Home » » VỀ VỤ ÁN NHÂN VĂN GIAI PHẨM - 8

VỀ VỤ ÁN NHÂN VĂN GIAI PHẨM - 8

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012 | 01:16

Phan Khôi

Cụ sinh năm 1887 tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, ông thân sinh ra cụ là Phan Trân, trước làm Tri phủ, phủ Điện Khánh, sau từ quan về làm nghề dạy học. Bà mẹ cụ Phan Khôi là con gái cụ Hoàng Diệu, nguyên Tổng đốc Hà Nôị, có lần đã đi sứ sang Tây Ban Nha và Anh Cát Lợị Cụ Hoàng Diệu tuẩn tiết khi thành Hà Nội bị lọt vào tay Henri Riviere năm 1882.

Cụ Phan Khôi học chữ nho rất giỏi và mới 19 tuổi đã đỗ Tú Tài (1905) tuy rằng sức học đáng đề cao hơn. Đỗ xong cụ tỏ ý chán khoa cử, vì cụ được gặp cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu Trinh nên bị ảnh hưởng của hai nhà cách mạng nàỵ

Năm 1907 cụ Phan Khôi ra Hà Nội, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và viết cho tờ tạp chí Đăng Cổ Tùng Báo do phong trào này xuất bản. Chẳng bao lâu tờ tạp chí bị cấm và phong trào bị khủng bố. Cụ Phan liền rút lui về Nam Định rồi về Hải Phòng ẩn náụ ít lâu sau cụ lén về Quảng Nam hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Trong một cuộc biểu tình đòi giảm thuế cụ Phan bị bắt và giam tại nhà lao Quảng Nam cho mãi đến năm 1914, vì có chiến tranh Đức Pháp, toàn quyền Albert Sarraut mới ân xá cho nhiều tù nhân, trong đó có cụ .

Trong thời gian bị tù, cụ Phan học chữ Pháp với những công chức cùng bị giam . Thoát khỏi tù, cụ ra Hà Nội làm nghề viết báọ Cụ viết cho tờ Nam Phong, là tờ báo văn học duy nhất của thời bấy giờ. Vì bất bình với Phạm Quỳnh là giám đốc tờ Nam Phong, cụ bỏ Hà Nội vào Saigon viết cho tờ Lục Tỉnh Tân Văn .

Năm 1920 cụ lại trở ra Hà Nội viết cho tờ Thực Nghiệp Dân Báo và tờ Hữu Thanh của cụ Ngô Đức Kế. Trong thời kỳ này cụ dịch thuê cuốn Kinh Thánh cho Hội Tin Lành. Cuốn Nam Âm thi thoại của cụ ra đời trong thời kỳ nàỵ

Năm 1928, tờ Thực Nghiệp Dân Báo và tờ Hữu Thanh bị đóng cửa, cụ Phan lại trở vào Saigon viết cho tờ Thần Chung và tờ Phụ Nữ Tân Văn, và gửi bài ra Hà Nội cho báo Đông Tây . Trong thời kỳ này cụ Phan bút chiến với Hải Triều, nhà văn Cộng sản, về vấn đề Duy Tâm và Duy Vật. Cuộc bút chiến này sôi nổi dư luận trong toàn quốc .

Năm 1931, cụ Phan lại trở ra Hà Nội viết cho tờ Phụ Nữ Thời Đàm.

Năm 1936 cụ vào Huế viết cho tờ Tràng An và xin được phép xuất bản tờ Sông Hương . Cụ tái bản cuốn Nam Âm Thi Thoại và đổi tên là Chương Dân Thi Thoại .

Năm 1939 tờ Sông Hương chết, cụ Phan lại trở vô Saigon dạy học chữ Nho và viết tiểu thuyết. Thời kỳ này cụ viết cuốn "Trở vỏ lửa ra" .

Sau khi Saigon bị phi cơ đồng minh oanh tạc dữ dội, cụ Phan rút lui về quê để tránh bom và sống an nhàn cho đến khi Việt Minh cướp chính quyền, năm 1945.

Cụ bất bình với chính sách khủng bố của Việt Minh thi hành ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, nhất là về việc cán bộ địa phương định phá hủy nhà thờ cụ Hoàng Diệu, nên cụ lớn tiếng công kích. Cán bộ địa phương toan bắt cụ, nhưng vì nể Phan Thao là con cụ lúc bấy giờ làm cán bộ cao cấp trong ủy ban Trung bộ, nên không dám bắt mà chỉ báo cáo lên cấp trên . Về phần cụ Phan, cụ cũng khôn khéo viết thư cho cụ Huỳnh Thúc Kháng lúc bấy giờ giữ chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ ở Hà Nộị Cụ Huỳnh vội vàng can thiệp. Hồ Chí Minh giàn xếp vấn đề bằng cách tự tay viết thư mời cụ Phan ra Hà Nội hợp tác, nhưng kỳ thực là giao cho em họ cụ là Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, Trung Ương ủy viên và Thứ trưởng Bộ Nội Vụ phụ trách quản thúc.

Ra đến Hà Nội , cụ Phan không chịu ở nhà Phan Bôi, cụ lên phố Quan Thánh ở nhà Khái Hưng, tức Trần Khánh Dư, là một nhà văn theo Quốc Dân Đảng . Khi Việt Minh khủng bố Quốc Dân Đảng và vây nhà Khái Hưng để bắt Khái Hưng thì đồng thời cũng bắt được cụ Phan Khôi trong đó. Vì lúc bấy giờ Phan Thao con cụ làm chủ Nhiệm báo Cứu Quốc ở Hà Nội, nên một lần nữa Việt Minh lại không dám khủng bố cụ Phan. Chúng giao cụ cho Phan Bôi điệu lên chiến khu Việt Bắc. Cụ ở Việt Bắc suốt 9 năm kháng chiến.

ở chiến khu cụ Phan được giao công tác phiên dịch sách chữ Hán hoặc chữ Pháp sang tiếng Việt. Tuy bất mãn, nhưng cụ cũng làm tròn nhiệm vụ . Ông Hồ lấy làm bằng lòng và ban cho cụ một chiếc áo "bờ lu dông" Mỹ .

Sự thực thì cụ Phan chỉ tán thành cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng cụ rất ghét Việt Minh . Hồi 1951 cụ làm bài thơ ví cuộc kháng chiến như hoa Hồng và ví Việt Minh như gai . Đại ý cụ nói cụ vì yêu kháng chiến mà phải phục tùng Việt Minh . Bài thơ như sau :

Hồng gai


Hồng nào hồng chẳng có gai

Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,

Là hồng thì phải có hoa,

Không hoa chỉ có gai mà ai chơi ?

