Home » » Báu Vật của đời-Mạc Ngôn-P10

Báu Vật của đời-Mạc Ngôn-P10

Written By kinhtehoc on Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012 | 01:33

4.



Tối ngày thứ tư, địa điểm chiếu phim chuyển đến chỗ sân phơi rộng lớn của nhà Tư Mã. Toàn thể sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã và gia quyến của Tư lệnh đều ngồi ở vị trí danh dự, vị trí vàng. Những nhân vật tai mắt của thị trấn ở vị trí bạc, dân chúng thì đứng ở vị trí đồng hoặc sắt. Phía bên kia của màn ảnh dựng rất cao là đầm sen. Sau đầm sen, những người già yếu hoặc tàn tật đứng ngồi lố nhố. Họ xem phim trên mặt sau của màn hình, xem luôn cả những người xem phim.

Đây là một ngày lịch sử của Cao Mật. Nhớ lại, đó là một ngày không bình thường. Buổi trưa, không khí ngột ngạt, mặt trời đen lại, cá trên sông ngửa bụng lên, chim trên trời rơi thẳng đứng. Chú lính dựng cột chiếu phim bị trúng thử, ôm bụng lăn lộn dưới đất, nôn mật xanh mật vàng, đó là điều không bình thường. Hơn chục con rắn cạp nia rồng rắn kéo qua phố, đó là điều không bình thường. Những con giang trong đầm bay lên đậu trên cây đầu thôn, hết đàn nọ đến đàn kia, gãy cả cành, những đôi cánh vỗ, những cái cổ như cổ rắn, những cặp chân dài thẳng đuỗn, đó là điều không bình thường. Người khỏe nhất trong thôn là Trung Đại Đởm bê mười mấy cái trục lúa bằng đá quẳng xuống đầm, đó là điều không bình thường. Khoảng giữa chiều, một toán người lấm lem từ nơi khác tới. Họ ngồi trên đê Thuồng Luồng ăn một thứ bánh mỏng như giấy cùng với củ cải. Hỏi họ đến đây để làm gì, họ nói họ đến xem phim, hỏi họ làm sao biết có chiếu phim, họ nói tiếng lành đồn xa, đó là điều không bình thường! Mẹ phá bỏ thường lệ, kể một chuyện cười về chàng rể ngốc cho chúng tôi nghe, đó là điều không bình thường! Nước sông Thuồng Luồng đỏ như máu, đó là điều không bình thường! Lúc hoàng hôn, muỗi tập trung thành đàn như một đám mây trên sân đập lúa, đó là điều không bình thường. Lúc chạng vạng tối, ráng chiều đỏ như lửa, biến ảo thiên hình vạn trạng, đó là điều không bình thường? Những đóa hoa sen nở muộn trong đầm hiện lên như những linh vật trên trời, đó là điều không bình thường! Sữa của con dê của tôi có mùi tanh, đó là điều không bình thường!

Buổi chiều, ăn sữa xong, tôi cùng Tư Mã Lương chạy như bay đến sân phơi. Phim đã choán hết tâm trí tôi. Chúng tôi chạy ngược nắng chiều, mặt nhuốm đỏ. Những phụ nữ tay xách ghế, tay bế con, những ông già chống gậy, đều là những mục tiêu để chúng tôi vượt. Ông mù Từ Tiên Nhi có giọng hát rè rè vô cùng cảm động, sinh sống bằng nghề hát rong, tay chống cây gậy dài, lệch người mà đi rất nhanh. Bà chủ hiệu dầu ăn, người đàn bà chỉ có một vú, hỏi ông ta:

- Ông mù, đi đâu mà tất bật thế!

Ông mù đáp:

- Tôi mù, chị cũng mù sao?

Ông già Đỗ Bạch Kiểm làm nghề đánh cá, quanh năm mặc áo tơi, tay xách chiếc đôn bện bằng cỏ bồ, nói xen vào:

- Ông mù, ông thì xem phim gì?

Ông mù cả giận, chửi:

- Lão mặt trắng kia, sao dám bảo ta mù, ta nhắm mắt nhìn nhân tình thế thái đấy chứ!

Ông vung gậy quật đánh vút một cái, suýt nện gãy cẳng chân khẳng khiu của ông lão đánh cá. Ông Đỗ định quật lại một đòn, nhưng Phương-Nửa-Mặt - bị gấu liếm mất nửa mặt khi đào sâm ở núi Trường Bạch, can:

- Ông Đỗ, ông đánh nhau với ông mù chẳng hóa ra quên mất mình là ai hay sao? Là hàng xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, bỏ qua cho nhau những chuyện vặt ở núi Trường Bạch, chưa nói đến gặp một người cùng làng, ngay cả cùng huyện cũng đã sướng lắm rồi!

Đủ các loại người kéo về sân phơi nhà Tư Mã. Hãy nghe, bên bàn ăn của các gia đình đều nói về sự nghiệp của Tư Mã Khố, trong câu chuyện của các bà các cô đều nói đến chị em nhà Thượng Quan. Chúng tôi phơi phới như cánh én, tinh thần lâng lâng, chỉ muốn phim cứ chiếu mãi.

Phía trước cỗ máy của Bác-bit là chỗ của tôi và Tư Mã Lương. Khi chúng tôi ngồi vào chỗ của mình, ráng chiều đỏ rực vẫn chưa tắt hẳn, gió đêm lành lạnh đem tới mùi tanh. Trước mặt chúng tôi còn một khoảng trống đã được khoanh lại bằng vạch vôi. Anh chàng đánh thuê Lung Hán Quốc, tay cầm cây gậy bằng gỗ ngô đồng, đuổi những người dân tràn vào vạch vôi. Miệng sặc sụa hơi rượu, kẽ răng còn dính thức ăn, mắt giương như mắt bọ ngựa, thẳng tay vụt bay chiếc nơ đỏ trên đầu cô mắt hiếng từng có quan hệ xác thịt với tay phó quan quản trị của Chi đội. Cô mặc chiếc áo lót bằng lụa của viên phó quan tặng, miệng vẫn còn mùi khói thuốc lá của viên phó quan. Cô ta vừa phủi vừa cúi nhặt chiếc nơ, thuận tay bốc một nắm cát ném giữa mặt Lưng Hán Quốc. Hán Quốc quẳng cây gậy, nhổ đất cát trong miệng ra, vừa lấy tay dụi mắt vừa chửi:

- Con hiếng, đồ giẻ rách! Tao thì đ. con gái của mẹ mày! Tao thì đ. em gái của thằng anh mày?

Triệu Giáp làm nghề bán vỏ bếp lò vốn nhanh miệng, nói khẽ:

- Lung Hán Quốc, sao anh cứ quanh co thế! Anh đ. thẳng cô hiếng không được sao?

Triệu Giáp nói chưa dứt lời, một chiếc ghế đẩu bằng gỗ hòe đã quật vào vai anh ta. Triệu Giáp kêu ối một tiếng, quay lại. Người đánh anh ta là thằng Gật, anh trai của cô hiếng. Anh ta mặt mày vàng võ, tóc rẽ giữa, đường ngôi thẳng tắp, bóng như một vết sẹo. Anh ta mặc chiếc áo ngoài màu tàn thuốc, rộng thùng thình. Tóc chải đầu bóng, mắt lươn.

- Anh ta tằng tịu với cô em ruột- Tư Mã Lương khẽ bảo tôi như vậy.

Tù đâu mà Tư Mã Lương biết được điều bí mật ấy?

- Cậu ạ bố cháu bảo ngày mai tử hình viên phó quan quản trị tài vụ - Tư Mã Lương nói khẽ.

- Vậy thằng Gật có bị bắn không? - Tôi hỏi khẽ.

Thằng Gật từng chửi tôi là đồ con lai, tôi thù anh ta. Tư Mã Lương nói:

- Để cháu nói với bố cháu, bắn bỏ cái đồ ấy đi!

- Phải, bắn bỏ cái đồ ấy đi - tôi nói cho hả giận.

Lung Hán Quốc hai mắt ướt nhèm, vung gậy loạn xạ vì không trông thấy gì. Triệu Giáp giằng lấy chiếc ghế đẩu trong tay thằng Gật quẳng ra xa.

- Đ. em gái mày! - Anh ta chửi thẳng.

Thằng Gật giơ những móng tay như vuốt chim ưng chộp lấy cổ họng Triệu Giáp. Triệu Giáp túm lấy tóc thằng Gật. Hai người quần nhau dịch dần ra chỗ trống mà Chi đội Tư Mã để chừa ra, không ai khuyên giải được. Cô hiếng nhảy ra, định xông vào giúp anh trai, nhưng mấy lần đều đấm nhầm vào lưng thằng Gật. Cô hiếng chộp đúng thời cơ, như một con dơi lướt tới sau lưng Triệu Giáp, luồn tay dưới háng túm lấy hạ bộ của anh ta. Quan Lưu Tinh, một tay biết võ, lớn tiếng khen:

- Giỏi! Đó là miếng trẩy đào dưới lá.

Triệu Giáp rú lên, gập người lại như con tôm, chân tay mềm nhũn, mặt vàng ệnh trong cảnh nhập nhoạng tối. Cô hiếng dùng sức vặn một cái, hùng hổ:

- Định đ. kia mà, bà đang đợi mày đấy?

Triệu Giáp mềm nhũn, ngã lăn ra. Lung Hán Quốc vớ lấy cây gậy, rồi như một tướng tiên phong mở đường, bất kể trắng đen, bất kể hoàng thân quốc thích, vụt tất, rủi ai người ấy bị. Gậy vung tới tấp, già khóc trẻ kêu, người ở vòng ngoài thì len vào trong để xem, người ở trong thì chạy thoát thân ra ngoài, nhất thời người như nước lũ, dồn thành đống, vón thành cục, anh dẫm lên tôi, tôi thúc vào anh. Tôi đặc biệt chú ý khi cô hiếng bị một gậy vào mông, cô ta vội rúc vào đám đông, liền bị những người đánh hôi, những người ngứa mắt nện cho một trận tơi bời, kêu oai oái.

Đoàng, một tiếng súng nổ. Người nổ súng là Tư Mã Khố. Anh ta mặc áo choàng đen, một vệ sĩ theo sau, nối tiếp là Bác-bit và Chiêu Đệ, Niệm Đệ, giận dữ bước vào.

- Yên lặng - Một vệ sĩ hét lên - Mất trật tự thì không chiếu nữa?

Mọi người nháo nhác rồi im. Tư Mã Khố dẫn người của anh ta vào chỗ ngồi. Bầu trời chuyển sang màu tím, sắp tối mịt. Vầng trăng như lưỡi liềm, ánh sáng ảm đạm, phía tây nam có một ngôi sao rất sáng nằm trong chỗ khuyết của vầng trăng. Trung đội kỵ mã, trung đội lừa, trung đội tiện y đều đến đủ, xếp hàng đôi, ôm súng hoặc khoác súng, ngó nghiêng đám phụ nữ. Một đàn lang sói rồng rắn kéo vào. Mây đen nuốt chửng trăng sao, bóng tối trùm lên mặt đất. Côn trùng kêu thê thảm trên cây, nước cuồn cuộn trên sông.

- Phát điện! - Tư Mã Khố ở phía trúc bên trái tôi, ra lệnh. Anh ta bật lửa châm thuốc. Châm xong, vẩy một cái thật mạnh, tắt ngọn lửa.

Máy phát đặt ở ngôi nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi. Vài bóng đen lay dông. Một ánh đèn pin. Cuối cùng, máy nổ. Thoạt đầu, nổ to rồi nổ nhỏ, sau nổ đều. Một bóng điện phía sau đầu tôi phát sáng. Chà chà, quần chúng xúc động kêu lên. Tôi trông thấy những người phía trước đều ngoái lại nhìn ánh điện, những cặp mắt lóe sáng.

Cũng như đêm thứ nhất, một luồng ánh sáng tìm màn hình, những con thiêu thân va dập vào nhau trong cột sáng, bóng chúng to lên rất nhiều trên màn hình, các binh sĩ và dân chúng ngạc nhiên thán phục. Chỗ khác nhau so với đêm thứ nhất rất nhiều: Tư Mã Khố không nhảy dựng lên để ánh sáng xuyên qua vành tai trong suốt. Bốn bên bóng tối càng dày đặc thì ánh sáng càng chói lọi. Không khí ẩm ướt, hơi nước từ cánh đồng pha vào mặt. Gió rì rào trên ngọn cây. Tiếng chim ăn đêm lia ngang trên bầu Trời. Tiếng cá búng nước lóc bóc. Còn nữa, tiếng hắt hơi của những con lừa dưới chân đê, đó là những người ở rất xa đến. Tiếng chó sủa trong ngõ sâu. Chớp màu xanh lục ở phương nam như một tấm rèm, tiếng sấm nặng nề vọng tới sau khi tia chớp đã tắt. Chuyến tàu hỏa chở đầy pháo đạn chạy ầm ầm qua cầu Thuồng Luồng, tiếng bánh sắt đập vào đường ray hòa quyện với tiếng máy chiếu phim. Điều khác biệt lớn nhất là tôi không còn hứng thú với những hình ảnh trên màn hình. Buổi chiều, Tư Mã Lương nói nhỏ với tôi:

- Cậu này, bố cháu vừa mua một phim mói từ Thanh Đảo về, toàn là phụ nữ trần truồng.

- Bịa? - tôi nói.

- Thật mà, chú Đỗ nói vậy, đội trưởng đội Tiện y cưỡi mô tô đi lấy, lát nữa là đem về.

Kết quả là bịp, Tư Mã Lương nói không đúng. Tôi véo đùi hắn.

- Cháu không bịp cậu đâu, có lẽ chiếu phim cũ trước phim mới sau. Ta hãy đợi xem!

Tôi đã biết con gấu bị đạn như thế nào, cũng đã biết người đi săn và cô gái lăn lộn như thế nào, chỉ cần nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung ra tất cả. Thế là tôi đưa mắt dò xét tình hình phía trước và những người xung quanh.

Chiêu Đệ sau khi đẻ xong còn yếu, chị mặc chiếc áo khoác bằng dạ xanh hoa trắng, ngồi ghế thái sư màu tía dành riêng eho chị. Bên trái là Tư lệnh Tư Mã Khố, anh ta cũng ngồi ghế thái sư, áo khoác ngoài vắt trên thành ghế. Bên trái anh ta là Niệm Đệ, ngồi trên chiếc ghế mây. Chị mặc váy trắng không phải chiếc váy có đuôi dài. Chiếc này này cổ cao, dán chặt vào người. Thoạt tiên chị ngồi thẳng, cổ cũng duỗi thẳng. Cái đầu to của Tư Mã Khố ngoảnh sang bên phải làm như ngẫu nhiên, nói thầm gì đó vào tai Chiêu Đệ. Khi người đi săn trên màn hình hút thuốc, chị Chiêu Đệ đã mỏi cổ, lưng cũng mỏi, người chị lún sâu trong ghế, tôi thoáng thấy viên ngọc phỉ thúy long lanh trên đầu chị, thoáng ngửi thấy mùi long não trên quần áo chị, nghe rõ tiếng thở đều đều của chị.

Chị Niệm Đệ vẫn ngồi thẳng, cánh tay trái Tư Mã Khố động dậy, từ từ đưa tay sang, mờ mờ, như một nhánh cỏ đuôi chó. Tôi đã trông thấy tay anh ta đặt trên đùi chị Niệm Đệ. Chị vẫn ngồi ngay thẳng, làm như không biết chuyện gì. Tôi trong lòng không vui, giận không phải giận, sợ cũng không phải sợ. Cổ họng tôi khô bỏng, muốn ho. Một ánh chớp xé rách tầng mây trên đầm, cái tay của Tư Mã Khố vội rụt lại nhanh hơn chớp. Anh ta ho lên một tiếng như tiếng dế kêu, người lắc lư, nghiêng đầu nhìn cỗ máy chiếu phim. Tôi cũng nhìn sang, Bác-bit đang ngẩn tò te dòm vào cái lỗ trên máy chiếu.

Người đàn ông và người đàn bà trên màn hình ôm nhau, hôn nhau. Bọn lính của Tư Mã Khố thở phì phò. Bàn tay Tư Mã Khố thọc một cách thô bạo vào giữa hai đùi chị Niệm Đệ. Chị từ từ giơ tay trái lên sau gáy làm như sửa lại tóc, nhưng tôi trông thấy chị không sửa lại tóc, mà rút trâm cài đầu đâm thẳng xuống, dáng ngồi vẫn thẳng, như vẫn đang mê mải xem phim. Tư Mã Khố giật vai một cái, hít một hơi, không hiểu hơi lạnh hay hơi nóng. Anh ta từ từ rút tay trái về, lại ho một tiếng như tiếng dê. Anh ta giả vờ ho đấy thôi! Tôi thở ra như cất được gánh nặng, mắt vẫn nhìn lên màn ảnh nhưng không nhìn rõ những gì trên đó. Hai bàn tay tôi nhơm nhớp mồ hôi. Có nên cho mẹ biết điều bí mật kia không nhỉ? Không, không nên cho mẹ biết. Nhưng điều bí mật ấy mẹ đã đoán ra.

Những tia chớp sáng trắng, loằng ngoằn như thép chảy, soi sáng Bãi-Cát-Dài, nơi mà Hàn Chim và đồng đội của anh đã chiếm cứ, những cây, những nhà tranh vách đất. Dòng thép tung tóe, đội xuống những cây cối đen sẫm và những ngôi nhà màu vàng. Sấm động ầm ầm như gõ chiếc thùng sắt rỉ. Người đàn ông và người đàn bà lăn lộn trên bãi cỏ bên sông, khiến tôi nhớ lại câu chuyện đêm qua.

Đêm qua, Tư Mã Khố và chị Hai đã thuyết phục được mẹ đến xem phim ở nhà thờ: Cũng đến đoạn lăn lộn trên bãi cỏ, Tư Mã Khố lặng lẽ rút khỏi nơi chiếu phim. Tôi bám theo anh ta. Anh ta đi dọc theo bờ tường như một tên trộm, không giống viên Tư lệnh chút nào. Chắc hẳn xưa kia anh ta là tên trộm vặt. Anh ta nhảy vào vườn nhà tôi, từ bức tường thấp phía nam. Tôn Bất Ngôn cũng vào nhà tôi bằng con đường này, tiên Chim cũng rất quen thuộc. Tôi không nhảy tường. Tôi có cách vào của tôi. Mẹ để chiếc chìa khóa ở kẽ gạch bên cổng, tôi nhắm mắt là có thể sờ thấy. Nhưng tôi không vào bằng cổng. Phía dưới cánh cổng có một cái lỗ để chó chui ra chui vào, đó là khi bà nội còn sống. Chó không còn nữa nhưng lỗ thì vẫn còn. Tôi có thể chui qua. Tư Mã Lương và Sa Tảo Hoa cũng có thể chui qua. Xong rồi, tôi đã ở bên sau cổng. Đây là phòng xép, một bộ phận của dãy chái phía tây. Bước hai bước là vào chái. Gian chái vẫn ngổn ngang như cũ, cối xay bột, máng cỏ, đệm cỏ của Lai Đệ Chị phát bệnh cuồng dâm ngoài bãi cỏ. Để dề phòng chị phá lễ cưới của Bác-bit, Tư Mã Khố đã lấy thùng buộc một tay chị lên khung cửa sổ. Ba hôm rồi, chưa cởi. Tôi cho rằng em rể định cởi trói cho chị đi xem phim. Nhưng sau đó thì thế nào?

Thân hình hộ pháp của Tư Mã Khố càng tỏ ra đồ sộ dưới ánh sao. Anh ta đã mò đến nơi. Anh ta không phát hiện ra tôi. Tôi nấp sau cánh cổng. Anh ta bước vào gian chái, vấp phải chiếc thùng sắt tây. Đó là chiếc thùng để chị Lai Đệ đi tiểu. Lai Đệ cười khanh khách trong bóng tối. Một đốm lửa lóe lên, rất sáng, soi rõ chị Lai Đệ nằm trên đệm cỏ, đầu tóc rối bù, rằng trắng nhởn, chiếc áo ngoài che không kín da thịt. Sợ quá, như một con quỉ. Tư Mã Khố giơ tay vuốt má chị, chị không hề sợ. Bật lửa tắt, dê ở chuồng bên gõ móng. Tiếng cười của Tư Mã Khố.

- Chị vơ ơi! - Tư Mã Khố nói- Chị chẳng cuồng lên rồi đó sao? Có tôi đây...

Lai Đệ gào lên, như điên như cuồng, vẫn những điều tục tĩu như hôm ngoài bãi cỏ, chết khát thôi, chết thèm thôi...

Tư Mã Khố nói:

- Chị ơi, chị khát thì tôi thừa nước, chị là sóng thì tôi là thuyền, chị khô hạn thì tôi là mưa, tôi là cứu tinh của chị đây!

Hai người cuộn lấy nhau. Tiếng kêu của Lai Đệ còn lảnh lót hơn cả tiếng kêu của Tiên Chim trước kia...

Tôi lặng lẽ chui qua lỗ cổng ra ngõ, mồ hôi ướt đầm...

Khi phim sắp chiếu xong, Tư Mã Khố lẳng lặng trở về chỗ ngồi. Mọi người trông thấy Tư lệnh, bèn nhường lối. Khi anh ta đi qua chỗ tôi, tiện tay xoa đầu tôi một cái tôi ngửi thấy mùi vú của chị Lai Đệ trên tay anh ta. Anh ta ngồi xuống, ghé tai chị Hai nói câu gì đó, hình như chị Hai cười. Lúc này đèn điện bật sáng. Mọi người ngẩn ra một thoáng hình như chưa biết nên làm gì. Tư Mã Khố đứng lên nói to:

- Đêm mai chiếu ở ngoài, tôi muốn mọi người cùng hưởng phúc, biết thế nào là văn minh phương Tây! Mọi người như bừng tỉnh, tiếng ồn ào át cả tiếng máy chạy.

Sau đó, khi những người khác đã về hết, Tư Mã Khố hỏi mẹ:

- Thế nào, cụ? Không uổng đã đến xem chứ? Rồi đây tôi sẽ xây rạp chiếu phim ở Cao Mật. Thằng cha Bác-bit quả là giỏi. Có một chàng rể như thế, cụ nên cảm ơn tôi mới phải?

Chị Hai nói:

- Thôi, đưa mẹ về nhà.

Mẹ nói:

- Hãy cụp đuôi lại, chàng rể hiền của tôi, người vui chuyện gở, chó vui tranh phân, chưa hẳn đã tốt đâu!

Tôi không đoán ra từ đâu mẹ biết bí mật từ hồi đêm.

Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố và chị Hai đem lương thục đến cho, mẹ bảo:

- Rể Hai này, anh nán lại một lúc, tôi có chuyện muốn nói với anh!

Chị Hai nói:

- Chuyện gì mà sợ người khác nghe thấy?

Mẹ nói:

- Mày đi đi!

Mẹ dẫn Tư Mã Khố vào trong buồng nói:

- Anh tính như thế nào về nó?

Tư Mã Khổ nói:

- Ai cơ?

Mẹ nói: - Anh đừng giả vờ nữa!

Tư Mã Khố nói:

- Tôi không giả vờ!

Mẹ bảo:

- Hai con đường, anh hãy chọn lấy một.

Tư Mã Khố hỏi:

- Hai con đường nào?

Mẹ nói: Nghe đây! Một là anh lấy nó, vợ lớn hay vợ bé, hoặc không phân lớn bé, anh bàn với con Hai. Hai là anh giết nó đi!

Tư Mã Khố hai tay xoa ống quần, nhưng lần này khác hẳn cái hôm ở bãi cỏ. Mẹ nói:

- Sau ba hôm, anh phải chọn lấy một Anh về đi!

Chị Sáu ngồi im, như không có chuyện gì xảy ra. Tôi nghe tiếng ho như tiếng dê của Tư Mã Khố, vừa phấn khởi lại vừa buồn. Trên màn ảnh trước mặt, người đàn ông và người đàn bà nằm sát bên nhau dưới gốc cây, người nữ gối đầu trên cánh tay người nam. Người nữ ngước nhìn những quả lúc lỉu trên cây. Người đàn ông hình như có tâm sự gì đó, cắn cắn một nhánh cỏ. Người đàn bà chống tay ngồi dậy, nghiêng người nhìn thẳng vào mặt người đàn ông, nửa bầu vú lộ ra từ cổ áo, giữa hai vú là một rãnh sâu như đường đi của con lươn ở chỗ nước nông gần bờ. Tôi đã bốn lần trông thấy loại đường đó. Tôi khao khát được ngó vào trong rãnh. Nhưng người đàn bà đã dịch người sang một bên, cái rãnh biến mất. Chị ta lắc lắc người đàn ông, gào toáng lên. Người đàn ông nhắm mắt, miệng tiếp tục nhai cọng cỏ. Rồi người đàn bà tát vào mặt người đàn ông, ngoác cái miệng rộng ra khóc, tiếng khóc không khác là bao với tiếng khóc của phụ nữ Trung Quốc. Người đàn ông mở mắt, nhổ cọng cỏ vào mặt người đàn bà. Gió lắc dữ dội cây trên màn ảnh, những quả đập vào nhau, lá xào xạc từ bờ đê vọng lại. Không hiểu tiếng gió trên màn ảnh hay là tiếng gió từ ngoài sông ào tới, một ánh chóp xanh, tiếp theo là tiếng sấm nặng nề. Gió ào ào, mọi người có vẻ nhốn nháo, những phẩy trắng xuyên qua luồng ánh sáng. Mưa rồi, có người kêu lên. Người đàn ông đi về phía cỗ xe, người đàn bà chân trần, quần áo nhàu nát, vịn vào tay người đàn ông.

- Không chiếu nữa, hỏng mất máy chiếu!

Tư Mã Khố đứng chặn luồng ánh sáng. Mọi người hét lên, anh ta lại ngồi xuống. Trên màn ảnh, nước bắn tung lên, người đàn ông và người đàn bà nhảy xuống sông. Lại những tia chớp kéo dài, ánh đèn chiếu bị mờ hẳn đi. Mười mấy vật đen sì bay tới như những cục phân vãi ra từ tia chớp, một loạt tiếng nổ dữ dội trong đám đông, chủ yếu là nổ giữa Chì đội Tư Mã Khố. Tiếng nổ oàng oàng, chớp xanh chớp vàng, mùi thuốc súng nồng nặc xảy ra cùng một lúc. Không rõ từ lúc nào, tôi ngồi trên bụng một người. Tôi cảm thấy nhớp nháp trên đầu. Tôi sờ má, má dính nhơm nhớp, ngủi thấy mùi tanh của máu. Lập tức những tiếng kêu thất thanh, những người sợ đến mất trí chạy tán loạn, thấp thoáng những cái lưng, những cái đầu dẫm máu!

Những bộ mặt hoảng sợ trong luồng ánh sáng. Đôi nam nữ đang đùa rỡn trong nước trên màn ảnh bị xé ra từng mảnh vụn. Chớp. Sấm. Máu tươi, xương thịt tung tóe. Phim Mỹ. Lựu đạn. Đầu nòng súng phụt ra những con rắn lửa.

- Anh em, không được mất trật tự!

Lại một loạt tiếng nổ.

- ối mẹ ơi! ối con ơi!

Một cánh tay giãy đành đạch. Chân vướng ruột người. Những hạt mưa to như đồng bạc trắng. Những ánh chớp chói mắt. Một đêm đầy bí ẩn.

- Bà con, không được động đậy! Sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã không được động đậy! Nộp súng đầu hàng thì không giết! Hàng thì sống, chống thì chết?

Tiếng gọi từ bốn phía dồn tới, dồn tới...

5.



Tiếng nổ chưa dứt hẳn, vô số ngọn đuốc sáng rực đã từ tứ phía ập tới. Trung đoàn 17 thuộc trung đội 8 áo mưa màu đen, lưỡi lê lắp trên đầu súng, đi đều bước miệng hô khẩu hiệu, hùng dũng tiến vào. Cầm đuốc là những người dân quấn khăn mặt trắng trên đầu trong đó quá nửa là phụ nữ tóc cắt ngắn. Họ giơ cao ngọn đuốc, soi đường cho các binh sĩ trung đoàn 17. Đuốc làm bằng giẻ rách tẩm đầu, cháy như đình liệu. Chi đội Tư Mã nổ một loạt súng, các binh sĩ trung đoàn 17 đổ như ngã rạ, nhưng lập tức những người phía sau dồn lên lấp chỗ trống. Lại mấy chục quả lựu đạn ném tới, đất trời như vỡ tung. Tư Mã Khố kêu to:

- Đầu hàng thôi, anh em! Đừng làm hại đến dân!

Thế là súng vút ngổn ngang
dưới đất, chỗ những ngọn đuốc chiếu sáng. Hai bàn tay đầy máu, Tư Mã Khố bế chị Chiêu Đệ lên, gọi to:

- Chiêu Đệ, Chiêu Đệ, tỉnh lại đi!

Một bàn tay run run nắm lấy cánh tay tôi. Tôi ngẩng lên, qua ánh lửa tôi nhìn thấy chị Niệm Đệ mặt trắng nhợt nằm dưới đất, trên người là mấy xác chết cụt chân cụt tay.

- Kim Đồng, Kim Đồng!... Chị gọi tôi một cách khó khăn - Em còn sống đấy chứ?

Chị vươn hai tay về phía tôi, cầu khẩn:

- Em yêu, kéo giúp chị ra!

Tay tôi toàn máu là máu. Tay chị cũng đầy máu, nắm lấy như nắm con lươn, mạnh một tí là tuột. Lúc này mọi người đều nằm bẹp dưới đất không ai dám đứng dậy. Luồng ánh sáng trên máy chiếu vẫn rọi trên màn bạc, cảnh ân oán của đôi nam nữ người Mỹ đã đến hồi cao trào, người đàn bà giơ thật cao thanh đao trước mặt người đàn ông đang ngủ. Bác-bit đứng bên máy chiếu sốt ruột gọi:

- Niệm Đệ Niệm Đệ, em ở đâu?

- Em ở đây, Bác-bit, em ở đây!

Chị Sáu giơ một tay về phía Bác-bit của chị. Chị thều.. thào trong miệng, nước mắt nước mũi đầy mặt. Bác-bit. gắng gượng đi về phía chị Niệm Đệ, anh ta đi rất khó khăn, y hệt con ngựa bị lún trong bùn lầy.

- Đứng lại - Một tiếng gầm vang lên. Đoàng, một tiếng súng bắn chỉ thiên. Không được mất trật tự! Bác-bit như bị chém ngang lưng, đổ gục trên mặt đất.

Tư Mã Lương không biết từ đâu bò tới, tay trái rách thành một cái lỗ, máu me đầy mặt, tóc và cổ. Nó kéo tôi dậy, dùng bàn tay rắn rỏi sờ nắn khắp người tôi.

- Cậu còn nguyên vẹn cả, tay còn, chân còn - nó nói.

Nó cúi xuống lôi những cái xác nằm đè lên chị Sáu, đỡ chị dậy. Bộ quần áo chị Sáu dính đầy máu.

Dưới trời mưa nặng hạt như những mũi tên, chúng tôi bị dồn vào căn nhà để cối xay gió. Đây là công trình kiến trúc to nhất của thôn trấn. Giờ đây, nó bị biến thành trại tạm giam. Giờ nghĩ lại, khi đó chúng tôi có nhiều cơ hội trốn thoát, vì rằng mưa rào dập tắt nhanh chóng những cây đuốc trong tay dân phu của trung đoàn 17, các binh sĩ trong trung đoàn bị mưa quất không mở được mắt, chúng loạng choạng, lo thân còn chưa xong. ở đầu hàng quân chỉ có ánh sáng của hai cây đèn pin. Vậy mà không một ai chạy trốn. Kẻ bắt người và người bị bắt cùng lúng túng như nhau. Khi đến gần cánh cổng nhà xay, các binh sĩ của trung đoàn 17 tranh nhau vào trước, vượt cả chúng tôi.
Nhà xay rung lên dưới mưa. Qua ánh chớp, tôi nhìn thấy nước đổ như trút qua kẽ hở của những tấm tôn lợp. Nhìn ra ngoài hiên, dòng nước chảy cuồn cuộn, từ rãnh thoát nước trước cửa đến ngoài đường, trắng xóa một màu. Trong quãng đồng từ sân phơi đến nhà xay, tôi bị lạc chị Sáu và Tư Mã Lương. Trước mặt tôi là tên lính của trung đoàn 17, anh ta lộ xỉ, môi không che kín lợi, răng trắng nhởn như răng thỏ lộ hết ra ngoài. Cặp mắt màu xám của anh ta bị phủ một lớp hơi nước. Tôi cảm thấy nỗi tuyệt vọng và sợ hãi khiến tim anh ta như bị sâu bọ gậm nhấm. Sau một ánh chớp, anh ta hắt hơi một cái rõ kêu trong bóng tối, phả vào mặt tôi mùi thuốc lá lẫn mùi củ cải. Mũi tôi vừa cay vừa ngứa. Tiếng hắt hơi râm ran trong bóng tôi. Tôi muốn tìm chị Sáu và Tư Mã Lương, nhưng tôi không dám gọi, chỉ dựa vào tia chớp lóe lên trong khoảnh khắc để tìm trong tiếng sấm như bắt lấy hồn phách người ta và mũi thì ngửi toàn mùi lưu huỳnh. Tôi trông thấy sau lưng một tên lính bé nhỏ, là bộ mặt gầy guộc của thằng Gật. Hắn trông như quỉ nhập tràng vừa chui ra từ trong mộ, sắc mặt tím tái, tóc bết lại như hai cái bàn chải, quần áo dán chặt vào người, cổ dài ngoẵng, yết hầu như một quả trứng gà, xương ngực lồi lên, mặt hắn như đốm lửa lân tinh.

Khi trời gần sáng thì ngớt mưa, những tiếng ầm ầm trên mái tôn đã chuyển sang tiếng tí tách của giọt nước lọt qua kẽ hở. Sấm chớp giảm, màu sắc từ xanh lét đáng sợ chuyển sang màu vàng trắng ấm áp. Tiếng sấm xa dần, gió thổi theo hướng đông bắc, lạnh thấu xương, mọi người áp sát nhau, bất kể ai. Phụ nữ và trẻ con khóc trong bóng tối. Tôi cảm thấy như kiến bò ngược từ dưới chân lên, bụng dưới đau quặn, rồi toàn thân như một tảng băng. Giả dụ khi ấy có ai muốn ra khỏi nhà xay, chắc chắn không bị ngăn trở. Nhưng không có người nào bỏ trốn.

Sau đó, ngoài cổng có người đi tới. Trong trạng thái tê dại, tôi dựa vào cái mông đít của ai đó, người ấy cũng dựa vào tôi. Tiếng lội nước oàm oạp bên ngoài, tiếp đó mấy luồng ánh sáng vàng vọt rọi vào. Vài người trùm áo mưa chỉ hở hai con mắt hiện ra trước cổng, gợi vào trong:

- Các binh sĩ trung đoàn 17 ra hết bên ngoài chấn chỉnh đội ngũ.

Tiếng gọi khàn khàn, không phải giọng của anh ta. Giọng anh ta vốn oang oang, đầy kích động. Tôi nhận ra ngay một trong những người mặc áo mưa đó chính là Lỗ Lập Nhân, đại đội trướng kiêm chính ủy đại đội bộc phá. Cái tin anh ta thăng cấp, gia nhập trung đoàn 17, tôi đã có nghe hồi mùa xuân, bây giờ thì đã rõ ràng.

- Mau lên! - Lỗ Lập Nhân nói - Các đại đội đã nhận xong phòng ở, các đồng chí về ngay để ngâm chân, uống nước gừng!

Các binh sĩ trung đoàn 17 chen nhau ra khỏi nhà xay. Họ xếp hàng ngoài đường, vài người có vẻ cán bộ, tay cầm đèn bão, tranh nhau hô:

- Đại đội ba theo tôi! Đại đội bảy theo tôi! Bộ phận trục thuộc trung đoàn theo tôi!

Các binh sĩ lội bì bõm đi theo những chiếc đèn bão. Mười mấy binh sĩ mặc áo mưa, bồng súng bước tới, người trực ban báo cáo:

- Báo cáo trung đoàn trưởng, trung đội một, đại đội cảnh vệ đến canh gác tù binh.

Lỗ Lập Nhân giơ tay chào lại, nói:

- Canh gác cẩn mật, không cho đứa nào trốn thoát. Sẽ điểm danh khi trời sáng. Nếu tôi không lầm thì... - Hắn ngó vào trong nhà xay - Ông bạn Tư Mã Khố cũng trong đó.

- Tiên sư nhà mày! - Tư Mã Khố từ sau chiếc cối xay lớn chửi vọng ra - Thằng Tưởng Lập Nhân ti tiện kia, ông ở đây!

Lỗ Lập Nhân cười:

- Hẹn gặp lại khi trời sáng!

Lỗ Lập Nhân vội vã bỏ đi. Tay trung đội trưởng cảnh vệ to như hộ pháp đứng dưới ánh đèn, nói vào trong:

- Tôi biết có người có súng lục. Tôi ở chỗ sáng, các người ở trong tối, có thể bắn trúng tôi? Nhưng tôi khuyên các người hãy bỏ ý nghĩ đó đi, vì nếu có bắn thì chỉ bắn ngã một mình tôi, nhưng... - Anh ta quay lại chỉ đám binh sĩ - mười mấy băng tiểu liên này xả vào thì ngã xuống không chỉ có một. Chúng tôi ưu đãi tù binh, trời sáng sẽ phân loại không có tội và nếu tự nguyện tham gia đội ngũ, chúng tôi hoan nghênh. Người nào không muốn tham gia, chúng tôi cấp tiền lộ phí, cho về với gia đình.

Trong nhà xay không ai nói gì, chỉ có tiếng nước chảy ào ào. Đại đội trưởng chỉ huy đám lính kéo cánh cổng đã biến dạng, đóng cổng lại. ánh sáng vàng vọt của cây đèn bão lọt qua khe cửa, chiếu vào trong.

Các binh sĩ của trung đoàn 17 rút hết đi, trong nhà xay dễ thở hơn. Tôi mò mẫm lần đến chỗ có tiếng nói của Tư Mã Khố, vấp phải những cẳng chân nóng như lửa, nghe thấy những tiếng rên hừ hừ. Khu nhà xay này là kiệt tác của anh em Tư Mã Khố. Sau khi khánh thành, nhà xay không xay được một bao bột nào. Những cánh quạt chỉ một đêm giông bão đã gãy sạch, còn trơ lại cái trụ với những cánh nứt gãy, bốn mùa kêu kèn kẹt. Khu nhà xay rộng đến mức có thể làm nơi đua ngựa, mười hai chiếc cối xay như mười hai quả núi nhỏ ngồi chồm hổm trên bệ. Chiều qua tôi cùng Tư Mã Lương vừa đến quan sát nơi này. Tư Mã Lương nói nó sẽ đề nghị bố nó sửa chữa nhà xay thành rạp chiếu bóng. Khi bước chân vào trong nhà xay, tôi bất chợt rừng mình. Trong khu nhà rộng thênh thang có một đàn chuột hung tợn xông thẳng vào chúng tôi. Khi chỉ còn khoảng hai bước chân, chúng dùng lại. Một con chuột già lông trắng mắt đỏ, giơ những vuốt chân đẹp như điêu khắc băng ngọc thạch, vuốt râu. Cặp mắt ti hí của nó đảo như chớp. Sau lưng nó, mươi mấy con chuột xếp thành hình cánh cung, mắt vằn lên, chuẩn bị xông lên cắn xé. Tôi hoảng sợ lùi lại, đầu như muốn vỡ ra, lưng toát mồ hôi lạnh. Tư Mã Lương đứng chắn trước mặt tôi, nó chỉ đứng đến cằm tôi. Nó cúi xuống, rồi sau đó nó ngồi xổm, chiếu tướng con chuột già. Con chuột cũng không chịu lép, nó không vuốt râu nữa, ngồi chồm hổm như chó, cặp râu rung rung. Con chuột già nghĩ gì? Tư Mã Lương, thằng nhỏ tôi vốn không ưa rồi dấn dà trở thành thân cận của tôi, nghĩ gì? Chỉ đơn thuần là cuộc đấu giữa hai cặp mắt hay sao? Nó và con chuột đang tiến hành một cuộc đọ sức về tinh thần, chĩa mũi nhọn vào nhau xem ai nhụt trước. Tôi hình như nghe thấy con chuột nói rằng, đây là địa bàn của chúng tôi, các ông không nên thâm nhập. Tôi nghe Tư Mã Lương nói: Đây là nhà của ta, do bác ta và cha ta xây dựng nên. Ta về đây tức là về nhà, ta là chủ của ngôi nhà này. Chuột già nói: Được làm vua, thua làm giặc! Tư Mã Lương nói: Yếu trâu còn hơn khỏe bò. Chuột già nói: Ông là người chứ không phải trâu. Tư Mã Lương nói: Kiếp trước ta là mèo, nặng tám ký, mèo đực. Chuột già nói: Ông làm sao cho tôi tin kiếp trước của ông là mèo? Tư Mã Lương chống hai tay xuống đất, trợn mắt há miệng kêu meo meo. Tiếng dội lại meo meo. Chuột già kinh hoàng hạ hai chân trước xuống định bỏ chạy. Tư Mã Lương nhanh nhẹn vồ lấy con chuột quật chết tươi trong khi nó chưa kịp cắn. Những con còn lại chạy tán loạn. Tôi bắt chước Tư Mã Lương, vừa kêu meo meo, vừa đuổi đánh lũ chuột. Trong chớp mắt, lũ chuột chạy mất dạng. Tư Mã Lương cười, ngoảnh lại nhìn tôi. Trời ơi, mắt nó giống hệt mắt mèo, lóe lên những tia dữ dằn trong ánh hoàng hôn. Nó quẳng con chuột già vào lỗ cối xay. Hai chúng tôi mỗi thằng bám một tai cối, hết sức bình sinh mà đẩy nhưng cái cối không nhúc nhích, đành bỏ cuộc. Chúng tôi đi vòng một lượt các cối, cái nào cũng tốt. Tư Mã Lương nói:

- Cậu Kim Đồng, ta chung nhau mở nhà xay, cậu thấy thế nào?

Tôi không biết trả lời nó ra sao. Ngoại trừ vú và sữa, tôi chẳng thấy cái gì có ích cho tôi.

Buổi chiều hôm đó thật huy hoàng, ánh nắng xuyên qua khe hở và các ô cửa sổ, chiếu trên gạch lát nền men xanh. Trên nền có cứt chuột. Trong cứt chuột chắc chắn là có cứt dơi, vì rằng trên xà nhà treo lủng cẳng những con dơi cánh dỏ. Một con dơi quá to bằng chiếc đấu đang bò trên vì kèo. Tiếng kêu của nó tương xứng với cơ thể nó, lảnh lót và kéo dài, khiến tôi sởn gai ốc. Chính giữa cối đều **c một lỗ tròn bằng miệng bát, là đoạn gỗ sam chọc thẳng qua nóc chĩa lên trời, đầu đoạn gỗ lắp bánh xe gió. Tư Mã Khố và Tư Mã Đình cho rằng, chỉ cần có gió là những cánh trên bánh xe chuyển động, bánh xe sẽ chuyển theo, khúc gỗ sam tất nhiên cũng chuyển động. Nhưng thực tế đã nghiền nát ảo tưởng của anh em nhà Tư Mã. Tôi đi vòng quanh cối để tìm Tư Mã Lương, trông thấy mấy con chuột trèo lên trèo xuống thoăn thoắt chỗ cột gỗ sam. Trên thớt trên của cối có người đang ngồi. Đó là Tư Mã Lương, ánh mắt sáng rực. Nó thò bàn tay lạnh ngắt xuống năm lấy tay tôi. Được nó giúp sức, tôi đặt chân lên tai cối, trèo lên đỉnh thớt trên. Mặt thớt trên ẩm ướt, nước đầy lỗ.

- Cậu Kim Đồng, cậu còn nhớ con chuột già không?

Nó hỏi tôi, vẻ thần bí. Tôi gật đầu trong bóng tối.

- Nó ở đây - Tư Mã Lương nói nhỏ - Cháu định lột da nó để bà ngoại may cái chụp tai chống lạnh!

Một tia chớp yếu ớt lóe lên từ phương nam xa xôi, trong nhà xay rạng lên một thoáng. Tôi trông thấy con chuột trong tay Tư Mã Lương ướt đẫm nước, cái đuôi nhỏ và dài buông thõng một cách đáng ghét.

- Vứt nó đi! - tôi bảo.

- Sao lại vứt? - nó hỏi lại, giọng bất mãn.

- Kinh khủng, lẽ nào mày không thấy lợm giọng hay sao? - tôi nói.

Nó im lặng, trầm ngâm. Tôi nghe thấy tiếng con chuột rơi xuống lỗ cối.

- Cậu Kim Đồng này, họ sẽ làm gì bọn mình? - nó hỏi, vẻ lo ngại.

Đúng vậy, họ sẽ làm gì chúng tôi? Ngoài cửa, bọn lính đang đổi gác. Nước chảy ào ào trên đường. Tên lính thay gác hắt hơi như ngựa. Một tên nói.

- Lạnh thật, đâu phải là thời tiết tháng Tám, hay là sắp đóng băng?

- Nói nhảm - một tên khác nói.

- Cậu nhớ nhà không? - Tư Mã Lương hỏi tôi.

Một luồng hơi cay xộc lên sống mũi. Chiếc giường ấm sục, vòng tay ấm áp của mẹ, giấc mộng du của Câm-anh Câm- em, con dế sau bếp lò, sữa dê ngọt lịm, xương cốt mẹ kêu răng rắc và tiếng ho nặng nề, tiếng cười điên loạn của chị Cả, bộ lông mượt của con cú vọ, rắn ráo bắt chuột trong nhà kho... Tôi không nhớ nhà sao được! Tôi cố khịt cho thông lỗ mũi bị tắc.

- Cậu Kim Đồng, ta trốn đi! - Nó rủ tôi.

- Có lính ngoài cửa, trốn sao được? - tôi khẽ hỏi.

Nó nắm cánh tay tôi, bảo:

- Cậu xem cái cột gỗ sam này - Nó đặt tay tôi vào cái cột gỗ sam chọc thẳng lên mái nhà. Cái cột đẫm nước. Nó bảo: - Ta theo cái cột này mà lên, dỡ mái tôn chui ra!

Tôi do dự, nói:

- Lên rồi thì sao?

Nó bảo:

- Nhảy xuống là có thể về nhà.

Tôi tưởng tượng cái cảnh đứng trên mái tôn han rỉ phát ra những tiếng như tiếng trống mà rủn cả hai chân.

- Cao như thế...- tôi thì thào - nhảy xuống thì gãy cẳng!

Nó bảo:

- Không sao đâu, cháu đảm bảo vô sự. Mùa xuân vừa rồi cháu đã có lần nhảy xuống. Dưới hiên là những bụi đinh hương co dãn như lò xo!

Tôi nhìn lên chỗ tiếp giáp giữa cột và mái, nơi đó có một khoảng ánh sáng, nước mưa từ đó chảy xuống theo cái cột.

- Cậu ơi, trời sắp sáng, lên đi!

Nó sốt ruột giục tôi. Tôi gật đầu vì chẳng còn cách nào khác.

- Cháu lên trước, đội mái tôn lên - Nó tỏ vẻ thành thạo, vỗ vỗ vai tôi, nói: - Cho cháu đứng lên vai cậu?

Rồi hai tay ôm cột gỗ sam, hai chân đặt trên vai tôi, giục:

- Đứng dậy!

Tôi vịn cột lẩy bẩy đứng lên. Mấy con chuột tụ tập quanh chân cột ngã lăn ra. Tôi cảm thấy Tư Mã Lương dùng sức nhún trên vai tôi một cái, ôm cột trèo lên như một con thạch sùng. Cột rất trơn, lên rồi lại tụt, nhưng cuối cùng nó cũng lên được tới nóc nhà. Nó dùng tay đấm tấm tôn lợp, nước đọng chảy qua kẽ hở, trút xuống dưới nhà. Mặt tôi, miệng tôi đầy nước có mùi tanh của gỉ sắt và cả những gỉ vụn. Tư Mã Lương thở nặng nhọc trong bóng tối, mái tôn cạch lên một tiếng, nước đổ xuống như thác, tôi phải ôm chặt lấy cây cột mới không bị ngã. Tư Mã Lương dùng đầu đội tấm tôn lên để mở rộng lỗ hổng. Tấm tôn cong dần rồi bật ra, một mảng trời hình tam giác méo mó hiện ra trên đỉnh đầu ánh sáng màu trắng **c soi qua kẽ hở, tôi trông thấy mấy ngôi sao mờ mờ trên nền trời.

- Cậu Kim Đồng! Nó đứng trên xà nhà gọi với xuống - để cháu lên trước thăm dò rồi quay xuống cứu cậu lên! Nó dướn mình lên, thò đầu ra khỏi cái lỗ hình tam giác.

- Có người trên nóc nhà! - Các binh sĩ ngoài cửa kêu lên. Tiếp đó là những luồng lửa sáng rực, đạn bắn bôm bốp vào mái tôn. Tư Mã Lương ôm cột tụt vội xuống, suýt đè gãy cổ tôi. Nó vuốt nước trên mặt, nhổ gỉ sắt khỏi miệng, hàm răng va vào nhau lập cập, nói:

- Lạnh quá, lạnh quá?

Giờ phút tối lại để sáng đã qua, trong nhà xay sáng dần lên. Tôi và Tư Mã Lương ôm chặt lấy nhau, tôi cảm thấy trái tim của nó áp sát ngực tôi, đập thình thịch như chim sẻ. Tôi khóc vì tuyệt vọng. Nó **ng khẽ cái đầu trọc vào cằm tôi, nói:

- Cậu đừng khóc! Chúng nó không dám hại cậu đâu. Chồng dì Năm là quan to của chúng!

Giờ đây đã nhìn rõ quang cảnh trong nhà xay. Mười hai thớt cối xay màu xanh xám dáng vẻ uy nghi. Tôi và Tư Mã Lương chiếm một thớt. Chóp mũi nó có một giọt nước, lung linh trước mặt chúng tôi. Trên tất cả những cối xay còn lại đều có chuột. Chúng co cụm lại một chỗ, những cặp mắt ti hí đen láy, đuôi như những con giun. Chúng vừa đáng thương vừa đáng ghét. Mặt đất lõm bõm những nước. Nước trên mái nhà vẫn tiếp tục rỏ giọt. Các sĩ quan và binh lính Chi đội Tư Mã Khố đứng tựa vào nhau, quân phục màu xanh trên người biến thành màu đen. ánh mắt và sắc mặt của họ giống lũ chuột trên cối đến kinh người. Những người dân bị kẹt, phần lớn tụm lại một chỗ, chỉ một số ít trà trộn trong đám binh sĩ của Tư Mã Khố chẳng khác kê mọc lẫn ngô ở ngoài đồng. Đàn ông xen lẫn đàn bà, nam nhiều hơn nữ, mấy đứa trẻ nằm trong lòng mẹ, rên hừ hừ như con mèo hen. Đám phụ nữ đều ngồi dưới đất, đám đàn ông có người ngồi xổm, người đứng tựa vào tường. Tường trong nhà xay đều quét vôi, vôi ẩm dính đầy lưng áo đám đàn ông, khiến những chỗ đó biến thành màu khác. Tôi phát hiện ra cô mắt hiếng trong đám đông. Cô ngồi duỗi hai chân trong vũng nước, lưng tựa vào lưng một phụ nữ khác. Cô ngoẹo đầu như cổ đã bị gãy. Cô Kim Một Vú thì ngồi trên mông một người đàn ông. Người đàn ông ấy là ai? Anh ta phủ phục trên mặt đất, áp má trong vũng nước, bộ râu bạc phơ phất, xung quanh chòm râu có những cục máu rung rinh như bọ gậy. Cô Kim chỉ có một bên vú phải, ngực bên trái phẳng lì, khiến vú phải càng đồ sộ, chẳng khác quả núi mọc giữa đồng băng. Núm vú cô vừa to vừa cứng, đội căng làn áo mỏng, lúc hưng phấn có thể treo một lọ nước hoa mà không rơi, nên cô Kim mới có biệt hiệu Lọ-nước-hoa. Mấy chục năm sau, khi tôi phủ trên tấm thân không một mảnh vải của cô, mới phát hiện ra vú trái cô thoái hóa tới mức không để lại mọt vết tích, đầu vú chỉ như một nốt ruồi để chứng tỏ cái vú đã từng tồn tại. Cô ngồi trên cái mông người chết, hai tay vuốt mặt như người bị tâm thần, cứ vuốt một cái trên mặt lại chùi hai cái trên đầu gối, làm như cô vừa chui ra khỏi mạng nhện, mặt vướng đầy tơ. Những người khác thì mỗi người một vẻ, người khóc người cười, người nhắm mắt nói lảm nhảm, người lắc cổ không lúc nào ngừng như con rắn dưới nước, như chim hạc trên bờ. Người có thân hình thanh mảnh kia là vợ anh bán mắm tôm Cảnh Đại Lạc, quê Bắc Hải. Người phụ nữ đầu nhỏ cổ cao, cái đầu nhỏ đến nỗi hoàn toàn không tương xứng với thân thể. Có người bảo chị ta là rắn hóa thành người. Cái đầu và cổ của chị qua thật giống rắn, ló hẳn lên trên đầu đám phụ nữ, trong ánh sáng mờ mờ, cái đầu lắc lư chúng tỏ chị ta đúng là rắn. Chị lại rụt cố xuống. Tôi không dám đến xem thân hình chị ta, mắt trợn tròn vì sợ, hình ảnh chị cứ lởn vởn trong đầu tôi.

Một con rắn to màu xanh vỏ chanh từ trên cột gỗ sam bò xuống. Đầu nó dẹt như cái muỗng xúc cơm, lưỡi đỏ chót không ngừng bắn ra khỏi miệng. Khi đầu nó vừa chạm thớt trên của cối, liền trườn ra một cách mềm mại thành một góc vuông rồi nhẹ nhàng bò đến gần lũ chuột ở giữa cối. Lũ chuột giơ chân trước lên kêu chí chí. Khi cái đầu con rắn trườn đi, phần thân của nó quấn quanh cột vẫn tiếp tục chuyển động, trông như không phải con rắn mà là cái cột chuyển động xoay tròn. Cái đầu con rắn đến giữa thớt cối thì ngóc lên cao đúng một thước, bạnh cổ bằng hai bàn tay chập lại, những hoa văn trên cổ dồn đuổi nhau không ngừng bạnh ra thu vào, cái lưỡi phóng ra càng nhanh, càng đáng sợ, rít lên thành tiếng. Lũ chuột chôn chân tại chỗ, rúm người lại chỉ còn một nửa. Một con đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước vươn ra như cầm sách để đọc, rồi đột nhiên nhảy vào miệng rắn khi ấy há to như cái phễu. Sau đó, con rắn ngậm miệng lại, một nửa con chuột thò ra ngoài, cái đuôi dài ve vảy một cách tức cười.

Tư Mã Khố ngồi trên một khúc gỗ sam đầu cúi gằm, tóc tai rối bù. Chị Hai nằm dài vắt qua gối đầu ngả vào nách anh ta. Da cổ chị nhăn thành nhiều nếp, mặt trắng bệch, miệng há hốc. Chị đã chết. Bác-bít ngồi kề bên Tư Mã Khố, những nét già nua hằn trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Nửa người trên của chị Sáu nằm đè lên đầu gối Bác-bít, run lên từng cơn. Bác-bít dùng bàn tay hộ pháp nhăn nhúm vì nước mưa, ve vuốt bờ vai chị Sáu. Sau cánh cổng mục, một người gầy guộc đang tính chuyện tự vẫn, chiếc quần dài tụt dưới mông, quần lót màu cháo lòng lấm đầy bùn. Ông ta định buộc đầu thắt lưng bằng vải lên khung cổng, nhưng vì khung quá cao, ông ta cứ kiễng mãi mà không tới. Nhìn sau gáy, tôi biết ông ta. Đó là Tư Mã Đình, bác của Tư Mã Lương. Cuối cùng, ông ta mệt, xốc quần lên, thắt lại thắt lưng, quay lại nhìn chúng tôi cuối, tỏ vẻ xấu hổ, ngồi phệt xuống bùn mà khóc tướng lên.

Gió sớm mai từ ngoài đồng thổi vào như con mèo đen ẩm ướt. Con mèo đen miệng ngậm chú cá giếc long lanh vẩy bạc, ung dung đi trên mái tôn. Mặt trời đỏ như máu nhô lên từ đầm lầy mênh mông những nước là nước, vẻ mệt mỏi. Lũ tràn lên, sông Thuồng Luồng réo ào ào, phá tan bầu không khí tĩnh mịch của ban mai. Chúng tôi ngồi trên thớt cối, bắt gặp ánh nắng màu hồng mờ mờ sương. Sau một đêm mưa xối xả, những ô kính cửa sổ sạch bong, cánh đồng tháng Tám không bị cây che khuất hiện rõ mồn một. Bụi bậm trên đường trôi sạch, lộ ra nền đất cứng. Mặt đường trơn bóng, hai con cá chép bị mắc cạn nằm ườn ra trên đường, chưa chết hẳn, cái đuôi thỉnh thoảng lại quẫy một cái. Hai người đàn ông mặc quân phục màu xám, một cao một thấp, người cao gầy người thấp béo, khênh sọt loạng choạng đi tới, trong sọt có mười mấy con cá to, toàn là cá chép và trắm cỏ ngoài ra còn có một con lươn to màu kim nhũ. Họ sung sướng khi phát hiện hai con cá chép trên đường phố, vội khênh sọt chạy tới, dáng chạy vất vả, y như con vịt buộc vào con hạc.

- Cá chép? Người béo và lùn kêu lên.

Khi họ cúi nhặt cá, tôi trông thoáng khuôn mặt họ. Đúng là hai người phục vụ hôm tiệc cưới. Họ là hai tên nội ứng của trung đoàn 17. Bọn lính gác đứng nhìn những người nhặt cá. Người trung đội trưởng phụ trách canh gác ngáp dài, bước tới bảo:

- Lưu béo, Hầu gầy này, các anh đúng là lấy trứng trong đũng quần, bắt cá trên cạn.

Hầu gầy nói:

- Trung đội trưởng Mã, anh vất vả quá?

Trung đội trưởng Mã nói:

- Vất vả thì kể gì, đói mềm người ra đây!

Lưu béo nói:

- Phải khao quân một bữa canh cá mới được, thắng to thế kia mà?

Trung đội trưởng Mã nói:

- Vài con cá thì ăn nhằm gì, chỉ béo bọn nhà bếp!

Hầu gầy nói:

- Anh to nhỏ gì cũng là cán bộ, cán bộ thì phải nói có sách mách có chứng, phê bình phải chú ý khía cạnh chính trị, không nên nói bừa!

- Đùa thôi mà, sao lại cho là thật? - Trung đội trưởng Mã nói - Hầu gầy này, mới có mấy tháng không gặp nhau mà cậu mồm mép khác hẳn!

Trong khi bọn lính đang cãi vã, mẹ chậm rãi đi tới, dáng đi nặng nề nhưng vững vàng dưới ánh nắng ban mai.

- Mẹ ơi! - Tôi vừa khóc vừa nhảy xuống, muốn bay tới sà vào lòng mẹ, nhưng tôi đã bị ngã sóng soài trên vũng bùn.

Khi tôi tỉnh lại, đầu tiên tôi trông thấy là khuôn mặt xúc động của chị Sáu, Tư Mã Khố, Tư Mã Đình, Bácbít, Tư Mã Lương.

- Mẹ đến đấy? - tôi bảo chị Sáu - chính mắt em trông thấy!

Tôi nhoài khỏi cánh tay chị Sáu chạy ra cửa, loạng choạng va phải một người, chạy tiếp, lại va phải vai một người nữa, lại chạy, cố sức rẽ đám đông. Cánh cổng chặn đường ra của tôi. Tôi đấm cửa thình thình, gào to:

- Mẹ ơi, mẹ!

Một tên lính gác thò đầu súng tiểu liên qua lỗ hổng, quát to:

- Không được ồn, sau bữa sáng sẽ thả các ngươi. Mẹ nghe thấy tiếng gào khóc của tôi, nhịp bước nhanh hơn. Mẹ nhảy qua cái rãnh bên đường, nhăm cổng nhà xay đi tới. Trung đội trưởng Mã ngăn mẹ lại:

- Đề nghị bác dùng lại!

Mẹ giơ tay gạt trung đội trưởng ra, không nói một lời tiếp tục tiến lên. Mặt mẹ đỏ rực như bôi lên một lớp máu, miệng méo xệch vì giận dữ.

Bọn lính gác vội vàng nhích lại gần nhau dàn thành một hàng ngang như bức tường sơn đen.

- Đứng lại, các bà đứng lại!

Trung đội trưởng Mã túm vai mẹ. Mẹ dưới lên cố giằng khỏi tay anh ta.

- Bà là ai! Bà muốn gì? - Trung đội trung Mã giận dữ hỏi, đẩy ngược mẹ một cái, mẹ lùi lại mấy bước, suýt ngã.

- Mẹ ơi! - Tôi gào lên sau cánh cổng.

Mẹ đứng thẳng lên, miệng mở to, tiếng gừ gừ trong họng. Mẹ bất chấp tất cả, lao tới.

Trung đội trung Mã đẩy một cái thật mạnh, mẹ ngã lăn xuống rãnh. Nước bắn tung tóe. Mẹ lộn một vòng trong rãnh rồi ngồi dậy, nước lút đến bụng. Mẹ trườn lên bờ rãnh, ướt như chuột lột, tóc bết bùn và nước bẩn. Một chiếc giày của mẹ đã mất, bàn chân tàn phế để trần, mẹ cà nhắc xông tới.

- Đứng lại? - Trung đội trưởng Mã lên cò súng, chĩa tiểu liên vào giữa ngực mẹ, hầm hầm: - Mụ định cướp tù hay sao?

Mẹ nhìn hắn bằng con mắt hằn học, nói:

- Tránh ra!

- Vậy mụ muốn gì? - Trung đội trưởng hỏi.

Mẹ gào lên:

- Tôi tìm con trai tôi!

Tôi càng gào to hơn, Tư Mã Lương đứng bên tôi cũng gọi:

- Bà ngoại ơi!

Chị Sáu cũng gọi:

- Mẹ ơi!

Bị lây tiếng khóc của chúng tôi, tất cả phụ nữ trong nhà xay đều khóc ầm lên. Tiếng khóc của phụ nữ xen

lẫn tiếng hỉ mũi của đàn ông và tiếng chửi của những tên lính.

Các binh sĩ vội vàng đằng sau quay, chĩa súng vào cánh cổng.

- Không được ồn! - Trung đội trưởng Mã quát - lát nữa sẽ thả các người?

- Bác ơi - Trung đội trưởng Mã ôn tồn bảo mẹ - Bác cứ về trước, chỉ cần con trai bác không tầm bậy là chúng tôi thả.

- Con tôi! - Mẹ chạy vòng qua trung đội trưởng Mã, gào to.

Trung đội trưởng Mã nhảy một bước đứng chặn trước mặt mẹ, nghiêm giọng nói:

- Tôi cảnh cáo bác, nếu bác tiến lên một bước là tôi không khách khí đâu đấy?

Mẹ nhìn thẳng vào mặt trung đội trưởng, hỏi khẽ:

- Ông có mẹ không? Ai đẻ ra ông?

Mẹ giơ thẳng cánh, cho trung đội trưởng Mã một bạt tai, rồi bỏ đi. Bọn lính gác rẽ sang hai bên nhường đòng cho mẹ.

Trung đội trưởng ôm mặt ra lệnh:

- Chặn mụ lại! Bọn lính gác bất động, làm như không nghe tiếng. Mẹ đứng trước cổng, tôi thò tay qua kẽ hở vừa gọi vừa vẫy rối rít.

Mẹ rút cái then cổng bằng sắt, tôi nghe thấy tiếng thở nặng nhọc của mẹ. Chiếc then cửa rung lên, một tràng đạn bắn vào phía trên cánh cổng, tiếng súng chói chang, những mảnh gỗ rơi xuống đầu tôi.

- Mụ kia, đứng im, cử động là ta bắn! - Trung đội trưởng Mã gầm lên, lại bắn chỉ thiên một tràng nữa.

Mẹ rút bỏ then sắt, đẩy cổng ra. Tôi mất đà, chúi vào lòng mẹ. Tư Mã Lương và chị Sáu cũng nhào tới. Lúc này, trong nhà xay có tiếng người hô:

- Anh em ơi xông ra, lát nữa là chết tất?

Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã ùa ra như nước lũ. Chúng tôi bị những người đàn ông khỏe mạnh hất bắn sang bên. Tôi ngã, mẹ nằm đè lên tôi.

Trong nhà xay nhốn nháo, tiếng khóc, tiếng gầm, tiếng rú thê thảm hòa làm một. Bọn lính gác của trung đoàn 17 bị xô ngã dúi dụi, các binh sĩ của Chi đội Tư Mã tước lấy súng. Tiếng nổ làm cửa kính rung lên lanh canh. Trung đội trưởng Mã ngã xuống rãnh. Hắn đứng trong nước quét một vòng, hơn chục binh sĩ trong Chi đội Tư Mã đổ gục như ngả rạ. Các binh sĩ Chi đội Tư Mã chồm lên người trung đội trưởng Mã, đè hắn xuống rãnh đấm đá loạn xạ.
Binh mã của trung đoàn 17 chạy tới, vừa chạy vừa lên cò súng bắn vung vãi. Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã chạy tán loạn, những viên đạn vô tình đuổi theo họ. Chúng tôi áp sát lưng vào tường nhà xay, dùng tay đẩy lui những người lấn tới.

Một người lính của trung đoàn 17 quì bắn dưới gốc cây bạch dương, tay giương súng, mắt nhằm bắn, cứ mỗi lần cây súng nẩy lên là một binh sĩ của Chi đội Tư Mã ngã xuống. Súng nổ đoàng đoàng, những vỏ đạn nóng bỏng rơi xuống nước bốc khói. Người lính lại nhằm một người thân hình cao lớn, đen nhẻm. Người đó đã chạy được mấy trăm thước. Anh ta nhảy trên ruộng đậu như con chuột túi. Đến chỗ ruộng dâu tiếp giáp với ruộng cao lương, người lính già từ tốn lẩy cò, một tiếng đoàng, người đang chạy cắm đầu xuống đất. Người lính già kéo cơ bẩm, một vỏ đạn văng ra.

Trong đám người nhốn nháo, Bác-bít nổi lên như một con la giữa đàn dê, cứ ngơ ngơ ngác ngác. Đàn dê kêu be be, xô đẩy nhau mà chạy. Bác-bít cất đôi chân dài ngoẵng với những bước nặng nề, chạy theo đám người, chân dẫm bùn nhem nhép. Anh chàng câm Tôn Bất Ngôn hung hãn như một con hổ đen, cùng với hơn chục đội viên cảm tử hò hét, múa đao chặn đàn dê. Đàn dê không kịp tránh bị chém bể đầu mấy con, tiếng kêu thê thảm vang vọng khắp cánh đồng. Đàn dê mất phương hướng, tiện đâu rúc đó. Bác-bít sợ tái người, nhìn tứ phía trong khoảnh khắc. Tôn Bất Ngôn xông tới. Bác-bít chợt tỉnh, bèn bỏ chạy thục mạng, mép sùi bọt, thở hồng hộc. Người lính già dưới gốc cây bạch dương nhằm bắn Bác-bít.

- Lão Tào, đừng bắn? - Lỗ Lập Nhân từ trong đám đông nhảy vọt ra, quát - Các đồng chí, không bắn người Mỹ đó!

Các binh sĩ khép dần vòng vây như người ta kéo lưới, các tù binh vẫn chạy nháo nhào trong khoảng hẹp đó chẳng khác đàn cá trong lưới, dần dà dồn cục lại ở quãng đường trước cổng nhà xay.

Thằng Câm nhảy xổ vào đám tù binh, đấm Bác-bít một quả. Bác-bít bị xoay một vòng, lại đối diện với Thằng Câm. Bác-bít xổ ra một tràng toàn tiếng tây, không hiểu anh ta chửi hay phản kháng. Thằng Câm giơ đao lên, ánh thép lấp lóa. Bác-bít giơ cánh tay lên làm như che ánh sáng lạnh của thanh đao.

- Bác-bít? - Chị Sáu từ chỗ mẹ loạng choạng chạy ra, nhưng chỉ được mấy bước liền ngã vật xuống, bàn chân trái của chị ló ra phía bên chân phải, người ngã nghiêng xuống đống bùn.

- Chặn Tôn Bất Ngôn lại - Lỗ Lập Nhân ra lệnh.

Mấy đội viên cảm tử đứng sau thằng câm níu lấy cánh tay thằng câm. Hắn gào thét điên cuồng, hất văng các đội viên cảm tử như những bó rạ. Lỗ Lập Nhân nhảy qua rãnh nước sang đứng bên đường, giơ một tay lên rất cao, gọi:
- Tôn Bất Ngôn, chú ý chính sách đối với tù binh!

Trông thấy Lỗ Lập Nhân, Tôn Bất Ngôn không vùng vẫy nữa. Các đội viên cảm tử bỏ tay hắn ra. Hắn giắt đao vào thắt lưng, giơ những ngón tay như gọng kìm túm lấy áo Bác-bít lôi đến trước mặt Lỗ Lập Nhân. Bác-bít nói mấy câu tiếng tây với Lỗ Lập Nhân. Lỗ Lập Nhân cũng nói lại vài câu ngắn gọn và giơ bàn tay chém vào không khí. Bác-bít im lặng. Chị Sáu giơ hai tay về phía Bác-bít tỏ vẻ cầu cứu miệng rên rỉ:

- Bác-bít!....

Bác-bít nhảy qua rãnh nước, xốc chị Sáu dậy. Cái chân trái của chị như đã chết. Bác-bít ôm eo chị, cố súc xốc chị dậy, chiếc váy lấm bê bết tụt xuống hở cái mông thâm tím. Chị ôm cổ Bác-bít. Bác-bít đỡ hai bên nách chị, rồi cả hai đứng lên. Bác-bít nhìn thấy mẹ, anh ta dìu chị Sáu nhích về phía mẹ, nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Mẹ ơi! - môi anh ta run run, những giọt nước mắt lăn trên má.

Nước trong rãnh bắn tung tóe. Trung đội trưởng Mã gạt mấy cái xác đè trên người, lồm cồm bò dậy như một con cóc khổng lồ, bùn nước và máu dính trên áo mưa như những đốm trên thân con cóc, hai chân khuỳnh ra, run rẩy đứng lên, trông vừa đáng thương vừa tội nghiệp, thoạt trông như một con gấu, trông kỹ giống người anh hùng. Một mắt anh ta bị đánh lòi ra ngoài, con ngươi trong như thủy tinh lủng lẳng trên sống mũi. Anh ta gãy hai răng cửa, cằm rắn như thép rỉ máu.

Một nữ binh đeo túi chạy tới đỡ trưởng đội trưởng Mã đang ngật ngưỡng.
- Thưa đội trưởng, ở đây có thương binh nặng! - Người nữ binh gọi, thân hình mảnh dẻ của cô ta oằn xuống dưới sức nặng của trung đội trưởng Mã.

Lúc này, Phán Đệ to béo dẫn hai dân phu vác cáng chạy tới. Chiếc mũ lính bé tí đội trên đầu, dưới vành mũ là khuôn mặt rộng, béo núc ních, chỉ có hai vành tai lộ ra dưới mái tóc ngắn là giữ được vẻ thanh tú của phụ nữ nhà Thượng Quan.

Không do dự, chị dứt bỏ con ngươi lòi ra của trung đội trưởng Mã, tiện tay vứt ngay bên cạnh. Con mắt đảo một cái rồi nằm yên, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt căm thù.

- Đội trưởng ơi, nói với Lỗ đoàn trưởng là...- Trung đội trưởng Mã chỉ mẹ nói - chính mụ ta mở cổng?

Chị Phán Đệ băng quanh đầu cho trung đội trưởng Mã hết vòng nọ đến vòng kia, cho đến khi không thể há miệng.

Chị Phán Đệ đứng trước mặt chúng tôi, lúng búng gọi mẹ.

Mẹ nói:

- Tôi không phải là mẹ của bà!

Chị Phán Đệ nói:

- Con đã nói rồi, mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây, phải xem lại mình đã chứ?

Mẹ nói:

- Tôi xem rồi, tôi đã thấy tất cả?

Chị Phán Đệ nói:

- Nhà có chuyện gì con đều biết. Mẹ không đối xử tệ với con gái của con, con sẽ giải thoát cho mẹ?

Mẹ nói:

- Chị không cần giải thoát cho tôi, tôi sống quá đủ rồi!

Chị Phán Đệ nói:

- Chúng con đã lấy lại được thiên hạ rồi!

Mẹ nhìn lên bầu trời đầy mây, lẩm bẩm...

- Chúa ơi, Người hãy nhìn kỹ đi, nhìn kỹ cái thế giới này đi!

Chị Phán Đệ bước tới, lạnh lùng xoa đầu tôi. Tôi ngửi thấy trên tay chị cái mùi thuốc mà tôi không ưa. Chị không xoa đầu Tư Mã Lương, tôi đoán chắc Tư Mã Lương không cho chị xoa đầu nó. Hàm răng như răng thú nhỏ của nó nghiến ken két, chắc chắn sẽ cắn đứt ngón tay chị khi chị xoa đầu nó. Chị Phán Đệ mỉm cười châm biếm, bảo chị Sáu:

- Đẹp mặt, đế quốc Mỹ đang cung cấp máy bay đại bác cho kẻ thù của chúng ta tàn sát nhân dân vùng giải phóng!

Chị Sáu ôm Bác-bít, nói:

- Chị Năm tha cho chúng em! Các người đã giết chết chị Hai, chẳng lẽ định giết hết chúng tôi hay sao?

Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra. Nhân lúc binh sĩ của anh ta ùa ra cổng, anh ta lẳng lặng ở lại trong nhà. Con người xưa nay vẫn ăn mặc tươm tất, đánh bóng từng cái cúc áo vậy mà chỉ qua một đêm đã khác hẳn, mặt hằn những vết nhăn, mắt thâm quầng, tóc đốm bạc. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu.

Miệng mẹ càng méo xệch đi, miệng run lên không nói được một câu cho trọn nghĩa, nước mắt đầm đìa. Mẹ giơ tay sờ trán chị Hai, tay kia đõ lấy cằm nói:

- Chiêu Đệ, con của mẹ! Người là do con chọn, con đi đường của con, mẹ không ngăn được con, cũng không cứu nổi con, các con đều... thôi thì phó mặc cho trời!

Tư Mã Khố đặt thi thể chị Hai xuống đất, tiến về phía Lỗ Lập Nhân đang đi tới, xung quanh là mười mấy vệ binh. Hai người còn cách nhau vài bước chân thì dừng lại, bốn mắt nhìn nhau tóe lửa, hồi lâu mà vẫn không bên nào chịu thua bên nào. Lỗ Lập Nhân cười khan ba tiếng:

- Ha ha, ha ha, ha ha ha!

Tư Mã Khố cũng cười nhạt ba tiếng: - Hà hà, hà hà, hà hà hà?

- Tư Mã huynh, xin chớ trách? Chưa đầy một năm kể từ khi huynh đuổi ta ra khỏi vùng này, không ngờ hôm nay số phận đó lại rơi trên đầu huynh!

Tư Mã Khố nói:

- Vay nóng trả vội thôi, có điều, huynh phải trả một giá quá đắt đấy!

Lỗ Lập Nhân nói:

- Về chuyện quí phu nhân bất hạnh qua đời, ta cũng rất đau xót, nhưng biết làm thế nào! Cách mạng như mổ cái ung nhọt, tránh sao cắt bỏ ít da thịt! Nhưng ta không thể vì sợ phương hại đến da thịt mà không cắt bỏ cái ung, huynh nên hiểu điều đó!

Tư Mã Khố nói:

- Đừng nhiều lời nữa, cho ta chết quách cho rồi!

Lỗ Lập Nhân nói:

- Chúng tôi không thể xử tử huynh một cách đơn giản như vậy.

Tư Mã Khố nói:

- Vậy thì xin lỗi, ta tự giải quyết vậy. Anh ta móc khẩu súng mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói:

- Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! - Rồi đưa súng lên thái dương.

Lỗ Lập Nhân cười lớn:

- Rốt cuộc cũng chỉ là thằng hủ nho? Tự sát hả, đồ hèn?

Tay cầm súng của Tư Mã Khố run bắn lên.

Tư Mã Lương gào to: - Bố ơi!

Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói:

- Cầm lấy!

Lỗ Lập Nhân giơ tay bắt lấy khẩu súng tung trong tay, nói:

- Đây là đồ chơi của phụ nữ - Hắn ném khẩu súng cho người ở phía sau một cách khinh miệt, rồi dận đôi giày da sưng phồng vì nước mưa và bùn, nói: - Quả thực khi đã nộp súng, ta không có quyển bắn chết huynh nữa. Cấp trên của ta sẽ chọn cho huynh một con đường, hoặc lên trời, hoặc xuống địa ngục!

Tư Mã Khố lắc đầu, nói:

- Ngươi nói không đúng rồi, thiên đường hay địa ngục đều không dành cho chúng ta. Chỗ của ta là khoảng giữa thiên đường và địa ngục. Rồi thì ngươi cũng như ta thôi!

Lỗ Lập Nhân bảo người đứng bên:

- Giải hắn đi!

Vệ binh bước tới, chĩa súng vào Tư Mã Khố và Bác-bít, nói:

- Đi!

Tư Mã Khố gọi Bác-bít:

- Đi thôi! Chúng có thể giết tôi một trăm lần, nhưng không dám **ng đến cái lông chân của anh đâu?

Bác-bít dìu chị Sáu đến bên Tư Mã Khố. Lỗ Lập Nhân nói:

- Phu nhân Bác-bít có thể ở lại.

Chị Sáu nói:

- Đoàn trưởng Lỗ, ông hãy thể tình mẹ tôi đã nuôi nấng Lỗ Thắng Lợi mà tha cho vợ chồng tôi!

Lỗ Lập Nhân lấy tay đẩy cái kính gãy gọng trên mũi, nói với mẹ:

- Mẹ nên khuyên cô ấy?

Mẹ kiên quyết lắc đầu, ngồi xuống, bảo tôi và Tư Mã Lương:

- Đặt lên lưng giúp ta?

Tôi và Tư Mã Lương khênh thi thể chị Chiêu Đệ đặt lên lưng mẹ.

Mẹ cõng chị Hai trên lưng, chân trần bước đi trong bùn trở về nhà. Tôi và Tư Mã Lương, đứa bên trái đứa bên phải đỡ lấy hai chân lạnh cúng của chị Hai để cho mẹ đỡ nặng.

Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved