PHAN CHÂU TRINH
thắp ngọn đèn dân chủ
đề xướng cải cách văn hóa-xã hội
TRẦN ĐÌNH HƯỢU
Phong trào Đông kinh nghĩa thục, đúng như các cụ lúc ấy hình dung là “một trận gió”, “một đợt sóng”từ nước ngoài tràn vào, lôi cuốn cả nước như một ngọn thủy triều khí thế ngất trời: chống vua quan, tư sản hóa theo Âu Mỹ, hợp đoàn, học nghề, cải cách dân chủ... Đứng đầu phong trào là các nhà khoa bảng lớn, và phong trào lan rộng từ Bắc chí Nam, khuấy động cả rất nhiều vùng nông thôn hẻo lánh, chưa có mầm mống gì của kinh tếvà xã hội tư sản.
Một nhân vật không trực tiếp thành lập Đông kinh nghĩa thục, không chi phối toàn bộ tư tưởng và hoạt động của Đông kinh nghĩa thục, nhưng rất cóuy tín và lại tiêu biểucho vận mệnh của phong trào Đông kinh nghĩa thục là Phan Châu Trinh.
Giữa các nhà nho yêu nước lúc ấy, Phan Châu Trinh không chỉ là người viếtvănchương yêu nước. Ông là người cóý thức làm nhà hoạt động chính trị, có chủ trương rõ ràng, táo bạo, tự tin vàkiên quyết hành động. Giữa lúc những nhà nho cótâm huyết, phần lớnlà bè bạn thân, chọn con đường võ trang đánh Pháp, giành độc lập, thì ông đề xướng chếđộ dân chủ, cải tạo đất nước. Giữa lúc mọi người không ai không thấy vua quan Nam triều là tay sai của thực dân, nhưng cũng không ai tập trung căm thù, dứt khoát xóa bỏ nhà nước phong kiến, thì ông làm điều đó kiên quyết nhất. Giữa lúc tư tưởng ghét Tây phổbiến thi ông chủtrương dựa vào nhà nước Bảo hộ đểthủ tiêu chế độ phong kiến. Ông đi đầu trong phong trào cắt tóc, mặc âu phục, bỏtếlễ, hủ tục. Ở Phan Châu Trinh, ta nhìn thấy hình ảnh con người tiền phong hăng hái hoạt động đểcải cách đất nước lúc đó.
Sau khi đậu Phó bảng(1901)Phan Châu Trinh theo lệ ra làm quan ít lâu, rồi vì chán ghét cảnh triều đình hủbại ông xin từ chức. Sau khi bỏ quan về nhà, ông cùng hai người bạn là Tiến sĩ Trần Quý Cáp và Hoàng giáp Huỳnh Thúc Kháng làm một chuyển du lịch vào phương Nam để “xem xét tình hình”, sau đóra Bắc ởlại HàNội. Khi Phan Bội Châu xuất dương cầu viện Nhật Bản, chuẩn bị võ trang bạo động, ông liền trốn sang Nhật, tranh luận về đường lối cứu nước với bạn. Không thuyết phục được Phan Bội Châu ông bỏ về nước hoạt động theo chủ trương của mình. Ông gửi thư cho Toàn quyền Bô, ra sức vận động cải cách dân chủ, kịch liệt phản đổi chủ trương cầu viện và bạo động. Có thểnói vào lúc đó Phan Châu Trinh là người cótư tưởng dân chủ sớm nhất, sâu nhất và nhất quán nhất.
Phan Châu Trinh là nhàhùmg biện; ông dùng tài hùng biện chống chế độ phong kiến lạc hậu và chống chủtrương cầu viện, bạo động: “Không bạo động! Bạođộng thì chết!Không mong ngóng nước ngoài cứu giúp!Mong ngóng là ngu”. Không phải Phan Châu Trinh chống đấu tranh võ trang vì ươn hèn, cam chịu hãy sợ chết. Ngược lại,ai cũng biết ông là ngươi cókhí phách đặc biệt cứng cỏi, căm giận cảnh nô lệ và sẵn sàng hy sinh.
Bi tai quốc thế nguy huyền phát!
Tử nhĩ, nam nhi sỉ khấu đầu.
Dịch:
Thế nước đến nguy treo sợi tóc,
Tài trai thà chết chẳng nghiêng đầu.
(Điếu Giải nguyên Nguyễn Hữu Huân,
Ngô Đức Kếdịch)
Ông có gan kiêntrì một chủ kiến khác mọi người, có gan trốn sang Nhật rồi lại về gặp cả toàn quyền, cả triều đình. Khi Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa, ông là người bị bắt đưa ra Côn Đảo đầu tiên. Ông đón nhận số phận hiểm nguy với khí phách hào hùng khảng khái:
Luy luy già tỏa xuất đô môn,
Khảng khái bi ca, thiệt thượng tồn.
Quốc thồ trầm luân, dân tộc tụy,
Nam nhi hà sự phạCôn lôn?
Dịch:
Xiềng gông cà kệ biệt đô môn,
Khảng khái ngâm nga, lưỡi vẫn còn.
Đất nước đắm chìm, nòi giống mỏn,
Thân trai nào sợ cái Côn lôn.
(Xuất đô môn. Huỳnh Thúc Khángdịch)
Chọn con đường cộng tác với chính phủ bảo hộ đề cải cách dânchủ, không phải Phan Châu Trinh theo Pháp hay không biết chính nhà nước bảo hộ mới là kẻlàm chủ“dung túng quan lại Việt nam”sai khiến bộ máy Nam triều “lột da dân, hút máu dân, chẻ xương dân”.
Ông cũng đã nói tận tai tên cầm đầu chính phủ bảo hộrằng chính sách cai trị của Pháp là vô nhân đạo“không lấy loài người mà đãi người Việt Nam”, là vơ vét tham lam“tát hết nước mà bắt cá”, là giả dối “nóikhoan đãi, khai hóa”chỉ là “đem bánh ngọt quả chín ra dỗ trẻ con”.Tất nhiên những điều đókhi viết vào một bức thư gửi cho Toàn quyền thì cũng phải dùng lối nói quanh co. Vào thời gian đó,chủ trương đấu tranh võtrang của nhiều người chỉ xuất phát từ nhiệt tình, ít được suy tính cẩn thận, thiếu chuẩn bị lực lượng chu đáo, nhất là với lòng mong ngóng ngây thơ vào nước đế quốc “hổ đói Nhật Bản»cho nên sự phản đối của Phan Châu Trinh không phải không có lý do. Nhưng Phan Châu Trinh không coi giành độc lập là yêu cầu hàng đầu, là việc trước tiên.Còn có một lý do khác:Nhận thức của ông về thực trạng xã hội nước ta và khuynh hướng dân chủ trong tư tưởng ông. Đó cũng là chỗ đặc sắc, chỗông khác nhiều người.
Vào thời đósốđông những người yêu nước rất nhạy cảm với khổnhục mất nước, rất tha thiết với chủ quyền dân tộc. Họ thường nhìn về lịch sử, về truyền thống anh hùng của cha ông đểtự hào và tin tưởng.So sánh quá khứ và hiện tại, họ căm thù thực dân xâm lược và vua quan bán nước. Cho nên nếu Tân thư có mởmắt cho họ nhìn ra cảnh cường thịnh của các nước Âu Mỹ thì họ cũng gắn những cái đó với chủ quyền độc lập của các nước đó. Phan Châu Trinh không phải hoàn toàn khác họ, nhưng khi so sánh nước mình với thế giới văn minh, ông thường chú ý đến chế độ chính trị, đến cung cách làm ăn, đến xã hội và những con người ở các nước Âu Mỹ. Con ngườiở các nước văn minh đó là những người cótầm nhìn cao xa, có chí lớn, cónhân cách cao thượng: vì nước, vì dân, vì nghĩa. Không những họ có nghề, ham học hỏi đểnghềnghiệp thêm tinh xảo mà họ cònmạo hiểm lập sự nghiệp lớn, còn trung tín làm ăn với nhau để việc kinh doanh càng phát triển rộng.Phan Châu Trinh say mê vớicảnh tượng văn minh Âu Mỹ bao nhiêu thì lại tức tối cảnh nước nhà hủbại bấy nhiêu. Trong bài Tỉnh quốc hồncaviết năm1907Phan Châu Trinh đã so sánh thựctrạng trái ngược giữa bai bên. Nếu vềphía cácnước Âu Mỹ, vì ông không trực tiếp quen thuộc nên nhìn nhận cókhiphiến diện, thì ngược lại những phần nói về sự hủbạicủa xã hội ta viết rất sâu sắc. Với cái nhìn sắcsảo hiếm có, ông đã vạch ra trong tập tục, trong tâm lý xã hội ta, nhất là tập tục, tâm lý của giới thượng lưu, giới hữu sản, những chỗ thấp hèn, dã man, nếu cứ giữ mãi thìkhông mong gìtiến hóa văn minh được.Ta hãy nhìn bức tranh xã hội hài hước và u ám:
Người mình đã vụng về trăm thức,
Lại khoe rằng “Sĩ nhất tứ dân”
Người Khanh tướng, kẻ tẩn thần
Trăm nghềhỏi cótrong thân “nghề nào?
Chẳng qua làquơ quào ba chữ,
May ra rồi ăn xớ củadân,
Khoe khoang rộng áo dàiquần
Trápgiầy bệ vệ, rần rần ngựa xe
Còn bậc dưới ngo ngoe vô kể,
Họ cúi luồn kiếm thể vơ quào,
Thầy thư lại, bác kỳ hào
Gặmxương, mút đũa lao nhao như ruồi.
Lại có kẻ lôi thôi bậc giữa
Trên lỡ quan, dưới nữa lỡ dân
Ấy làhọc sĩ, văn nhân,
Ăn sung mặc sướng mà thân không làm
Người trên đã lam nham như thể,
Những dân ngu kề lểlàm chi,
Rượu chè, cờ bạc li bì,
Sanh ra trộm cướp nghề gì mà mong.
Phan Châu Trinh đặc biệt lên án bệnh danh vị, thói cậy thế cậy quyền ức hiếp và ăn xớ của dân. Đểcóchút chức tước mà kiếm ăn như thế họ chạy vạy, lo lót xunịnh không từ việc gì không làm:
Người mình không đức, không tài,
Ham quan, ham tước, chen vai, cúi đầu,
Cửa quyền môn mai chầu, tối chực,
Đua chen nhau rạo rực như sôi,
Cửa tiền cửa hậu lăn vùi,
Cùng ra đến giậu chóchui cũng lòn.
Ngoài những người kiếm“chức to, chức nhỏ” “gõ đầu dân”mà kiếm lợi là những người có tiền “chôn sâu xó nhà”chờ lúc người khác gặp tai ách, cho vay lãi thắt cổ để kiếm lợi; Dân ta hám lợi, hám đến mức thấy lợi thì không nghĩ gì đến giống, đến nòi nữa. Nhưng lại hám những lợi nhỏ do chấm mút, lừa đảo, tranh giành, bóp nặn mà cóchứ không biết làm ăn, kinh doanh mà kiếm lợi to. Cả nước đua nhau chè chén, chơi bời, dốc thời giờ vào chơi bời “lưu liên bất phản”,dốc tiền của vào chèchén, ma chay hủ tục:
Làm ra năm lợn, mười trâu,
Không mong thănghưởng chỉ cầu khách đông.
Không ai đua trí đua ganở những chỗcóích mà chỉ đua nhau bán buôn quyền tước, đua nhau ăn uống và xài phí.Dưới con mắt của Phan Châu Trinh, xã hội ta là “một đàn ruồi, lũ kiến, không còn chút nhân cách nào”, “suốtcả thảnh thị cho đến hương thôn, đứa gian giáo thi như ma như quỷ, lừa gạt, bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn như trâu, giẫm cồ, đè đầu cũng không dám ho he một tiếng”. Với tình trạng dân tộc như vậy thì, như ông nói với Phan Bội Châu, dầu có giành được độc lập“cũng không phải là điều hạnh phúc chodân”.
Cóthề nói đối vớitìnhtrạng đất nước, Phan Châu Trinh đã dùng những lời mạt sát tàn nhẫn. Nhưng đókhông phải là sựkhinh miệt đắc chícủa bọn thực dân mà là sự uất ức đau xót của người vốn thiết tha yêu dân, yêu nước. Phan Châu Trinh coi dânchủcòn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thểdùng luật pháp, cách cai trị cóquy củ theo kiểu Âu Mỹ –dù là do thực dân nắm giữ–đểquét sạch những rác rưởi thối tha đó. Sai lầm chính của ông chính là ảo tưởng về chế độ dân chủ tư sản, về truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái của nước Pháp, tức là quan niệm dân chủ của ông. Do ảnh hưỏng sách vở, ông tin tinh thần “yêu giặc như bạn”của người Pháp, tin“Nã Phá Luân là người sứ giả Trời sai xuống rắc cái hoa tự do”cho Châu Âu. Ông tưởng thực tế cũng giống như trong sách vở, tưởng thực dân cũng tôn trọng tinh thần Cách mạng1789, sợhãi không dám vi phạm nó!Choáng ngợp trước sự cách biệt. Phan Chầu Trinh càng biquan:
Thử so vớingười Âu người Mỹ,
Trăm điều không cótý chi mà.
Và nghĩ rằng : “Công việc ngày nay, ai cóthểdạy ta; thì ta xin làm học trò; ai có thểnuôi ta, thì ta xin làm con; nhờ ơn dạy dỗ nuôi nấng, dìu dắt, ôm ấp lấy nhau, mong cho giống nòi còn sinh tồn ở trên mặt địa cầu này mà thôi”.
Dân chủ vốn không phải là một phần thưởng có thểban phát. Nếu nhândân không cónhân cách thì sao xứng đángcóquyền dân chủ?Lấy ai mà giành quyền dân chủ? Đại đa sốnhân dân ta nhiệt tình yêu nước sẵn sàng “đem máu đòi lấy quyền tự do”(Phan Bội Châu), đó chính là điểm căn bản của nhân cách Việt Nam.Không nhìn ra điều đóthì ông sẽ cùng ai cải cách dân chủ? Và cải cách dân chủ với ai? Giống như những nhà nho, Phan Châu Trinh cũng coi quần chúng chỉlà hạng “tối tăm mù mịt, mềm yếu, ươn hèn”,tự coi mình là người tiên giác, thuộc hạng người đặc biệt mang tư tưởng dân chủ giáo hóa vàcả quyền dân chủ ban phát cho mọi người. Chế độ dân chủ do số rất ít người mang lại tránh sao khỏi chỉ là của số người rất ít?
Phan Châu Trinh rất sắc sảo nhìn ra yêu cầu dân chủ hóa đất nước, nhưng ông cũng không cóđiều kiện suy nghĩ kỹ càng về các chủ trương dân chủhóa. Trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh những thiếu sót quan trọng mà ông không nhận rakhông chỉ là chỗPhan Bội Châu nói: “Nước không còn nữa thì chủ cái gì”mà còn cả ở chỗ, cũng do Phan Bội Châu nói:
Sông phía Bắc bề phương Đông,
Nếu không dân cũng là không có gì.
Ởvào thời điểm xuất hiện, tư tưởng cải cách dân chủ của Phan Châu Trinh là yêu nước, chưa thuộc xu hướng cải lương. Ý đồ của ông là“cùng với nhân nhân, chí sĩ ba kỳ thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đông tây sao mà chẳng vỗ nên bộp”(Thư Phangửi cho Nguyễn Ái Quốc năm1922)Lúc đógiai cấp tư sản chưa thành một lực lượng, nếu tán thành các chủ trương tư sản hóa thìcũng chỉ là với tư cách quần chúng đi theo các nhà khoa bảng. Lúc đầu thực dân tưởng có thểlợidụng chủ trương cải cách đề làm đối trọng với phong trào bạo động chống Pháp, gần gũi với Trung Quốc, Nhật Bản.Khi thấy quần chúng đông đảo, thật sựthiết tha với độc lập và dân chủ tham gia, lái phong trào sang cách mạng thực sự thì thực dân Pháp mới can thiệp vừa bắt giam những người yêu nước cầm đầu, vừa tổ chức trường Quy thức, ban Tu thư, hội Khai trí tiễn đức, cho ra báo Đông Dương tạp chí, Nam phongtạp chỉ... đề xướng con đường Pháp Việt đề huề, hợp với giai cấp tư sản vừa phát đạt trước sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Đó là chủ nghĩa cải lương. Phan Châu Trinh cũng như các nhà yêu nước khác chống lại chủ trương đó. Nhưng trong tư tưởng“không bạo động, bạo động thìchết”của ông lại có chỗ cho những người thân Pháp và sợ chết dựa vào đểchống phong trào yêu nước và cách mạng, biện hộ cho chủ nghĩa cải lương.
Phan Châu Trinh là một nhà dân chủ, yêu nước và cách mạng. Nhưng Phan Châu Trinh cũng là một nhà nho. Nhà nho có thểvì yêu nước mà đề xướng chế độ dân chủ như một lý tưởng xã hội đẹp đẽ, Nhưng dân chủ lại không thểlà thuộc tính của nhà nho. Không phủ định triệt đểthếgiới quan Nho giáo thì không thểtiếp nhận được tưtưởng dân chủ thực sự.