Ta yêu hồng lắm hồng ơi !

Có gai mà cũng có mùi hương thơm .

(16-03-1951)

Cụ ghét Việt Minh về nỗi cấm đoán tự do ngôn luận nên cụ làm một bài thơ tả số phận con lợn như sau :

Đánh đùng một cái

Kêu éc éc ngay

Bịt mồm , bịt miệng,

Trói chân, trói tay

. . . . . . . . . . . . . .

Từ dây đến cái dao

Chẳng còn xa là bao .

Cám cảnh cô độc ở Việt Bắc, cụ Phan làm một bài thơ chữ Hán mà Thế Lữ dịch ý như sau :

Một mình trước cảnh xanh núi rừng

Ta ngồi ngạo nghễ với bầy chim bầy vượn

Vì ta chạy loạn mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền .

(Cụ ví Việt Minh là thú vật).

Và một bài khác Thế Lữ dịch ý như sau :

Một mình đêm giao thừa

Đến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có

Đắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép

Chợp mắt mơ là nhằm miếng chua cay

Có vợ con mà sống chia cách

Không sinh kế đành phải ăn nhờ

Nghe tiếng gà mừng vùng dậy

Kháng chiến bốn lần gặp Xuân rồi

(1950)

Vì khí hậu độc nên cụ sinh ốm đau và phải vào bệnh viện nằm trong đó một thời gian . Ra khỏi bệnh viện, cụ đi hớt tóc và cảm hứng cụ làm bốn câu thơ :

Tuổi già thêm bệnh hoạn

Kháng chiến thấy thừa ta

Mối sầu như tóc bạc

Cứ cắt lại dài ra .

(1952)

Cuối năm 1954 cụ Phan Khôi ở chiến khu về Hà Nội cùng với đa số các văn nghệ sĩ khác. Vì không có nhà cửa ở Hà Nội nên Hội Văn Nghệ dành cho cụ một buồng ở tầng ba của nhà trụ sở hội đường Gambetta cũ. Cụ vẫn tiếp tục công việc phiên dịch .

Mùa Thu 1956 cụ viết bài "Phê bình Lãnh đạo Văn Nghệ" đăng trong Giai Phẩm Mùa Thu . Bài này gây nên ngọn lửa chiến tranh giữa trí thức miền Bắc với Đảng . Để nới rộng cuộc đấu tranh sang lĩnh vực chính trị, cụ Phan Khôi đứng ra làm chủ nhiêm kiêm chủ bút báo Nhân Văn . Để tỏ ý chí đấu tranh đến cùng, cụ làm bốn câu thơ :

Nắng chiếu tuy có đẹp

Tiếc tài gần chạng vạng

Mặc dù gần chạng vạng

Nắng được thì cứ nắng .

(1956)

Nhận thấy thái độ chống đối của cụ Phan Khôi là một điều tối nguy hại cho chế độ, Việt cộng, một lần cuối cùng, cố sức mua chuộc cụ bằng cách mời cụ sang Bắc Kinh để dự lễ kỷ niệm nhà văn Lỗ Tấn. Chính quyền miền Bắc hy vọng rằng cho cụ đi thăm các xưởng máy đồ sộ của Trung Quốc, cụ sẽ phải khâm phục sự tiến bộ của nước đàn anh vĩ đại, và do đó sẽ thay đổi quan niệm, không chỉ trích cộng sản nữa . Một lần nữa, cộng sản lại thất vọng .

Một hôm cụ Phan được đưa tới thăm nhà máy An Sơn của Trung cộng, cụ làm ra vẻ tấm tắc khen ngợi những máy móc tinh xảo và phát biểu như sau :

--- "Ngày xưa ông Mác nói : Lao động sáng tạo nhưng tôi nghĩ rằng nên nói trí thức và lao động sáng tạo, mới đúng" .

Cán bộ Tàu lễ phép chữa lại :

--- "Thưa cụ, ông Mác nói là lao động là bao gồm cả trí thức trong đó chứ ạ !"

Cụ Phan trả lời ngay :

--- "Không đâu, ý ông Mác chỉ muốn nói công nhân thôi, còn trí thức thì sau này người ta mới thêm thắt vào đó ".

Cán bộ Trung cộng ứ hơi cứng họng không trả lời được .

Sau khi ở Trung quốc về cụ Phan lại tiếp tục công việc làm chủ nhiệm báo Nhân Văn . Biết rằng đảng sắp khủng bố đến nơi, cụ vẫn bình tĩnh tiếp tục cuộc đấu tranh . Hồi đó cụ làm bốn câu thơ hài hước như sau :

Làm sao cũng chẳng làm sao

Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi

Làm chi cũng chẳng làm chi

Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao

Việc cụ Phan Khôi chống đối đảng trong hai năm vừa qua như thế nào, chúng tôi đã trình bày tường tận trong mục : "Lịch trình đấu tranh của trí thức ở miền Bắc ". Chúng tôi cũng đã tường thuật việc cụ bị đả kích và chửi bới như thế nàọ Họ bảo cụ là phản động Việt gian, phá hoại, tờ-rốt-kít, cụ hút thuốc phiện, chơi gái ... và cụ "hủ hóa" cả với nữ sĩ Thụy An nữa (nên nhớ rằng khi cụ Phan gặp bà Thụy An, cụ đã ngoài 70 tuổi). Điều đó không làm cho chúng ta ngạc nhiên vì tục ngữ của chúng ta đã sẵn có câu : Được là vua, thua là giặc.

Điều mà chúng ta cần chú ý là nhờ có sự chửi bới moi móc đó mà chúng ta biết thêm được một vài chi tiết về sự nghiệp văn chương của cụ Phan . Số là trong báo Văn Nghệ số 15 , xuất bản hồi tháng 8, 1958. Đoàn Giỏi, một cán bộ văn nghệ có viết 1 bài mạt sát cụ Phan, trong đó có nói nhiều đến cuốn "Nắng Chiều" của cụ Phan mà từ trước tới nay chưa ai biết, vì chưa xuất bản .

Cũng vì không thể kiếm được nguyên bản nên chúng tôi tạm trích bài phê bình của Đoàn Giỏi để độc giả có thể có một khái niệm về tác phẩm cuối cùng của cụ và cũng để độc giả thử đoán xem Đoàn Giỏi có chủ tâm đả kích cụ Phan Khôi không, hay là chỉ mượn cớ chửi bới để phổ biến một tác phẩm mà từ lâu đảng vẫn dấu kín trong tủ sắt. Chúng tôi không dám quyết định, chỉ biết rằng sau khi đăng bài đó, ban biên tập tờ Văn Nghệ phải tự kiểm thảo và từ ngày ấy thấy vắng tên ĐOàn Giỏi trên mặt báọ

Chúng tôi cũng không dám phê bình cụ Phan Khôi vì cụ là tiền bốị Những người đã có dịp quen biết với cụ trong cuộc đời bôn ba của cụ, tất nhiên biết về cụ rõ hơn chúng tôi .

Ngày 14 tháng 7 trước đây, một anh bạn trẻ đến với tôi, ngỏ ý muốn tôi viết một bài cho tập Giai Phẩm Mùa Thu, tôi nhận lời và viết bài nàỵ

Tôi không phải không nhớ nhập tâm rằng cái Giai Phẩm Mùa Xuân đã gây ra một cảm giác nặng nề cho giới văn nghệ (*), nhưng mà tôi cứ viết. Là vì tôi nghĩ thấy mùa Thu không thể giống mùa Xuân . Thầy Mạnh Tử nói rằng : "Bỉ nhất thời dã, thử nhất thời dã". ,"Thời" là mùa, mùa nào tiết khí ấy, mà cũng mùa nào thức ấỵ

Huống chi cái tôi viết đây là viết bằng văn xuôi có chi nói nấy, nói toàn sự thực, tôi không làm thơ, trong đó không có cái gì nhiêu khê bí hiểm, như "Cái bình vôi " của Lê Đạt, "Con chó đói " của Trần Dần, "Cái chổi quét rác rưởi " của Phùng Quán. Nó như ruột voi, như phổi bò, suôn đuồn đuột mà xốp xồm xộp, ai đọc cũng thấy ngay tôi nói gì, khỏi phải hiểu ý này ra ý khác thì tôi tưởng cũng nên viết lắm.

Tôi muốn nói sự thực. Nhưng có người bảo rằng "có những cái sự thực không nên nói". Tôi không tin . Đó là ở dưới chế độ nào kia, chứ ở dưới chế độ của chúng ta, ta đã lấy phê bình, tự phê bình làm võ khí , thì còn có cái sự thực nào là cái sự thực không nên nói ?

Tôi muốn phê bình. Nhưng có người khác lại bảo rằng : "phê bình nội bộ thì được, không nên viết trên sách báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc ra ". Tôi cũng không tin . Cái thời kỳ "đóng cửa dạy nhau" đã qua rồi, ngày nay chính là ngày có mâu thuẫn gì giữa ánh sáng của quần chúng nhân dân soi dẫn cho, thì không thể giải quyết nổị Vả lại, đã nhận rằng ăn của nhân dân, làm việc cho nhân dân, thì nhân dân là chủ, có quyền kiểm tra mọi việc, thì sao cứ im ỉm ta với nhau, không cho nhân dân biết ?

Bởi vì lẽ đó, tôi viết bài này phê bình lãnh đạo văn nghệ của Hội Văn Nghệ Việt Nam, cái cơ quan mà tôi sống trong đó tám chín năm nay từ khi nó mới bắt đầu thành lập ở Việt Bắc tới giờ, và phê bình rất thẳng thắn.

Hồi còn ở Việt Bắc, đường lối văn nghệ có vẻ đơn giản lắm. Tóm lại là theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa hiện thực xã hội để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, nhất là phục vụ cho cuộc kháng chiến trước mắt. Những người công tác lúc bấy giờ có làm đúng và đầy đủ như thế không, chưa nói đến một điều có thể nói chắc là ai nấy đều cố gắng đi theo đường lối ấỵ Đối với lãnh đạo họ có thắc mắc gì không ? Hầu như không có thắc mắc gì cả . Nếu có thì cũng đã chín bỏ làm mười , vì trong thời gian đó, cái vĩ đại, cái gian khổ mà vinh quang của cuộc kháng chiến ngập trên người họ, họ đang để lòng mà nghĩ đến kháng chiến, không nghĩ đến chuyện khác.

ở đây tôi không đi sâu hơn, không đi tìm cái cớ tại làm sao mà sau khi thắng lợi trở về thủ đô, lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc với lãnh đạo; tôi chỉ đưa ra cái hiện tượng không tốt sau khi trở về Hà Nội hai năm nay .

Thình lình tôi dùng cái danh từ "quần chúng văn nghệ" chắc có người thấy mà lấy làm chướng mắt. Nhưng không dùng nó thì không lấy gì đủ chỉ rõ một cái hiện tượng : cái hiện tượng đối lập, môt bên là lãnh đạo văn nghệ, một bên là quần chúng văn nghệ. Trước kia trong thời kháng chiến, lãnh đạo với thứ quần chúng ấy là một, mà bây giờ là hai . Thêm một điều đáng chú ý, là cái thứ quần chúng ấy, hiện nay, không chỉ là văn nghệ sĩ theo kháng chiến ở Việt Bắc, mà còn văn nghệ sĩ ở vùng giải phóng, mà còn văn nghệ sĩ ở Nam Bộ, ở Khu V ra tập kết nữa, một thứ quần chúng khá đông đảo, hễ lãnh đạo không khéo thì nó dễ thành ra đối lập .

ở dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường : nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường ... Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn có đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt .

Sở dĩ có hiện tượng ấy là bởi trong lĩnh vực văn nghệ chúng ta hai năm nay có những điều sai lệch về lãnh đạo mà tôi sẽ cử đại khái ra như dưới đây . Đây là những việc nổi bật, tôi thấy rõ thì tôi nói ; còn những việc khác về mặt tổ chức, về mặt hành chính tôi không biết cho lắm thì tôi không nóị

Về vấn đề Tự Do Văn Nghệ Sĩ

Sau khi về Hà Nội không lâu, giữa một cuộc tọa đàm ở trụ sở Hội Văn Nghệ, một cán bộ cao cấp (*) lấy tư cách cá nhân đề ra cái vấn đề "tự do của văn nghệ sĩ". Cái vấn đề ấy giải thích là : Có một số văn nghệ sĩ nào đó đòi tự do hay là có ý đòi tự do, mà tự do một cách bừa bãi, đến nỗi " ví như một kẻ kia đi trên đường phố, thấy có người ôm cái cặp da đẹp , giật ngang lấy đi, rồi nói rằng đó là tự do của mình, vì mình thích cái cặp da". Do đó kết luận là : phải có lãnh đạo, văn nghệ sĩ phải ở dưới quyền lãnh đạọ

Tôi thấy vấn đề đặt như thế không đúng. Sự thực trước mắt chúng ta không có như thế.

Bao nhiêu văn nghệ sĩ từng theo kháng chiến, không luận ở Việt Bắc , ở Nam Bộ , ở Khu V, đều đã ở trong Hội Văn Nghệ, đều đã bằng lòng chịu lãnh đạo rồi, nếu họ không bằng lòng chịu lãnh đạo thì họ đã không ở trong Hội Văn Nghệ. Còn những văn nghệ sĩ ở trong vùng mới giải phóng, họ còn ở lại đây tức là họ rắp tâm chịu lãnh đạo, nếu không thì họ đã đi vào Nam . Tóm lại văn nghệ sĩ hiện nay có mặt ở miền Bắc không ai tự do bừa bãi hết, không ai định đánh cắp cặp da hết, tôi không biết vì sao lại đặt ra vấn đề ấy .

Quả thật như vậy, văn nghệ sĩ của chúng ta chẳng những đáng yêu mà lại đáng thương nữạ Họ biết trước kia họ đi sai đường, họ ngoan ngoãn chịu lãnh đạọ Mồ ma Tô Ngọc Vân (*), anh là một họa sĩ cụp vẽ mỹ nhân, năm 1948, anh còn vẽ bức tranh mầu là "Hà Nội đứng lên", trình bày một người thiếu phụ tuyệt đẹp đứng hiên ngang trên đống lửa, chung quanh là những nếp nhà đổ vì bom đạn. Thế mà sau đó anh chừa hẳn cái vai cụp ấỵ ở triễn lãm hội họa năm 1952, trong một bức tranh không thể không có phụ nữ, thì anh vẽ một đám đàn bà già và gái bé.

Còn Thế Lữ, có lần tôi hỏi tại sao anh không làm thơ như trước kia . Anh trả lời rằng đợi đến bao giờ anh chỉnh lại được tâm hồn, cảm thông được với quần chúng cần lao, bấy giờ anh sẽ làm. Thứ văn nghệ sĩ như thế mà nói họ đòi tự do, dù chưa phải là tự do bừa bãi, cũng đã oan cho họ lắm rồi, oan mà không có chỗ kêu .

Có lẽ bởi nhìn thấy ở một cạnh khía nào rồi nhận định hẳn như thế, nên từ đó lãnh đạo gắt hơn, kỳ tiêu diệt thứ tự do ấy của văn nghệ sĩ . Nhưng sự thực , thứ tự do ấy vốn không có để bị tiêu diệt, mà cái cá tính của văn nghệ sĩ, cái nghệ thuật tính của văn nghệ, nhân đó tuy chưa đến bị tiêu diệt, chứ cũng đã bị thương .

Chưa nói đến cá tính và nghệ thuật tính, ngay đến ý kiến ngôn luận của quần chúng văn nghệ dù rấ t bình thường, không có gì hại, cũng bị kìm hãm. Tôi là một người đã chịu cái điều khó chịu ấy, tôi nói ra đây tưởng không có ai ác đến nỗi bảo tôi là dựng đứng hay xuyên tạc .

Sau khi về Hà Nội mấy tuần lễ, có một cuộc họp mặt văn nghệ sĩ với mấy đồng chí văn nghệ Liên Sô . Một đồng chí nói rằng mình không đọc được tiếng Việt cho nên không biết văn học tiếng Việt như thế nào, chứ còn mấy ngành khác như nhạc , kịch, họa đều thấy có tiến bộ cả. Nhân đó, tôi phát biểu ý kiến, đại khái tôi nói văn học Việt vì những điêù kiện nào hạn chế, nên hiện thời nó còn thấp kém lắm , chưa theo kịp sự tiến bộ của mấy ngành kia .

Lại trong một cuộc họp khác sau đó, nói về âm nhạc có mấy người đề cao nhạc cổ Việt Nam. Tuy tôi dốt âm nhạc chứ cũng biết rằng nhạc cổ của ta không cao đến mức ấy, bèn phát biểu ý kiến . Tôi thuật lại chuyện nghe ở người khác rằng có một nghệ sĩ nước bạn phê bình điệu hát chèo, trong đó có đệm nhiều những "a ý a", "tình tính tang", còn đeo tính chất nguyên thủỵ

Một hôm sau tôi gặp ông Hoài Thanh (*) ở chỗ thang gác từng thứ hai của trụ sở Hội Văn Nghệ, ông bảo rằng mấy lần phát biểu ý kiến của tôi đều đáng phê bình, nhất là lần sau, sao lại bằng vào lời một nghệ sĩ nước ngoài mà phủ định nhạc cổ ? Tôi chưa kịp nói gì ông đã đi xuống khỏi thang gác.

Đấy là lãnh đạo nghiệt ngã về nói ; đây là về viết .

Tháng 10 năm ngoái , tôi được cắt cử nói chuyện trong cuộc kỷ niệm Lỗ Tấn (*). Trước khi nói, tôi phải viết ra trình qua lãnh đạo xem . Trong bài viết có chỗ tôi nói Lỗ Tấn thông hiểu chủ nghĩa Mác lắm, nhưng trong văn chương của ông không hề dùng danh từ Mác Xít, mỗi khi đọc, làm tôi nghĩ đến con tằm : Con tằm ăn dâu rồi nhả ra tơ, nếu nhả ra dâu thì không phải là con tằm. Ông Nguyễn Tuân hỏi tôi : "Nói như thế là định viser (ám chỉ) ai ?" Đề nghị tôi nên chữạ Tôi lấy làm lạ, tôi sao lại có tâm địa xỏ lá đến nỗi mỗi khi nói phải có ám chỉ ai mới được.

Một chỗ khác nói về lối phiên dịch, Lỗ Tấn chủ trương trực dịch. Ông Hoài Thanh bảo tôi phải chữa, lấy lẽ rằng phiên dịch có nhiều lối, nếu lấy Lỗ Tấn làm khuôn mẫu thì Hồ chủ tịch dịch Tỉnh ủy bí mật (*) không trực dịch, chẳng phải là không đúng sao ? Tôi biết rõ rằng cái câu tôi nói đó chỉ thuật lại cái chủ trương của Lỗ Tấn, cũng chẳng hề lấy đả động gì đến việc dịch của Hồ chủ tịch hết, nhưng tôi không cãi, cũng cứ hứa sẽ chữa, mà thật, tôi đã chữa ngay trong bản thảo trước mặt ông Hoài Thanh .

Đó là cái thói kỵ húy trong văn chương của thời phong kiến còn rớt lạị Thuở Thiệu Trị, ở trường thi Hương, Thừa Thiên, Đặng Huy Trứ vào trường tư, trong văn có câu "vi gia miêu chi hại", nghĩa là làm hại giống mạ tốt, nhưng "gia miêu" là tên làng của vua triều Nguyễn, quan trường sợ bóng sợ gió, sợ như thế có thể hiểu ra là làm hại làng của nhà vua, bèn đánh rớt bàị

Lại thuở Tự Đức, cũng trường thi Thừa Thiên, Lương Gia Hựu cũng vào trường tư, trong văn có câu "vi thiên tử chi ấp", chữ "ấp" đó có nghĩa là kinh đô, thế mà quan trường sợ có thể hiểu nôm na rằng thiên tử ôm ấp một cô gái nào, cũng đánh rớt bay . Thử so sánh mà xem có phải mấy ông lãnh đạo cũng sợ bóng sợ gió, cũng kỵ húy như mấy ông quan trường ấy không ?

Người ta làm cho tôi cảm thấy qua việc ấy rằng cái nguồn văn chương là Tứ thư, Ngũ kinh, còn nước Việt Nam ngày nay cũng là triều đại gì đó, chỉ khác cái nguồn văn chương Mác xít, chứ cái thói kỵ húy của quan trường thì không khác.

Trở lại vấn đề "Tự do của văn nghệ sĩ".

Thực ra thì , như trên đã nói, văn nghệ sĩ không đòi tự do bừa bãi, họ chịu ở dưới quyền lãnh đạo, chỉ duy cái vấn đề họ đặt ra là lãnh đạo phải như thế nào ? Nói như thế cũng chưa hết ý. Phải nói rằng văn nghệ sĩ muốn được tự do, nhưng họ chỉ yêu cầu được tự do trong nghệ thuật.

Đành rằng văn nghệ phục vụ chính trị, cho nên chính trị phải lãnh đạo văn nghệ . Nhưng phải hỏi : chính trị nếu muốn đạt đến cái mục đích của nó thì cứ dùng những khẩu hiệu, biểu ngữ thông tri, chỉ thị không được hay sao, mà phải cần dùng đến văn nghệ ? Trả lời cho thành thật, e chính trị phải vỗ vai văn nghệ mà nói rằng :"Sở dĩ tao tha thiết đến mày là tao muốn lợi dụng cái nghệ thuật của mày". Đã cởi mở với nhau như thế rồi, văn nghệ đồng ý . Nhưng phần nghệ thuật này là phần riêng của văn nghệ, chính trị không bao biện được, nóphải đòi được tự do trong phần ấỵ Như thế, tưởng chính trị cũng không lấy lẽ gì mà không đồng ý. Hai bên đều có lợi, cái nguyên tắc ấy, ở ngày nay, nó thích dụng trong bất cứ một sự hợp tác nào .

Nhưng hai năm nay, lãnh đạo văn nghệ của chúng ta đã đi quá trớn mà không giữ đúng cái giao ước bất thành văn ấỵ Lãnh đạo đã xâm phạm mỗi ngày một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ.

Trong văn nghệ không cứ ngành nào sáng tác hay "sản xuất", đều hầu như bị Ban thường vụ của Hội xỏ sẹo dắt đi, hay quá lắm là nhúng tay vàọ "Phục vụ công nông binh" và "phục vụ kịp thời", cái đó đã đành rồi; quần chúng văn nghệ bực mình còn phải chịu mệnh lệnh của lãnh đạo ngoài những cái đó .

Tức như trước đây, trong việc chấm giải thưởng về nhạc. Có một bài nhạc, ban chấm giải (gồm những nhạc sĩ chuyên môn) đặt vào hạng thấp, thì Ban thường vụ bảo phải nhấc lên hạng cao, lấy lẽ rằng "lời" nó hay và đúng chính sách. Ban chấm giải trình bày rằng tuy "lời" hay mà "nhạc" tầm thường nên để hạng thấp, nhưng không được, rốt cuộc phải nhấc lên hạng cao . Một anh nhạc sĩ trong ban chấm giải thuật chuyện ấy cho tôi nghe, và phàn nàn rằng thế thì làm thơ làm văn cho hay và đúng chính sách cũng được, việc gì phải làm nhạc và giao cho nhạc sĩ ? Tôi cho phàn nàn như thế là có lý lắm, trừ ra khi nào Ban thường vụ cũng là nhạc sĩ chuyên môn thì vấn đề còn cần phải thảo luận lại .

Để rồi đến ngày Đại hội, trong mỗi ngành sẽ có người đứng lên nói những sự thực như thế ra . Tôi ở ngành văn, tôi đã kể một chuyện về viết như trên kia cũng đủ thấy là khó chịu rồi . Cái bẻ bai hẻ họe của bà già đối với nàng dâu, hà tất phải kể ra hàng tràng, thiên hạ mới biết .

Ông Nguyễn Tuân (*) và ông Hoài Thanh đều là nhà văn nổi tiếng, tôi không nói các ông không có thẩm quyền về nghệ thuật viết văn . Nhưng các ông có nghệ thuật của các ông, còn tôi có nghệ thuật của tôi . Trong nghệ thuật ngụ cái cá tính của mỗi người một khác, do đó cái nghệ thuật tính của văn nghệ của mỗi một tác giả cũng một khác. Có như thế thì mới có được cái quang cảnh "trăm hoa đua nở". Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối với mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết. Mà nếu cứ thế này mãi, than ôi, cái ngày ấy cũng chẳng xa đâu !

Cái tác phong lãnh đạo ấy hiện nay đã truyền nhiễm khắp Hà Nội rồị Một tòa soạn nào đó cũng có quyền chữa bài của tôi, vứt bài của tôi . Mà phải chi đáng chữa thì chữa, đáng vứt mà vứt cho oan . Mới đây, trước ngày 20 tháng 7, có một nhà báo -- giấu làm gì ? Nói ngay ra l` nhà báo Tổ Quốc --- nhà báo tổ Quốc viết thư cậy tôi viết một bàị "Viết một bài về chuyện miền Nam", như thế là đã ra đề cho tôi "làm bài" đó, tưởng cũng đủ lắm rồị Trong thư ông đại chủ bút còn "dàn bài" cho tôi nữa : Như là "yêu cầu" thế này, "mục đích" thế nọ, và hạn từ một ngàn rưởi chữ đến hai ngàn chữ. Tôi lấy làm đau xót quá (có lẽ vì tôi tự ái, đáng kiểm thảo), bèn kiếm cách từ chốị Cụ Đồ Chiểu ơi, cụ Đồ Chiểu ! ở thời cụ, cụ đã kêu :

ở đây nào phải trường thi

Ra đề, hạn vận một khi buộc ràng !

thế mà ngày nay, bẩy tám mươi năm sau cụ, người ta còn ra đề dàn bài, lại hạn chữ cho tôi nữa đó cụ ơi ! Tôi còn làm ăn gì được nữa cụ ơi ! Tôi còn là tôi đâu được nữa cụ ơi !

Về vụ Giai Phẩm Mùa Xuân

Lãnh đạo như thế cho nên mới có tập Giai Phẩm mùa Xuân. Nói cho tiêu tội, mấy người viết Giai Phẩm mùa Xuân, họ vốn không hề cho tôi biết gì cả, nhưng khi đọc thì tôi, có lẽ như tục ngữ nói : Voi thuộc voi, ngựa thuôc. ngựa, tôi biết ngay là vì họ bất bình với lãnh đạọ

Sáng hôm mùng một Tết âm lịch năm nay, ông Tố Hữu (*) đến chơi trụ sở Hội Văn Nghệ . Giữa anh em đông, ông hỏi ý kiến tôi về tập Giai Phẩm mùa Xuân . Tôi nói trong đó chỉ có bài thơ của Trần Dần nó lôi thôi, có hơi không lợi (*) ; còn của Phùng Quán, của Lê Đạt, tôi thấy nói đúng đấỵ "Chống công thức", "Quét rác rưởi tư tưởng" là việc chúng ta cần phải làm, có điều cái gì là công thức, cái gì là rác rưởi chẳng những nên bảo họ nói rõ ra, mà còn nên bảo họ viết lên trên trang báo cho rõ ra . Ông Tố Hữu nói một câu có đông anh em cùng nghe : "Giấy mực đâu mà phí để cho họ viết ?" Thế rồi tôi làm thinh . Tôi làm thinh nghĩa là tôi trả lời đã nhiều rồi, tôi tròn lắm rồi, tôi không dại dột đến nỗi đã thế rồi mà cứ còn nói nữa .

Mấy hôm sau, nghe nói tập sách mỏng ấy bị thu về, tôi cho rằng sự thu về ấy là thất sách. Sao lại phải làm to chuyện cái chuyện không đáng làm to ? Sao lại gợi cho những kẻ hiếu kỳ lén lút tìm mua tập sách ấy 3,000 đồng một tập mà đọc ? Sao lại làm như là sợ nó ? ở Trung quốc , Hồ Phong dám nói xấu lãnh đạo văn nghệ đến thế nào, mà "Ba sắp tài liệu" của Hồ Phong vẫn được công bố ra, cả đến cái "ý Kiến thư" cũng được công bố ra, chẳng ai hề sợ .

Thế rồi một ngày xuân mới, ánh mặt trời ấm áp, tối lại có mấy hạt mưa phùn để giúp cho những cây rụng lá mùa Đông nứt lộc ra, thì ở trụ sở Hội Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ . Hỏi tội độc một Trần Dần thôi, là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công . Hết thảy có độ một trăm rưởi người, trong có vài chục người đứng lên nói đại khái giống nhau về kết luận là Trần Dần có tộị Không phải không có những người thấy rằng Trần Dần dù có tội cũng không đến to như thế, nhưng mà họ đành làm thinh .

Tôi nhớ có một vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ "Người" viết hoa . Lấy lẽ rằng chữ "Người" viết hoa lâu nay chỉ để xưng Hồ chủ tịch thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ "Người" không phải để xưng Hồ chủ tịch . Tôi ngồi nghe và tưởng như ở trong chiêm bao : chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, trong phép viết, chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng Thượng mới phải đãi, thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng Thượng . Nhưng may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình ngồi trong phòng họp Hội Văn Nghệ .

Rồi đến ông Hoài Thanh viết một bài trên báo Văn Nghệ bằng giấy trắng mực đen, ghép Trần Dần vào tội phản động, đứng về phía "địch" chống lại nhân dân ta (Báo Văn Nghệ số 110 ra ngày 17-3-1956).

Thật là cái tội phản động ở xứ này sao mà ghép một cách dễ dàng quá. Hồ Phong bên Trung quốc, còn phải điều tra bao nhiêu năm, công bố "Ba Sắp tài liệu", mới vạch mặt được hắn là phản cách mạng, là tay sai của Tưởng Giới Thạch được . Tôi lại còn thấy một tài liệu, nói Hồ Phong từng bị bắt quả tang có một thanh gươm, ở cái nạm có bốn chữ "Tưởng Trung Chánh tặng", ở cái lưỡi có ba chữ "Đảng Nhân-Hồn". Như thế thì phản động là đáng lắm, có đâu chỉ là một bài thơ mà đã là phản động ?

Tuy vậy Trần Dần còn có phúc hơn cậu cử Nguyễn Thuyên con trai cụ lớn Tiền Quân Nguyễn Văn Thành nhiều lắm. Trần Dần với một bài thơ dài hơn 500 câu mà chỉ mang tiếng là phản động thôi, không như cậu cử Thuyên, bài thơ chỉ có 56 chữ, ý tứ vu vơ, mà bị chết chém, mà còn liên lụy đến anh em, bè bạn, liên lụy đến ông cụ phải uống thuốc độc chết. Trong chỗ đó, tôi thấy thời đại Dân Chủ cộng hòa rộng rãi đối với văn nghệ hơn thời đại chuyên chế triều Gia Long rất nhiềụ

Cuối cùng, ông Nguyễn Đình Thi, thơ ký tòa soạn báo Văn Nghệ viết liên tiếp ba bài đại-cà-sa phê bình tập Giai Phẩm muà Xuân . Sau khi ba số báo in ra xong, ông Thi đưa cả cho tôi xem hỏi ý kiến tôi đối với ba bài ấỵ

Đọc xong, sau một hôm, hai chúng tôi nói chuyện với nhau . Tôi bảo ông Thi rằng ông đặt sai vấn đề. Vấn đề Giai Phẩm là vấn đề lãnh đạo, chứ không phải vấn đề quần chúng. Tôi phân tích rõ ràng cho ông thấy rằng tại lãnh đạo văn nghệ có thế nào cho nên quần chúng văn nghệ mới bất bình mà phát biểu ra như thế. Ví dầu trong sự phát biểu của họ có lầm lỗi cũng còn là cái ngọn, mà cái gốc, phải tìm đến ở chỗ do lãnh đạo gây ra . Thế mà cả ba bài của ông Thi không một chữ nào đụng đến lãnh đạo hết, chỉ đổ lỗi cho mấy người viết trong Giai Phẩm, thế là không công bình, thế là quá đáng. Khi viết đến đây, tôi ngồi dưới ngọn đèn 20 nến, tôi nói có mặt đèn làm chứng, ông Thi đã nhận cho lời tôi nói là đúng, hứa sẽ viết phê bình lãnh đạo, nhưng mãi tới nay chưa thấy viết.

Đọc trong bài thứ nhất của ông Nguyễn Đình Thi, đến chỗ ông ấy nói mấy người trong Giai Phẩm là "cả vú lấp miệng em" làm tôi nhớ lại một chuyện cũ mà tủm tỉm cười một mình. Năm 1920 tôi làm thư ký kiêm kế toán cho công ty Bạch-Thái ở Hải Phòng, tôi thấy ông Bạch Thái Bưởi bóc lột công nhân làm tàu của ông ấy rõ ràng, thế mà môt. hôm ông chỉ vào mặt các anh em làm tàu mà nói rằng : "Chính chúng mày bóc lột tao".

Nghề thế, hễ mình muốn người khác đừng nói đến cái tật xấu của mình thì mình đem ngay cái tật xấu ấy đổ lên đầu người khác để đấm họng họ cho câm đi . Chính ông Nguyễn Đình Thi cả vú lấp miệng em cho nên ông bảo trước rằng bọn Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt là cả vú lấp miệng em . Thực ra thì bọn này có vú đâu mà cả, vả lại họ cũng không có ai là em họ hết .

Về vụ giải thưởng văn học 1954-1955

Sau khi giải thưởng này tuyên bố, ở đâu thì không biết, chứ ở Hà Nội, dư luận bàn tán xôn xao, nhiều người không phục cho rằng có mấy tác phẩm trong đó không xứng đáng được giảị Nói như thế, có thể bị coi là nói vu vơ, không có bằng chứng . Nhưng muốn có bằng chứng cũng không thể có được, và cả nước chỉ có một tờ báo Văn Nghệ có thể đăng những bài phê bình văn nghệ, mà là của Hội Văn Nghệ, thứ dư luận ấy có muốn phát biểu cũng không biết phát biểu vào đâu . Tuy vậy, bằng chứng cũng không phải hoàn toàn không có. Dạo trước, tờ Trăm Hoa có 3 bài của 3 người công kích tập thơ Ngôi Sao của Xuân Diệu, nhưng khốn nỗi, nó ra đến bài thứ ba thì nó chết. Dù vậy, tôi thấy dư luận ấy là quả có, chẳng tin, ai thử làm một cuộc trưng cầu ý kiến mà xem .

Chính tôi là một người ở trong Ban chung khảo chấm giải, tôi đã biểu đồng tình với thứ dư luận trước khi nó xôn xao, nghĩa là trước khi tuyên bố kết quả giải thưởng.

Ban chung khảo có 10 người, tôi là một. Tôi quên lửng, không biết do ai công cử hay chỉ định, khi nhận được giấy triệu tập thì cứ đi dự vào, làm việc, lãnh tiền thù lào, nhưng khi việc xong thì tôi đâm ra trách mình một cách bâng quơ : phải chi mình đừng được dự vào đó thì hay .

Tác phẩm của mỗi ngành trong văn học như thơ, tiểu thuyết, kịch bản ... sau khi chuyển cho nhau đọc rồi, về mỗi ngành có một buổi họp toàn ban để bình định thứ bậc. Trong khi bình định, hễ đồng ý với nhau thì thôi, bằng có mâu thuẫn thì biểu quyết bằng lối giơ tay, thiểu số phục tùng đa số .

Hôm bình định về thơ, tôi phản đối tập thơ Ngôi Sao đứng giải nhì, tôi nói : "có vớt vát lắm thì cũng chỉ nên để nó đứng giải ba". Tôi cử ra những câu bí hiểm không thể hiểu nghĩa được, thì ông Huy Cận (một trong ban chung khảo) bảo rằng đó là tại tôi "muốn" không hiểu thì không hiểu . Quái, tôi "muốn" làm sao được ? Theo lẽ ông Huy Cận, nếu bênh vực cho Ngôi Sao thì phải cắt nghĩa rạch ròi những câu ấy ra, chứ sao lại bảo rằng tôi "muốn" không hiểu ? Nhưng cả ban làm thinh, tựa hồ ai cũng hiểu những câu ấy, không ai tỏ đồng ý với sự chỉ trích của tôi . Tôi còn cử ra những câu tầm thường quá, không xứng đáng là thơ, và nói rằng thơ Xuân Diệu ngày nay kém thơ Xuân Diệu ngày trước.

Một ông trong ban (quên là ai) cãi rằng nếu thế thì lâu nay Đảng giáo dục Xuân Diệu không có hiệu quả gì sao ? May mà một ông khác (quên là ai) lập tức đưa tay ngăn lại, nói đó không phải là cái luận cứ vững, đừng đưa ra . Nhưng đồng htời tôi trót đã vọt miệng thốt ra câu này : "Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng, chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu ". Thật như Đức Khổng Tử đã dạy rằng : "Ngựa tứ chẳng kịp lưỡi". Cũng vì tôi nên có sự mâu thuẫn, phải biểu quyết . Tôi đứng về thiểu số, mà nên nhớ hình như thiểu số tuyệt đốị

Hôm khác bình định về tiểu thuyết. Tôi phản đối Truyện Anh Lục của Nguyễn Huy Tưởng đứng giải nhì. Tôi cử ra sáu bảy chỗ, kết luận rằng cái tiểu thuyết nhiều chỗ không giống với sự thực ; trái với chủ nghĩa hiện thực bước thứ nhất, nếu nó được giải cao thì khi ngoại quốc dịch nó ra, nhất là khi bên địch đọc nó, bất lợi cho văn học của chúng ta . Cả ban không ai bác lại lời tôi, tuyệt nhiên không có một người nào có một lời nào bác lại tôi, nhưng thế nào không biết, cuối cùng cũng phải biểu quyết, và tôi vẫn đứng về thiểu số, lại là thiểu số tuyệt đối .

Đến khi việc đã xong rồi, Ban chung khảo không còn có buổi họp nào nữa rồi, tôi mới tiếp được hai tác phẩm về ký sự, đều đứng giải ba, có thông tri bảo đọc và cho ý kiến. Tôi thấy cái Nam Bộ mến yêu của Hoài Thanh chỉ là bài viết chạy như bài đăng trên báo, không có gì là giá trị văn học, còn cái Lên Công Trường của Hồng Hà viết có công phu hơn . Tôi nhớ ra mình đã từng hạ hai tác phẩm của Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng xuống mà không được, bây giờ không còn đủ sức bướng để mà hạ của ông Hoài Thanh xuống nữa, bèn viết một mẩu giấy đề nghị đưa Lên công trường lên giải nhì. Nhưng mẩu giấy ấy về sau chìm đi đâu mất, không ai nhắc đến.

Sau co một buổi họp giữa những người chấm giải với những người được giảị Đáng lẽ, một buổi họp như thế, thế nào Ban chấm giải cũng phải gợi cho những người được giải có thắc mắc gì thì nói ra . Bởi vì bây giờ không phải như thời phong kiến chấm trường thi, quan trường ăn tiền lấy đỗ bậy bạ rồi ai rớt nấy chịụ Nhưng mà không thấy ai đả động đến việc ấỵ Gần rốt buổi họp tôi mới đề nghị xin cho nói thắc mắc. Thế rồi có mấy người nói thắc mắc của họ . Cuối cùng tôi cũng đưa ra thắc mắc của tôi về cái sự hai lần bị đứng về thiểu số, chứ cái sự định đoạt ấy của đa số, tôi cho là không đúng, tôi nhất định không phục.

Trong những người được giải, có một người đứng lên phát biểu lấy làm lạ rằng trong Ban chung khảo không nhất trí với nhau, xong việc rồi lại còn có người đưa ra thắc mắc ? Tan buổi họp, tôi nghĩ mà cũng lấy làm lạ rằng sao cái ông lấy làm lạ đó, lại không ở trong Ban chung khảo !

Đến hôm phát giải thưởng ở Câu Lạc Bộ Đoàn Kết, ban tổ chức đề nghị tôi làm một người trao giảị Tôi từ chốị Tôi sợ rằng trong khi trao giải hoặc rủi mà tôi gặp phải trao ba cái giải mình phản đối thì khổ cho mình. Khi tuyên bố ba cái giải mà tôi phản đối ấy, tôi nhất định không vỗ tay . Tôi nhất định tỏ thái độ phản đối đến cùng.

Hôm thượng tuần tháng 6, tôi nằm trong bệnh viện C, thấy mấy anh bộ đội đọc tập thơ Người chiến sĩ của Hồ Khải Đại mà chê rằng dở quá, tôi bèn mượn xem thì thấy quả thật là dở quá . Thế mà nó được giải ba văn học. Tập thơ này, tôi ở trong Ban chung khảo chưa hề thấy mặt nó, sau cùng chỉ nhận được thông tri nói nó nguyên ở giải khuyến khích, nay tương lên giải ba . Ai tương lên ! Thế có lạ không !

Ban chung khảo theo đề nghị của ông Xuân Diệu, sau khi tuyên bố giải thưởng, phải làm nhiều cách tuyên truyền cổ động rầm rộ cho các tác phẩm được giải, và đã cắt cử người nào viết bài phê bình cho tác phẩm nàọ Lâu mà không thấy người viết. Tình cờ tôi hỏi một ông , ông trả lời : "Khó viết quá". Câu trả lời đúng hết sức : lấy trúng giải thì dễ, chứ viết để tuyên truyền cổ động cho nó thì phải khó.

Cho đến hết tháng 7 mà chỉ có 2 bài phê bình trên báo Văn Nghệ . Một bài ông Hoàng Xuân Nhị (1 người trong Ban chung khảo) phê bình Truyện Anh Lục . Độc giả không lấy làm mãn nguyện, có người đã nói, đọc nó chỉ thấy cái vẻ mô phạm hiền lành của một giáo sư đại học mà thôi . Một bài ông Hoài Thanh viết để bênh vực cho Ngôi Sao mà bênh vực một cách gắng gượng quá, nhất là yếu, không hề chống cãi lại những chỗ đả kích trong ba bài của báo Trăm Hoa .

Tôi rất không phục ông Hoài Thanh ở điểm này : ông viết bài ấy sau ba bài của Trăm Hoa mà ông không hề nhắc tới Trăm Hoa lấy một tiếng, ông cố dìm nó xuống cũng như Phạm Quỳnh đã dìm báo Hữu Thanh của Ngô Đức Kế. Nếu không dìm thì là ông khinh, cũng như Phạm Quỳnh đã khinh báo Hữu Thanh của Ngô Đức Kế .

Về vụ này, có một điều, người ngoài không phải là tôi không biết đến, thì không lấy làm quái lạ . ấy là điều, ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong Ban chung khảọ Nếu chỉ ở trong Ban chung khảo mà thôi, còn khá : thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở trong Ban sơ khảo nữạ Sao lại có thể như thế ?

Trường thi phong kiến thuở xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch tiếng : Một người nào có con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải "hồi tị", không được đi chấm trường. Bây giờ cả đến chính mình đi thi mà cũng không "hồi tị" : một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã "liêm chính" cả rồi ; một lẽ là trắng trợn vì thấy mọi cái "miệng" đã bị "vú lấp" .

Người ta cứ sợ "bên địch xuyên tạc". Sao trong việc này không sợ ? Nó cần gì phải xuyên tạc ? Đọc mấy tác phẩm được giải thưởng này, tha hồ cho nó đánh giá văn học miền Bắc.

Gọi là phê bình, chỉ có thế ; tôi chỉ trình bày mấy hiện tượng không tốt trong giới văn nghệ . Còn sửa chữa, mong ở Đại hội sắp tới, nếu toàn thể xét thấy lời tôi nói có đúng phần nào thì xin tùy đó mà sửa chữa .

PHAN KHÔI

(Viết xong ngày 30-7-1956 tại Hà Nội)

Chú thích :

(*) - Tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân bị cấm và tác giả một bài thơ "Nhất Định Thắng" đăng trong đó là Trần Dần bị đi tù .

(*) - Cán bộ cao cấp là ông Trường Chinh .

(*) - Tô Ngọc Vân chết ở Điện Biên Phủ năm 1954 .

(*) - Hoài Thanh tên thật là Nguyễn Đức Nguyện.

(*) - Lỗ Tấn là nhà văn hào thiên tả của Trung quốc, chết từ 1936.

(*) - Tỉnh ủy bí mật tiếng Pháp đề là : L Obkom clandestin .

(*) - Nguyễn Tuân là tác giả "Vang bóng một thời".

(*) - Tố Hữu : Trung ương ủy viên Đảng, cục trưởng cục Tuyên Huấn. Nổi tiếng về những bài ca tụng hoặc khóc Stalin.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved