái đầu nhà Tư Mã vẫn treo lủng lẳng trên giá gỗ ngoài cổng Phúc Sinh Đường. Chiếc giá gỗ dựng bằng năm cây sam to và thẳng đuột, trông giống một cây đu. Những cái đầu xâu bằng dây thép, treo dưới cây gỗ bắc ngang. Tuy đã bị lũ quạ, chim sẻ, chim cút mổ hết thịt, nhưng vẫn rất dễ nhận ra đầu nào là đầu của vợ Tư Mã Đình; đầu hai đứa con ngơ ngẩn của Tư Mã Đình; của vợ cả, vợ hai và vợ ba của Tư Mã Khố; chín cái đầu của lũ con trai con gái do ba người vợ của Tư Mã Khố đẻ ra, đầu của bố mẹ bà Ba đến thăm con gái và đầu của hai người em của ông bà. Sau trận cướp phá, thôn xóm sặc mùi chết chóc, những người sống sót thì như hồn ma, ban ngày rúc vào chỗ tối, ban đêm mới dám mò ra. Chị Hai đi biệt, không một mẩu tin. Thằng nhỏ chị để lại cho chúng tôi đã gây biết bao phiền não. Trong những ngày nấp trong hầm tối, vì không nỡ để nó chết đói mẹ buộc phải cho nó bú sữa. Nó ngoác miệng, mở to cặp mắt thô lố, mút chùn chụt bầu vú vốn thuộc về tôi. Nó ăn nhiều kinh khủng, ti đến nỗi hai bầu vú chi còn như hai cái túi da lép, mà vẫn ngoác miệng ra khóc. Nó khóc như tiếng quạ, như tiếng ếch, tiếng cú kêu. Ve ngoài của nó giống chó sói, chó hoang, giống con thỏ rừng. Nó là kẻ thù không đội trời chung của tôi. Khi nó độc chiếm bầu vú của mẹ, tôi chỉ khóc. Khi tôi giành lại bầu vú của mẹ, nó cũng khóc. Khi gào khóc, nó vẫn mở to mắt. Mắt nó như mắt của thằn lằn. Chị Chiêu Đệ chết tiệt đã đem về một tiểu yêu do thằn lằn đẻ ra. Bị hai tầng xâu xé, mặt mẹ bủng ra trên người đã thấy những mầm mống của bệnh tật, chẳng khác những củ cải trải qua một mùa đông dài đặc dưới hầm. Trước tiên là ở hai bầu vú của mẹ. Sữa ngày một ít đi, trong sữa tôi cảm thấy mùi vị của củ cải thối. Cái thằng khốn nạn nhà Tư Mã, lẽ nào mi không cảm thấy mùi vị đáng sợ ấy Của ai thì người ấy tiếc, nhưng tôi không thể tiếc bầu vú của mẹ được nữa. Tôi không bú thì nó bú. Hồ lô của tôi, bồ câu non của tôi, lọ sứ của tôi đã nhăn nheo, thủy phần giảm, gân xanh chằng chịt, đầu vú thâm lại, rũ rượi chúc đầu xuống.

Vì tính mạng của tôi và của thằng khốn nạn, mẹ mạnh dạn đưa các chị tôi ra khỏi hầm, về với trần gian đầy ánh nắng. Lúa mạch ở chái đông không còn một hạt, lừa và la cũng không còn, nồi niêu bát đĩa vỡ nát, tượng Quan âm trên bàn thờ chỉ còn là cái xác không đầu. Mẹ quên không dám áo lông chồn xuống hầm, áo chẽn lông mèo rừng của tôi và chị Tám cũng mất. áo khoác của các chị, vì bất li thân, nên vẫn còn, nhưng lông rụng từng mảng, các chị giống như những con thú bị thương khắp người. Bà nội nằm dưới cái cối xay ở chái tây, ngốn hết hai mươi cân củ cải mẹ để lại, ị ra một đống phân lổn nhổn như đá cuội. Khi mẹ vào cho bà ăn, bà ném những cục phân khô vào người mẹ. Mặt bà nội như củ cải thối, tóc bạc bết lại như sợi thừng, có lọn dựng ngược, lọn thì rũ xuống lưng. Mắt bà nội có màu xanh lục. Mẹ chẳng còn cách nào, chỉ lắc đầu, đặt mấy củ cải trước mặt bà nội. Người Nhật, có lẽ là người Trung Quốc, chỉ để lại cho chúng tôi một phần nhỏ củ cải đã mọc mầm. Mẹ tuyệt vọng quá, bê ra một cái vại chưa bị đập vỡ, trong vại có gói bột thạch tín mà bà nội giấu kỹ. Mẹ đổ thạch tín vào nồi củ cải. Thạch tín tan ra, mặt nồi có váng như đầu, một mùi tanh bay lên. Mẹ dùng môi khuấy đều, múc lên một môi rồi rót xuống nồi: một thứ nước **c lờ chảy qua chỗ môi mẻ, rớt tong tỏng. Hai bên mép mẹ giật giật một cách kỳ quái. Mẹ múc củ cải ra cái bát mẻ, bảo chị Lãnh Đệ:

- Lãnh Đệ, đem bát củ cải vào cho bà nội.

Chị Ba nói:

- Mẹ cho thuốc độc vào củ cải à?.

Mẹ gật.

- Để bà nội trúng độc mà chết hả mẹ? Chị Ba hỏi.

Mẹ nói:

- Cả nhà cùng chết!

Các chị khóc ầm lên, chị Tám mù cũng khóc theo, tiếng khóc mảnh như sợi tơ, như tiếng vo ve của con ong mật. Chị Tám là thê thảm nhất của nỗi thê thảm, đáng thương nhất của sự đáng thương.

- Mẹ ơi, chúng con không muốn chết!

Các chị van xin mẹ. Tôi cũng hùa theo khóc tấm tức:

- Mẹ.. mẹ...

Mẹ nói:

- Khổ thân các con!...

Mẹ khóc òa lên, khóc rất lâu chúng tôi khóc theo. Mẹ hỉ mũi rõ kêu, quẳng cái bát cùng với thạch tín ra sân, nói:

- Không chết nữa! Chết đã không sợ, thì sống không có gì phải sợ cả!

Nói xong, mẹ đứng dậy dẫn chúng tôi ra phố tìm cái ăn. Chúng tôi là những người đầu tiên xuất hiện ngoài đường.

Lúc đầu, khi trông thấy những cái đầu của nhà Tư Mã, các chị còn có vẻ sợ; vài hôm sau, các chị coi như không có gì xảy ra. Thằng khốn nhà Tư Mã mẹ bế đằng trước, đối xứng với tôi ở phía sau lưng. Mẹ có lần chỉ vào những cái đầu treo lủng lẳng đó, khẽ bảo nó:

- Con ơi, hãy nhớ lấy!

Mẹ và các chị ra khỏi thôn, ra đồng đào rễ cỏ rửa sạch, đem về giã nhỏ nấu cháo. Chị Ba rất thông minh, chị tìm ra hang chuột đồng, không những thịt rất thơm, mà còn lấy được lương thực giấu trong hang. Các chị còn đan lưới bằng chỉ gai, bắt những con cá, con tôm gầy đét và thâm sì sau một mùa đông nhịn đói. Một hôm, mẹ thử đút cho tôi một thìa cháo cá, tôi lập tức nhổ ra và cất tiếng khóc. Mẹ đút thìa cháo vào miệng thằng khốn nhà Tư Mã, nó nuốt luôn. Mẹ lại đút cho nó thìa nữa, nó lại nuốt. Mẹ phấn khởi, nói:

- Tốt rồi, thằng oan nghiệt này ăn lấy được rồi!

- Còn con thì sao?

Mẹ nhìn tôi:

- Con cũng đã đến lúc cai sữa rồi!

Tôi kinh hoảng túm chặt bầu vú của mẹ.

Noi gương chúng tôi, những người trong thôn mò ra khỏi nhà. Tai họa khủng khiếp giáng lên đầu lũ chuột đồng, rồi tiếp theo là thỏ, cá tôm, ốc, hến, rắn, nhái. Trên những cánh đồng mênh mông, mọi sinh vật chỉ còn sót lại cóc tía có nhựa độc và loài chim có cánh. Nếu như rau dại không mọc kịp thời, thì quá nửa người dân trong thôn đã chết đói. Sau tết thanh minh, hoa đào rụng cánh, hơi nước lang thang trên mặt ruộng, đất đai đã cựa mình đợi gieo trồng, nhưng chúng tôi không có gia súc, không có hạt giống. Khi nước trong đầm đã đầy, những con nòng nọc béo mẫm bơi dày đặc ven hồ và ao chuôm, dân chúng bắt đầu bỏ quê, tha phương cầu thực. Đến tháng Tư gần như cả thôn bỏ đi hết, nhưng sang tháng Năm, phần lớn lại trở về. Ông Ba Phàn nói, dù sao thì nơi đây còn có rau dại, cỏ dại ăn đỡ đói, những nơi khác, ngay cả rau dại cỏ dại cũng không còn. Đến tháng Sáu có rất nhiều người nơi khác đến đây. Lúc đầu, họ ngủ trong nhà thờ, trong cái sân sâu hun hút của nhà Tư Mã, trong khu vục cối xay bột bỏ hoang. Họ điên khùng như những con chó đói, cướp giật hết thức ăn của chúng tôi. Về sau, ông Ba Phàn tập hợp những người đàn ông trong thôn mở đợt truy đuổi những kẻ ngụ cư. Ông Ba Phàn là lãnh tụ của chúng tôi. Đám ngụ cư cũng cử ra lãnh tụ của chúng. Đó là một thanh niên có cặp lông mày rậm. Anh ta là một tay săn chim cừ khôi, lúc nào cũng có hai cây cung giắt ở thắt lưng, vai đeo chéo một túi vải, trong đó chứa đầy những viên dạn nặn bằng đất sét. Chị Ba khi đào rau dại đã chúng kiến tuyệt kỹ của anh ta: Hai con gà gô đang giao phối trên lưng chừng trời, anh ta rút cây cung, cũng không thèm ngắm, gần như bắn chơi một viên, con gà gô rơi thẳng đứng ngay dưới chân chị Ba. Anh ta cầm con gà gô bước tới chỗ chị Ba. Chị căm thù nhìn anh ta. Ông Ba Phàn đã tuyên truyền rất nhiều về những kẻ ngụ cư, nhen lên mối hận thù của chúng tôi với họ. Anh ta không những không nhặt con gà gô dưới chân chị, mà còn đưa nốt con gà gô trên tay rồi đi luôn, không nói câu nào.

Chị Ba cầm hai con gà gô về nhà, để mẹ ăn phần thịt, các chị và thằng khốn húp xương ninh nhừ, còn xương không thì dành cho bà nội. Bà nhai rôm rốp. Chị Ba giữ bí mật cho riêng mình về chuyện anh chàng ngụ cư cho chị gà gô. Rất nhanh, gà gô biến thành mùi vị thơm ngon của sữa, chảy vào dạ dày tôi. Một bận, nhân lúc tôi ngủ, mẹ thử nhét vú vào miệng thằng khốn Tư Mã, nhưng nó từ chối. Nó lớn lên nhờ rễ cỏ vỏ cây, ăn khỏe kinh khủng, thứ gì đưa vào là hắn ăn tuốt. Đúng là một con lừa, mẹ nói vậy, số mi là số ăn cỏ. Phân của nó thải ra cũng giống như phân lừa, phân ngựa. Hơn thế, mẹ còn cho rằng nó có những hai dạ dày, biết nhai lại. Thường trông thấy cỏ dại ợ ra trong miệng nó. Nó lim dim mắt nhai rào rạo có vẻ rất ngon lành, mép sùi bọt trắng. Nhai kỹ rồi, nó dưới cổ nuốt ục một cái vào bụng.

Dân làng trong thôn mở cuộc chiến với dân ngụ cư. Trước tiên, ông Ba Phàn nói lý với bọn chúng, mời chúng đi khỏi địa phận chúng tôi. Đại biểu dân ngụ cư lại chính là chuyên gia về săn bắt chim, có biệt hiệu là Hàn Chim, người đã tặng chị Ba hai con gà gô. Tay giữ chặt cây cung bắn liên châu, anh ta cũng dùng lý lẽ để bác bỏ, không chút nhân nhượng. Anh ta nói rằng, vùng Cao Mật vốn là đất vô chủ, đất hoang, mọi người đều là dân từ nơi khác đến, các ông ở được, tại sao chúng tôi không được ở? Lời đi tiếng lại, thành ra cãi nhau, cãi hăng quá biến thành xỉa xói, giằng kéo. Trong thôn có một anh chàng hung hăng biệt hiệu là Sáu-bạo-phổi, từ phía sau ông Ba Phàn nhảy vọt ra, nhằm đầu bà mẹ Hàn Chim vụt một gậy sắt. Bà lão vỡ óc, chết tại chỗ. Hàn Chim rú lên một tiếng như con sói bị thương, rút cây cung bắn một phát đạn đôi, vỡ tung hai mắt của Sáu-bạo-phổi. Tiếp theo là một cuộc hỗn chiến. Những người ngụ cư yếu thế. Hàn Chim cõng xác mẹ, vừa đánh vừa rút lui về dưới chân Bãi-Cát-Dài. Hàn Chim đặt xác mẹ xuống, đặt đạn vào đây cung nhằm ông Ba Phàn, nói:

- Lão đầu sỏ kia, không nên cạn tàu ráo máng. Con giun xéo lắm cũng quằn đấy!

Lời chưa dứt, một tiếng phụt, viên đạn xé rách tai trái ông Ba Phàn. Hàn Chim nói:

- Ta nể lão cũng là người Trung Quốc, tha chết cho lão!

Ba Phàn ôm cái tai rách đôi, lẳng lặng rút lui.

Những người ngụ cư dựng lên mấy chục túp lều từ chân Bãi-Cát-Dài, giành lấy chỗ đứng cho mình. Mười mấy năm sau, nơi dây trở thành thôn trang. Lại qua đi mười mấy năm, trở thành một thị trấn phồn hoa, nhà cửa nối liền với trấn Đại Lan, chỉ một khoảng trống là cái đầm lớn và một con đường nhỏ. Những năm 90, Đại Lan trở thành thành phố, thị trấn Bãi-Cát-Dài trở thành khu Loan Tây của thành phố. Khi ấy, nơi đây xây dụng một Trung tâm nuôi chim phương Đông; những giống chim quý đã tuyệt chủng ở nhiều nước, có thể mua được ở đây. Đương nhiên, việc mua bán chim thú quí phải tiến hành bí mật. Người sáng lập Trung tâm Chim là con trai Hàn Chim, có biệt hiệu Hàn Vẹt. Hàn Vẹt giàu lên nhờ nuôi dưỡng, nhân giống và lai tạo giống mới, giống chim vẹt, và được sự trợ giúp của vợ là Cảnh Liên Liên, anh ta vang bóng một thời, sau đó bị ngồi tù.

Hàn Chim chôn mẹ trên Bãi-Cát-Dài. Tay xách cung, nói giọng vùng khác, anh ta đi hai vòng trên phố, miệng thì chửi bới, ý tứ như sau:

- Tao bây giờ là thằng độc thân, giết một người hòa vốn, giết hai người lãi một. Mong các người coi như không có chuyện gì xảy ra.

Tấm gương Sáu-bạo-phổi mù cả hai mắt và lão Ba Phàn đứt đôi vành tai sờ sờ ra đấy! Những người trong thôn không ai muốn dằn mặt anh ta. Với lại, chị Ba nói, người ta đã phải trả giá bằng cái chết của bà mẹ rồi.

Từ đó, dân ngụ cư và dân trong thôn chung sống hòa bình với nhau, tuy bằng mặt chẳng bằng lòng. Chị Ba và Hàn Chim hầu như mỗi ngày đều gặp nhau ở nơi lần đầu họ gặp nhau, tặng gà gô cho nhau, lúc đầu làm ra vẻ ngẫu nhiên, sau đó trở thành hẹn ước nơi điền dã, chưa gặp mặt thì chưa về. Hai bàn chân chị Ba đã biến nơi hẹn hò thành một mảnh đất trống trơn, không cỏ nào mọc được. Mỗi lần gặp, Hàn Chim đều không nói gì, chỉ bỏ chim lại rồi đi, lúc thì đôi chim gáy, lúc con vịt trời.

Một bận, anh ta bỏ lại một con chim cực lớn, dễ đến ba mươi cân, chị Ba vất vả lắm mới vác được nó về nhà. Ngay cả ông Ba Phàn là người hiểu rộng biết nhiều cũng không biết nó là chim gì. Tôi chỉ biết rằng thịt nó cực ngon, tất nhiên là tôi cảm nhận mùi vị ấy qua sữa của mẹ.

Ông Ba Phàn cậy vào mối quan hệ thân mật với gia đình tôi, đặc biệt lưu ý mẹ tôi về mối quan hệ giữa chị Ba với Hàn Chim. Những lời ông nói rất kém giá trị, thối tha nữa là khác:

- Cô cháu đâu này, con đĩ nhà mình với thằng bắt chim ấy mà... Hừm, bại hoại luân thường! Mọi người thấy chướng mắt lắm!

Mẹ nói:

- Nhưng nó còn nhỏ mà?

Ông Ba Phàn nói:

- Con gái nhà chị khác con nhà người ta!

Mẹ vặc lại một câu:

- Cái bọn rỗi hơi ấy cho chúng nó xuống địa ngục!

Tuy mẹ cãi lại ông Ba Phàn, nhưng khi chị Ba lễ mễ vác con sếu đầu đỏ về nhà, mẹ đã nói chuyện nghiêm chỉnh với chị:

- Lãnh Đệ! - Mẹ nói - nhà mình không ăn thịt chim của người ta nữa?

Chị Ba nhướng mắt hỏi:

- Sao thế, mẹ? Anh ấy bắt chim còn dễ hơn mình bắt rận ở trên người?

Mẹ nói:

- Dễ mấy cũng là người khác bắt, con không hiểu câu há miệng mắc quai hay sao?

Chị Ba nói:

- Sau này ta sẽ trả nợ anh ấy?

Mẹ hỏi:

- Lấy gì để trả?

Chị Ba nhẹ như không:

- Con lấy anh ấy.

Mẹ nghiêm sắc mặt:

- Lãnh Đệ, hai chị con đã đủ cho nhà Thượng Quan xấu hổ rồi, đến lượt con, nói gì thì mẹ cũng không chịu đâu?

Chị Ba vùng vằng:

- Mẹ nói hay nhỉ! Nếu không có anh ấy, liệu nó có được như vậy không?

Chị Ba chỉ vào tôi, lại chỉ vào thằng khốn nhà Tư Mã:

- Và cả nó nữa!

Mẹ nhìn khuôn mặt hồng hào của tôi và khuôn mặt hồng hồng của thằng nước nhà Tư Mã, không nói lại được câu nào. Lặng đi một lúc, mẹ nói:

- Lãnh Đệ, từ nay trở đi không thèm ăn thịt chim của nó nữa!

Hôm sau, chị Ba xách về một xâu chim cu ngói, giận dỗi quẳng dưới chân mẹ.
Thấm thoát đã sang tháng Tám, từng đàn chim nhạn từ phương xa bay về, đậu trên vùng đầm phía tây nam thôn tôi. Người trong thôn và dân ngụ cư dùng lưỡi câu, dùng lưới - những phương thức cổ lỗ - để bắt chim nhạn. Lúc đầu bắt được rất nhiều, đến nỗi chỗ nào cũng có lông nhạn, nhưng rồi những con nhạn tinh khôn ra, không đỗ ở những nơi rất sâu trong đầm lầy, ngay cả những con cáo cũng không thể đặt chân tới, khiến những mánh lới của mọi người đều đã tràng xe cát, chỉ có chị Ba mỗi ngày đem về một con nhạn khi còn sống, lúc đã chết, có trời mới biết Hàn Chim làm thế nào để bắt được chúng.

Trước sự thực đó, mẹ đành thỏa hiệp, vì rằng nếu không ăn thịt chim của Hàn Chim cho, chúng tôi sẽ thiếu dinh dưỡng; sẽ như phần lớn số người trong thôn, phù thũng, thở nặng nhọc, hai mắt đỏ như lửa cứ nháy liên tục. Mà nhận chim của Hàn Chim thì chắc chắn là có một con rể chuyên gia về săn bắt chim tiếp theo rể đội trưởng Đội Hỏa mai và rể chuyên gia phá cầu.

Buổi sáng ngày mười sáu tháng Tám, chị Ba lại ra chỗ cũ để lấy chim. Chúng tôi ngồi đợi ở nhà. Mọi người đã ngán ăn thịt nhạn có vị có xanh, hi vọng Hàn Chim đổi khẩu vị, cho chúng tôi loại chim khác. Chúng tôi không dám mơ ước chị Ba lại đem về một con chim cực lớn, thịt thơm ngon như ngày nào, nhưng rất có thể chị đem về đại loại như vịt trời, chim cút, cu gáy, ngỗng trời chăng hạn.

Chị Ba trở về tay không, hai mắt đỏ như hạt đào vì khóc. Mẹ hỏi nguyên do, chị nói:

- Hàn Chim đã bị một bọn mặc quân phục đen, đeo súng trường, cưỡi xe đạp bắt đi rồi... Cùng bị bắt là mười mấy thanh niên trai tráng. Họ bị trói thành một xâu. Hàn Chim cố vùng ra, bắp thịt ở vai gồng lên như những quả bóng nhỏ. Bọn lính dùng báng súng nện vào mông vào lưng, đá vào chân Hàn Chim. Anh ta vằn mắt lên, đỏ quạch như sắp bật máu hoặc sắp tóe lửa. - Các ông bắt tôi vì tội gì - Hàn Chim gào lên. Một tên tiểu đầu mục bốc một nắm bùn ném vào mặt Hàn Chim bịt kín cả hai mắt. anh ta gầm thét như con thú cùng đường. Chị Ba chạy vượt lên gọi to: Anh Hàn Chim... Dừng lại! Chị gọi nữa: - Anh Hàn Chim. Bọn lính nhìn chị, cười đểu cáng. Cuối cùng, chị Ba nói: - Hàn Chim, em đợi anh! Hàn Chim quát to: Cút mẹ cô đi, ai cần cô đợi?

Bữa trưa, nhìn nồi canh rau dại có thể soi gương, chúng tôi - tất nhiên trong đó có mẹ tôi - mới thấm thía tầm quan trọng của Hàn Chim đối với gia đình tôi. Chị Ba nằm sấp trên giường, khóc hai ngày hai đêm. Mẹ dùng mấy chục cách để chị nín nhưng không kết quả.

Sau ngày Hàn Chim bị bắt được ba hôm, chị Ba ngồi dậy, chân trần, chị để hở ngực mà không xấu hổ bước ra sân. Chị trèo lên ngọn cây thạch lựu, sức nặng uốn cành lựu cong như một cây cung. Mẹ vội kéo chị xuống, chị nhanh nhẹn chuyền sang cây ngô đồng, rồi từ cây ngô đồng chuyền sang cây trứng gà, từ cây trứng gà chị nhảy xuống nóc nhà. Chị nhanh nhẹn đến mức khó tin, như mọc thêm đôi cánh. Chị cưỡi trên nóc nhà, hai mắt ngây dại, nụ cười mê hồn nở trên khuôn mặt. Mẹ đứng dưới sân, van vỉ rất đáng thương:

- Lãnh Đệ, con gái yêu của mẹ! Xuống đi con, từ nay mẹ không bắt khoan bắt nhặt con nữa, con muốn làm gì thì làm!

Chị Ba không phản ứng gì, hình như chị đã biến thành chim, không hiểu tiếng người. Mẹ gọi chị Tư, chị Năm, chị Sáu, chị Bảy, chị Tám và cả thằng nhóc nhà Tư Mã ra sân, bảo các chị cùng gọi chị Ba. Các chị nước mắt ràn rụa, lên tiếng gọi. Chị Ba vẫn thản nhiên như không. Chị nghiêng đầu, gặm gặm vào vai như chim rỉa lông. Đầu chị quay đi, quay lại với một góc khá rộng, cổ linh hoạt như trục xoay, chị không những có thể gặm vào vai, mà có thể cúi xuống gặm hai đầu vú nho nhỏ. Tôi không nghi ngờ rằng chị có thể cúi xuống gặm mông, vào gót chân, hễ muốn là chị có thể tiếp xúc với bất cứ bộ phận nào trên cơ thể.

Trên thực tế, tôi cho rằng, khi chị Ba ngồi trên nóc nhà, chị đã nhập vào thế giới của loài chim, suy nghĩ là suy nghĩ của chim, hành vi là hành vi của chim, thái độ là thái độ của chim. Tôi cho rằng, nếu như mẹ không gọi một số người cương quyết như ông Ba Phàn, lấy máu chó đổ lên đâu chị Ba, chắc chắn chị sẽ mọc thêm đôi cánh tuyệt đẹp, biến thành một con chim đẹp, không là phượng hoàng thì là khổng tước, không là khổng tước thì là gà nấm, dù biến thành chim gì thì chị cũng cất cánh bay cao, đi tìm Hàn Chim của chị. Nhưng cuối cùng lại là một kết quả đáng hổ thẹn và đáng giận: ông Ba Phàn sai Trương Mao Lâm, một thanh niên có thân hình nhỏ bé, linh hoạt, có biệt hiệu là Lâm-khỉ, xách một thùng máu chó, bí mật trèo lên nóc nhà tiếp cận chị Ba từ phía sau rồi đổ úp lên đầu chị. Chị Ba nhảy dựng lên, giang rộng hai tay mang đầy ý niệm về bay lượn nhưng thân thể chị thì lại lăn lông lốc trên mái hiên rồi rơi xuống lối đi đầy gạch vỡ. Đầu chị thủng một lỗ to bằng hạt hạnh, máu chảy nhiều, chị ngất đi.

Mẹ vừa khóc vừa bốc một nắm tro đắp vào lỗ thủng trên đầu chị, rồi cùng với chị Tư chị Năm, rửa sạch máu chó trên người chị, khênh chị vào giường. Lúc chạng vạng tối, chị Ba tỉnh lại. Mẹ rưng rung nước mắt, hỏi:

- Lãnh Đệ, con khỏi hẳn chưa?

Chị nhìn mẹ, có vẻ như gật đầu lại hình như không phải là gật. Nước mắt chị rơi lã chã: Mẹ nói:

- Khổ thân con tôi.

Chị Ba lạnh lùng nói:

- Anh ấy bị bắt sang Nhật rồi, mười tám năm sau mới trở về. Mẹ lập bàn thờ cho con, con là Tiên Chim đấy!

Nghe chị nói vậy, mẹ như sét đánh ngang tai, lòng rối như tơ vò. Mẹ nhìn nét mặt đầy yêu khí của chị Ba, có bao nhiêu diều muốn nói, nhưng rồi mẹ lại thôi. Chỉ trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi vùng Cao Mật, từng có sáu người, toàn là nữ, vì tình duyên trắc trở, vì vợ chồng cơm chẳng lành canh chăng ngọt, đã đội bát nhang thờ thần cáo, thần chuột xù, thần rắn, thần hoan mặt rằn ri, thần đợi... sống một cuộc sống bí ẩn, người người kinh sợ. Nay một nàng Tiên Chim xuất hiện trong nhà tôi, mẹ vô cùng rầu ruột, một cảm giác nặng nề, nhưng mẹ chưa khi nào nói nửa chữ không, bởi vì cách đây mười năm đã có bài học xương máu: Cô vợ trẻ của anh chàng lái lừa Viên Kim Tiêu là Phương Kim Chi tư tình với một thanh niên kém tuổi hơn ở khu mộ địa. Người nhà họ Viên đánh chết tươi chàng thanh niên nọ, Phương Kim Chi cũng bị một trận thừa sống thiếu chết. Vừa thẹn vừa giận, cô uống thạch tín nhưng bị lộ, người ta đổ phân vào miệng để cô nôn hết ra, cô được cứu sống. Sau khi tỉnh lại, Phương Kim Chi tự xung là Nàng Tiên Cáo nhập hồn, đòi lập điện thờ. Nhà họ Viên không chịu. Từ đó nhà họ Viên thỉnh thoảng lại cháy nhà, nồi niêu xoong chảo vô cớ bị vỡ nát, cụ cố nhà họ Viên rót rượu uống thì trong be rượu chui ra một con thạch sùng, cụ bà nhà họ Viên hắt hơi văng ra hai chiếc răng cửa từ trong lỗ mũi, nhà họ Viên nấu sủi cảo, khi đổ ra là một chậu cóc chết. Họ Viên đành chịu thua, đặt thần vị Nàng Tiên Cáo, để Phương Kim Chi sống trong tĩnh thất.

Tĩnh thất của Nàng Tiên Chim đặt tại chái đông. Mẹ cùng chị Tư, chị Năm loại trừ tất cả chổi cùn rễ rách của Sa Nguyệt Lượng để lại, quét sạch mạng nhện trên tường, bụi bặm trên xà nhà, dán lại giấy cửa sổ, bày biện hương án ở góc trong phía bắc, thắp ba cây đàn hương còn thừa trên bàn thờ Quan âm Bồ Tát của bà nội. Nhưng còn Nàng Tiên Chim thì hình dáng như thế nào? Mẹ đành hỏi ý kiến của chị Ba. Mẹ quì trước mặt chị, thành tâm rất mục:

- Thưa Cô, thần tượng bày trên hương án thì thỉnh ở đâu?

Chị Ba ngồi ngay ngắn, mắt nhắm, mặt đỏ hồng, hình như đang trải qua một giấc mơ đẹp. Mẹ không dám sống sượng, hỏi lại lần nữa với thái độ chân thành. Chị Ba ngáp một cái thật dài, mắt vẫn nhắm, bằng một giọng lơ lớ nửa tiếng chim nửa tiếng người, nói:

- Ngày mai sẽ có.

Sáng hôm sau, một người ăn xin có khuôn mặt mũi quạ, mắt diều vào nhà tôi. Người ấy tay trái cầm gậy xua chó bằng trúc, tay phải cầm bát tộ mẻ hai chỗ ở miệng, mình lấm lem như từ vũng bùn chui ra hay mọi trải qua một cuộc hành trình vạn dặm ngay ở lỗ tai cũng bám đầy bụi đất. Ông ta không nói nửa câu, lừ lừ đi vào giữa nhà tự nhiên như đi vào nhà mình, mở vung, múc một bát rau dại húp sùm sụp. Ăn xong, vẫn không nói một tiếng, ông ta đưa ánh mắt sắc như dao nhìn như lột da mặt mẹ. Mẹ hơi hoảng, nhưng vẫn làm ra vẻ thản nhiên, nói:

- Thưa ông khách, nhà nghèo chẳng có gì đãi đằng, nếu ông không chê thì xin mời thứ này. Mẹ dưa cho ông một nắm rau dại, ông ta không nhận, liếm cặp môi khô nẻ, nhiều chỗ rớm máu, nói:

- Con rể nhà bà có nhờ tôi đem đến hai vật này! Nói rồi, ông ta cũng không ra ngoài. Chúng tôi nhìn manh áo mỏng rách bươm và lớp da mốc thếch, sần sùi và bẩn thỉu của ông lộ ra qua lỗ thủng trên áo, quả thực không hiểu ông cất hai vật đó ở chỗ nào. Mẹ sốt ruột hỏi:

- Con rể nào.

Mũi diều mắt quạ nói:

- Tôi cũng không rõ anh con rể nào, chỉ biết anh ta câm, biết chữ, biết sử dụng đao, cứu sống tôi một lần, tôi cũng cứu sống anh ta một lần, thế là hòa, chẳng ai nợ ai. Do vậy, trước đây hai phút, tôi còn lưỡng lự, xem có nên trả hai bửu bối cho bà không? Nếu như lúc nãy tôi tự tiện múc cháo ăn, bà tỏ ra khiếm nhã thì tôi lờ đi không trả. Nhưng bà không nói gì, lại còn cho tôi cả mớ rau dại. Tôi đành trả cho bà. Nói rồi ông ta cầm cái bát sứt đặt lên bếp, nói:
- Đây là cái bát sứ men xanh rạn vừng, nó là kỳ lân phượng hoàng trong đồ cổ, là của độc trong thiên hạ. Anh con rể bà không biết giá trị của nó. Anh ta được chia sau một trận vơ vét. Tôi lưu ý bà về giá trị của nó. Còn cái này... - Ông ta tông đầu gậy xuống đất, có tiếng kêu của vật rỗng.

- Có cần dao không? - Mẹ đưa con dao thái rau cho ông ta.

Ông ta đón lấy con dao chẻ đôi cây gậy một bức tranh cuộn tròn rơi ra, bức tranh sơn đầu. Ông ta mở bức tranh, một mùi ẩm mốc xộc lên mũi. Chúng tôi trông thấy chính giữa bức tranh bằng giấy quyến đã ngả màu vàng, vẽ một con chim lớn thì sũng người:. rất giống con chim thịt thơm phức mà có lần chị Ba đã đem về. Con chim trong tranh ngẩng cao đầu cặp mắt to vô cảm nhìn chúng tôi. Ông mũi diều mắt quạ không giải thích gì thêm về bức tranh và con chim. Ông cuộn bức tranh lại, gác nó lên miệng cái bát cổ rồi bước ra khỏi nhà, không ngoái lại. Hai tay ông đã được tự do, vung vẩy vụng về theo mỗi bước đi.

Mẹ như cây tùng, tôi như cây tầm gửi. Năm chị em như năm cây bạch hoa. Thằng nhóc nhà Tư Mã như cây tượng thu nhỏ. Chúng tôi tụm lại thành một nhóm hỗn hợp, đứng lặng trúc cái bát tộ men xanh và bức họa sơn dầu đầy bí ẩn. Nếu không có chị Ba cười khanh khách trên giường, có lẽ chúng tôi đã hóa thành cây.

Lời tiên tri của chị Ba đã ứng nghiệm. Chúng tôi kính cẩn rước chim vào tịnh thất, treo trên hương án. Cái bát cổ sứt miệng có một lai lịch không bình thường như vậy, người trần mắt thịt đâu dám dùng. Mẹ thành tâm dâng cái bát lên hương án, rót đầy nước trong để chim uống. Cái tin nhà tôi được Nàng Tiên Chim nhập vào chị Ba không cánh mà bay khắp vùng Cao Mật và còn lan xa hơn. Người ta nườm nượp đến xin thuốc, xem bói. Nàng Tiên Chim chỉ tiếp mỗi ngày mười người. Chị tự giam mình trong tịnh thất, những người đến cầu Tiên đều quì ngoài cửa sổ. Giọng nửa người nửa chim lọt qua lỗ thủng trên giấy dán cửa sổ, giúp người xem ra khỏi bến Mê, cho phương thuốc chữa bệnh. Những đơn thuốc của chị Ba, không, của Nàng Tiên Chim hết súc lạ lùng. Bài thuốc chữa đau mắt của Tiên như sau: Ong mật một con, dế mèn một cặp, bọ ngựa năm con, giun đất một con, giã nát đắp vào lòng bàn tay. Người bệnh cầm lấy mảnh giấy bay ra từ trong cửa sổ, nhìn qua, nét mặt khinh khỉnh:

- Đúng là Tiên Chim, toàn là những thức ăn của chim.

Anh ta bất mãn ra về. Chúng tôi sợ thay cho chị. Cào cào châu chấu đều là thức ăn của chim, làm sao chữa được bệnh đau mắt? Chính lúc đang nghĩ ngợi miên man như vậy, người bệnh kia chạy trở lại như bay, quì sụp trước cửa sổ, dập đầu lạy như tế sao, luôn miệng khấn:

- Xin Tiên Cô tha tội! Xin Tiên Cô tha tội!

Chị Ba trong buồng cười nhạt. Về sau tôi nghe kể lại rằng, người bệnh lắm điều đó vừa ra khỏi cổng liền bị một con diều hâu từ trên trời lao thẳng xuống đầu, chộp lấy chiếc mũ của ông ta rồi bay mất. Lại có lần một người đàn ông không đứng đắn, giả vờ bị viêm niệu đạo, quì trước cửa sổ xin thuốc. Nàng Tiên Chim hỏi vọng ra:

- Ông bệnh gì?

Anh ta nói:

- Tôi bị bí đái, cứ cương lên!

Trong buồng yên lặng, hình như Tiên Cô đã thăng vì xấu hổ. Người kia ghé mắt qua lỗ thủng, nhòm vào trong buồng. Bỗng anh ta rú lên một tiếng thê thảm: một con rết to bự rơi trúng cổ và đợp cho anh ta một miếng. Thoáng cái, cổ anh ta sưng vù lên, mặt cũng sung, híp cả hai mắt, trông chẳng khác con cá oa oa, đầu người mình cá.

Chuyện về Nàng Tiên Chim giở phép thần thông, trừng phạt bọn lưu manh, khiến những người tử tế thích thú. Tiếng lành đồn xa. Những ngày tiếp theo, những người đến xin thuốc, xem bói, đầu là người vùng xa. Mẹ hỏi thăm, được biết người thì quê Đông Hải, người quê Bắc Hải. Hỏi họ từ đâu mà biết Tiên Cô hiển linh, họ chỉ mở to mắt, không biết trả lời thế nào. Người họ toát ra mùi mặn chát, mẹ bảo đó là mùi của biển. Những người ở xa thì ngủ đêm trong sân nhà tôi, kiên trì đợi đến lượt Nàng Tiên Chim rất ngang, mỗi ngày chỉ tiếp mười bệnh nhân rồi thăng. Khi Tiên Cô đã thăng, chái đông im lìm như chết. Mẹ sai chị Tư thay chị Ba bưng nước vào rồi lại sai chị Năm đem cơm vào thay chị Tư. Cứ luân phiên như vậy khiến những người hành hương hoa cả mắt, không sao đoán nổi Tiên Cô là ai.

Sau thời gian xuất thần, chị Ba trở lại con người bình thường, nhưng cũng không ít những thái độ và cử chỉ khác người. Chị nói rất ít, mắt lim dim, thích ngồi xổm, uống nước lã, hơn nữa, mỗi lần nuốt lại vươn dài cổ ra, điển hình cho loài chim khi uống nước. Chị không ăn lương thực, quả thực chúng tôi cũng không ăn lương thục. Những người đến xin thuốc xem bói đều thuận theo tập tính của loài chim, đem đến nào là cào cào châu chấu, nào là nhộng tằm, sâu đậu, đom đóm, có người còn cung tiến hạt quả gai, quả thông, hạt hướng dương. Chị Ba ăn không hết, mẹ và các chị ăn chỗ còn lại. Các chị rất biết nhường nhịn, có khi chỉ một con nhộng mà cứ đùn đẩy cho nhau. Lượng sữa tiết của mẹ xuống tới múc thấp nhất, nhưng chất lượng sữa thì rất tốt. Trong thời gian đó, mẹ đã mấy lần định cai sữa cho tôi, nhưng tôi khóc dữ quá nên lại thôi.

Để cảm ơn chúng tôi đã cho nước sôi và giúp đỡ trong sinh hoạt, tất nhiên trước hết cảm ơn Nàng Tiên Chim đã giúp họ giải hạn, những người miền biển để lại một bao tải cá khô trước khi ra về. Chúng tôi vô cùng cảm kích, tiễn họ lên tận mặt đê, mới trông thấy trên dòng Thuồng Luồng êm ả có mấy chiếc thuyền đánh cá đang đậu cột buồm cao vút. Trong lịch sử sông Thuồng Luồng chỉ có mấy chiếc thuyền thúng bằng gỗ để dùng khi nước lũ. Nhờ Nàng Tiên Chim, sông Thuồng Luồng có quan hệ trực tiếp với những miền biển rộng lớn. Lúc này là đầu tháng Mười, từng đợt ngắn gió tây bắc thổi mạnh trên sông. Những người miền biển lên thuyền, kéo lên cánh buồm xám vá những miếng to tướng, nhích dần ra giữa dòng, bánh lái khuấy bùn **c ngầu. Từng đàn hải âu màu xám đến theo con thuyền, nay cùng đi. Chúng kêu lên những tiếng lảnh lót, lúc vọt lên cao lúc sà xuống thấp, có con còn biểu diễn bay ngửa hoặc dang cánh lượn vòng. Trong thôn có nhiều người lên mặt đê. Họ lên xem những con thuyền, vô hình trung trở thành những người đưa tiễn. Những cánh buồm căng gió, mái chèo mềm mại, con thuyền xa dần. Họ từ sông Thuồng Luồng rẽ sang sông đào, từ sông đào chuyển sang sông Bạch Mã, từ Bạch Mã ra Bột Hải. Toàn bộ hành trình là hai mươi mốt ngày. Những kiến thức về địa lý này là do Hàn Chim bảo tôi mười tám năm sau. Những người khách phương xa tìm đến vùng Cao Mật, có phần giống như chuyện Trịnh Hòa, Từ Phúc được tái diễn, là trang sử vẻ vang của vùng Cao Mật. Mà tất cả những cái đó là do Nàng Tiên Chim của nhà Thượng Quan mà có. Niềm vinh quang làm vợi nỗi buồn của mẹ, có thể mẹ còn mong xuất hiện Nàng Tiên Thú, Nàng Tiên Cá trong nhà, mà cũng có thể chẳng bao giờ mẹ muốn như thế.

Sau khi những người ngư dân ra đi, lại có một vị khách sang đến. Bà ta đi một chiếc xe du lịch đen bóng, đứng trên bậc lên xuống ở hai bên thành xe là hai đại hán tay cầm súng tiểu liên. Bụi tung mù mịt trên đường làng chào đón khách quí. Khổ thân cho hai đại hán, người bám đầy bụi như con lừa tắm khan ở bãi đất. Chiếc xe dùng lại trước cổng nhà tôi, vệ sĩ mở cửa xe. Một cái đầu đầy trâm ngọc chui ra trước rồi đến cái cổ, rồi một cơ thể béo tốt. Người phụ nữ này từ vóc dáng đến tinh thần, chẳng khác một con ngỗng cái tắm rửa sạch sẽ. Nghiêm chỉnh mà nói, ngỗng cũng thuộc loài chim.

Mặc dù thân thế khác người, nhưng khi gặp Nàng Tiên Chim, bà ta tỏ ra vô cùng cung kính. Tiên Cô chưa bói đã biết, nhìn thấu mọi sự, trước mặt Cô không được giả dối và kiêu ngạo. Bà quì trước cửa sổ, nhắm mắt, lẩm bẩm khấn. Khuôn mặt bà tươi như hoa, không phải người có bệnh, trên người đầy vàng ngọc, không phải đến cầu tài. Loại người như vậy đến cầu gì ở Tiên Cô? Một lát sau, từ lỗ hổng trên cửa sổ bay ra một mảnh giấy trắng. Người đàn bà cầm lên xem, mặt đỏ như mào gà trống. Bà ta để lại vài đồng rồi đi thẳng. Nàng Tiên Chim viết gì trên mảnh giấy? Chỉ có Tiên Cô và người đàn bà kia biết. Những ngày ngựa xe nườm nượp qua đi rất nhanh, bao tải cá khô cũng đã ăn hết. Một mùa đông lạnh giá bắt đầu. Sữa mẹ toàn một vị rễ cỏ và vỏ cây. Ngày mồng Bảy tháng Chạp, nghe tin giáo phái Thần Chiêu hội thuộc Cơ Đốc giáo trên huyện sẽ phát chẩn vào ngày mồng Tám tháng Chạp tại nhà thờ lớn Quan Bắc, mẹ cùng chúng tôi đem theo bát đũa, nhập vào đoàn người đói khát, đi suốt đêm về hướng huyện thành. ở nhà chỉ còn hai người: chị Ba và bà nội, vì một người nửa Người nửa Tiên, còn một người nửa Người nửa Quỉ, nhịn đói nhịn khát giỏi hơn chúng tôi. Mẹ quẳng cho bà nội một bó cỏ khô, nói:

- Mẹ ơi, nếu chết được thì mẹ chết nhanh đi, mẹ chịu cực cùng chúng con làm gì!

Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi trên con đường dẫn tới huyện lỵ. Cái gọi là con đường chỉ là một lối mòn màu xám được tạo nên bởi những vết chân người và súc vật, không hiểu người đàn bà sang trọng kia cho xe chạy bằng cách nào?. Chúng tôi đi dưới trời sao lạnh. Tôi đứng trong túi trên lưng mẹ, thằng nhóc nhà Tư Mã trên lưng chị Tư, chị Năm cõng chị Tám, chị Sáu chị Bảy tự đi. Vào lúc nửa đêm, trên cánh đồng hoang dã, tiếng trẻ khóc liên miên không dứt. Chị Bảy chị Tám và thằng nhóc nhà Tư Mã cũng khóc. Mẹ lớn tiếng mắng các chị. Nhưng mẹ cũng lại khóc, chị Tư chị Năm chị Sáu đều khóc hết. Các chị loạng choạng gục xuống, mẹ dựng ngược chị này dậy thì chi khác lại gục xuống, kéo được chị kia dậy thì chị này lai đổ xuống. Về sau, mẹ cũng ngồi bệt trên mặt đất băng giá. Chúng tôi chụm lại một chỗ sưởi ám cho nhau. Mẹ xoay tôi ra phía ngực, dùng ngón tay tê cóng quệt mũi cho tôi. Chắc mẹ nghĩ tôi đã bị chết cóng. Tôi dùng hơi thở thoi thóp để báo cho mẹ biết là tôi vẫn còn sống. Mẹ nâng mảnh vải che, nhét đầu vú lạnh như băng vào miệng tôi, tôi tưởng như cục băng đang tan, miệng tôi mất hết cảm giác. Trong bầu vú của mẹ không có gì, tôi cố mút cũng chỉ rỉ ra một chất mảnh như tơ nhện. Rét ơi là rét! Trong giá lạnh, những con người đói khát tưởng tượng ra bao cảnh hấp dẫn: Lửa rừng rực trong lò, gà vịt trong nồi bốc hơi nghi ngút, từng mâm bánh bao, lại còn hoa tươi, lại còn cỏ xanh mượt. Trước mắt tôi lại toàn là những bầu vú đầy nhựa sống như trái hồ lô, tròn trịa như chim bồ câu bé nhỏ, nhẵn nhụi bóng bẩy như bình sứ. Mùi thơm của chúng, vẻ đẹp của chúng, nước cam lồ mà chúng tự động tiết ra rót đầy bụng tôi, thấm đẫm toàn thân tôi, tôi ôm lấy bầu vú, tôi bơi trong dòng sữa... Trên đầu, hàng tỉ tỉ ngôi sao đang xoay vần, xoay mãi, xoay tròn thành những bầu vú Bầu vú Thiên Lang, bầu vú Bắc Đẩu, bầu vú Người Đi Săn, bầu vú Chức Nữ, bầu vú Ngưu Lang, báu vú của Hằng Nga trong vầng trăng, bầu vú của mẹ... Tôi nhả vú mẹ ra, nhìn thấy phía trước không xa, một người giơ ngọn được bằng da dê rách bó lại, nhảy như ngựa đến chỗ chúng tôi. Đó là ông Ba Phàn. Ông cởi trần, hét to, giọng khản đặc, trong mùi khét tức thở của da dê, dưới ánh sáng của ngọn được:

- Bà con ơi, đừng ngồi xuống... Đừng ngồi xuống? Ngồi xuống là chết cóng... Đứng dậy cả đi bà con ơi! Đi tiếp đi, bà con ơi!... Đi tiếp là sống, ngồi lại là chết!...

Lời kêu gọi cảm động của ông Ba Phàn khiến nhiều người cố thoát khỏi sự ấm áp giả tạo dẫn đến tử vong, trở lại cái rét khắc nghiệt nhưng là để sống. Mẹ đứng lên, xoay tôi ra sau lưng, ôm thằng nhỏ đáng thương nhà Tư Mã trước ngực, dắt tay chị Tám, rồi như một con ngựa điên, mẹ đá lia lịa vào chị Tư chị Năm chị Sáu chí Bảy, bắt các chị đứng lên. Chúng tôi đi theo ông Ba Phàn; người đã dùng trái tim mình làm ngọn được soi đường, không phải đi bằng chân, mà là bằng ý thúc, bằng tấm lòng, nhằm hướng huyện lỵ, nhằm nhà thờ lớn Bác Quan, hướng về Âm trạch của Thượng đế, hướng về bát cháo bố thí, đi tới.

Trong cuộc hành trình bi tráng đó, để lại dọc đường mấy chục xác chết, có xác vén áo lên, khuôn mặt ngời ngời hạnh phúc như được ngọn lửa sưởi ấm ***g ngực. Ông Ba Phàn chết giữa lúc vừng hồng vừa ló lên. Chúng tôi được ăn cháo bố thí của Thượng đế. Tôi được ăn qua bầu vú mẹ. Suốt đời tôi không thể quên cảnh húp cháo. Nhà thờ cao to sừng sũng. Lũ quạ đậu trên cây thánh giá. Xe lửa thở phì phò trên đường sắt. Hai cái chảo lớn có thể luộc cả con trâu, bốc hơi nghi ngút. Ông mục sư mặc áo chùng đen đứng bên cầu nguyện. Vài trăm người đói xếp hàng. Người hội viên hội Thần chiêu dùng cái muỗng có cán dài chia cháo, mỗi người một muỗng không kể bát lớn bát bé. Tiếng húp cháo soạn soạt, mùi cháo thơm phức. Bao nhiêu giọt nước mắt rơi xuống bát cháo. Hàng trăm cái lưỡi liếm sạch cháo trong bát. Húp xong một bát lại xếp hàng. Vài bao gạo, vài thùng nước lại đổ vào chảo. Lúc này, qua sữa mẹ, tôi biết rằng, bát cháo từ bi này được nấu bằng gạo tâms, cao lương mốc, đậu ủng và lúa mạch còn nguyên cả trấu.

6.



Sau khi ăn cháo trên huyện, trên đường trở về cái đói càng dữ dội. Người ta không còn sức để chôn những xác chết trên đường, thậm chí không còn tâm trạng nhìn mặt người chết chỉ mỗi xác ông Ba Phàn là ngoại lệ. Trong giờ phút nguy ngập, con người không được người ta ưa lắm này cởi phăng áo da dê làm thành bó đuốc, dùng ánh lửa và lời lẽ thức tỉnh lý trí của chúng tôi. Không thể quên cái ơn cứu mạng. Mẹ dẫn đầu, mọi người kéo cái xác gầy như que củi xuống vệ đường. Nấm mồ được đắp bằng đất vụn.

Về đến nhà, phát hiện đầu tiên của chúng tôi là chị Ba ôm một cái bọc mà vỏ ngoài là cái áo da báo, đi đi lại lại trong sân. Mẹ vịn mép cổng, gần như khuỵu xuống.

Chị Ba bước tới dưa cái bọc cho mẹ. Mẹ hỏi:

- Bọc gì đây? Chị nói bằng tiếng người tương đối chuẩn:

- Cháu bé.

Mẹ ra vẻ hiểu nhưng vẫn hỏi:

- Con ai?

Chị Ba nói:

- Còn ai vào đây nữa!

Chiếc áo da báo của Lai Đệ chỉ có thể bọc con của Lai Đệ

Đó là một đứa con gái đen như một cục than, hai con mắt phảng phất mắt gà chọi, cặp môi mỏng dính, hai vành tai to và trắng, rất không hòa hợp với da mặt. Đặc trưng này xác nhận không thể chối cãi nguồn gốc con bé. Nó là con của Sa Nguyệt Lượng với chị Cả, đứa cháu ngoại đầu tiên của gia đình tôi.
Mẹ tỏ ra ghét cay ghét đắng con bé. Nó, trái lại, mỉm cười như con mèo con, đáp lại thái độ của mẹ. Mẹ tức điên lên, quên cả chị Ba có phép thần thông, đạp cho chị Ba một cái vào chân.

Chị Ba ối lên một tiếng ngã chúi về phía trước. Khi chị ngoảnh lại, trên mặt lộ rõ sự tức giận của loài chim. Chị dẩu mỏ ra như sắp mổ, hai tay giơ cao như sắp sửa bay lên. Mẹ không đếm xỉa đến chị là người hay chim, chửi:

- Đồ khốn, ai cho mày nhận con của nó?

Chị Ba ngọ ngoạy đầu, như tìm kiếm sâu bọ trên cây ngô đồng. Mẹ lại chửi:

- Lai Đệ, mày là đồ thối thây không biết xấu hổ! Sa Hòa thượng, mi là đồ thổ phỉ lòng lang dạ sói? Chúng mày chỉ biết đẻ mà không nuôi! Chúng mày tưởng cứ quẳng cho ta là ta nuôi hộ? Có mà nằm mơ? Ta thì quẳng cái đồ con hoang này xuống sông cho ba ba nó ăn, ném ra đường cho chó nó xé xác, quẳng xuống đầm cho quạ nó rỉa. Hãy đợi đấy.

Mẹ bế con bé, miệng cứ lặp đi lặp lại cho ba ba ăn, cho chó xé xác, cho quạ na, vừa chạy như bay trong ngõ, chạy lên đê rồi chạy trở lại đường phố, từ đồng phố chạy trở lại đê... càng chạy càng chậm dần, tiếng gào ngày càng nhỏ như một chiếc máy kéo đã cạn đầu, mẹ ngồi phịch xuống đất, chỗ mục sư Malôa từ gác chuông rơi xuống. Mẹ ngước nhìn gác chuông, miệng lẩm bẩm:

- Người thì chết, người bỏ đi, để tôi chơ vơ một mình, tôi sẽ sống như thế nào, cả một lũ đang há miệng chờ ăn? Chúa ơi, ông trời ơi, xin hãy cho tôi biết, tôi sẽ sống như thế nào?

Tôi khóc, nước mắt rơi trên gáy mẹ. Con bé cũng khóc, nước mắt chảy vào tai. Mẹ dỗ tôi:

- Kim Đồng, con là hòn máu của mẹ, nín đi con.

Mẹ dỗ con bé:

- Tội nghiệp cháu, lẽ ra cháu không nên sinh ra ở đời này! Sữa của ngoại chỉ vừa đủ cho cậu của cháu. Thêm một nữa, cả hai đều chết đói. Không phải ngoại nhẫn tâm mà vì ngoại không còn cách nào khác...

Mẹ bỏ lại con bé bọc trong chiếc áo da báo ở cổng nhà thờ, rồi chạy về nhà như bị ma đuổi. Nhưng chỉ chạy được hơn chục buộc, chân mẹ đã cất không nổi nữa. Con bé khóc như lợn bị chọc tiết, tiếng khóc như sợi dây vô hình giữ chân mẹ lại...

Ba hôm sau, cả nhà tôi gồm chín người xuất hiện ở Chợ Người trong khu vực Chợ Lớn trên huyện. Mẹ địu tôi trên lưng, tay bế con súc sình nhà họ Sa, chị Tư cõng thằng lưu manh nhà họ Tư Mã. Chị Năm cõng chị Tám. Chị Sáu chị Bảy tự đi lấy.

Chúng tôi bới đống rác kiếm ít lá rau thừa để ăn, cố gắng đi cho đến Chợ Người. Mẹ cắm cây cao lương trên gáy chị Năm, chị Sáu, chị Bảy, đợi người đến mua. Trước mặt chúng tôi là những dãy nhà đơn giản bằng gỗ ván, tường và mái quét vôi trắng. Khói bốc cuồn cuộn từ ống khói nhô ra ở đầu thang. Làn khói bay lên không trung thay hình đổi dạng trước làn gió. Chốc chốc lại có những cô gái làm tiền, tóc xõa, hở ngực, môi đỏ chót, mắt ngái ngủ từ trong căn nhà gỗ chạy ra, hoặc bê chậu hoặc xách thùng, đến lấy nước ở giếng lộ thiên, trên giếng đặt ròng rọc, hơi nước nhẹ nhàng bốc lên. Họ kéo ròng rọc bằng hai cánh tay ẻo lả trắng nhợt. Sợi thừng miết trên con lăn rít lên khe khẽ. Khi chiếc thùng thô và nặng lên đến miệng giếng, họ dùng chân đi guốc móc lấy quai thùng rê ngang đặt lên tang giếng lổn nhổn những cục băng có hình bánh bao hoặc bầu vú. Đám phụ nữ bê nước chạy ra chạy vào, tiếng guốc cốp cốp ròn rã: Những bầu vú tỏa ra mùi khét của lưu huỳnh. Qua vai mẹ, tôi nhìn từ xa những người đàn bà kỳ quái đó, nhốn nháo những vú là vú như hoa thuốc phiện trên nương, như đàn bướm trong thung lũng. Họ rất hấp dẫn chị tôi. Tôi nghe chị Tư khẽ hỏi mẹ, nhưng mẹ không trả lời. Chúng tôi đứng trước bức tường cao, dầy và dài. Nó chắn gió tây bắc, chúng tôi cảm thấy dễ chịu. Mặt trời đỏ rực nhô khỏi đường chân trời màu xám nhạt khiến tôi nghĩ tới hình ảnh lá cờ đang bay trên mặt thành. Bên trái bên phải chúng tôi, một số người mặt xanh nanh vàng, đói khát như chúng tôi, đứng co ro, đàn ông và đàn bà, phụ nữ và trẻ con, có đủ. Đàn ông nhăn nheo như cây khô, quá nửa là bị mù, không mù thì toét mắt. Người nào cũng có một đứa nhỏ đứng bên cạnh, hoặc con gái hoặc con trai, thật ra rất khó phân biệt trai hay gái. Chúng đen nhẻm như từ ống khói chui ra, đen như một cục than. Sau gáy đứa nào cũng cắm một nhánh cỏ, phần lớn là cây cao lương với những lá khô vàng khiến người ta nghĩ đến mùa thu, nghĩ đến mùi rơm rạ ngựa nhai trong đêm tối, nghĩ đến tiếng động khiến người và ngựa đều vui thích. Cũng có trường hợp cắm đại một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó, cỏ đuôi lừa: Phụ nữ thì quá nửa như mẹ, con cái vây xung quanh, nhưng không nhiều con như mẹ. Những nhóm trẻ ấy, có nhóm tất cả đều cắm cỏ sau gáy, có nhóm đứa cắm đứa không. Phía trên đầu đám trẻ là những cái đầu nặng nề của những con ngựa to lớn, những con lừa đại, với cặp mắt như những quả lục lạc cặp môi dày dâm đãng mọc tua tủa những lông cứng, hàm rằng đều và khỏe lấp lóa giữa đôi môi, cũng cắm đại lên đầu một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó hoặc đuôi lừa. Chỉ riêng một phụ nữ thì khác. Chị này mặc bộ đồ trắng, sợi dây buộc tóc cũng trắng, mặt trắng nhọt, hốc mắt và môi tím tái. Chị không có trẻ con đứng bên cạnh. Chị đứng một mình dưới chân tường. Chị cầm trên tay - không phải, cài sau gáy - một nhánh cỏ đuôi chó hoàn chỉnh còn nguyên cả lá, tuy lá đã khô, nhưng đó là một nhánh cỏ đẹp, phát dục đầy đủ, lá còn giữ được màu xanh, tuy là xanh héo nhưng vẫn còn sức sống: chùm lông phất phơ mềm mại, vàng rực lên dưới nắng. Rất lâu, ánh mắt tôi như bị hút chặt vào bông cỏ đuôi chó, trái tim tôi như chìm trong cái đẹp thê thảm của bông cỏ đuổi chó, vì rằng tôi trông thấy những núm vú tí xíu trên thân và giữa những kẽ lá của bông có đuôi chó.

Phía dãy nhà quét vôi trắng nhốn nháo, tiếng chửi the thé chói tai, như lưỡi dao rạch vào không khí. Hai cô gái đang ẩu đả ở chỗ giếng nước. Một cô mặc quần màu hồng, một cô mặc quần màu xanh. Cô quần hồng cào vào mặt cô quần xanh. Cô quần xanh thụi cho cô quần hồng một quả vào ngực. Rồi, cả hai đều lùi lại nhìn nhau trong một phút. Tuy không nhìn thấy, nhưng tôi đoán được ánh mắt hai người như thế nào, chắc rất giống cái nhìn của chị cả Lai Đệ và chị hai Chiêu Đệ. Bỗng cả hai xông vào nhau như gà chọi, những thân hình nhấp nhô như chó chạy trong ruộng lúa mạch, tay vung, vú lắc, nước bọt bắn tung tóe, lấp loáng như những con thiêu thân dưới ánh đèn. Cô quần hồng túm được tóc cô quần xanh. Cô quần xanh theo đà ngoạm một miếng vào vai trái cô quần hồng, cô quần hồng cũng ngoạm luôn một miếng vào vai trái cô quần xanh. Hai bên đồng cân đồng lạng, tài sức ngang nhau, quần nhau bên giếng nước. Những cô khác, người thì tựa cửa hút thuốc, người đánh răng súc miệng nhổ bọt phì phì, người lại vỗ tay cười ngặt nghẽo, người phơi tất mỏng dính trên dây thép. Trên phiến đá hình tròn trước dãy nhà, một người đứng thẳng đuỗn, chân đi ủng đen bóng lộn, tay cầm roi mây, vụt trái đánh vút một cái, vụt phải đánh vút một cái. Hắn dùng roi thay đao để luyện đao thuật. Một đám đàn ông từ một rừng cờ phía tây nam đi tới, những người bụng lép vây quanh vài người thấp lùn bụng phệ, nung núc những mỡ. Người bụng phệ cười khùng khục như gà cục tác Tiếng cười quái gở đó cứ ám ảnh tôi, khiến tôi nhớ lại quang cảnh bên giếng nước. Những người bụng phệ cùng đám tùy tùng tiến đến ngôi nhà gỗ ván, tiếng cục tác nghe càng rõ. Người đang luyện đao thuật trên phiến đá nhảy vội xuống, lỉnh vào trong nhà. Một mụ béo lùn tịt lạch bạch chạy ra chỗ giếng nước, bàn chân nhỏ đến nỗi gần như không có, bắp chân cắm thẳng xuống đất. Qua hai cánh tay ngắn ngủn và mập như ngó sen vung vấy, có thể kết luận mụ đang chạy gằn, tốc độ thì như thế nhưng quãng đường đi thì không được bao nhiêu. Có bao nhiêu sức đều dồn cho những cái lắc của cơ thể và co rút của bắp thịt. Khoảng cách chừng một trăm thước, có lẽ hơn, chúng tôi đã nghe rõ tiếng thở của mụ, hơi nước thở ra trùm lên người giống như mụ đang ở trong nhà tắm. Cuối cùng thì mụ cũng đã tới giếng nước.

Tiếng chửi của mụ bị hơi thở làm đứt quãng, không rõ ý, chỉ nghe câu được câu chăng. Chúng tôi đoán mụ là chủ của hai cô đang đánh nhau, mụ đến để gỡ hai cô ra. Nhưng hai cô quyết không nhả miếng cắn, cuộc đấu của diều hâu với chim ưng, vuốt quặp lấy vuốt, khó mà gỡ. Họ đẩy nhau kẻ tiến người lui, kẻ lui người tiến, mấy bận suýt lăn xuống giếng nhưng không lăn vì vướng cái khung treo ròng rọc. Mụ béo đến gỡ họ ra cũng suýt bị rơi xuống giếng, sở dĩ không rơi cũng là nhờ cái khung ròng rọc giữ lại. Mụ nằm sấp trên cái khung, tìm cách đặt chân xuống đất. Chúng tôi trông thấy mụ bị trẹo chân khi nhảy ra dẫm phải cục băng tròn như cái bánh bao, ngã ngồi xuống đất, nghe thấy tiếng nheo nhéo từ miệng mụ phát ra. Chẳng lẽ mụ khóc? Mụ đứng dậy bê lấy chậu nước hắt lên người hai cô kia. Hai cô giật mình la lên rồi buông nhau ra. Cả hai đầu tóc rối bù, cả hai mặt mày xây xước, cả hai quần áo rách toạc, cả hai đều bị thương lốm đốm ở bầu vú. Người nọ nhổ máu của người kia ra, cơn giận vẫn chưa nguôi. Mụ béo lại bê chậu nước khác hắt lên người họ, làn nước uốn mình trong không trung như cánh chim, trong suốt. Mụ mất đà, ngã lần nữa, chiếc chậu sành văng đi, suýt rơi trúng đẩu những người đàn ông bụng phệ. Họ rất quen nhau, đùa bỡn chọc ghẹo sờ soạng cấu véo, cuối cùng cả hai vào trong căn nhà gỗ.

Tôi nghe thấy xung quanh thở dài, mới biết họ đều xem màn kịch bên giếng nước.

Giữa trưa, một cỗ xe ngựa từ hướng đông nam theo đường cái quan đi tới. Ngựa là ngựa trắng, ngẩng cao đầu, một lọn bờm màu bạc rủ trước trán, đôi mắt hiền lành, mũi màu phấn hồng môi đỏ tía, cổ đeo nhạc đồng. Vì vậy khi con ngựa kéo cỗ xe rẽ xuống đường cái quan, chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc ngựa kêu ròn tan. Chúng tôi trông thấy cọc yên - ở đây phải gọi là mỏm yên, dưới cao lên rất quí phái. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cái yên đẹp như thế. Dóng xe cũng không phải thanh dóng bình thường, mà là bọc đồng sáng loáng. Bánh xe cao cao, trục xe mạ kền, mui xe bằng vải trắng sơn nhiều lớp đầu ngô đồng. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cỗ xe sang trọng đến như vậy và nghĩ rằng, nguôi ngồi trên cỗ xe này còn sang trọng hơn người đàn bà ngồi xe du lịch đến gặp Nàng Tiên Chim. Chúng tôi cho rằng người ngồi bên ngoài mui có hàng ria vênh trên môi cũng không phải con người bình thường. Hắn vênh mặt lên, cặp mắt tóe lửa. Hắn thâm trầm hơn Sa Nguyệt Lượng, nghiêm túc hơn Tư Mã Khố, có lẽ Hàn Chim ăn mặc quần áo như hắn mới so được với hắn.

Xe từ từ dừng lại. Bà ta khoác áo lông điêu màu mận chín, cổ quàng khăn lông chồn. Tôi rất mong bà ta chính là Chị cả Lai Đệ. Nhưng bà ta không phải chị Lai Đệ. Đây là một phụ nữ nước ngoài, mũi cao, mắt xanh, tóc bạch kim. Tuổi ư? Chỉ có cha mẹ bà ta mới biết bà ta bao nhiêu tuổi! Xuống xe cùng với bà ta, là một thanh niên tuấn tú, mặc bộ đồng phục học sinh màu xanh, áo khoác bên ngoài cũng màu xanh, tóc đen như mun. Nhìn phong thái anh ta có vẻ là con trai bà kia, nhưng về dung mạo thì anh ta chẳng giống chút nào.
Những người xung quanh chúng tôi tranh nhau ùa tới, làm như định giành lấy bà ngoại quốc, nhưng chưa tới gần họ đã dừng lại, vẻ ngần ngại. Thưa bà, thưa quí bà, bà mua đứa cháu của tôi! Thưa bà, thưa bà lớn, xin bà hãy nhìn thằng con tôi, nó trung thành hơn con chó, việc gì cũng làm được... Đàn ông và đàn bà rụt rè rao bán con cái với người đàn bà ngoại quốc. Riêng mẹ vẫn đứng yên tại chỗ. Mắt mẹ như dại đi, nhìn chăm chằm chiếc áo lông điêu và chiếc khăn quàng lông cáo. Rõ ràng mẹ đang nhớ chị Lai Đệ. Mẹ đang bế đứa con gái của chị, trong lòng ngổn ngang, nước mắt lã chã. Bà đầm quí phái dùng khăn tay nửa che nửa bịt miệng, đi một vòng chợ người, người bà sực núc mùi nước hoa, khiến tôi và thằng lỏi nhà Tư Mã hắt hơi liên tục. Bà ta ngồi xổm trước ông lão mù, ngắm nghía con nhỏ cháu lão. Nó nhiều nhất cũng chỉ lên bốn. Nó khiếp đảm vì con cáo trên cổ bà ta, hai tay ôm chặt chân ông lão. Cặp mắt hốt hoảng của con bé khiến tôi nhớ mãi. Ông lão mù đã đánh hơi thấy quí nhân, giơ tay ra phía trước, nói:

- Thưa bà, thưa bà, xin bà hãy cứu cháu, ở với lão thì nó chết mất, thưa bà, lão một xu cũng không lấy, thưa bà...

Bà đầm đứng dậy, xì xô câu gì đó với người thanh niên mặc đồng phục học sinh, anh ta cao giọng hỏi ông lão:

- Lão là thế nào với con bé?

Ông già mù nói:

- Lão là ông nó, người ông vô dụng, người ông chết tiệt!...

Người thanh niên lại hỏi:

- Cha mẹ nó đâu?

Ông lão mù nói:

- Chết rồi, chết cả rồi. Người đáng chết thì chẳng chết, người không đáng chết thì lại chết, thưa ông, xin ông làm ơn đem cháu đi, lão không lấy xu nào đâu, chỉ xin ông cho cháu con đường sống!...

Người thanh niên quay sang xì xồ với bà đầm, bà đầm gật đầu, người thanh niên cúi xuống định kéo tay con bé, nhưng khi bàn tay vừa chạm vai thì con bé cắn ngay một miếng vào cổ tay anh ta. Anh ta rú lên, nhảy lùi lại. Bà đầm trọn mắt nhún vai, rồi dùng chiếc khăn tay bịt miệng, băng cổ tay cho anh ta.
Với tâm trạng không rõ là sợ hay là mừng, chúng tôi chờ như đến một nghìn năm, bà ngoại quốc vàng ngọc đầy người, nước hoa điếc mũi cùng với người thanh mến bị thương ở cổ tay, rốt cuộc đã dừng trước gia đình tôi. Và, sau lưng chúng tôi, ông lão mù đang vung gậy trúc đánh đứa cháu gái cắn nó. Con bé nhanh nhẹn chơi trò ú tim với ông nó, khiến cây gậy lúc thì vụt xuống đất, lúc vụt vào tường.

- Mi là cái số ăn mày! - Ông lão mù than thở.

Tôi hít lấy hít để mùi nước hoa, từ mùi hoa hòe nhận ra mùi hoa hồng, rồi từ mùi hoa hồng nhận ra mùi thoang thoảng của hoa cúc. Nhưng làm tôi mê mẩn chính là mùi tỏa ra từ cặp vú của bà ta, cái mùi hăng hăng khiến tôi lợm giọng, nhưng tôi vẫn hếch mũi hít lấy hít để. Không còn khăn tay, miệng bà lộ rõ hoàn toàn, một cái miệng rộng như của chị Lai Đệ, với đôi môi mọng như của chị Lai Đệ. Môi to son, mũi có những điểm tương đồng như mũi của các con gái nhà Thượng Quan: mũi dọc dừa. Chỗ không giống nhau là chóp mũi con gái nhà Thượng Quan có hình củ hành, ngây thơ mà dáng yêu, còn chóp mũi của người đàn bà ngoại quốc này thì khoằm xuống như mỏ diều, một loài chim ăn thịt. Trán ngắn, mỗi khi nhường mắt lên, trên trán hằn sâu những nếp nhăn. Tôi biết mọi người đang chăm chú nhìn người đàn bà ngoại quốc, nhưng tôi có thể tự hào mà nói rằng, không ai quan sát tinh tế hơn tôi, không ai thu hoạch nhiều hơn tôi. ánh mắt tôi xuyên qua lớp lông dày trên cơ thể bà ta, nhìn thấy cặp vú to bằng vú mẹ tôi mà vẻ đẹp của chúng khiến tôi quên cả đói rét.

- Vì sao bà phải bán con? - Người thanh niên giơ cánh tay quấn băng, chỉ vào các chị của tôi có cài cọng cỏ sau gáy

Mẹ không trả lời câu hỏi của anh ta. Chẳng lẽ trả lời một câu hỏi ngu xuẩn như vậy. Anh ta ngoảnh lại xì xồ với người đàn bà ngoại quốc, có thể là bà chủ cũng có thể là không của anh ta. Bà ta chú ý ngay chiếc áo lông điêu ủ cho con gái Lai Đệ. Bà ta sờ mặt áo, bắt gặp cặp mắt man dại và u sầu của con bé, bà ta vội quay đi.

Tôi rất muốn mẹ cho bà ta đứa con gái của Lai Đệ.

Chúng tôi cũng không lấy một xu, còn tặng thêm bà ta chiếc áo lông điêu. Tôi ghét con bé. Nó không có lý gì để ăn chia sữa mẹ với tôi. Ngay cả chị Tám cũng không đủ tư cách ăn chia, huống hồ nó! Hai bầu vú của chị Lai Đệ để làm gì? Sa Nguyệt Lương nhả đầu vú chị Lai Đệ, nhố máu cục ra, súc miệng bằng nước lã. Anh ta nói:

- Phải vậy thôi! Em bị chốc vú!

Chị Lai Đệ nước mắt ràn rụa, hỏi:

- Anh Lượng, chúng mình như con thỏ bị chó săn dồn đuổi, bao giờ mới kết thúc những chuyện này?

Sa Nguyệt Lượng ngồi hút thuốc, suy nghĩ rất lung nét mặt trở nên hung hãn, nói:

- Mẹ kiếp, ai có sữa người ấy là mẹ. Hãy chạy theo Nhật, hay thì ở dở thì xéo!

Bà ngoại quốc ngắm nghía các chị tôi một lượt, đầu tiên là chị Năm, chị Sáu, vì sau gáy có cắm cỏ, sau đó xem chị Tư, chị Bảy, chị Tám không có cỏ sau gáy, không thèm ngó thằng mất dạy nhà Tư Mã. Hình như bà có vẻ thích tôi. Tôi cho rằng ưu thế của tôi là cái đầu tóc vàng mềm mại. Cách thức xem xét của họ cũng rất lạ. Người thanh niên ra lệnh cho các chị tôi lần lượt thực hiện các động tác sau: cúi đầu, cúi gập người, hất chân, tay nọ nắm tay kia rồi giơ cao quá đầu, dưa hai vai ra trúc, ra sau, há to miệng kêu a...a..., cười một tiếng, đi vài bước, chạy vài bước. Các chị ngoan ngoãn thực hiện mệnh lệnh của anh ta. Bà ngoại quốc nhìn chăm chú, lúc gật gật, lúc lại lắc đầu. Cuối cùng bà chỉ vào chị Bảy, xì xồ với người thanh niên.

Người thanh niên chỉ vào bà ngoại quốc, bảo mẹ:

- Đây là bá tước phu nhân Roxtov, bà là một nhà từ thiện lớn. Bà muốn nhận một bé gái Trung Quốc làm con nuôi. Ưng đứa này, phúc cho gia đình bác!
Mẹ bỗng ứa nước mắt, chuyển con bé của Lai Đệ cho chị Tư, đang tay ôm lấy đầu chị Bảy:

- Bảy ơi, Cầu Đệ ơi, con yêu của mẹ, con gặp may rồi!

Nước mắt mẹ tôi như mưa xuống đầu chị Bảy. Chị sụt sịt khóc:

- Mẹ ơi, con không đi với bà đâu, người bà ấy khó ngửi lắm...

Mẹ nói:

- Con ngốc nghếch của mẹ, người ta thơm đấy con ạ!

Người thanh niên sốt ruột, nói:

- Thôi bác bàn chuyện giá cả đi!

Mẹ nói:

- Thưa ông, được làm con nuôi của bà đây thì chuột sa chĩnh gạo, tôi không lấy tiền đâu... Chỉ xin đối xử tốt với cháu!

Anh thanh niên dịch lại cho bà ngoại quốc nghe, bà ngọng nghịu nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Không, vẫn cứ cho tiền.

Mẹ hỏi: - Thưa ông, ông hỏi bà phu nhân xem có thể nhận một đứa nữa không? Cho chúng có chị có em!

Người thanh niên dịch lại. Phu nhân Roxtov dứt khoát lắc đầu.

Người thanh niêndúi vào tay mẹ hơn chục tờ tiền giấy màu phấn hồng, rồi vẫy vẫy người đánh xe. Người đánh xe chạy tới, cúi chào anh thanh niên.

Người đánh xe bế chị Bảy ra xa. Lúc này chị mới khóc òa lên và giơ cánh tay khẳng khiu về phía mẹ. Các chị khóc òa theo, ngay cả thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng nhếch miệng òa lên một tiếng, lát sau lại òa tiếng nữa. Người đánh xe đùn chị Bảy vào trong xe. Bà ngoại quốc cũng vào theo, lúc người thanh niên sắp lên xe, mẹ đuổi kịp, kéo tay anh ta, hỏi:

- Thưa ông, phu nhân ở đâu?

Anh ta trả lời lạnh nhạt:

- Cáp Nhĩ Tân.

Xe chạy lên đường cái quan, mất hút rất nhanh sau khu rừng. Nhưng tiếng gào khóc của chị Bảy, tiếng leng keng của nhạc ngựa, mùi hương trên vú của Bá tước phu nhân đọng mãi trong ký ức tôi.

Mẹ đã biến thành tượng đất, tay vẫn giơ cao nắm tiền, tôi cũng biến thành một bộ phận của tượng.

Đêm ấy chúng tôi không ngủ ngoài đường mà trọ trong một quán trọ. Mẹ sai chị Tư chạy đi mua hơn chục cái bánh mì. Chị lại mua về bốn mươi cái bánh bao, một gói thịt thủ lợn. Mẹ giận, nói:

- Con Tư, đây là tiền bán em mày đấy!

Chị Tư vừa khóc vừa nói:

- Mẹ, để các em ăn một bữa cho no, mẹ cũng phải ăn một bữa ho.

Mẹ vừa khóc vừa nói:

- Tưởng Đệ, mẹ làm sao nuốt nổi bánh này, thịt này...

Chị Tư nói:

- Mẹ không ăn gì thì Kim Đồng chết mất!

Lời khuyên của chị Tư rất có kết quả, mẹ kìm nước mắt ăn lấy được chỗ bánh bao và thịt để có sữa cho tôi, và cũng là có sữa cho con gái chị Lai Đệ và Sa Nguyệt Lượng, cái đồ cường đạo ấy, tối tối dùng bữa với bọn Nhật!

Mẹ ốm rồi.

Mẹ nóng như lò than, đến nỗi Kim Đồng không lúc nào rời lưng mẹ cũng phải bỏ cuộc. Chúng tôi ngồi vậy quanh mẹ, chỉ biết giương mắt nhìn nhau. Mẹ nhắm mắt, bọt rãi trong suốt đùn ra hai bên mép, mẹ lắp bắp những câu ghê người, lúc thì gào toáng lên, lúc lại lẩm bẩm một mình. Có lúc nói oang oang phấn khởi, lúc lại đau xót kể lể. Thượng đế, Đức Mẹ đồng trinh, thiên sứ, ma quỉ, Thượng Quan Thọ Hỉ, mục sư Malôa, ông Ba Phàn, Tư Vu, dì lớn, cậu Hai, ông ngoại, bà ngoại... ma quỉ Trung Quốc và thần linh nước ngoài, người còn sống và người đã chết, những chuyện chúng tôi biết và những chuyện chúng tôi chưa biết, tuôn ra như suối từ miệng mẹ, lắc lư, uốn éo, làm diệu làm bộ, biến ảo trước mắt chúng tôi.

Tìm hiểu những câu nói mê của mẹ chồng khác tìm hiểu vũ trụ, ghi lại những điều nói mê của mẹ thì cầm bằng ghi lại toàn bộ lịch sử vùng Cao Mật.

Chủ quán, một người đàn ông trung niên da bèo nhèo, mặt đầy nốt ruồi, bị đánh thức vì tiếng rên la của mẹ. Ông ta vào buồng, sờ trán mẹ, lập tức rụt tay lại, nói:

- Đi mời thầy thuốc mau, khéo chết mất!

Ông nhìn chúng tôi hỏi chị Tư:

- Cô là chị Cả phải không?

Chị Tư gật đầu, ông hỏi:

- Tại sao không mời thầy thuốc? Này, sao cô không nói gì thế!

Chị Tư khóc òa lên, quì sụp trước mặt chủ quán, nói:

- Bác ơi, bác cứu mẹ cháu với?

Ông chủ quán nói:

- Tôi hỏi cô nhé, cô có bao nhiêu tiền?

Chị Tư lục túi mẹ, lấy ra mấy tờ tiền giấy đưa cho ông chủ quán:

- Bác ơi, đây là tiền bán em Bảy cháu?

Chủ quán cầm tiền, nói:

- Cô đi theo tôi. Đi mời thầy thuốc? -

Tiêu hết số tiền bán chị Bảy, mẹ mới mở được mắt. Mẹ mở mắt rồi, mẹ mở được mắt rồi? Chúng tôi rưng rung nước mắt, reo ầm lên. Mẹ giơ tay sờ mặt từng đứa.

- Mẹ, mẹ, mẹ, mẹ?... - chúng tôi gọi.

- Bà ngoại ơi, bà ngoại!...

Thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng lắp bắp.

- Nó đâu? Nó... Mẹ chìa một tay ra, hỏi.

Chị Tư bế con bé được bọc trong cái áo lông điêu tới trước mặt để mẹ xoa đầu nó. Khi mẹ xoa đầu, nó nhắm mắt lại. Hai giọt nước mắt của mẹ ứa ra.
Ông chủ quán với bộ mặt rầu rĩ bước vào, bảo chị Tư:

Này cô, không phải tôi nhẫn tâm, nhà tôi cũng nhiều miệng ăn! Mười mấy ngày nay, nào tiền trọ, tiền cơm, tiền đầu đèn...

Chị Tư nói:

- Bác ơi, bác là ân nhân của gia đình cháu. Cháu nhất định sẽ trả bác đầy đủ, chỉ xin bác đừng đuổi mẹ cháu đi, mẹ cháu!...

Buổi sáng ngày Mười tám tháng Hai năm Một nghìn chín trăm bốn mươi mốt, Thượng Quan Tưởng Đệ đưa cho mẹ vừa khỏi bệnh một xấp tiền. Chị nói:

- Mẹ, con đã trả đủ nợ của bác chủ quán, chỗ này là tiền thừa...

Mẹ ngạc nhiên, hỏi: - Tưởng Đệ, con lấy đâu ra tiền thế này?

Chị Tư cười như mếu, nói:

- Mẹ cho các em về đi, nơi này không phải là nhà của ta!...

Mặt mẹ trắng nhợt, túm tay chị Tư, hỏi:

- Tưởng Đệ, cho mẹ biết...

Chị Tư nói:

- Mẹ, con đã bán mình rồi, bác chủ quán giúp con mặc cả đến nửa ngày trời...

Mụ chủ chứa kiểm tra toàn thân chị Tư như kiểm tra gia súc, nói:

- Gầy quá.

Ông chủ quán nói:

- Bà chủ ơi, chỉ một bao gạo là béo lên ngay đấy mà! Mụ chủ giơ lên hai ngón tay, nói:

- Hai trăm đồng! Tôi làm phúc để lấy đức!

Chủ quán nói:

- Bà chủ ơi, cô này có mẹ đang đau nặng, lại còn một đàn em, trả thêm cho cô ấy đi!

Bà chủ nói:

- Thời buổi này làm việc thiện khó quá!

Chủ quán nài nỉ, chị Tư quì sụp xuống. Bà chủ nói:

- Thôi được, tôi hay thương người, thêm một trăm nữa, kịch giá rồi đấy.

Mẹ lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà. Khi ấy, chúng tôi nghe một giọng khàn khàn ngoài cửa:

- Đi nào cô bé. Ta không có nhiều thì giờ đợi cô đâu!

Chị Tư quì xuống, dập đầu lạy mẹ một lạy. Rồi chị đứng dậy xoa đầu chị Năm, vuốt má chị Sáu, kéo tai chị Tám, vội vàng nâng cằm tôi thơm một cái. Chị bóp nhẹ hai vai tôi, nỗi xúc động khiến khuôn mặt chị như hoa mai trong gió tuyết.

- Kim Đồng ơi, Kim Đồng - chị nói - em lớn mau lên, lớn nhanh lên, nhà Thượng Quan ta trông vào mỗi mình em!

Nói xong, chị nhìn quanh căn buồng, yết hầu nhô ra ở cổ như cổ gà. Chị bung miệng như buồn nôn, chạy vụt ra rồi mất hút không thấy nữa.





7.



Chúng tôi cho rằng, về đến nhà là trông thấy thi thể của chị Lãnh Đệ và bà nội, nhưng quang cảnh trước mắt hoàn toàn khác với dự đoán.

Trong sân cực kỳ ồn ào. Hai người đàn ông đầu cạo trọc, ngồi tựa lưng vào tường của gian chính, căm cúi vá quần áo đường khâu rất thành thạo. Hai người nữa, ngồi liền kề hai người vá quần áo, cũng đầu cạo trọc bóng loáng, cũng thái độ nghiêm chỉnh như thế, lúi húi lau hai khẩu súng đen bóng. Lại còn hai người nữa, một người đứng dưới cây ngô đồng, tay cầm lưỡi lê sáng loáng, người kia ngồi trên ghế đẩu, đầu cúi xuống, trên đầu đầy bọt xà phòng. Người cầm lưỡi lê nhún chân, liếc lưỡi lê vào quần mấy cái, rồi một tay giữ lấy cái đầu đầy xà phòng, tay kia giơ lưỡi lê ướm thử như tìm vị trí mở đầu. Rồi anh ta đặt lưỡi lê vào giữa đỉnh đầu, cạo một nhát từ đỉnh xuống gáy. Một mảng tóc đẫm bọt xà phòng rơi xuống, một mảng da đầu trắng hếu lộ ra. Còn một người nữa, tay cầm chiếc búa có cán dài ở chỗ nhà tôi vẫn cất lạc, trước mặt anh ta là một gốc cây du. Sau lưng là một đống củi đã bổ. Anh ta dạng chân, giơ cao chiếc búa, dừng lại trên không một thoáng rồi bổ mạnh xuống cùng với tiếng hự thốt ra từ miệng. Lưỡi búa cắm ngập vào gốc cây. Anh ta dùng một chân chặn gốc cây cố súc rút lum búa, lùi lại hai bước, chuẩn bị tư thế, nhổ nước bọt vào lòng bàn tay rồi lại giơ búa lên. Cái gốc cây du nút toác một mảnh gỗ văng ra như vỏ đạn pháo, bắn trúng ngực Phán Đệ khiến chị hét toáng lên. Những người đang may vá và lau súng đều ngẩng đầu lên. Những người cạo đầu và bổ củi đều quay lại. Người ngồi cạo đầu ngẩng đầu lên nhưng bị người cạo đầu hộ dùng tay ấn xuống.

- Đừng cựa? - anh ta nói.

Người bổ củi nói:

- Ăn mày đến kìa! ăn mày đến kìa? Anh Trường ơi, những người đi ăn xin đây này!

Một người mặc tạp dề trắng, đội mũ xám, mặt đầy vết nhăn từ trong nhà chạy ra. Tay áo anh ta xắn rất cao, tay dính đầy bột, vẻ thân thiện:

- Chào bác Bác đi cửa khác mà xin, bộ đội chúng tôi ăn theo định suất, không bớt ra để cho được!

Mẹ điềm nhiên nói: - Đây là nhà của tôi!

Những người trong sân đứng ngẩn ra. Người đầy bọt xà phòng trên đầu nhảy dựng lên, kéo vạt áo lau những vết bẩn trên mặt, ú a ú ớ với chúng tôi. Anh ta là Tôn câm, con cả nhà họ Tôn.

Tôn câm chạy đến trước mặt chúng tôi, miệng ú ớ, tay làm hiệu rất nhiều điều mà chúng tôi không hiểu. Chúng tôi ngượng ngập nhìn khuôn mặt thô kệch như đẽo bằng rìu, trong lòng vẩn lên một nỗi lo. Tôn câm chớp chớp con người màu vàng xỉn, cằm dưới bạnh ra, miệng lập bập liên hồi. Anh ta chạy vào chái phía đông, cầm chiếc bát sứ men xanh và bức họa con chim ra khoe với chúng tôi. Người cạo đầu cho anh ta, cầm lưỡi lê đi tới, vỗ vai Tôn câm hỏi:

- Tôn câm, anh quen họ hả? Tôn câm đặt chiếc bát xuống, cầm mẩu củi viết nguệch ngoạc trên mặt đất hàng chữ xiên xẹo, thiếu cả nét:

- Bà ấy là mẹ vợ tôi!

- Thì ra bác đã trở về!

Người cạo đầu nhiệt tình nói:

- Chúng tôi là tiểu đội Năm, trung đội Một, đại đội phá đường sắt. Tôi là tiểu đội trưởng, họ Vương. Đại đội tôi về chỉnh quân ở đây, chiếm dụng nhà của bác, thật không phải quá. Con rể bác, chính ủy chúng tôi đã đặt cho một cái tên: Tôn Bất Ngôn. Anh là một chiến sĩ giỏi, anh dũng chiến dấu không sợ chết, là tấm gương cho chúng tôi học tập. Bác ơi, chúng tôi dọn khỏi buồng chính ngay bây giờ. Lão Lã, Tiểu Đỗ, Triệu Đại Ngưu, Tôn Bất Ngôn, Tần Tiểu Thất, dọn đồ đạc mau, để cho bác thu xếp giường chiếu!

Binh lính bỏ dở việc đang làm, đi vào gian chính. Họ đeo trên lưng những chiếc chăn gập vuông vức, quấn xà cạp vào chân, xỏ giày - loại giày vải đế nhiều lớp, khoác súng trường lên vai, cổ đeo mìn, xếp hàng ngay ngắn ngoài sân. Tiểu đội trưởng nói với mẹ:

- Mời bác vào nhà. Mọi người đợi ở đây, tôi đi thỉnh thị chính ủy.

Các chiến sĩ rất có kỷ luật, ngay cả anh chàng Tôn câm mà bây giờ gọi là Tôn Bất Ngôn cũng đứng thẳng đơ như một cây thông. Tiểu đội trưởng xách súng chạy đi. Chúng tôi vào trong nhà. Trong chảo đã bắc thêm hai ngăn bằng tre và cây sậy. Củi trong lò cháy rừng rục. Nước trong chảo sôi ùng ục, hơi nước bốc lên mờ mịt. Chúng tôi ngủi thấy mùi thơm của bánh bao. Bác cấp dưỡng gật đầu chào mẹ với vẻ biết lỗi. Bác rất hiền. Bác cho củi vào lò.

- Tha lỗi cho chúng tôi về việc đã tự tiện cải tạo cái bếp.

Bác chỉ cái rãnh sâu trước cửa lò, nói:

- Hàng chục cái quạt cũng không bằng một cái rãnh này! Ngọn lửa phần phật, chỉ e trôn chảo bị nung chảy.

Chị Lãnh Đệ mặt đỏ hồng ngồi trên ngưỡng cửa, mắt lim dim, chăm chú nhìn hơi nước phụt qua kẽ nắp cuồn cuộn bay lên, càng nhìn càng thấy đẹp

- Lãnh Đệ! - Mẹ thử gọi.

- Chị Ba ơi, chị Ba! - Chị Năm, chị Sáu gọi.

Chị Lãnh Đệ thờ ở nhìn chúng tôi, làm như chưa hề quen nhau, chưa hề có đợt xa nhau vừa rồi.

Mẹ nhìn căn buồng thu dọn sạch sẽ, cảm thấy áy náy, lại kéo chúng tôi ra sân.

Tôn câm đứng trong hàng, nhăn mặt làm trò với chúng tôi. Thằng nhóc Tư Mã mạnh dạn sờ chân quấn xà cạp cứng như gỗ của các chú lính.

Tiểu đội trưởng dẫn về một người đàn ông tuổi trung niên, giới thiệu với mẹ:
- Thưa bác, đây là chính ủy Tưởng.

Chính ủy có khuôn mặt trắng trẻo, không để râu, thân hình tầm thước, thắt lưng da to bản, túi ngực cài chiếc bút máy. Ông lịch sự gật đầu chào chúng tôi, lấy trong xắc cốt một nắm kẹo xanh đỏ, nói:

- Các cháu ăn kẹo đi.

Rồi ông chia kẹo cho chúng tôi, con bé bọc trong áo lông điêu cũng được chia hai cái do mẹ nhận hộ. Đây là lần đầu tiên tôi được biết mùi vị của kẹo. Chính ủy nói:

- Bác ơi, xin bác cho tiểu đội này ở nhờ hai chái đông và tây?

Mẹ gật đầu, đờ đẫn.

Chính ủy vén tay áo xem đồng hồ, hỏi to:

- Lão Trương, bánh bao được chưa?

Lão Trương chạy ra:

- Chín rồi ạ.

Chính ủy nói:

- Anh lấy bánh cho các cháu ăn. Cứ để các cháu ăn thỏa thích.

- Lát nữa tôi bảo Tư vụ trưởng bổ sung mức ăn cho các anh.

Lão Trương dạ luôn miệng.

Chính ủy bảo mẹ:

- Đại đội trưởng của chúng tôi muốn gặp bác. Mời bác đi cùng tôi.

Mẹ định trao con bé cho chị Năm. Chính ủy giơ tay ngăn lại, nói:

- Không, bác cứ bế cháu bé đi.

Chúng tôi, thực ra là chỉ mẹ tôi, đi theo chính ủy. Mẹ địu tôi trên lưng, bế con bé đằng trước, đi dọc theo ngõ ra phố, đến nhà Phúc Sinh Đường. Hai lính gác vội đứng nghiêm, bồng súng chào. Chúng tôi đi qua các phòng thông nhau, cuối cùng vào đến đại sảnh, chính giữa bày bàn bát tiên màu huyết dụ, trên bàn bày hai đĩa lớn, một đĩa là thịt gà rừng, đĩa kia là thịt thỏ rừng, một làn đầy bánh bao. Một người râu quai nón tươi cười ra đón, nó:

- Xin chào, xin chào!

Chính ủy giới thiệu:

- Thưa bác, đây là đại đội trưởng Lỗ!

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Nghe nói bác cũng họ Lỗ. Năm trăm năm trước chúng ta là một nhà!

Mẹ hỏi:

- Thưa quan lớn, chúng tôi phạm tội gì?

Đại đội trưởng ngớ ra, cuối sảng khoái, bảo mẹ:

- Bác hiểu lầm rồi? Mời bác đến đây chăng có ý gì khác. Mười năm trước, tôi và Sa Nguyệt Lượng là bạn nối khố. Sa Nguyệt Lượng là con rể bác. Vì vậy nghe tin bác trở về, cho đặt tiệc tây trần mời bác.

Mẹ nói:

- Anh ta không phải con rể tôi.

Chính ủy nói:

- Bác giấu làm gì? Bác đang bế con của Sa Nguyệt Lượng đấy thôi!

Mẹ nói:

- Đây là cháu tôi.

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Hãy ăn đã. Xem chừng bà cháu đói cả rồi.

Mẹ nói:

- Thưa quan lớn, chúng tôi về đây?

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Bác đừng vội đi, Sa Nguyệt Lượng có nhờ tôi giúp anh ta trong việc nuôi cháu bé. Anh ta biết bác có khó khăn. Cô Đường đâu rồi?

Một nữ binh xinh đẹp nhanh nhẹn bước ra.

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Bế lấy em bé cho bác, để bác xơi cơm!

Cô nữ binh bước tới trước mặt mẹ, giơ hai tay ra. Mẹ kiên quyết:

- Đây không phải con gái Sa Nguyệt Lượng. Đây là cháu tôi!

Chúng tôi đi trở lại các phòng thông nhau, ra phố, rẽ vào ngõ trở về nhà.
Liên tiếp mấy ngày sau, cô nữ binh có tên là Đường nhiều lần đem thực phẩm, quần áo đến nhà tôi. Những thùng bánh bích qui, mà mỗi cái bánh là một hình con vật: chó, mèo, hổ..., sữa bột đựng trong bình thủy tinh, mật ong trong suốt đựng trong vò sành. Quần áo bằng tơ lụa, vải bông viền dăng ten, mũ bằng lông thỏ còn nguyên cả hai tai dài dài. Những thứ này cô nói, đều là của đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng gửi cho cháu gái. Cô chỉ vào con bé mẹ đang bế:

- Đương nhiên, em bé trai có thể cùng ăn - cô lại chỉ vào tôi nói vậy.

Mẹ thản nhiên nhìn cô Đường quá nhiệt tình, mặt hồng hào như quả táo, mắt như hai hạt hạnh. Mẹ nói:

- Cô đem những thứ này đi. Chúng tôi con nhà nghèo, không xài được của tốt đến thế!

Mẹ cầm hai đầu vú, một đầu nhét vào miệng tôi, một đầu nhét vào miệng con gái Sa Nguyệt Lượng. Nó đắc ý rên hừ hừ, tôi căm giận rên lên hừ hừ. Nó đập tay vào đầu tôi, tôi đạp cho nó một cái vào mông, nó ề à khóc. Tôi còn loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc dai dẳng, mảnh như sợi tơ của chị Ngọc Nữ, tiếng khóc mà mặt trời và mặt trăng đều lắng nghe vì nó ngọt hơn ánh nắng và thơm như ánh trăng.

Cô Đường nói rằng, chính ủy Tưởng đã đặt cho cô bé một cái tên. Ông ta là trí thức, tốt nghiệp đại học Triều Dương Bắc Bình, văn hay vẽ giỏi, rất giỏi tiếng Anh. Tên là Sa Tảo Hoa được đấy chứ!

- Bác ơi, bác đừng nghi ngại gì hết. Đại đội trưởng Lỗ là con người tốt. Nếu các ông ấy định cướp con bé thì dễ như trở bàn tay.

Cô Đường lấy trong bọc ra chiếc bình sữa bằng thủy tinh trên miệng có núm cao su màu vàng nhạt. Cô đổ mật ong và sữa bột màu trắng vào cái bát, đổ nước sôi vào, khuấy đều. Tôi đã có lần ngửi thấy mùi sữa này, đó là mùi ở vú bà ngoại quốc hôm bà đem chị Tưởng Đệ đi. Cô đổ sữa vào bình, nói với mẹ:

- Bác đừng cho nó bú chung với em trai, bác sẽ kiệt sức mất! Để cháu cho nó ti chai. Cô vừa nói vừa bế lấy Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa mút dài vú mẹ như cái dây cung của Hàn Chim. Cuối cùng núm vú tuột ra, co lại từ từ y hệt con đỉa bị nước đái, rất lâu mới trở lại hình dáng cũ. Tôi đau khổ là vì bầu vú, tôi căm giận Sa Tảo Hoa cũng là vì bầu vú. Nhưng con tiểu yêu này đã ti như điên, uống ừng ực từ cái bầu vú giả, ti ngon lành nhưng tôi không thèm. Một lần nữa, bầu vú của mẹ lại thuộc về tôi. Đã lâu tôi chưa bao giờ ngủ yên và ngủ ngon đến thế. Giấc mơ đã thay cho cái miệng của tôi, đắm đuối và hạnh phúc, toàn một mùi thơm của sữa! Tôi ngủ liền một mạch ba ngày.

Do vậy, tôi vô cùng cảm kích cô Đường. Hai bầu vú đội ngực áo quân phục khiến tôi cảm thấy cô vô cùng khả ái, tuy rằng vú của cô là loại vú bánh dầy, nhưng hình dáng vẫn là vú. Cho Tảo Hoa ăn xong, cô Đường mở cái bọc bằng áo lông điêu, một mùi khai như mùi lông chồn xông lên. Tôi nhìn thấy là da Sa Tảo Hoa trắng như sữa. Không ngờ con bé mặt đen như than mà da lại trắng đến thế. Cô Đường mặc quần áo, đội mũ, trang điểm cho Sa Tảo Hoa thành một cô bé xinh xắn. Cô Đường gạt cái áo lông điêu sang một bên, hai tay xốc nách Sa Tảo Hoa tung lên trời rồi đón lấy. Sa Tảo Hoa cười khanh khách. Thật không ngờ, tôi cảm thấy cô cháu ngoại này cũng có phần đáng yêu.

Cơ thể mẹ căng lên, chuẩn bị tư thế cướp lại Sa Tảo Hoa bất cứ lúc nào. Cô Đường trao trả Sa Tảo Hoa cho mẹ, nói:

- Bác ơi, Tư lệnh Sa mà nhìn thấy con bé thì chắc là vui lắm.

- Tư lệnh Sa? Mẹ ngỡ ngàng nhìn cô Đường.

- Bác ơi, bác chưa biết đấy thôi. Con rể bác bây giờ là Tư lệnh cảnh vệ thành phố Bột Hải, hơn ba trăm người dưới quyền, có cả một chiếc xe Jeep Mỹ! - Cô Đường nói.

(đoạn đánh dấu dưới đây, không ăn nhập với bất kỳ tình tiết nào trong bài, có thể người dịch đã bỏ sót một đoạn dài hoặc nhà xuất bản có lỗi khi in- LENA)

Sa Nguyệt Lượng xé vụn bức thư, gầm lên:

- Lỗ-đại-bác, Tưởng-bốn-mắt, dùng tưởng bở!

Sứ giả của đại đội bộc phá từ tốn nói:

- Thưa ông Tư lệnh, thiên kim tiểu thư của ông, chúng tôi rất mến! Giam giữ con tin, vậy bản lãnh ở đâu?

Sa Nguyệt Lượng nói:

- Bảo Lỗ-tướng có giỏi thì đem quân đến đánh Bột Hải?

Sứ giả nói:

- Ông Tư lệnh không nên quên quá khứ vẻ vang của mình?

Sa Nguyệt Lượng nói:

- Ta đây thích đánh Nhật thì đánh, thích hàng Nhật thì hàng, thằng nào dám làm gì ta, còn lảm nhảm thì chớ trách!

Cô Đường lôi ra chiếc lược nhựa đỏ, chải đầu cho chị Năm, chị Sáu. Khi chải đầu cho chị Sáu, chị Năm nhìn cô với vẻ say mê. ánh mắt chị Năm như chiếc lược, chải tù đầu xuống chân, rồi chải từ chân lên đầu cô Đường. Khi cô Đường chải đầu cho chị Năm, thì trên mặt trên cổ chị Sáu nổi da gà. Chải xong, cô Đường ra về. Chị Năm bảo mẹ:

- Mẹ, con muốn đi bộ đội?

Hai hôm sau, chị Năm mặc quân phục, công tác chủ yếu của chị là cùng cô Đường thay tã lót và cho Sa Tảo Hoa bú sữa.

Đây là thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời tôi, như bài hát lưu hành lúc bấy giờ. Em ơi buồn làm chi, Hãy cùng đồng chí ra đi, Rau cải thìa nấu cùng thịt lợn, Chảo bốc hơi đầy ắp màn thầu.... Rau cải thìa nấu với thịt lợn không thường xuyên, màn thầu trắng cũng không thường xuyên, nhưng củ cải om cá khô thì lúc nào cũng có, bánh bột ngô to bự thì lúc nào cũng có. Hạn hán không thể chết đói, đói không đến lính tráng!

Mẹ than thở:

- Tưởng Đệ ơi, Cầu Đệ ơi, các con tội nghiệp của mẹ...

Mẹ rơi nước mắt khi nghe tiếng hát của chị Năm và tiếng cười vui vẻ của chị Sáu. Trong thời gian này, sữa của mẹ đặc biệt tốt và nhiều, Kim Đồng từ trong túi vải nhảy ra ngoài, đã đi được hai mươi bước, đi được năm mươi bước, đi được một trăm bước, không bò nữa. Miệng tôi cũng không ngượng ngập nữa, chửi người như ranh. Khi Tôn câm nắm lấy chim, tôi chửi liền:

- Đ. mẹ mày!

Chị Sáu theo học lớp xóa nạn mù chữ, hát: Mười tám, chị đi bộ đội, đi bộ đội vẻ vang biết mấy! Cắt đánh soạt vứt bỏ đuổi sam, chải lật tóc rẽ thành hai mái? Canh gác tuần tra khắp nẻo đường. Hán gian đặc vụ chạy té đái.

Lớp học đặt trong nhà thờ. Những ghế băng được sửa chữa ngay ngắn, những đống phân lừa được dọn sạch. Thiên sứ có cánh đã bay đi. Tượng Chúa Giêsu bằng gỗ táo đã bị lấy cắp. Trên tường treo bảng đen, trên bảng viết chữ trắng. Cô Đường gõ thước lên bảng cồm cộp, chống... Nhật... chống... Nhật. Các bà phụ nữ vừa cho con bú vừa khâu đế giày hoặc bện thừng. Chống Nhật... chống Nhật.... Tôi nhảy cà chớn giữa các bà phụ nữ, len lỏi giữa bầy vú đủ các loại. Chị Năm nhảy lên bục, nói:

- Nhân dân là nước, bộ đội con em của dân là cá, đúng không nào?

- Đúng. - Cá sợ nhất gì nào?...

- Cá sợ gì nhỉ? Cá sợ lưỡi câu? Cá sợ chim bói cá? Cá sợ rắn nước?...

- Cá sợ lưới! Đúng rồi, cá sợ nhất là lưới? Sau gáy các bà các chị là cái gì vậy?

- Là cái búi tó.

- Trên búi tó có gì vậy?

- Là cái lưới.

Đám phụ nữ chợt tỉnh ngộ, mặt đỏ ửng, ghé tai nhau thì thào, cười rúc rích. Cắt phăng mái tóc, vút bỏ lưới, bảo vệ đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng, bảo vệ đội bộc phá do hai người chỉ huy.

- Ai xung phong nào?

Chị Phán Đệ giơ cao cái kéo, còn dùng những ngón tay búp măng mở đóng kéo xoành xoạch như hàm con cá mập đang đói. Cô Đường nói:

- Thử nghĩ coi, các bà các bác, các cô các dì, các chị các em thử nghĩ coi, phụ nữ chúng ta bị ba ngàn năm áp bức, giờ đây đã đến lúc vùng lên! Hồ Tần Liên, chị cho biết, tên ma men Nhiếp-Nửa-Hũ chồng chị, còn dám đánh chị nữa không?

Một nữ thanh niên mặt vàng như nghệ bế con đứng dậy ngó nữ binh Đường và nữ binh Thượng Quan hiên ngang trên bục, rồi vội vàng cúi xuống, nói:

- Không đánh nữa.

Nữ binh Đường vỗ tay:

- Các bà các chị nghe rõ chưa, ngay cả Nhiếp-Nửa-Hũ cũng không dám đánh vợ nữa. Hội Phụ nữ cứu quốc là nhà của phụ nữ chúng ta, giải trừ những nỗi bất bình cho chúng ta. Hỡi chị em phụ nữ, cuộc sống bình đẳng hạnh phúc của ta hiện nay do đâu mà có? Từ trên trời rơi xuống chăng? Từ dưới đất đùn lên chăng? Không phải, quyết không phải. Nguyên nhân đích thực chỉ có một: Đó là từ khi đội bộc phá về đây xây dựng căn cứ địa vững chắc như tường đông vách sắt ở thị trấn Đại Lan, ở Cao Mật. Chúng ta đã tự lực cánh sinh, phấn đấu gian khổ để cải thiện cuộc sống, nhất là cuộc sống của phụ nữ. Chúng ta không mê tín kiểu phong kiến, nhưng chúng ta phải gỡ bỏ mọi trói buộc, không chỉ vì đội bộc phá mà vì bản thân chúng ta. Chị em phụ nữ, hãy cắt tóc ngắn, vút bỏ lưới bọc tóc, nhất loạt để tóc rẽ ngôi!

- Mẹ, mẹ xung phong đi! Chị Phán Đệ đưa kéo cho mẹ.

- Phải rồi, bà chị Thượng Quan cắt tóc ngắn thì chúng tôi cũng cắt tóc ngắn. Đám phụ nữ đồng thanh kêu lên.

- Mẹ ơi, mẹ xung phong đi, cho con gái mẹ mở mày mở mặt! - Chị Năm nói.

Mẹ đảo mắt, đưa đầu về phía chị, nói:

- Cắt đi, Phán Đệ! Miễn là có lợi cho đại đội bộc phá thì đừng nói cắt bím tóc, ngay cả chặt đứt hai ngón tay, mẹ cũng dám chặt.

Chị Năm gỡ búi tóc của mẹ ra. Một cuộn lớn tóc đen thả dần trên cổ trên lưng mẹ như một dòng suối. Mẹ có những nét giống hoàn toàn Đức mẹ Ma ria trên tường, nghiêm trang, u sầu, lặng lẽ, dâng hiến với vẻ cam chịu và tự nguyện. Đó chính là tôn giáo, một đứa trẻ bụ bẫm hồng hào sinh trong máng cỏ. Ngôi nhà thờ mà tôi từng chịu lễ rửa tội có mùi phân vừa mục, cảnh tượng tôi nằm trong bồn nước cùng chị Tám lại hiện ra trước mắt. Đức mẹ chưa bao giờ giấu cặp vú, còn vú của mẹ tôi thì lại nửa che nửa đậy.

- Phán Đệ, cắt đi con, còn chần chừ gì nữa? Mẹ nói.

Thế là chị Năm mở rộng lưỡi kéo ngoạm vào suối tóc của mẹ. Soạt soạt, bím tóc rơi xuống. Mẹ ngẩng đầu lên, tóc mẹ trở thành hai mái chấm đái tai, cái cổ thon dài của mẹ hoàn toàn lộ rõ. Đột nhiên mất đi sức nặng của mái tóc dày, đầu mẹ trở nên linh hoạt, có phần nhanh nhẹn như Tiên Chim, thoắt ngoảnh sang bên này, thoắt ngoảnh sang bên kia. Mặt mẹ đỏ bừng, nữ binh Đường lấy ra chiếc gương nhỏ hình tròn đưa tới trước mặt để mẹ soi, nhưng mẹ ngượng, quay mặt đi, chiếc gương đưa theo, mẹ thẹn thùng khi nhìn thấy mái tóc của mình trong gương thu nhỏ đến chục lần mái đầu cũ. Mẹ lại vội quay mặt đi.

- Đẹp không bác? - Cô Đường hỏi.

- Xấu chết đi được! - Mẹ trả lời khẽ.

- Ngay cả bác Thượng Quan còn cắt tóc ngắn, các vị còn chần chờ gì nữa? - Nữ binh Đường nói to.

Cắt đi vậy thì cắt đi. Cắt đi cho hợp thời. Mỗi khi thay đổi triều đại là lại thay đổi đầu tóc. Triều Thanh, nam giới đều để bím. Cách mạng của ông Tôn Trung Sơn, trước tiên là cắt phăng cái bím. Tóc ngắn rẽ ngôi là sản phẩm của thời đại. Sản phẩm thời đại chính là mốt, mốt chính là cái đẹp. Cắt hộ tôi. Soạt soạt. Tiếng than. Tiếng tặc lưỡi. Tôi cúi xuống nhặt lên một lọn tóc. Tóc rải rác trên mặt đất, đen có, vàng có, thô có, mảnh có. Thô thì vừa cứng vừa đen, mảnh thì vừa mềm vừa vàng. Tóc đầy dưới đất, nhưng chỉ tóc mẹ tôi là đẹp nhất. Tóc mẹ tôi là một loại tóc tiết ra dầu.

Những ngày ấy vui nổ trời, ầm ĩ hơn những ngày Tư Mã Khố triển lãm chiến lợi phẩm đánh cầu đường sắt. Đại đội đường sắt là nơi tập trung nhân tài, hát hay, múa giỏi, thổi tiêu thổi sáo, chơi đàn, có tất. Tất cả những bức tường trong thôn đều kẻ khẩu hiệu chữ to. Mỗi sáng, đều có bốn thiếu sinh quân trèo lên vọng gác, ngoảnh về phía mặt trời mà luyện kèn báo thức. Lúc đầu thổi như bò rống, dần dà nghe như chó sủa óc ách, cuối cùng nghe khúc chiết, lên bổng xuống trầm, làn diệu hẳn hoi. Các tiểu binh hít đầy ***g ngực, ngửa mặt, cổ vươn dài, phồng miệng lấy hơi. Kèn vàng chóe, dải lụa điều, vừa oai phong vừa đẹp mắt. Trong số bốn lính kèn, một chú đẹp trai nhất tên là Mã Đồng, miệng chúm chím, má lúm đồng tiền, hai vành tai tròn trịa. Chú nhanh nhẹn hoạt bát, môi ngọt như bôi mật ong. Chú triển khai một đợt nhận hơn hai mươi mẹ nuôi. Những bà mẹ nuôi ấy trông thấy chú là cặp vú rung động, chỉ hiềm nỗi không thể nhét núm vú vào miệng chú để chú cắn chú xé. Mã Đồng từng đến nhà tôi, truyền đạt mệnh lệnh gì đó cho tiểu đội trưởng. Hôm ấy tôi đang ngồi xổm dưới gốc cây thạch lựu xem đàn kiến trèo lên cây. Vì tò mò, chú cũng ngồi xuống xem. Chú còn chăm chú hơn tôi, giết kiến thành thạo hơn tôi, chú còn dẫn tôi đến đái vào tổ kiến. Trên đầu chúng tôi là cây lựu nở đầy hoa như những ngọn lửa. Lúc này là tiết đương xuân, tháng Tư, trời xanh xanh, mây trắng như bông, én lượn từng đàn trong gió nam lười nhác.

Mẹ linh cảm rằng, con trai mà đẹp và linh hoạt như Mã Đồng thì đa phần là chết yểu, Thượng đế ban phát cho nó nhiều quá, nó chiếm hết những thuận lợi của giống người, khó có thể đạt tới một kết cục thọ tỉ Nam sơn con cháu đầy đàn. Quả như lời mẹ đoán, một đêm, trời đã về khuya, sao dày đặc, ngoài phố bỗng có tiếng kêu của một thiếu niên:

- Xin đại đội trưởng Lỗ, chính ủy Thắng tha cho cháu lần này... Nhà cháu ba đời độc đinh, ông bà cháu chỉ có mỗi mình cháu là cháu nội, bố mẹ cháu chỉ có mình cháu là con... Cháu bị bắn chết thì gia đình cháu tuyệt tự?.. Mẹ Tôn ơi, mẹ Lý ơi, mẹ Thôi ơi, các mẹ nuôi ơi, ra xin cho cố!... Mẹ Thôi ơi, mẹ là chỗ giao tình với đại đội trưởng, mẹ hãy cứu con!...

Mã Đồng vừa kêu gào vừa đi ra khỏi thôn. Một tiếng nổ rất đanh, rồi tất cả yên lặng. Chú lính kèn đẹp như tiên đồng từ đó mất tăm. Mẹ nuôi nhiều như thế mà vẫn không thoát chết. Tội của chú là lấy trộm đạn đem bán.

Hôm sau, trên đường phố xuất hiện một cỗ quan tài màu đỏ son, một cỗ xe ngựa. Một đám binh sĩ khiêng quan tài lên xe. Cỗ quan tài rất nặng, dày năm tấc bằng gỗ bách, phủ chín lần véc ni, lót chín lần vải lót, ngâm nước mười năm không thấm, súng trường 3.8 bắn không thủng, chôn dưới đất nghìn năm không mục. Mười mấy bình sĩ nâng đáy quan tài, một tiểu đội trưởng hô khẩu lệnh, mới lẩy bẩy nâng lên khỏi mặt đất đưa lên xe. Quan tài lên xe rồi, một không khí căng thẳng trùm lên đại đội bộ, binh sĩ chạy ra chạy vào như mắc cửi, người nào người ấy nét mặt căng thẳng. Sau đó, một ông già râu bạc cưỡi lừa đi đến. Ông già xuống lừa, đến bên cỗ quan tài, vịn vào áo quan mà khóc rống lên, nước mắt chảy như suối, ướt đầm cả chòm râu. Đó là ông nội của Mã Đồng, đỗ cử nhân đời Thanh, trình độ văn hóa rất cao.

Đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng bước tới, ngượng nghịu đứng bên cạnh ông già. Ông già khóc chán, quay lại nhìn như nuốt chủng Lỗ và Tưởng. Tưởng nói:

- Thưa cụ Mã, cụ đọc làu kinh thư, hiểu sâu đạo nghĩa. Chúng toi đành gạt nước mắt mà tử hình Mã Đồng.

Lỗ tiếp lời:

- Gạt nước mắt mà tử hình Mã Đồng.

Ông già nhổ bãi nước bọt đầy máu vào mặt Lỗ, nói:

- Mèo ăn vụng miếng mỡ thì giết, hổ bắt cả con lợn thì tha? Chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối!

Ông già ngửa mặt cả cười rồi bỏ đi, con lừa cúi đầu đi theo, cỗ xe chở quan tài đi sau con lừa, lặng lẽ. Tiếng xà ích quát ngựa nghe như tiếng ve sầu, như tiếng chuông bị bịt miệng không cho ngân. Sự kiện Mã Đồng như một trận động đất, làm lưng lay nền móng của đại đội bộc phá. Cái cảm giác giả tạo về hạnh phúc bị tiêu tan, tiếng súng hành quyết Mã Đồng bảo chúng tôi rằng, thời buổi loạn lạc, tính mạng con người như con sâu cái kiến! Sự kiện Mã Đồng thoạt nghe có vẻ biết cách rèn quân, chấp pháp nghiêm minh, nhưng nó lại phát sinh tiêu cực trong nội bộ đại đội bộc phá. Mấy ngày nay có đến mười mấy binh sĩ say rượu, có những vụ ẩu đả, tiểu đội ở nhà tôi đã bộc lộ dần tâm trạng bất mãn. Tiểu đội trưởng Vương nói công khai:

- Mã Đồng chẳng qua chỉ là vật hi sinh! Nó là thằng bé con, làm sao biết bán trộm đạn? Ông nội người ta là cử nhân, ruộng tốt nghìn khoảnh, lừa ngựa hàng đàn, thiếu gì mấy đồng tiền còm? Theo tôi, nó chết là vì hai trâu húc nhau dập đầu con muỗi. Chả trách lão cử nhân nói: Chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối?

Tiểu đội trưởng nói câu này vào giữa trưa thì buổi chiều chính ủy Tưởng dẫn hai vệ binh đến nhà tôi. Chính ủy mặt sa sầm, nói:

- Vương Mộc Căn, lên đại đội bộ với tôi!

Vương Mộc Căn tròn mắt nhìn các chiến sĩ của mình, chửi:

- Đ. mẹ thằng chó chết nào bán đứng ông?

Các binh sĩ nhìn nhau mặt tái nhợt, duy chỉ có Tôn Bất Ngôn là cười khanh khách đi tới trước mặt chính ủy, hoa chân múa tay kể lại chuyện Sa Nguyệt Lượng cướp vợ của mình.

Chính ủy nói:

- Tôn Bất Ngôn, chỉ định anh làm quyền tiểu đội trưởng.

Tôn Bất Ngôn ngoẹo đầu nhìn miệng chính ủy. Chính ủy túm tay anh ta, rút bút máy viết mấy chữ to tướng. Tôn Bất Ngôn ngoẹo bàn tay lại, ngây người ra nhìn, con người vàng sáng rục, hoa chân múa tay mùng rỡ. Vương Mộc Căn cười nhạt nói:

- Cứ những trò này còn tiếp diễn, thằng câm sẽ mở miệng nói được.

Chính ủy vẫy tay, hai vệ binh hùng hổ tiến đến, áp sát hai bên Vương Mộc Căn. Vương Mộc Căn nói to:

- Các người ăn cháo đá bát, không còn nhớ khi ta đánh đoàn tầu bọc thép nữa rồi!

Chính ủy không thèm đếm xỉa những lời quát tháo của Vương Mộc Căn, vỗ vai Tôn câm. Tôn câm được sủng ái giật mình, đứng nghiêm chào chính ủy. Từ ngoài ngõ vọng lại tiếng gầm của Vương Mộc Căn:

- Trêu vào ông, ông sẽ cài mìn dưới gối chúng mày!

Công việc đầu tiên của Tôn câm sau khi được đề bạt làm tiểu đội trưởng là đòi mẹ tôi trả người. Lúc này, mẹ tôi đang nghiền lưu huỳnh cho đội bộc phá ở chỗ cối xay bột, nơi Tư Mã Khố ẩn nấp khi bị thương. Cách cối xay khoảng trăm thước, chị Phán Đệ trông nom mấy phụ nữ dùng búa nhỏ đập sắt vụn. Cách chỗ chị Phán Đệ khoảng trăm thước, viên kỹ sư của đại đội bộc phá chỉ huy bốn đội viên khỏe mạnh thụt cái bễ to tướng, đẩy gió vào lò nung. Bên cạnh họ, các khuôn đã vùi trong cát. Mẹ bịt miệng bằng chiếc khăn mặt, đi vòng quanh cối cùng với con lừa nhỏ. Mùi lưu huỳnh cay xé mũi, nước mắt mẹ chảy ròng ròng. Con lừa hắt hơi liên tục. Tôi và thằng con trai Tư Mã Khố ngồi trên bụi nhân trần, chị Phán Đệ giám sát chúng tôi nghiêm ngặt theo lời dặn của mẹ, không cho chúng tôi lại gần cái cối xay. Tôn câm khoác trên vai khẩu súng trường thô kệch do Hán Dương sản xuất, tay cầm thanh đao của báu gia truyền, khệnh khạng bước tới chỗ cối xay. Chúng tôi thấy hắn chặn con lừa lại, giơ đao chém vút một cái vào không khí ngay trước mặt mẹ. Mẹ dừng lại sau con lừa, nhìn hắn không chớp. Hắn chìa bàn tay có chữ ra, cười hô hố. Mẹ gật gật tỏ ý chúc mừng hắn. Tiếp đó, nét mặt hắn thay đổi nhiều kiểu, mẹ lắc đầu quầy quậy, hình như không chấp thuận yêu cầu gì đó của hắn. Hắn vung tay đấm một quả vào đầu con lừa. Con lừa từ từ khuỵu hai chân trước rồi gục xuống. Mẹ quát to: Đồ súc sinh? Hắn cười, miệng méo xệch rồi khệnh khạng bỏ đi. Phía bên kia, cửa đáy đã chọc thủng, dòng thép sáng chói chảy vào khuôn, từng cụm hoa lửa bắn tung tóe. Mẹ nắm hai tai con lừa giúp nó đứng dậy. Rồi mẹ bước tới chỗ chúng tôi, bỏ khăn bịt miệng vàng khè ra, vén áo nhét đầu vú bị lưu huỳnh hun trắng nhợt vào miệng tôi. Tôi đang phân vân xem có nên nhả đầu vú đắng ngắt ra không thì mẹ đẩy tôi ra, mạnh đến nỗi suýt nữa tôi bị gãy răng cửa mới mọc. Tôi nghĩ đầu vú mẹ đau kinh khủng, nhưng không phải, mẹ hoàn toàn không quan tâm tới đầu vú, mà chạy như bay về nhà, chiếc khăn mặt phất phơ theo nhịp chạy. Tôi hình dung bầu vú đầy bột lưu huỳnh của mẹ cọ xát dữ dội sau lần vải thô. Mẹ như mụ đi trong một cảm giác quái gở. Nếu là hạnh phúc thì đây là thứ hạnh phúc trong đau khổ tột cùng nên mẹ mới điên lên như vậy.

Băn khoăn của tôi được giải đáp ngay lập tức.

- Lãnh Đệ ơi, Lãnh Đệ! Con ở đâu? - Mẹ gọi to, từ gian chính chạy sang gian chái.

Bà nội từ trong nhà bò ra, phục trên lối ngoài sân, đầu ngỏng lên như con ếch ộp. Chái tây của bà nội đã bị các binh sĩ chiếm. ở đó, năm chú lính chụm đầu vào nhau bên bàn xay, đang xem một cuốn sách cũ đóng bằng giấy lề. Họ ngẩng lên, ngạc nhiên nhìn chúng tôi. Súng treo trên tường, địa lôi treo dưới xà nhà, đen xỉn, tròn tròn như những trứng nhện khổng lồ.

- Tôn câm đâu rồi? - Mẹ hỏi.

Các binh sĩ lắc đầu. Mẹ chạy vào chái đông. Bức tranh Nàng Tiên Chim để trên mặt bàn gãy chân, chặn bằng miếng bánh bao ăn dở và nửa củ hành đại, lá xanh biếc. Cái bát men xanh cũng ở trên bàn, trong bát có một nhúm xương, không rõ là xương chim hay xương thú. Khẩu súng của Tôn Câm treo trên tường, địa lôi treo dưới xà nhà.

Mẹ đứng giữa sân, gào lên một cách tuyệt vọng. Các binh sĩ từ gian chái chạy ra, dồn dập hỏi mẹ đã xảy ra chuyện gì.

Tôn câm từ dưới hầm củ cải chui lên, người bám đầy đất và mốc trắng, nét mặt hắn mệt mỏi nhưng đầy vẻ thỏa mãn.

Mẹ dậm chân, gào lên:

- Tôi lú lẫn mất rồi!

ở đoạn cuối hầm ngầm trong nhà, chỗ đống cỏ mục, thằng câm đã cưỡng dâm chị ba Lãnh Đệ.

Chúng tôi lôi chị dưới hầm lên đặt nằm trên giường. Mẹ vừa khóc vừa lấy khăn bám đầy bụi lưu huỳnh, thấm nước trong chậu, lau rửa từng li từng tí trên người chị. Nước mắt mẹ rơi trên mình chị, trên những vệt răng ở vú nhưng chị lại nở một nụ cười mê hồn, ánh mắt rạng rỡ đầy quyến rũ.

Chị Năm nghe tin chạy về, trố mắt nhìn chị Ba. Chị chẳng nói chẳng rằng chạy ra sân, móc quả lựu đạn ở thắt lưng, giật nụ xòe ném vào chái đông. Quả lựu đạn bị thối, không nổ.

Nơi xử bắn thằng câm cũng chính là nơi xử bắn Mã Đồng: bên bờ hố nước bẩn đầy rác rưởi, giữa hố mọc đầy cỏ bô, ở phía nam của thôn. Thằng câm bị trói theo kiểu trói trọng phạm ngay bên hố nước, mấy chục binh sĩ tay xách súng đứng thành hàng ngang, chính ủy diễn giải bằng lời lẽ hùng hồn trước quần chúng. Diễn thuyết xong, các binh sĩ lên cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng... Chính ủy đích thân hô khẩu lệnh. Khi những viên đạn sắp sửa bay khỏi nòng thì chị Lãnh Đệ quần áo trắng tinh, phiêu diêu đi tới nhẹ nhàng như một Nàng Tiên. Nàng Tiên Chim đến rồi? Có người kêu lên. Mọi người lập tức nhớ lại thân thế kỳ lạ và những sự tích thần kỳ của Tiên Chim, quên bẵng thằng câm. Đây là giờ phút đẹp đẽ nhất trong cuộc đời Tiên Chim, chị nhảy múa trước mặt mọi người như một con tiên hạc, khuôn mặt tươi tắn như bông sen hồng, sen bạch. Thân hình cân xứng, cặp môi mọng đầy quyến rũ. Chị vừa múa vừa tiến lại gần thằng câm rồi đột nhiên dừng lại nghiêng đầu ngắm khuôn mặt hắn. Thằng câm nở một nụ cười ngơ ngẩn. Chị đưa tay vuốt nhe mái tóc dày như thảm, véo nhẹ cái mũi củ hành của thằng câm. Cuối cùng, chị công khai nắm lấy bộ sậu giữa hai chân, cái bộ sậu đã gây oan nghiệt, rồi nghiêng đầu nhìn quần chúng mà cười khúc khích. Đám phụ nữ vội quay mặt đi, đám đàn ông thì nhìn mê mẩn, nhếch mép cười hóm hỉnh. Chính ủy húng hắng ho, rất không tự nhiên, ra lệnh:

- Lôi cô ta ra! Thi hành lệnh xử bắn!

Thằng câm ngửa mặt lên, kêu ú ớ, hình như muốn kháng nghị.

Nàng Tiên Chim ta, y vẫn nắm cái của ấy, cặp môi mọng đầy vẻ ham muốn, phản ánh một dục vọng lành mạnh, tự nhiên. Không ai muốn chấp hành mệnh lệnh của chính ủy.

Chính ủy hỏi to:

- Cô kia, hắn cuồng dâm cô hay cô thuận tình?

Nàng Tiên Chim không trả lời.

Chính ủy lại hỏi:

- Cô có thích hắn không?

Nàng Tiên Chim vẫn không trả lời.

Chính ủy tìm mẹ trong đám đông, vẻ khó xử:

- Bác xem nên thế nào!... Theo tôi nghĩ, hay là cho chúng nó lấy nhau cho xong. Tôn Bất Ngôn tuy có sai lầm, nhưng không đáng tội chết, đó là điều chắc chắn!

Mẹ không nói gì, rẽ đám đông đi về. Mẹ bước rất chậm, vẻ nặng nhọc như cõng trên lưng một tấm bia. Mọi người nhìn theo, khi thấy mẹ kêu gào, mới không để ý nữa.

- Cởi trói cho anh ta. - Chính ủy mệt mỏi buông ra câu này, rồi bỏ đi.

Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved