Home » » THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ-P1

THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ-P1

Written By kinhtehoc on Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012 | 22:42

Mở đầu

Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Đi trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng. Xa mờ là vỏng cung Đông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi đến đấy phải năm mười cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về.

Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa.

Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa.

Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lắp ra đa với máy thông tin, mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo: “ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người”. Chú Phụng thì khác, Chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú cháu với nhau: “Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái”. Nhà chú Phụng toàn phụ nữ: mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gái. Chú Phụng đùa: “Chú đẹp giai nhất nhà”.

Chị Ngữ là chị dâu tôi,lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh Túc, Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quỳ. ông giáo Quỳ có nhiều sách. Mọi người vẫn bảo ông là “đồ gàn”, lại bảo ông là “lão dê già”, “Quỳ dê”. ông giáo Quỳ có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị dâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. ông giáo Quỳ lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì.

Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả sân. Tôi gọi cái Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em gái tôi người nhỏ quắt, đen đúa nhưng mắt sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi ướt đầm hai bên vạt áo. Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa uống ừng ực. Nước mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ tôi không ăn được thịt mỡ.

Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên ngây ngất. Mùi lúa ngột ngạt. Đường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi đi qua cổng nhà dì Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi: “Anh Nhâm!” Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi: “Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội”.

Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay. Chú Sang chồng dì Lưu đang công tác bên. Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai chú Sang ngoài Hà Nội có con gái là Quyên đi học Dại học bên Mỹ. Hồi bé Quyên đã có lần về thăm quê.

Tôi cầm bức điện đọc: “Cô Lưu cho người ra ga đón cháu Quyên 14 giờ ngày...” Tôi hỏi cái Mị: “Chiều nay à?” Cái Mị gật đầu.

Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi: “Nhâm giúp dì ra đón em Quyên nhé”. Tôi bảo: “Nhà cháu đang gặt”. Dì Lưu bảo: “Để đấy đã. Gặt ở khoảnh nào?” Tôi bảo: “Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng”.

Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ tôi. Cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn. Nó hay nói, hay làm nũng. Cái Mị bảo: “Anh Nhân ơi, hôm nào anh làm cho em cái lồng lấy ổi”. Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lồng hơi giống hom giỏ, có hàm răng mở ra. Tôi bảo: “Em kiếm nứa đi”. Cái Mị bảo: “Em có rồi. Mai anh làm nhé” Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuya. Cái Mị bảo: “Mai đấy”. Tôi bảo: “ừ”. Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi gãy cành có lần suýt ngã.

Chú Phụng đọc tờ điện báo nói: “Sao lại bưu cục S. N. N? Thế là nghĩa lý gì? Bọn ở thành phố nhiều mưu kế lắm”. Mẹ tôi bảo: “Dì Lưu đã nhờ đi thì Nhâm đi đi. Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc”. Tôi bảo cái Mị: “ Em về đi. Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn”.

Cái Mị về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần trên cánh đồng xa tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái. Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. Đất trên mặt ruộng ẩm ướt. Những con châu chấu nhỏ xíu nhảy lách tách.

Đến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra chỉ có bốn người nhà tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhể gai ở chân. Chị Ngữ đội nón, khăn trùm mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về dãy núi xa phía vòng cung Đông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng hỏi: “Mày về luôn chứ?” Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầu. Hai chú cháu tôi mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi sau. Gánh lúa rất nặng, tôi thấy chân mình run lắm cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước. 2000 bước. Cứ thế. Cứ thế mãi. Rồi cũng đến nhà.

Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng mang cơm ra đồng cho mẹ tôi và chị Ngữ.

Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không mệt tôi đánh thông đấu gạo.

Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc màu của bố tôi. Tôi sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo: “Cháu cầm lấy ít tiền”. Dì Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hai cân thóc. Dì Lưu hỏi: “Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không?” Tôi gật đầu, thực ra tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra.

Tôi đạp xe ra ga. Từ làng tôi đến ga tám chín cây số. Lâu lắm tôi mới đi xa thế này.

Con đường đất men theo rìa làng, qua đình làng, qua đầm sen rồi theo bờ mương ngược về huyện lỵ. Tôi nghĩ. Những ý nghĩa của tôi mung lung.

Tôi nghĩ

Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ

Sự bất lực của hình thức biểu đạt

Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất

Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất

Những số phận hưu hắt đầy mặt đất

Bao tháng ngày trôi đi

Bao kiếp người trôi đi

Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được

Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này

Nhặt được ánh hoang vắng

trong mắt em gái tôi

Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi

Nhặt được niềm hy vọng hão huyền

trong lòng chị dâu tôi

Và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên

cánh đồng quê

Tôi rốt ráo bắt tỉa tùng ý nghĩ

Tìm cách săn đuổi cho nó vào chuồng

Và tôi hú gọi trên cánh đồng lòng

Tru lên như con sói hoang

Tôi gắng gặt một lượm sống

Bó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ

Tôi hú gọi trên cánh đồng người

Tôi nhặt những ánh mắt đời

Hòng dõi theo ánh mắt tôi

Dõi vào cõi ý thức

Cõi ý thức mênh mông xa vời

Dầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa

mà thôi.

Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã cánh đi trên sân ga. Có khoảng chục người chờ ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở băng cát xét nhà nào đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi: “Người đi qua đời tôi, có nhớ gì không người? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em?” Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hàng quần áo, giày dép, đường sữa, thuốc lá. ô tô chạy xuôi chạy ngược.

Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng.

Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to: “Tàu về”. Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên: “Tàu về”. Tiếng còi tàu hăm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng. Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy xuôi chạy ngược. Tiếng rao hàng chen nhau: “Nước đây! Ai bánh nào! Ai nước nào! Ai bánh nào! Ai nước nào!”

Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngổn ngang ở ngay bậc cửa. Đây là ga lẻ. Đồng quê tôi vô danh. Nơi tôi đứng đây vô danh. Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé Tôi nhận ra mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên cao, gầy tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người này, đấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng già. Quyên.

Quyên xõa tóc, mặc áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi. Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra.

Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngay. Quyên bảo: “Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không?” Tôi bảo: “Vâng”. Quyên cười: “Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu. Anh tên gì?” Tôi bảo: “Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng”. Quyên hỏi: “Thế anh có họ hàng gì với tôi không?” Tôi bảo: “Không”. Quyên gật đầu: “Tốt. Cô Lưu thuê anh à?” Tôi nhìn cái bóng tối sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê, làm mướn.

Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi nhau lướt trên mặt đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì có nghĩa. Quyên hỏi: “Nhà anh cấy bao nhiêu sào? Mỗi sào bao nhiêu thóc? Được bao nhiêu tiền?” Tôi bảo: “Mỗi sào được hơn ba nồi, khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư”. Quyên nhẩm: “Hai mươi triệu tấn thóc cho sáu mươi triệu người “. Tôi bảo: “Có ai chỉ nghĩ đến ăn”.

Qua đầm sen gập sư Thiều. Sư Thiều chào. Tôi chào lại. Sư Thiều bảo: “Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu”. Tôi bảo: “Để lúc nào qua chùa con xin”. Tôi thú chơi hoa. ông giáo Quỳ bảo: “Đấy là thú của kẻ biết đời chó lắm”. Sư Thiều bảo: “Có lấy ít sen về cắm lọ không?” Đầm sen của chùa mùa này nhiều hoa.

Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc thuyền thúng chỉ vừa người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo: “Tôi muốn đi thuyền”. Tôi gọi sư Thiều. Sư Thiều ghé thuyền vào.

Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên trèo lên thuyền. Tôi đẩy thuyền ra.

Sư Thiều bảo: “Chiều người lụy ta”. Tôi cười.

Tôi và sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi rỗng hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không. Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư Thiều hỏi: “Ngon không?” Quyên bảo: Ngon.

Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chào. Quyên chào lại. Quyên ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo.

Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi về sư Thiều.

CHUYệN Sư THIềU

Sư Thiều mồ côi cha mẹ. Năm 15 tuổi có người trông thấy tướng lạ bảo: “Nên xuất gia, trong trần gian không có chỗ chứa cậu “. Sư Thiều nghe lời, đi du phương nhiều nơi, tìm hiểu qua nhiều bậc thiện tri thức nhưng chẳng ngộ. Sư Thiều nói: “Nay phật ở nơi không có Phật”. Lại nói:

“Đạo không tâm hợp người

Người không tâm hợp đạo”.

Sư Thiều tìm thấy một nền chùa cũ bèn phát công đức, tìm cách tu dựng lại, không hiểu sao gọi là “Bạch xỉ tự” (Chùa trắng răng). Sư Thiều hay đọc thơ, có câu:

“Cô luân độc chiếu giang sơn tịnh

Tự tiếu nhất thinh thiên địa kinh”.

Nghĩa là:

“Một vầng riêng chiếu non sông lặng

Chợt cười một tiếng đất trời kinh”.

Lại có câu:

“Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm

Bất thị thi nhân mạc hiến thi”

Nghĩa là:

“Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm

Chẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ”.

Sư Thiều bảo: “Phật dạy con người tu một cách thực tế, tìm lại bản lai diện mục của mình. Phật quá thực tế nên không phải ai cũng hiểu”.

*

Tôi và Quyên về nhà. Dì Lưu nước mắt lã chã gọi: “Cháu! Cháu ơi!” Quyên ngồi bên giường bảo: “Bố mẹ cháu nhớ ngày giỗ ông nhưng bận không về được, bảo gửi cho cô chú ít tiền”. Dì Lưu bảo: “Cô chú không cần tiền, chỉ cần tình cảm”. Quyên lấy ở túi ra năm triệu đồng đưa cho dì Lưu. Quyên bảo: “Chị cho Mị cái áo”. Cái Mị cười bẽn lẽn bảo: “Em cám ơn chị”. Tôi bảo dì Lưu: “Cháu về đây”. Tôi nhét trả dì Lưu hai nghìn đồng xuống gối rồi về.

ở nhà đang tuốt lúa. Chị Ngữ hỏi: “Con bé Quyên có xinh không?” Tôi bảo: “Xinh!”

ăn cơm xong thì tối mịt. Trời đổ mưa rào. Sấm sét nổ vang trời. Cả nhà tôi lục đục chuyển thóc ra khỏi chỗ dột. Xong mọi việc thì đồng hồ đã 11 giờ khuya. Trời vẫn mưa. Tôi bỗng thấy bồn chồn lòng dạ, không ngồi yên được. Tôi bảo mẹ tôi: “Con muốn ra đồng bắt ếch. Mưa này có nhiều ếch”. Mẹ tôi bảo: “ Con không sợ sấm sét ư con?” Tôi cười.

Mẹ tôi chẳng hiểu nụ cười của tôi đâu. Tôi cười như một tên thổ phỉ, cười như một gã nặc nô, cười như một tên quỷ sứ cười móng chân tay mình sao lại đen dài như thế.

BàI HáT PHụ ĐóNG BắT ếCH

Hồn ếch ta đã về đây

Phải nằm khô cạn, ta nay lên bờ

ở bờ những hốc cùng hang

Chăn chiếu chẳng có trăm đường xót xa

Lạy trời cho đến tháng ba

Được trận mưu lớn ta ra ngồi ngoài

Ngồi ngoài rộng rãi thảnh thơi

Phòng khi mưa nắng ngồi ngoài kiếm ăn

Trước kia ta vẫn tu thân.

Ta tu chẳng được thì thân ta hèn

Ta gặp thằng bé đen đen

Nó đứng nó nhìn nó chẳng nói chi

Ta gặp thằng bé đen sì.

Tay thì cái giỏ tay thì cần câu

Nó có chiếc nón đội đầu

Khăn vuông chít tóc ra màu xinh thay

Nó có cái quạt cầm tay

Nó có ống nứa bỏ đầy ngoé con

Nó có chiếc cán thon thon

Nó có sợi chỉ son son dài dài

ếch tôi mới ngồi bờ khoai

Nó giật một cái đã sai quai hàm

Mẹ ơi lấy thuốc cho con

Lấy những lá ớt cùng là xương sông

ếch tôi ở tận hang cùng

Bên bờ rau muống phía trong bè dừa

Thằng Măng là con chú Tre

Nó bắt tôi về làm tội lột da

Thằng Hành cho chí thằng Hoa

Mắm muối cho vào cay hỡi đắng cay

Bụt ơi bụt hiện xuống đây

Lượm oan hồn ếch đón bay về trời

Trăm năm lẫn lộn khóc cười

Kiếp ếch kiếp người cay hỡi đắng cay...

Đồng vắng lặng. Tiếng ếch ộp oạp. Tiếng ễnh ương rất vang, rất to. Tiếng côn trùng rỉ rắc.

Mưa

Mưa miên man.

Tôi cầm đèn pin, chân xéo bừa lên các chân rạ ẩm ướt. ếch có nhiều, đờ đẫn dưới ánh đèn, chỉ cần bắt cho vào rọ. Sấm sét nổ vang trời. Chớp lóe sáng. Vũ trụ mở ra vô cùng vô tận. Gió ào ào, nghe như có muôn vàn cánh chim bay đang vỗ trên đầu. Một cảm giác kinh dị xâm chiếm toàn thân khiến tôi bủn rủn. Tôi rõ ràng thấy có một bóng hình vĩ đại đang lướt nhanh qua, đang chuyển vận mãnh liệt trên đầu. Tôi nằm áp xuống bờ rạ, tâm trạng bàng hoàng, thổn thức. Tôi tin chắc ở lực lượng siêu việt bên trên tôi kia, đang chuyển vận rầm rộ kia, thấu hiểu tất cả, phân minh lắm, rạch ròi, chắc chắn bảo dưỡng tính thiện trong tâm linh con người, có khả năng an ủi, âu yếm đến từng số phận. Điều ấy khiến tôi an lòng.

Tôi đã đúng

Tôi an lòng bởi sự lựu chọn hình thức

biểu đạt này

Hình thức khó khăn, tầm thường,

vô nghĩa, phù phiếm

Để sáng danh giá trị thiện tri thức

Trên cánh đồng hoang này

Cánh đồng hoang của mê muội và cái ác

nhởn nhơ

Ai đấy?

Ai cất lên tiếng sáo nỉ non trong đêm

Và những anh linh nào, nhũ ng hồn ma

nào quờ quạng

Tiếng thở nào rất khẽ

Nụ cười nào rất khẽ

Cất lên ghê rợn từ hàm răng trắng

Những tiếng thì thầm nào

Những lời rên rỉ côn trùng, không nghĩa lý gì

Chỉ riêng tiếng sáo mục đong nhỏ nhoi,

Đi hoang trên cánh đồng lòng

Đi hoang trên cánh đồng người

Kẻ tha nhân nào sống sót

Gã tri âm nào lắng nghe

Cội rễ nào gọi về

Rung tiếng tơ đồng

Đêm vô minh này còn ai thức chong

Ai rảo bảo phiêu du trên đông

Trong cõi trần ai mênh mông

Mưa ngớt dần. Tôi đi qua khoảnh ruộng này, khoảnh ruộng khác. Bọn ếch củng biến đâu mất. Thỉnh thoảng chỉ thấy một con nhái bén phóng vèo theo rạch nước. Thấp thoáng chân trời phía vòng cung Đông Sơn ánh lửa le lói. Tôi cảm giác thấy mình lạc hướng. Tôi không biết bây giờ là mấy giờ nhưng bỗng nhiên nghe thấy tiếng gà kêu. Tiếng gà kêu khắc khoải, chẳng trình tự gì, khi đổ hồi khi tiếng một. Tôi đi lúc lâu chẳng thấy có con ếch nào, bỗng nhiên nhận ra mình đã lạc đến tận rạch sông Cấm lúc nào chẳng biết. Trên trời, đơn độc một vì sao Mai.

Mãi đến tận mờ sáng tôi mới lần về đến rìa làng. Không khí rất sạch. Làng quê quen thuộc, yên tĩnh. Sau mưa, quang cảnh hiện lên vừa đỏm dáng, vừa tinh khiết.

Qua nhà thím Nhung, tôi dừng lại. Ngôi nhà nhỏ nép ven đường. Phiên liếp hé mở. Một bóng người vội vã lách ra. Người ấy trông trước trông sau rồi vụt chạy nhanh khuất sau bụi duối. Trộm chăng? Tôi định kêu lên thì nhận ra chú Phụng. Một lát, thím Nhung mở cửa bước ra, vẻ bình thản, mặc bộ đồ váy ngủ phong phanh. Thím Nhung hơn ba mươi tuổi, người cân đối, xinh đẹp.

Tôi xách giỏ ếch đi sau chú Phụng. Đến chỗ rẽ, chú Phụng ngoái lại thấy tôi. Chú Phụng hỏi: “ếch có nhiều không?” Tôi không trả lời. Chú Phụng thoáng giật mình. Chú căn vặn: Mày sao thế? Tôi bỗng thấv buồn da diết. Tôi buồn cho thím Nhung, buồn cho chú Phụng, cho ông giáo Quỳ.

Tôi buồn cho tôi.

Chú Phụng bỏ đi, vẻ bất cần. Tôi về nhà. Hóa ra cũng chỉ có khoảng hai chục con ếch. Chị Ngữ bảo: “ Chẳng bõ. Thế mà cũng đi suốt đêm”. Mẹ tôi cười: “Chắc cu cậu vừa bắt ếch, vừa ngủ gật”. Cái Minh sửa soạn đến trường để sinh hoạt hè. Nó mặc quần phăng xanh, áo trắng, đây là bộ diện nhất mà nó chỉ mặc trong dịp hè. Cái Minh ghé tai tôi bảo: “ Em biết anh đi đâu rồi, nhưng em không nói. Không phải anh đi bắt ếch. Cái Minh cười. Tôi nhìn vào mắt nó. Nó biết. Tôi đâu ngờ rằng chỉ vài giờ sau tôi đã phải khóc nó. Nó biết, đơn giản vì gần như nó đã trải qua, thấu suốt. Đến lúc ấy, lúc nó chết, chỉ còn hơn bốn giờ nữa để nó đùa cợt và ngộ cho xong hết thảy mọi điều. Mẹ tôi bảo: “Con mang mấy con ếch sang cho nhà bác giáo Quỳ nhắm rượu. Tôi bảo: Vâng.

Nói xong đi tắm.

Mẹ tôi và chị Ngữ ra đồng dỡ lạc. Đấy cũng là công việc của tôi buổi sáng. Tôi xách xâu ếch qua nhà ông giáo Quỳ. Qua nhà dì Lưu thấy Quyên gọi: “Anh gì ơi!. Tôi bảo. “Tôi là Nhâm. Cái Mị đâu rồi? Quyên bảo: Mị đến trường. Anh đi đâu cho tôi đi với.

Chúng tôi đến nhà ông giáo Quỳ.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved