1.
Nhớ mấy ngày đầu sau 30/4, có một ông "nón cối" thường xuất hiện ở nhà tôi. Tội nghiệp ba mẹ tôi đã tốn nhiều quà cáp, trọng vọng quá sức người bà con mới nhận lại này, chỉ mong dựa hơi cán bộ để kiếm việc làm cho con cái. Do đó, không ai được phép nhắc tới cái thời ông này đi tập kết năm 54, làm việc mấy năm trên lưng mấy con bò ở nông trường Sơn La hay Mộc Châu gì đó rồi được đề bạt đi học, rồi cũng thành y sĩ ngành răng-hàm-mặt, tức rành rành thuộc giới trí thức miền Bắc. Nghe nói thằng cháu dạy học ở chế độ cũ đang thất nghiệp ở chế độ mới, ông bảo gọi tôi tới. Ngắm tôi vài giây - chắc ông xem tôi có "trí thức miền Nam" chút nào không - rồi ông lấy ngón trõ vỗ vỗ vào màng tang mà phán rằng: " Cháu học Văn khoa? Chà, trí thức tiểu tư sản, lại học triết nữa thì tư tưởng khó chuyển biến đấy! Phải phấn đấu nhiều lắm mới được. Phải chi cháu tốt nghiệp kỷ sư kinh tế chẳng hạn thì bác có thể giới thiệu cháu tham gia công tác ngay ở…".
Lúc ấy, tôi hiểu ngay tương lai mình hiển nhiên chẳng sáng sủa gì nhưng lại không hiểu "kỷ sư kinh tế" là gì. Theo phân ngành đại học cũ, "kỷ sư" thuộc khoa học ứng dụng, làm sao gắn với "kinh tế", thuộc phía nhân văn - xã hội, trong đó có ngành kinh tế học. Trước kia chỉ có hoặc " kỷ sư công chánh" của ĐH Bách khoa Phú Thọ, hoặc "cử nhân luật kinh tế" của ĐH Luật chẳng hạn, nay lại nghe pha tạp thành "kỷ sư kinh tế"? Sau này, tôi mới hiểu rằng, bị tâm lý chung là không xem trọng các ngành học từ chương, nghèo tính thực dụng (chỉ có thực dụng mới sản xuất ra được của cải vật chất?) nên hình như khoa kinh tế học miền Bắc muốn che dấu tính chất nặng về nghiên cứu, nặng lý thuyết của mình, đã cho sinh viên ra trường cũng được cái tên "kỷ sư", thay vì "cử nhân". Tuy cùng là lao động trí óc, nhưng phải nhập nhằng nhào vô ngồi chung với các anh kỷ sư thủy lợi, kỷ sư giao thông vận tải, kỷ sư nông nghiệp.v.v…, thì anh "kinh tế" mới khỏi bị đánh giá là kém ích dụng, ít thực tiễn hơn mấy anh họ "kỷ".
Vào thập niên 60, bọn chúng tôi đã chọn ghi danh ở một ngôi trường cũ kỹ, nhưng được cái là nằm trong một khu rất yên tĩnh ở đất Sài Gòn. Trường Văn khoa bao gồm nhiều ban như Việt Hán, Sử địa, Triết, Ngoại ngữ, Nhân văn… nhưng linh mục Thanh Lãng, dạy môn văn học sử, cứ thích gọi là “trường Văn” thôi. Hẳn là cha Thanh Lãng đã mơ màng nhìn những giảng đường lâu năm bụi bám, thấy giống như cửa Khổng sân Trình của đám nho sinh Hán tộc cổ xưa ?
Riêng bọn tôi thì có vẻ…cổ xưa, hũ nho thật. Có lần tôi trồng cây si một cô nàng rất hấp dẫn, học cái ban à la mode nhất trong trường là Anh văn. Lân la đến làm quen thì nàng nhìn tôi với con mắt đầy…tội nghiệp: "Toahọc bên Triết đông hả? Sao cái ban gì tên nghe… cải lương dữ vậy!?". Đáng đời cho tên nghịch đồ của ban phái Đông phương! Người trong mộng của hắn, như lời tình ca quen thuộc Hởi người tình Văn khoa…của PD., phải là một tiểu thư yểu điệu thục nữ, áo dài tha thướt, trang trọng, rất Á Đông, chứ sao lại là một nàng vốn học trường đầm, mặc jupe bó đùi rất gợi cảm? Kẻ thất tình lầm lạc đã được các bạn đồng môn an ủi bằng cách dẫn đi ngồi café ghế-cao là quán Hân ở Đakao, có nhạc Paul Mauriat tuyệt vời. Nhưng chỗ ‘đóng đô’ thường nhật của bọn tôi - trong những ngày… cạn túi - còn là quán cóc ghế-thấp ở lề đường Nguyễn Du, ở đây có phiêu lãng những mẩu lá me bay lạc vào tách café bình dân rẻ tiền. Nhưng có gì cấm được đám sinh viên bọn tôi – đa số là con nhà nghèo - ngồi đó mà nghĩ suy, dệt mộng lớn cho tương lai, dự phóng giúp ích cho đời bằng kiến thức, chữ nghĩa mà mình đang dùi mài, tích lũy từ ngôi trường cổ kính của mình qua mấy mùa mưa nắng ? Rồi ra trường, thời sinh viên lãng mạn, đầy hoa mộng khép lại tuy vẫn ghi danh tiếp, làm luận án cao học và không thường xuyên đến trường nữa. Đa số đi dạy học; có người làm thơ (bệnh làm thơ của đa số bọn sinh viên trường Văn), có người viết văn, làm báo, nghiên cứu hay công tác xã hội… - nói chung là làm việc, chọn kế sinh nhai trong các lãnh vực giáo dục, văn hoá, xã hội.
Rồi ngày 30/4 đã chợt dựng lên cái thời đại mà hầu như người ta chỉ tôn vinh những ai có bàn tay dính dầu máy, phân bón, thuốc trừ sâu, bùn đen, đất đỏ… thì dân xuất thân Văn khoa làm sao khá nỗi?
Ai dính nguỵ quân, nguỵ quyền thì đi học cải tạo. Một số rất ít anh chị em được cho tiếp tục dạy học với môn dạy khác và lương bậc thấp hơn. Hãy quên đi danh xưng "giáo sư", "giáo viên" thôi! Cũng nên quên đi cái bằng cử nhân khi xin vào làm công nhân viên ở cơ quan, xí nghiệp. Nếu bạn không được hân hạnh là ‘lao động trực tiếp’ đầy vinh quang ở công trường, xưởng sản xuất thì khi được bố trí làm ở văn phòng, bạn chỉ là loại ‘lao động gián tiếp’. Nghĩa là tiêu chuẩn gạo, vải… cùng hàng nhu yếu phẩm, như đường, xà bông, thuốc lá, dầu hôi… đều thấp, thấp hơn cả tiêu chuẩn của người lao động phổ thông, tức làm việc chân tay không cần học nghề, như quét dọn, bưng nước, đào đất, bốc vác…
Còn lại thì chúng tôi làm đủ thứ nghề ngỗng lặt vặt để kiếm tiền mà sống. Mấy ngày đầu thì đem sách vở, ly tách, chén dĩa… trong nhà ra lề đường ngồi bán. Hết đồ đạc để bán thì đi làm rẫy, trồng nấm, nuôi gà vịt, chạy hàng tạp hóa, đứng chợ trời …
Thời kỳ ấy, cả ngày đạp xe đạp long nhong ngoài đường phố, tôi mới có dịp nhìn thấy Sài Gòn khác hẳn xưa. Không biết đi ra đường làm những việc gì, nhưng từ những góc phố, vỉa hè, đến bến xe bus, bến xe lam, người Sài Gòn đi đi lại lại, hấp tập, vội vã, đăm chiêu… Trong cái hoạt cảnh ảm đạm diễn ra từ sáng sớm đến tối mịt ấy, mốt thời trang phổ biến cho cả nam lẫn nữ là nón vải đội đầu, dép lê dưới chân, và một món không thể thiếu là một cái túi, một cái giỏ xách kè kè bên người. Lục túi coi thì bên trong chỉ là những món mua-đi-bán-lại: gói thuốc lá hay cuộn giấy vệ sinh, cái đồng hồ hư hay cuốn sách cũ, hộp thuốc tây hay chai hoá chất còn ‘đát’…
Sài Gòn biến thành một cái chợ trời rộng mênh mông. Người ta mua mua, bán bán tất cả mọi thứ vặt vãnh, nhận chút tiền, hẹn gặp lại, quay đi ngã khác, chạy tiếp… Riêng tôi thì một cách ngoài ý muốn, được ngừng chạy rong khi đến hạn trình diện học tập cải tạo ở Trảng Lớn, Tây Ninh.
2.
Năm 76, học tập cải tạo về, tôi đang cùng một anh bạn, nguyên là tổng thư ký một viện đại học tư của giới Công giáo, làm ‘nghề’ phạc-ma-xiên-à-la-mái-hiên (do tôi ‘chế’ bậy thành tiếng Tây bồi ở chợ trời thuốc tây nghe cho nó sang, chỉ có nghĩa là dược-sĩ-đứng-mái-hiên) ở khu chợ Tân Định thì ủy ban phường chỗ tôi ở kêu tôi đi làm thủy lợi dài hạn ở bưng Sáu Xã, huyện Thủ Đức. Thấy cùng đường, tôi bèn đăng ký đi công trường lao động XHCN do Hội trí thức yêu nước TP.HCM lập ở Củ Chi. Nghe " hội trí thức" thì có vẻ… sang hơn cấp phường nhưng cũng chỉ là đào kênh, đắp đê tối tăm mặt mũi.
Dù sao, đối với tôi, tập phim "tình nguyện đi lao động" ở cánh đồng bưng quanh năm ngập nước, cách Sài Gòn 55km ấy cũng có vài cảnh vui vẻ. Tất nhiên, về phần xác thì khó có gì gọi là phấn khởi – một từ không mới nhưng hay được dùng thời ấy. Sau khi đăng ký làm việc ở công trường thủy lợi 6 tháng, 1 năm… tùy ý, bạn được ở láng trại cất bằng tre nứa, xài đèn dầu và nước giếng, cơm canh theo tiêu chuẩn đạm bạc và lãnh sinh hoạt phí (không phải lương) là 50 đồng/tháng thời chưa đổi tiền lần 2 (năm1978). Riêng lao động nữ được phụ cấp mấy chục xu cho khoản … vệ sinh trong tháng. Tôi hơi bất mãn và thầm ganh tị với cánh phụ nữ. Đáng lẽ lao động nam cũng nên có phụ cấp về khoản… quần xà-lõn, vì cũng chỉ cỡ sau một tháng là quần vải gì cũng mục rách do ngày ngày phải ngâm mình dưới nước phèn khi đào kênh ngoài bưng. Có một anh, coi vậy mà vẫn còn khá lạc quan, yêu đời (?), đã nhăn nhó tâm sự: “Ngâm nước phèn suốt ngày, suốt tháng kiểu này thì đồ đạc của mình cũng hư tuốt. Về phép chủ nhật, tối ráng âu yếm bà xả sau cả tuần xa cách thì nócứ xuôi xị!”.
Về phần hồn thì phải nói là tôi cũng có được vài niềm vui nho nhỏ riêng tư khi tình cờ gặp lại vài bạn bè trí thức cũ vào những lúc cùng ra bưng đắp đê hay trên đường về phép cuối tuần. Vui nhất là gặp lại C.H.K. Nhà phê bình văn học nổi tiếng này dạy triết ở Nha Trang, sau 30-4 bị đố kỵ gì đó mà phải nghỉ dạy, trôi dạt vô Sài Gòn, rồi cũng lên Củ Chi làm thủy lợi. Ở một đội khác, lại gặp hai cậu "đàn em" Văn khoa cũ, sau 30-4 chỉ được dạy học thêm ít tháng ở Bến Tre, một vùng thời đó có tiếng là kỳ thị người trí thức chế độ cũ. C.H.K. cũng nói do ở Nha Trang cũng khó thở như thế nên anh mới bỏ dạy. Lại gặp Bích D., một phụ nữ Huế duyên dáng, được làm ở tổ bếp và căn-tin sau hai tháng chuyền đất ngoài đê. C.H.K.(cũng dân Huế) cho biết chị chính là Diễm trong Diễm xưa của T.C.S. Chị D. thố lộ mình tình nguyện lao động và có mang tiếng là kiếm điểm như nhiều người khác cũng đành, do chị cần có chút ‘thành tích phấn đấu’ dính-bùn-dính-đất mà kể ra trong đơn bảo lãnh cho chồng, một phó tỉnh trưởng, được học tập về sớm… Nhân vật Diễm nay rất khả ái và công tác rất nhiệt tình, như để kiếm phân súc vật về cho vườn ươm cây tràm bông vàng của công trường, chị đã từng góp bàn tay nõn nà hốt sạch từng bãi phân trâu, bò rải rác trên con đường tỉnh lộ 7 dẫn vào công trường. Tôi còn phục chị D. hơn qua một sáng kiến của chị là rủ chúng tôi và mấy nữ tu xin phép ban chỉ huy công trường mở một lớp Anh văn và Pháp văn. Đêm đêm, dưới ánh đèn dầu ở chái nhà ăn, một nhóm người hiếu học cùng vài bạn bè còn muốn phục vụ bằng chính sở học của mình, để cùng nhau học tập, ôn luyện ngoại ngữ…
Có một chuyện là tuy không còn lạc quan, cứ tìm-cách-yêu-đời như anh bạn bị hư đồ đạc đã kể ở trên, nhưng có lần, khi nhờ ‘có trình độ văn hóa’ mà được đề bạt từ đội viên lên chức tổ trưởng tổ thủy lợi, tôi cũng thử lay động, thử thách cái con người yếm thế, thân tâm đều trì trệ, xuống dốc…của mình một chút xem sao.
