Lê Thiết Cương |
Đình Mông Phụ, Hà Nội Ảnh: Lê Thiết Cương
Nếu bờ biển của
Việt Nam không dài từ Móng Cái đến Hà Tiên. Nếu Việt Nam ở một vị trí địa lý
khác không giáp biển. Nếu Việt Nam là một hòn đảo. Nếu Việt Nam không có nhiều
dòng sông chảy qua. Những nếu đó, những giả sử đó là đúng thì văn hóa Việt Nam
có gì khác đi không?
Trên thực tế
thì Việt Nam nằm ở mép và góc của lục địa châu Á, tiếp giáp với biển, có bờ biển
dài (3.260km). Vị trí địa lý ấy, điều kiện tự nhiên môi trường, khí hậu, phong
thủy ấy thiên về thủy ấy sẽ sinh ra văn hóa ấy.
Dưới góc nhìn địa - văn hóa thì Việt Nam quả là có một vị trí đặc biệt. Song hao đắc địa theo trục Tây - Đông. Các dòng sông đều chảy về phía Đông. Có thể gọi Việt Nam là vùng đất của những cửa sông. Dù là với mục đích gì, giao lưu, buôn bán, làm ăn, văn hoá, tôn giáo thì cũng xuôi theo sông mà đến hoặc bằng đường biển rồi ngược sông mà lên. Vào thế kỷ thứ II, những nhà sư Ấn Độ đầu tiên đến Việt Nam truyền đạo chắc cũng bằng con đường này. Yếu tố địa – văn hóa cực đông, giáp biển của Việt Nam như một lợi thế của ngõ cụt, của nước chảy chỗ trũng. Không phải quốc gia nào cũng được hưởng một cuộc đất độc đáo và quý giá như vậy. Văn minh Phật giáo Ấn Độ, Tây Tạng, văn minh Trung Hoa thẩy đều hợp quy luật chúng thủy triều Đông cách mà đến với Việt Nam. Sông MeKong kết thúc ở miền Nam Việt Nam là sông Cửu Long, sông Hoàng Hà kết thúc ở miền Bắc Việt Nam là sông Hồng. Tất cả các nền Văn hóa đều theo hai con sông đó từ đỉnh Hymalaya chảy về đây thì dừng lại, quy tụ, hội tụ, thủy tụ trước khi tạo thành minh đường – Biển Đông để giao thoa với nhau rồi sau đó hoặc đồng thời giao lưu với nền văn hóa bản địa.
Đặc điểm văn hóa - nước của người Việt khởi từ Đông Sơn. Nghệ thuật không chỉ mô tả máy móc cuộc sống, nó cô đọng những hình ảnh phổ biến trong đời sống thành hình tượng. Hình tượng thuyền trên trống đồng Đông Sơn là một ví dụ. Vừa là đời sống gắn với nước (sông, biển) vừa gợi đến sự liên hệ với gốc Nam Đảo ít nhất là về mặt tạo hình. Hình thuyền, nhà-thuyền trên trống đồng Đông Sơn giống với hình nhà cổ ở vùng Bali (Indonesia), giống với hình nhà sàn, giống với hình nhà dài của người Ê đê…, giống với hình những ngôi đình. Hình nhà-thuyền trên mặt trống đồng với hình dáng các ngôi đình là một. Từ độ võng của bờ nóc, khoảng cách rất thấp giữa sàn và tầu mái. Phần lõm, khó hiểu nếu không nghe tên gọi của nó, ở ngay gian giữa của tòa đại đình được gọi là “lòng thuyền”.
Thuyền, nhà-thuyền, nhà sàn, đình, biểu tượng cuộc sống gắn với nước ấy của người Việt vẫn còn đến hôm nay.
Vượt biển từ Nam Đảo đến bằng thuyền, sống trên thuyền, men theo các dòng sông để tiến sâu vào đất liền rồi ở lại luôn, một cuộc sống gắn chặt với nước. Các di chỉ Đông Sơn đều gắn với các dòng sông lớn, vừa là nguồn nước để trồng lúa nước, đánh bắt thủy sản và đường giao thông. Người Việt là người – nước là văn hóa nước. Sống với nước, tín ngưỡng với nước, nghệ thuật với nước (trống đồng vừa là nhạc cụ vừa là tín ngưỡng) mà chết cũng với nước, những mộ thuyền tiêu biểu như mộ thuyền ở Phú Lương (Hà Tây cũ), Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) hoặc ở Việt Khê (Hải Phòng) có thể coi là dẫn chứng.
Sau 1000 năm Bắc thuộc dưới ách đô hộ và đồng hóa văn hóa của nhà Hán, văn hóa Việt Nam không những không mất đi mà còn phát triển rực rỡ ngay dưới thời Lý tiếp đến là Trần. Nguyên nhân chính vì văn hóa Việt vẫn giữ được liên hệ với gốc Nam Đảo của nó, một cái gốc rất mạnh. Về mặt nghệ thuật tạo hình thì Nam Đảo là một nhánh của đại lộ từ châu Phi đến châu Úc và châu Đại Dương. Tượng của các dân tộc châu Phi, châu Úc, châu Đại Dương, Đông Nam Á và tượng nhà mồ Tây Nguyên cho đến điêu khắc đình thế kỷ 16, 17, 18 của Việt Nam là cùng một ngôn ngữ.
Biển là cái cầu nối văn hóa Việt với quê gốc Đông Nam Á của mình, với gốc nước của mình. Nhưng không chỉ vậy, biển còn là cây cầu nối các vùng và các vùng văn hóa của người Việt liền mạch với nhau. Việt Nam như một người cao gầy, chiều ngang hẹp (chẳng cần đi mãi cũng đã ra đến biển), phát triển theo chiều dài nhưng chính vì ở vị trí mép, tiếp biển nên từ Bắc đến Nam có quá nhiều con sông đổ ra biển chia Việt Nam thành nhiều khúc. Mỗi khúc như một cái “làng”. Sự gắn kết trong nội vùng, trong làng rất lớn nhưng tính liên kết giữa các làng, các khúc, các vùng thì không cao, ý thức cộng đồng của người Việt không cao. Rất khó để nhìn thẳng và chấp nhận điều này nhưng đó là sự thực, nhất là hiện nay.
Nhớ gốc rễ Nam Đảo, gốc rễ Đông Nam Á và giữ được cái gốc văn hóa ấy, gốc văn hóa nước ấy thì còn nước. Để mất cái gốc nước ấy, mất văn hóa ấy, mất văn hóa nước ấy thì mất nước.
Dưới góc nhìn địa - văn hóa thì Việt Nam quả là có một vị trí đặc biệt. Song hao đắc địa theo trục Tây - Đông. Các dòng sông đều chảy về phía Đông. Có thể gọi Việt Nam là vùng đất của những cửa sông. Dù là với mục đích gì, giao lưu, buôn bán, làm ăn, văn hoá, tôn giáo thì cũng xuôi theo sông mà đến hoặc bằng đường biển rồi ngược sông mà lên. Vào thế kỷ thứ II, những nhà sư Ấn Độ đầu tiên đến Việt Nam truyền đạo chắc cũng bằng con đường này. Yếu tố địa – văn hóa cực đông, giáp biển của Việt Nam như một lợi thế của ngõ cụt, của nước chảy chỗ trũng. Không phải quốc gia nào cũng được hưởng một cuộc đất độc đáo và quý giá như vậy. Văn minh Phật giáo Ấn Độ, Tây Tạng, văn minh Trung Hoa thẩy đều hợp quy luật chúng thủy triều Đông cách mà đến với Việt Nam. Sông MeKong kết thúc ở miền Nam Việt Nam là sông Cửu Long, sông Hoàng Hà kết thúc ở miền Bắc Việt Nam là sông Hồng. Tất cả các nền Văn hóa đều theo hai con sông đó từ đỉnh Hymalaya chảy về đây thì dừng lại, quy tụ, hội tụ, thủy tụ trước khi tạo thành minh đường – Biển Đông để giao thoa với nhau rồi sau đó hoặc đồng thời giao lưu với nền văn hóa bản địa.
Đặc điểm văn hóa - nước của người Việt khởi từ Đông Sơn. Nghệ thuật không chỉ mô tả máy móc cuộc sống, nó cô đọng những hình ảnh phổ biến trong đời sống thành hình tượng. Hình tượng thuyền trên trống đồng Đông Sơn là một ví dụ. Vừa là đời sống gắn với nước (sông, biển) vừa gợi đến sự liên hệ với gốc Nam Đảo ít nhất là về mặt tạo hình. Hình thuyền, nhà-thuyền trên trống đồng Đông Sơn giống với hình nhà cổ ở vùng Bali (Indonesia), giống với hình nhà sàn, giống với hình nhà dài của người Ê đê…, giống với hình những ngôi đình. Hình nhà-thuyền trên mặt trống đồng với hình dáng các ngôi đình là một. Từ độ võng của bờ nóc, khoảng cách rất thấp giữa sàn và tầu mái. Phần lõm, khó hiểu nếu không nghe tên gọi của nó, ở ngay gian giữa của tòa đại đình được gọi là “lòng thuyền”.
Thuyền, nhà-thuyền, nhà sàn, đình, biểu tượng cuộc sống gắn với nước ấy của người Việt vẫn còn đến hôm nay.
Vượt biển từ Nam Đảo đến bằng thuyền, sống trên thuyền, men theo các dòng sông để tiến sâu vào đất liền rồi ở lại luôn, một cuộc sống gắn chặt với nước. Các di chỉ Đông Sơn đều gắn với các dòng sông lớn, vừa là nguồn nước để trồng lúa nước, đánh bắt thủy sản và đường giao thông. Người Việt là người – nước là văn hóa nước. Sống với nước, tín ngưỡng với nước, nghệ thuật với nước (trống đồng vừa là nhạc cụ vừa là tín ngưỡng) mà chết cũng với nước, những mộ thuyền tiêu biểu như mộ thuyền ở Phú Lương (Hà Tây cũ), Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) hoặc ở Việt Khê (Hải Phòng) có thể coi là dẫn chứng.
Sau 1000 năm Bắc thuộc dưới ách đô hộ và đồng hóa văn hóa của nhà Hán, văn hóa Việt Nam không những không mất đi mà còn phát triển rực rỡ ngay dưới thời Lý tiếp đến là Trần. Nguyên nhân chính vì văn hóa Việt vẫn giữ được liên hệ với gốc Nam Đảo của nó, một cái gốc rất mạnh. Về mặt nghệ thuật tạo hình thì Nam Đảo là một nhánh của đại lộ từ châu Phi đến châu Úc và châu Đại Dương. Tượng của các dân tộc châu Phi, châu Úc, châu Đại Dương, Đông Nam Á và tượng nhà mồ Tây Nguyên cho đến điêu khắc đình thế kỷ 16, 17, 18 của Việt Nam là cùng một ngôn ngữ.
Biển là cái cầu nối văn hóa Việt với quê gốc Đông Nam Á của mình, với gốc nước của mình. Nhưng không chỉ vậy, biển còn là cây cầu nối các vùng và các vùng văn hóa của người Việt liền mạch với nhau. Việt Nam như một người cao gầy, chiều ngang hẹp (chẳng cần đi mãi cũng đã ra đến biển), phát triển theo chiều dài nhưng chính vì ở vị trí mép, tiếp biển nên từ Bắc đến Nam có quá nhiều con sông đổ ra biển chia Việt Nam thành nhiều khúc. Mỗi khúc như một cái “làng”. Sự gắn kết trong nội vùng, trong làng rất lớn nhưng tính liên kết giữa các làng, các khúc, các vùng thì không cao, ý thức cộng đồng của người Việt không cao. Rất khó để nhìn thẳng và chấp nhận điều này nhưng đó là sự thực, nhất là hiện nay.
Nhớ gốc rễ Nam Đảo, gốc rễ Đông Nam Á và giữ được cái gốc văn hóa ấy, gốc văn hóa nước ấy thì còn nước. Để mất cái gốc nước ấy, mất văn hóa ấy, mất văn hóa nước ấy thì mất nước.