Công trường rùm beng mở một đợt thi đắp đê cấp 3. Ngoài bưng, nước ngập sâu đến thắt lưng, mô hình đê được thấy qua hai hàng cây cọc tiêu(làm mốc) được cắm song song, ló lên khỏi mặt nước. Đã suy tính trước nên vào bữa thi, trong tổ gồm 8 người (6 nam, 2 nữ) thì về 2 cô nữ – thường lãnh phần chuyền đất ngoài đê – vốn yếu sức sẽ ảnh hưởng đến năng suất chung, tôi cho kiếm chuyện khai bệnh, nghỉ tại trại. Kế đó, tôi mượn thêm ở kho vài cái len mới, loại xắn đất thật tốt, đóng thêm đinh cho thật chắc, để đang làm mà gặp chuyện rất hay xảy ra ngoài đồng là gảy len thì quăng cái gảy, khỏi sửa mất thì giờ, chụp ngay cái khác làm tiếp ngay... Ở hiện trường, tôi bố trí đội hình là cạnh mỗi hàng cọc tiêumột cặp 2 người, để cùng lúc lấy đất được cả từ hai bên. Người đứng xắn đất ( tôi lãnh một vai này với cây len kiểu thuận theo chân trái của mình) thì đi lui để khỏi cản trở người ngồi ngâm mình, nhận và chuyền đất trước mặt đồng đội. Cũng không xắn cục đất quá lớn, để người kia có thể bê, chuyền trên tay cho 2 người còn lại đắp từ giữa hình chân đê – bên trong 2 hàng cọc tiêu - mà đắp ra. Đặc biệt giữa 4 người ngồi chuyền đất/đắp đê, tránh tình trạng làm cục đất xắn rơi khỏi những cánh tay chuyền mà chìm xuống nước, sẽ mất công mò tìm và đất cũng dễ rã nát. Phần chân đê phải xong theo chiều ngang rồi mới lo chiều dài. Mệt thì đổi vai. Con đê cấp 3 dần dần xuất hiện vượt lên trên mặt nước và từ từ dài ra…
Khi ước lượng – ở trại tôi vẽ hình, làm toán trước - thấy cái khối hình thang con đê vừa dài, qui ra đủ khoảng 36 mét khối thì dừng, chuyển qua đắp, bồi theo hướng ngược lại. Tại sao lại là 36m3 là vì theo tình hình chung các nông trường thủy lợi ở các vùng ngoại thành Sài Gòn thời đó, dân công đi đắp đê ‘xã hội chủ nghĩa’ – nghĩa là tự nguyện, hay nghe lời hô hào, tuyên truyền mà chấp hành đi công trường, không hề là dân ‘thổ đấu’, tức làm đất, đắp đê chuyên nghiệp như ở miền Bắc, năng suất chung chung của dân ‘tự nguyện’ bình quân là 4 – 5m3/người/ngày công lao động (tức 8 giờ - tổng cộng 2 buổi sáng, chiều), đồng thời tôi chỉ muốn tổ của mình phấn đấu chừng đó là được, là ‘đạt chỉ tiêu’ rồi.
Đắp, bồi đất pô-luya cho hai mái đê đến lúc trông cũng tạm phẳng phiu thì tôi cho một em đội viên vừa chạy vừa lội nước đi gọi cán bộ nghiệm thu của ban chấm thi đến đo liền, vì để lâu đê thấm nước mà lùn xuống, mất khối lượng…
Cứ thế, cả tổ đắp được khúc đê qui ra là 36m3, chia cho 6 thì mỗi người đạt 6m3. Sau này, nghe tôi kể lại ‘chiến thuật’ giúp tôi đạt thành tích trong cuộc thi đắp đê, C.H.K. không thèm khen cho một tiếng, gọi là ‘động viên’ cái danh hiệu ghi đậm trên bằng khen cấp Thành phố "Kiện tướng thuỷ lợi" của tôi, tức một nhà giáo đồng nghiệp, cũng vốn thư sinh nho nhã như anh, hiện cũng ốm nhom như anh. Dù sao, anh cũng gật gù đồng ý với tôi, rằng “Không ai một mình vừa xắn, vừa chuyền, vừa đắp mà đạt được 6 mét khối/ngày công", và "Cũng không có gì khó nếu mình biết dùng cái đầu một chút”.
Cũng sau này, khi nghe C.H.K. từ khâu đắp đê được chuyển qua khâu tiếp phẩm (đi chợ mua hàng cho tổ bếp), rồi nhà cựu nghiên cứu văn học và cựu giáo sư này được tiếng là tính toán bó rau, hũ mắm, miếng đậu hũ… rất khéo, tiêu chuẩn thời kỳ ăn độn vẫn thế nhưng bữa cơm trong trại dễ ăn hơn đôi chút, tôi bèn chọc quê: "Theo lô-gíc thì nhờ cái đầu, ai có năng lực ở khâu nào thì nên ở luôn khâu ấy để phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Có cần tui hót với trên cho ông được làm công tác đi chợ, lo tương-cà-mắm-muối suốt phần đời còn lại không hả?”.
3.
Đến năm 77, chuyển thành nông trường quốc doanh, công trường biên chế những sĩ quan cải tạo về (về hơi sớm do tình nguyện đi sản xuất) và đám thanh niên xung phong mới tăng cường sau này thành lực lượng lao động dài hạn. Những người trí thức, tư sản, tu sĩ… đã đủ (hoặc dư) thời hạn đăng ký lao động thì được động viên ở lại để tiếp tục phục vụ cũng… dài hạn.
Phải nói lời giã biệt thôi! Xem đơn xin nghỉ việc vì lý do "… muốn trở lại nghề dạy học cũ ở thành phố cho đúng khả năng", ông giám đốc nông trường nói thẳng: " Trở lại nghề cũ? Nhớ quá khứ? Cái kiểu mấy anh cứ vừa đi tới mà vừa ngoáy lại phía sau, dễ vấp té lắm đó! Có giấy chứng nhận đã tham gia lao động do nông trường cấp, cũng chưa chắc ở nội thành người ta tiếp nhận các anh! Mà Củ Chi dù xa xôi nhưng cũng thuộc thành phố, sao mấy anh không ở lại phục vụ, góp phần xây dựng vành đai xanh, sản xuất nông nghiệp cho thành phố ?".
Tôi thì ít khoái kiểu ví von "vừa đi, vừa ngoáy thì té" của ông giám đốc nhưng phải công nhận ông không nói xí gạt về tiền đồ của chúng tôi. Sau nhiều khó khăn, chạy vạy, nhất là chuyện cắt hộ khẩu từ Củ Chi chuyển về nội thành, rồi kẻ trước người sau, chúng tôi trở về Sài Gòn. Riêng tôi đến đầu năm 79 mới về được hẳn, khi được ‘Ban quản lý người học cải tạo về’ chấp nhận cho tạm trú ở chỗ ở cũ. Tôi và một số anh chị quá nhớ nghề dạy học, vác đơn lên Sở giáo dục. Tuy đã đi lao động tình nguyện nhưng vì trước đây “đã bỏ nhiệm sở vì lý do khó khăn, xa gia đình…", có cán bộ ở Sở đã đánh giá đám thầy, cô giáo mất dạy này là "vô tổ chức" và bác đơn. Có gốc giáo sư biệt phái và đã hoàn thành nghĩa vụ lao động XHCN như tôi, thì "Chưa có chủ trương cho thầy giáo gốc sĩ quan ngụy được đứng lớp".
Lại thất nghiệp. Lại ăn bám cha mẹ, vợ con. Lại ngày ngày ghé Hội trí thức yêu nước - số 43 Nguyễn Thông, quận 3, tức câu lạc bộ Phấn Thông Vàng cũ - xem có được giới thiệu chỗ làm chưa. Lại cả ngày ở ngoài đường. Bọn tôi hùn vốn còm cõi mở cà phê vỉa hè, vừa bán vừa coi chừng bị ‘hốt’ nên tôi đặt tên quán là quán Fất Fơ. Hay ngồi sửa giày dép, túi xách, đi bỏ mối các loại bánh trái, cà phê trộn bắp, hàng tạp phẩm… Lại có vài bạn đi bán… nước bọt, tức chạy mánh. Nghe tuy-dô ở đâu còn vài tấn hóa chất, mấy cái máy phát điện cũ, đồng hồ ODO còn gõ chuông.v.v.. là lập tức chạy kiếm đầu mua, thỏa thuận được là ăn hoa hồng môi giới. Một bạn, dân triết Đông, cũng đi bán nước bọt, nhưng cao trọng và kín đáo. Đó là chấm tử vi, chỉ lấy thù lao "tượng trưng". Tôi bái phục vì dần hồi anh trở thành nhân vật quan trọng, chính danh "thầy". Nhiều người phải lặn lội tìm đến anh vì họ cần xem tử vi, coi số mình có điđược không, tức là họ đi kiếm ở "thầy" một niềm hy vọng - hy vọng đơn xin đi của mình được… số mạng siêu hình duyệt xét, giải quyết!
Đâu khoảng vào năm 1980, để phục vụ những người còn phải lui tới, chờ được giới thiệu, bố trí cho chỗ làm, Hội trí thức yêu nước đã tổ chức lập hợp tác xã (giống kiểu hợp tác xã tiêu thụ ở các phường nhưng qui mô nhỏ hơn) để cung cấp một số mặt hàng lương thực, thực phẩm, tạp phẩm… cho hội viên (có đóng cổ phần, lập sổ mua hàng) với giá có rẻ hơn ít, nhiều so với thị trường. Khi đến đây “đi chợ”, mọi người còn có thể bước sang căn-tin là nơi bán cà phê, đồ giải khát, thức ăn nhẹ - đặc biệt là bia hơi - với giá chính thức khá rẻ…
Tất nhiên, vẫn đám kỷ sư, kỹ thuật viên là dễ được có chỗ làm sớm, còn dân có gốc học Văn khoa cũ thì vẫn thường chờ dài cổ, nhất đối với những người như tôi, vì không có chút vốn liếng, của cải nào nên trước mắt, chỉ có một con đường duy nhất là tìm chỗ làm – quốc doanh, hợp doanh, hợp tác xã gì cũng được - để bám vào mà kiếm sống. Cũng tất nhiên, vẫn còn rất nhiều người ngoài-đường-phố, chỉ tự lo cho mình chứ không nhờ vả hội hiếc nào tuy bia hơi và mồi nhắm ở căn-tin của Hội trí thức cũng tạm được, tức rẻ bằng nhưng có phần ngon hơn ở các cửa hàng ăn uống của thương nghiệp quốc doanh rải rác trên đường phố Sài Gòn. Căn-tin của Hội lại bán bia hơi khá thoải mái, không bắt mua kèm mồi, kiểu tiêu chuẩn “1 dĩa đồ xào/2 lít bia” như ở các cửa hàng quốc doanh.
Đến ngày tháng ấy, đối với giới trí thức cũ, trong đó có dân Văn khoa, phải nói rằng cái nhìn lạnh lẽo đã có phần thay đổi, thoáng hơn, nhưng uổng và tiếc là một số anh chị trí thức cũng đã xuống ghe, thay đổi chỗ ở mất rồi. Ở cái quán cà phê cóc lề đường nằm tại khu Bàn Cờ mà đám bát nháo chúng tôi, do thời đó điện thoại bàn rất hiếm hoi, hạn chế và điện thoại di động thì chưa có, đã chọn làm điểm hẹn chung để dễ tìm gặp nhau hằng ngày, để thông tin liên lạc này nọ, để tán gẫu chuyện thời thế, thì bạn bè cứ dần hồi thưa vắng…
Đến đây thì câu chuyện về dân học Văn khoa cũ đành bị đứt quãng.
| |
Phạm Nga |
Home »
VĂN HỌC NHÀ TRƯỜNG
» Mẩu Chuyện Đứt Quãng Sau 30 – 4 Về Dân Học Văn Khoa