NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
CHƯƠNG XII
NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
Mục tiêu
Sau khi học xong chương này anh/chị sẽ nắm được những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của nhà nước cũng như bản chất của cách mạng xã hội; đặc điểm của nhà nước vô sản; những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội. Trên cơ sở đó, anh/chị có cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để hiểu quan điểm của đảng ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam hiện nay.
Nội dung
I. NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc và bản chất nhà nước
a. Nguồn gốc của nhà nước
Nhiều nhà triết học tôn giáo cho nhà nước có nguồn gốc từ thượng đế. Với họ, nhà nước ở trần thế chỉ là sự chuẩn bị cho nhà nước ở trên thượng giới. Các nhà triết học duy tâm khách quan như Platôn, Hêghen cho nhà nước là sản phẩm của ý niệm, của tinh thần thế giới, v.v. Những quan niệm này chưa thực sự khoa học.
Theo triết học Mác-Lênin, nhà nước là sản phẩm trực tiếp của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà.
Nguyên nhân sâu xa của việc xuất hiện nhà nước là do nguyên nhân kinh tế. Chính sự phát triển của kinh tế dẫn đến sự ra đời của giai cấp. Việc xuất hiện chế độ tư hữu đã làm nảy sinh các giai cấp có lợi ích đối lập nhau. Do mâu thuẫn lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế các giai cấp đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh giữa các giai cấp có nguy cơ huỷ diệt chính xã hội loài người. Để điều này không xảy ra cần một cơ quan quyền lực đặc biệt. Đó chính là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không thể điều hoà được giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ trong chế độ chiếm hữu nô lệ.
Như vậy, nguồn gốc sâu xa của nhà nước là do kinh tế phát triển, còn nguồn gốc trực tiếp của nhà nước là mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được. Điều này cũng chứng tỏ nhà nước có tính lịch sử. Nhà nước chỉ ra đời tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi cơ sở kinh tế - xã hội của nó không còn.
b. Bản chất của nhà nước
Nhà nước ra đời dường như là đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất định, nhưng trên thực tế nhà nước là cơ quan thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế trong xã hội. Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế. Vì chỉ giai cấp thống trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Cũng nhờ có nhà nước mà giai cấp này mới trở thành giai cấp thống trị về chính trị.
Quan điểm này nói lên bản chất giai cấp của nhà nước, nhà nước bao giờ xét đến cùng cũng là của một giai cấp, giai cấp thống trị về kinh tế và nhờ có sức mạnh đó mà thống trị về chính trị. Do vậy, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp.
Ngoài bản chất giai cấp là cái sâu sắc nhất, nhà nước còn có bản chất xã hội. Nhà nước về bản chất là bộ máy chuyên chính của giai cấp thống trị về kinh tế. Nhưng nhà nước nhân danh xã hội, nhân danh lợi ích phổ biến, một mặt và trước hết nhà nước phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, mặt khác nhà nước không thể không thực hiện lợi ích xã hội, đáp ứng lợi ích xã hội. Đây là mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn này là động lực phát triển của nhà nước. Tuy nhiên nhà nước khi thực hiện lợi ích xã hội vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị về kinh tế.
Ý nghĩa phương pháp luận
Cần nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, tránh mơ hồ về một nhà nước nhân dân, nhà nước phúc lợi chung, nhà nước trừu tượng (trừ nhà nước xã hội chủ nghĩa).
Mặt khác, cũng nên tránh tuyệt đối hoá bản chất giai cấp, đối lập tuyệt đối giữa các nhà nước. Bởi lẽ, nhà nước vẫn thực hiện những lợi ích chung nhất định của xã hội nhất định. Tất nhiên khi thực hiện lợi ích chung này, bao giờ nó cũng đứng trên lợi ích của giai cấp thống trị để giải quyết.
2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
a) Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Khác với thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ huyết thống, nhà nước hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ nơi cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực với tất cả dân cư sống trên lãnh thổ đó, không phụ thuộc vào huyết thống, dân tộc. Do đó, nhà nước bao giờ cũng có biên giới quốc gia.
b) Nhà nước có một bộ máy quyền lực công cộng mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hộ như quân đội, cảnh sát, nhà tù và bộ máy hành chính.
Khác với cơ quan điều hành chung trong thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, nhà nước của giai cấp thống trị bao giờ cũng có cơ quan quyền lực chuyên nghiệp. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật cuả mình được thực thi.
c) Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi bộ máy nhà nước. Hệ thống thuế khoá không có trong thị tộc, bộ lạc và bộ tộc. Do vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không chỉ là công cụ trấn áp các giai cấp khác mà còn là công cụ để bóc lột các giai cấp bị áp bức.
3. Chức năng cơ bản của nhà nước
Tuỳ theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước phân chia khác nhau.
a) Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp - chức năng giai cấp - là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Thông qua chức năng này mà nhà nước thực hiện việc củng cố cơ sở chính trị - xã hội của mình; thực hiện điều hoà mâu thuẫn giai cấp, lôi kéo các giai cấp khác về phía mình, v.v.
Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, như điều hoà các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá tinh thần, duy trì trật tự xã hội, phong tục, tập quán, v.v.
Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chi phối chức năng xã hội. Chức năng xã hội phụ thuộc vào chức năng chính trị, phục vụ chức năng chính trị. Giai cấp thống trị phải biết giới hạn kiện toàn cách thực hiện chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp mình.
b) Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Chức năng đối nội của nhà nước thể hiện ở chỗ, nhà nước phải:
- Duy trì sự thống trị giai cấp đối với toàn xã hội, để duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác trong xã hội.
- Tổ chức quản lý xã hội thông qua pháp luật và sử dụng nhiều phương tiện để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại thể hiện ở chỗ, nhà nước thực hiện quan hệ về mặt nhà nước với các nhà nước khác nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ để mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục với các nước khác nhằm tăng cường sức mạnh của nhà nước về mọi mặt và mở rộng ảnh hưởng của nước mình đối với các nước khác.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại của nhà nước. Tất nhiên, tính chất và nhu cầu của chức năng đối ngoại ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến chức năng đối nội.
4. Các kiểu và hình thức nhà nước
Kiểu nhà nước là một khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.
Căn cứ để phân biệt nhà nước này với nhà nước khác là dựa trên quan hệ giai cấp, quan hệ kinh tế, tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội (khi xã hội có giai cấp) có một kiểu nhà nước. Trong lịch sử ứng với các hình thái kinh tế - xã hội đã có các kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước vô sản - một kiểu nhà nước đặc biệt.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ là nhà nước của giai cấp chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại với các chính thể quân chủ, cộng hoà, quý tộc và dân chủ. Các hình thức nhà nước này khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước còn về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện chuyên chính đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp đại địa chủ, phong kiến, quý tộc. Nhà nước phong kiến cũng có nhiều hình thức khác nhau như quân chủ phân quyền (phổ biến ở phương Tây), quân chủ tập quyền (phổ biến ở Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại). Dù tồn tại dưới hình thức nào thì nhà nước phong kiến về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp địa chủ, quý tộc, bảo vệ lợi ích của phong kiến, chuyên chính với nông nô.
Nhà nước tư sản là nhà nước của giai cấp tư sản với hai hình thức chủ yếu là cộng hoà và quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại có những hình thức khác nhau như cộng hoà đại nghị (phổ biến, điển hình); cộng hoà tổng thống. Hình thức của nhà nước tư sản trong thời đại ngày nay rất phong phú nhưng bản chất của nó là không đổi. Nó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức, thống trị giai cấp vô sản và nhân dân lao động khác, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.
Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói khác đi, đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu xã hội - giai cấp, bởi đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước đó, v.v.
Trong các hình thức quân chủ và cộng hoà lại có nhiều hình thức, chẳng hạn: quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến. Cũng hình thức cộng hoà, nhưng có cộng hoà quý tộc, cộng hoà đại nghị, cộng hoà dân chủ
Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới
Nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước không theo nghĩa đen, là “Nhà nước nửa nhà nước”. Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản thể hiện ở chỗ:
- Nhà nước vô sản chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử loài người.
- Chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nhà nước vô sản không phải là chức năng giai cấp (bạo lực) mà là chức năng tổ chức xây dựng kinh tế - xã hội. Chính vì những tính chất đặc biệt này mà nhà nước vô sản là nhà nước “không còn nguyên nghĩa” nữa.
Nhà nước vô sản dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu; về chính trị dựa trên liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp nhân dân lao động khác.
Tính giai cấp và tính nhân dân và tính dân tộc thống nhất trong nhà nước vô sản. Nhà nước vô sản là tổ chức, thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình.
Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ví dụ, nhà nước vô sản kiểu Công xã Pari 1871; nhà nước Xô Viết ở nước Nga Xô Viết và sau là ở Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô); nhà nước dân chủ nhân dân; nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa, v.v.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ mang lại cho nhà nước vô sản những hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước vô sản tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử của thời điểm xác lập nhà nước ấy; tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và liên minh các giai cấp; tuỳ thuộc vào nhiệm vụ kinh tế - xã hội - chính trị mà nhà nước đó phải thực hiện, v.v. Tuy nhiên, bản chất của nhà nước vô sản chỉ là một: chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI
1. Bản chất và vai trò của cách mạng xã hội
a) Khái niệm cách mạng xã hội
Cách mạng xã hội theo nghĩa rộng là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn. Dù theo nghĩa nào thì vấn đề giành chính quyền vẫn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Bởi lẽ, chỉ khi giành được chính quyền thì giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên chính của mình, mới đảm bảo được quyền lực của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như vậy, cách mạng xã hội không phải là bước phát triển bình thường, mà là bước phát triển nhảy vọt, không phải chỉ là nhảy vọt ở một lĩnh vực riêng lẻ nào đó của xã hội, mà là bước nhảy vọt căn bản của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
Cách mạng xã hội khác với đảo chính. Đảo chính là việc giành chính quyền bởi một cá nhân hoặc một nhóm người, không phải là phong trào cách mạng của quần chúng.
Cách mạng xã hội cũng khác với cải cách xã hội. Cải cách xã hội cũng tạo nên những biến đổi về chất nhất định nhưng trong từng lĩnh vực riêng lẻ nhất định và trong khuôn khổ của chế độ xã hội đang tồn tại.
Cách mạng xã hội cũng khác với tiến hoá xã hội. Tiến hoá xã hội cũng là hình thức phát triển của xã hội, nhưng là quá trình diễn ra một cách tuần tự, dần dần với những biến đổi cục bộ trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, giữa tiến hoá xã hội và cách mạng xã hội có sự thống nhất biện chứng với nhau. Cách mạng xã hội chỉ trở thành tất yếu khi những tiền đề của nó được tạo ra bởi tiến hoá xã hội. Ngược lại, chính cách mạng xã hội lại mở đường cho tiến hoá xã hội phát triển. Cứ như vậy, xã hội mới vận động, biến đổi, phát triển.
b) Nguyên nhân của cách mạng xã hội
Cách mạng xã hội có nhiều nguyên nhân về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, nhưng nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân sâu xa là nguyên nhân kinh tế.
Nguyên nhân kinh tế nằm trong phương thức sản xuất của xã hội, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời trở thành lực cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của xã hội.
Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất mới tiến bộ và giai cấp thống trị - dùng quyền lực nhà nước bảo vệ bằng mọi giá quan hệ sản xuất lỗi thời - đại biểu cho lực lượng bảo thủ, lạc hậu, phản tiến bộ. Để thay thế quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời, lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất, giai cấp cách mạng cần lật đổ giai cấp lạc hậu, bảo thủ giành chính quyền về tay mình để thiết lập quan hệ sản xuất mới. Do vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp.
c) Vai trò của cách mạng xã hội
Vai trò của cách mạng xã hội thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế - chính trị - văn hoá - tư tưởng. Vì vậy, cách mạng xã hội được Mác coi là đầu tàu của lịch sử.
Thứ hai, chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; mới thay thế được hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
Cách mạng vô sản là một kiểu cách mạng xã hội hơn hẳn về chất so với tất cả các cuộc cách mạng trước đây vì nó xoá bỏ mọi hình thức người nô dịch người, người áp bức người. Các cuộc cách mạng trước đây trong lịch sử chỉ thay thế hình thức nô dịch người này bằng hình thức nô dịch người khác mà thôi. Ví dụ, cách mạng tư sản thay thế hình thức bóc lột địa tô bằng hình thức bóc lột trực tiếp lao động sống của người công nhân.
d) Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội
Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn kinh tế (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) và mâu thuẫn xã hội (giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột) tương ứng. Nó phải giải quyết mâu thuẫn giai cấp nào, xoá bỏ chế độ xã hội nào, xác lập chế độ xã hội nào. Ví dụ, cách mạng 1789 ở Pháp được coi là cách mạng tư sản vì: giai cấp tư sản lãnh đạo các tầng lớp, giai cấp lao động khác đánh đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản.
Tính chất và nhiệm vụ của cuộc cách mạng quy định lực lượng và động lực của cách mạng. Lực lượng của cách mạng là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi ích ít nhiều gắn bó với cách mạng và thúc đẩy cách mạng tiến lên.
Động lực cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng.
Vai trò lãnh đạo của cách mạng xã hội là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong số các giai cấp đang tồn tại. Ví dụ, giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo trong cách mạng vô sản.
2. Quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội
a) Những điều kiện khách quan của cách mạng xã hội
Muốn có cách mạng nổ ra ngoài nguyên nhân kinh tế (điều kiện kinh tế) cần phải có những điều kiện chính trị - xã hội nhất định đã chín muồi. Tức là những điều kiện mà trong đó mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị toàn quốc, làm lay chuyển cả giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những điều kiện khách quan cần thiết đã chín muồi này tạo nên tình thế cách mạng.
Đó là những điều kiện khách quan, nếu không có những điều kiện khách quan ấy thì cách mạng không thể nổ ra được.
b) Nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội
Không có tình thế cách mạng (những điều kiện khách quan) không thể có cách mạng. Để cách mạng có thể nổ ra thắng lợi còn cần có sự chín muồi của những nhân tố chủ quan.
Nhân tố chủ quan không những là ý chí mà còn là sự giác ngộ về mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của giai cấp cách mạng, là năng lực tổ chức, trình độ tổ chức, tập hợp đông đảo quần chúng tiến hành cuộc đấu tranh đưa cách mạng tới thắng lợi.
Thắng lợi của cách mạng tuỳ thuộc vào sự kết hợp các nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan.
Trong cách mạng vô sản, sự chín muồi của nhân tố chủ quan, biểu hiện trước hết ở Đảng của giai cấp công nhân. Đảng có khả năng phát hiện tình thế cách mạng để động viên, tập hợp quần chúng kịp thời và biết thúc đẩy quá trình hình thành tình thế cách mạng.
3. Hình thức và phương pháp cách mạng
Vấn đề chính quyền
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Không giành được chính quyền, các giai cấp cách mạng không thể thực hiện thành công công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Do đó, việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng là điều kiện tiên quyết để giai cấp cách mạng thực hiện mục đích đó. Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dù dưới hình thức nào thì vẫn phải thông qua và bằng bạo lực cách mạng. Lịch sử cho thấy, dù cách mạng diễn ra tương đối hoà bình thì vẫn phải dùng bạo lực làm hậu thuẫn, làm điều kiện. Nói khác đi, quy luật chung có tính chất phổ biến cho tất cả mọi cuộc cách mạng phải là cách mạng bạo lực. Nghĩa là giai cấp cách mạng phải dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền về tay mình.
Bạo lực cách mạng là hành động cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua khỏi giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời, xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng.
Bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến, nhưng tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, nhất là tuỳ theo sự so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, nó có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Bạo lực cách mạng, khái quát lại, có hai lực lượng: lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị.
Khẳng định bạo lực cách mạng là tất yếu, phổ biến, điều đó không có nghĩa là chúng ta phủ nhận khả năng giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình.
Nhưng để giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình, phải có điều kiện:
- Giai cấp thống trị không còn bộ máy bạo lực đáng kể hoặc có bộ máy bạo lực nhưng đã mất hết ý chí chống lại quần chúng cách mạng.
- Lực lượng cách mạng phát triển mạnh, áp đảo kẻ thù. Cần chống lại chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và chủ nghĩa xét lại về cái gọi là "quá độ hoà bình".
Trong thời đại ngày nay, trước tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, sự biến đổi phức tạp của các trào lưu cách mạng, đặc biệt là sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, nhiều nhà lý luận tư sản đã bác bỏ lý luận cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, họ không thể phủ nhận được tính quy luật vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là phải thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Chỉ có cách mạng vô sản mới giải quyết được một cách căn bản mâu thuẫn trong xã hội tư bản, mới thay thế được xã hội tư bản bằng xã hội mới cao hơn, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó khăn và phức tạp.
TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ
Chúc mừng anh/chị đã hoàn thành chương XII. Anh/chị cần ghi nhớ:
1. Nguồn gốc, bản chất của nhà nước.
2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước. Kiểu và hình thức của nhà nước.
3. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới.
4. Bản chất và nguyên nhân của cách mạng xã hội. So sánh cách mạng xã hội với đảo chính, cải cách xã hội.
5. Bản chất của bạo lực cách mạng.
6. Tính tất yếu khách quan của cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay.
CÂU HỎI SUY LUẬN
Câu hỏi 1: Hãy phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà nước.
Câu hỏi 2: Vì sao nói, nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới? Liên hệ với việc xây dựng Nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay
NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
Mục tiêu
Sau khi học xong chương này anh/chị sẽ nắm được những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của nhà nước cũng như bản chất của cách mạng xã hội; đặc điểm của nhà nước vô sản; những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội. Trên cơ sở đó, anh/chị có cơ sở thế giới quan, phương pháp luận để hiểu quan điểm của đảng ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam hiện nay.
Nội dung
I. NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc và bản chất nhà nước
a. Nguồn gốc của nhà nước
Nhiều nhà triết học tôn giáo cho nhà nước có nguồn gốc từ thượng đế. Với họ, nhà nước ở trần thế chỉ là sự chuẩn bị cho nhà nước ở trên thượng giới. Các nhà triết học duy tâm khách quan như Platôn, Hêghen cho nhà nước là sản phẩm của ý niệm, của tinh thần thế giới, v.v. Những quan niệm này chưa thực sự khoa học.
Theo triết học Mác-Lênin, nhà nước là sản phẩm trực tiếp của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà.
Nguyên nhân sâu xa của việc xuất hiện nhà nước là do nguyên nhân kinh tế. Chính sự phát triển của kinh tế dẫn đến sự ra đời của giai cấp. Việc xuất hiện chế độ tư hữu đã làm nảy sinh các giai cấp có lợi ích đối lập nhau. Do mâu thuẫn lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế các giai cấp đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh giữa các giai cấp có nguy cơ huỷ diệt chính xã hội loài người. Để điều này không xảy ra cần một cơ quan quyền lực đặc biệt. Đó chính là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không thể điều hoà được giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ trong chế độ chiếm hữu nô lệ.
Như vậy, nguồn gốc sâu xa của nhà nước là do kinh tế phát triển, còn nguồn gốc trực tiếp của nhà nước là mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được. Điều này cũng chứng tỏ nhà nước có tính lịch sử. Nhà nước chỉ ra đời tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi cơ sở kinh tế - xã hội của nó không còn.
b. Bản chất của nhà nước
Nhà nước ra đời dường như là đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất định, nhưng trên thực tế nhà nước là cơ quan thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế trong xã hội. Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế. Vì chỉ giai cấp thống trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Cũng nhờ có nhà nước mà giai cấp này mới trở thành giai cấp thống trị về chính trị.
Quan điểm này nói lên bản chất giai cấp của nhà nước, nhà nước bao giờ xét đến cùng cũng là của một giai cấp, giai cấp thống trị về kinh tế và nhờ có sức mạnh đó mà thống trị về chính trị. Do vậy, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp.
Ngoài bản chất giai cấp là cái sâu sắc nhất, nhà nước còn có bản chất xã hội. Nhà nước về bản chất là bộ máy chuyên chính của giai cấp thống trị về kinh tế. Nhưng nhà nước nhân danh xã hội, nhân danh lợi ích phổ biến, một mặt và trước hết nhà nước phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, mặt khác nhà nước không thể không thực hiện lợi ích xã hội, đáp ứng lợi ích xã hội. Đây là mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn này là động lực phát triển của nhà nước. Tuy nhiên nhà nước khi thực hiện lợi ích xã hội vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị về kinh tế.
Ý nghĩa phương pháp luận
Cần nhấn mạnh bản chất giai cấp của nhà nước, tránh mơ hồ về một nhà nước nhân dân, nhà nước phúc lợi chung, nhà nước trừu tượng (trừ nhà nước xã hội chủ nghĩa).
Mặt khác, cũng nên tránh tuyệt đối hoá bản chất giai cấp, đối lập tuyệt đối giữa các nhà nước. Bởi lẽ, nhà nước vẫn thực hiện những lợi ích chung nhất định của xã hội nhất định. Tất nhiên khi thực hiện lợi ích chung này, bao giờ nó cũng đứng trên lợi ích của giai cấp thống trị để giải quyết.
2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
a) Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Khác với thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ huyết thống, nhà nước hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ nơi cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực với tất cả dân cư sống trên lãnh thổ đó, không phụ thuộc vào huyết thống, dân tộc. Do đó, nhà nước bao giờ cũng có biên giới quốc gia.
b) Nhà nước có một bộ máy quyền lực công cộng mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hộ như quân đội, cảnh sát, nhà tù và bộ máy hành chính.
Khác với cơ quan điều hành chung trong thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, nhà nước của giai cấp thống trị bao giờ cũng có cơ quan quyền lực chuyên nghiệp. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật cuả mình được thực thi.
c) Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi bộ máy nhà nước. Hệ thống thuế khoá không có trong thị tộc, bộ lạc và bộ tộc. Do vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không chỉ là công cụ trấn áp các giai cấp khác mà còn là công cụ để bóc lột các giai cấp bị áp bức.
3. Chức năng cơ bản của nhà nước
Tuỳ theo góc độ khác nhau, chức năng của nhà nước phân chia khác nhau.
a) Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp - chức năng giai cấp - là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Thông qua chức năng này mà nhà nước thực hiện việc củng cố cơ sở chính trị - xã hội của mình; thực hiện điều hoà mâu thuẫn giai cấp, lôi kéo các giai cấp khác về phía mình, v.v.
Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, như điều hoà các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá tinh thần, duy trì trật tự xã hội, phong tục, tập quán, v.v.
Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chi phối chức năng xã hội. Chức năng xã hội phụ thuộc vào chức năng chính trị, phục vụ chức năng chính trị. Giai cấp thống trị phải biết giới hạn kiện toàn cách thực hiện chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp mình.
b) Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Chức năng đối nội của nhà nước thể hiện ở chỗ, nhà nước phải:
- Duy trì sự thống trị giai cấp đối với toàn xã hội, để duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác trong xã hội.
- Tổ chức quản lý xã hội thông qua pháp luật và sử dụng nhiều phương tiện để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại thể hiện ở chỗ, nhà nước thực hiện quan hệ về mặt nhà nước với các nhà nước khác nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ để mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục với các nước khác nhằm tăng cường sức mạnh của nhà nước về mọi mặt và mở rộng ảnh hưởng của nước mình đối với các nước khác.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại của nhà nước. Tất nhiên, tính chất và nhu cầu của chức năng đối ngoại ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến chức năng đối nội.
4. Các kiểu và hình thức nhà nước
Kiểu nhà nước là một khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.
Căn cứ để phân biệt nhà nước này với nhà nước khác là dựa trên quan hệ giai cấp, quan hệ kinh tế, tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội (khi xã hội có giai cấp) có một kiểu nhà nước. Trong lịch sử ứng với các hình thái kinh tế - xã hội đã có các kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước vô sản - một kiểu nhà nước đặc biệt.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ là nhà nước của giai cấp chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại với các chính thể quân chủ, cộng hoà, quý tộc và dân chủ. Các hình thức nhà nước này khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước còn về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện chuyên chính đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến là nhà nước của giai cấp đại địa chủ, phong kiến, quý tộc. Nhà nước phong kiến cũng có nhiều hình thức khác nhau như quân chủ phân quyền (phổ biến ở phương Tây), quân chủ tập quyền (phổ biến ở Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại). Dù tồn tại dưới hình thức nào thì nhà nước phong kiến về bản chất vẫn là nhà nước của giai cấp địa chủ, quý tộc, bảo vệ lợi ích của phong kiến, chuyên chính với nông nô.
Nhà nước tư sản là nhà nước của giai cấp tư sản với hai hình thức chủ yếu là cộng hoà và quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại có những hình thức khác nhau như cộng hoà đại nghị (phổ biến, điển hình); cộng hoà tổng thống. Hình thức của nhà nước tư sản trong thời đại ngày nay rất phong phú nhưng bản chất của nó là không đổi. Nó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức, thống trị giai cấp vô sản và nhân dân lao động khác, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.
Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói khác đi, đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu xã hội - giai cấp, bởi đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước đó, v.v.
Trong các hình thức quân chủ và cộng hoà lại có nhiều hình thức, chẳng hạn: quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến. Cũng hình thức cộng hoà, nhưng có cộng hoà quý tộc, cộng hoà đại nghị, cộng hoà dân chủ
Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới
Nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước không theo nghĩa đen, là “Nhà nước nửa nhà nước”. Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản thể hiện ở chỗ:
- Nhà nước vô sản chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử loài người.
- Chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nhà nước vô sản không phải là chức năng giai cấp (bạo lực) mà là chức năng tổ chức xây dựng kinh tế - xã hội. Chính vì những tính chất đặc biệt này mà nhà nước vô sản là nhà nước “không còn nguyên nghĩa” nữa.
Nhà nước vô sản dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu; về chính trị dựa trên liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp nhân dân lao động khác.
Tính giai cấp và tính nhân dân và tính dân tộc thống nhất trong nhà nước vô sản. Nhà nước vô sản là tổ chức, thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình.
Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ví dụ, nhà nước vô sản kiểu Công xã Pari 1871; nhà nước Xô Viết ở nước Nga Xô Viết và sau là ở Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô); nhà nước dân chủ nhân dân; nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa, v.v.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ mang lại cho nhà nước vô sản những hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước vô sản tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử của thời điểm xác lập nhà nước ấy; tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và liên minh các giai cấp; tuỳ thuộc vào nhiệm vụ kinh tế - xã hội - chính trị mà nhà nước đó phải thực hiện, v.v. Tuy nhiên, bản chất của nhà nước vô sản chỉ là một: chuyên chính cách mạng của giai cấp công nhân. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI
1. Bản chất và vai trò của cách mạng xã hội
a) Khái niệm cách mạng xã hội
Cách mạng xã hội theo nghĩa rộng là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, là sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn. Dù theo nghĩa nào thì vấn đề giành chính quyền vẫn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Bởi lẽ, chỉ khi giành được chính quyền thì giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên chính của mình, mới đảm bảo được quyền lực của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như vậy, cách mạng xã hội không phải là bước phát triển bình thường, mà là bước phát triển nhảy vọt, không phải chỉ là nhảy vọt ở một lĩnh vực riêng lẻ nào đó của xã hội, mà là bước nhảy vọt căn bản của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
Cách mạng xã hội khác với đảo chính. Đảo chính là việc giành chính quyền bởi một cá nhân hoặc một nhóm người, không phải là phong trào cách mạng của quần chúng.
Cách mạng xã hội cũng khác với cải cách xã hội. Cải cách xã hội cũng tạo nên những biến đổi về chất nhất định nhưng trong từng lĩnh vực riêng lẻ nhất định và trong khuôn khổ của chế độ xã hội đang tồn tại.
Cách mạng xã hội cũng khác với tiến hoá xã hội. Tiến hoá xã hội cũng là hình thức phát triển của xã hội, nhưng là quá trình diễn ra một cách tuần tự, dần dần với những biến đổi cục bộ trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, giữa tiến hoá xã hội và cách mạng xã hội có sự thống nhất biện chứng với nhau. Cách mạng xã hội chỉ trở thành tất yếu khi những tiền đề của nó được tạo ra bởi tiến hoá xã hội. Ngược lại, chính cách mạng xã hội lại mở đường cho tiến hoá xã hội phát triển. Cứ như vậy, xã hội mới vận động, biến đổi, phát triển.
b) Nguyên nhân của cách mạng xã hội
Cách mạng xã hội có nhiều nguyên nhân về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, nhưng nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân sâu xa là nguyên nhân kinh tế.
Nguyên nhân kinh tế nằm trong phương thức sản xuất của xã hội, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời trở thành lực cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của xã hội.
Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất mới tiến bộ và giai cấp thống trị - dùng quyền lực nhà nước bảo vệ bằng mọi giá quan hệ sản xuất lỗi thời - đại biểu cho lực lượng bảo thủ, lạc hậu, phản tiến bộ. Để thay thế quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời, lạc hậu bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất, giai cấp cách mạng cần lật đổ giai cấp lạc hậu, bảo thủ giành chính quyền về tay mình để thiết lập quan hệ sản xuất mới. Do vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp.
c) Vai trò của cách mạng xã hội
Vai trò của cách mạng xã hội thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế - chính trị - văn hoá - tư tưởng. Vì vậy, cách mạng xã hội được Mác coi là đầu tàu của lịch sử.
Thứ hai, chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; mới thay thế được hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
Cách mạng vô sản là một kiểu cách mạng xã hội hơn hẳn về chất so với tất cả các cuộc cách mạng trước đây vì nó xoá bỏ mọi hình thức người nô dịch người, người áp bức người. Các cuộc cách mạng trước đây trong lịch sử chỉ thay thế hình thức nô dịch người này bằng hình thức nô dịch người khác mà thôi. Ví dụ, cách mạng tư sản thay thế hình thức bóc lột địa tô bằng hình thức bóc lột trực tiếp lao động sống của người công nhân.
d) Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội
Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn kinh tế (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) và mâu thuẫn xã hội (giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột) tương ứng. Nó phải giải quyết mâu thuẫn giai cấp nào, xoá bỏ chế độ xã hội nào, xác lập chế độ xã hội nào. Ví dụ, cách mạng 1789 ở Pháp được coi là cách mạng tư sản vì: giai cấp tư sản lãnh đạo các tầng lớp, giai cấp lao động khác đánh đổ chế độ phong kiến, thiết lập chế độ tư bản.
Tính chất và nhiệm vụ của cuộc cách mạng quy định lực lượng và động lực của cách mạng. Lực lượng của cách mạng là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi ích ít nhiều gắn bó với cách mạng và thúc đẩy cách mạng tiến lên.
Động lực cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng.
Vai trò lãnh đạo của cách mạng xã hội là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong số các giai cấp đang tồn tại. Ví dụ, giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo trong cách mạng vô sản.
2. Quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội
a) Những điều kiện khách quan của cách mạng xã hội
Muốn có cách mạng nổ ra ngoài nguyên nhân kinh tế (điều kiện kinh tế) cần phải có những điều kiện chính trị - xã hội nhất định đã chín muồi. Tức là những điều kiện mà trong đó mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị toàn quốc, làm lay chuyển cả giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những điều kiện khách quan cần thiết đã chín muồi này tạo nên tình thế cách mạng.
Đó là những điều kiện khách quan, nếu không có những điều kiện khách quan ấy thì cách mạng không thể nổ ra được.
b) Nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội
Không có tình thế cách mạng (những điều kiện khách quan) không thể có cách mạng. Để cách mạng có thể nổ ra thắng lợi còn cần có sự chín muồi của những nhân tố chủ quan.
Nhân tố chủ quan không những là ý chí mà còn là sự giác ngộ về mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của giai cấp cách mạng, là năng lực tổ chức, trình độ tổ chức, tập hợp đông đảo quần chúng tiến hành cuộc đấu tranh đưa cách mạng tới thắng lợi.
Thắng lợi của cách mạng tuỳ thuộc vào sự kết hợp các nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan.
Trong cách mạng vô sản, sự chín muồi của nhân tố chủ quan, biểu hiện trước hết ở Đảng của giai cấp công nhân. Đảng có khả năng phát hiện tình thế cách mạng để động viên, tập hợp quần chúng kịp thời và biết thúc đẩy quá trình hình thành tình thế cách mạng.
3. Hình thức và phương pháp cách mạng
Vấn đề chính quyền
Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Không giành được chính quyền, các giai cấp cách mạng không thể thực hiện thành công công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Do đó, việc chuyển chính quyền nhà nước từ tay giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng là điều kiện tiên quyết để giai cấp cách mạng thực hiện mục đích đó. Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dù dưới hình thức nào thì vẫn phải thông qua và bằng bạo lực cách mạng. Lịch sử cho thấy, dù cách mạng diễn ra tương đối hoà bình thì vẫn phải dùng bạo lực làm hậu thuẫn, làm điều kiện. Nói khác đi, quy luật chung có tính chất phổ biến cho tất cả mọi cuộc cách mạng phải là cách mạng bạo lực. Nghĩa là giai cấp cách mạng phải dùng bạo lực cách mạng để đập tan bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền về tay mình.
Bạo lực cách mạng là hành động cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua khỏi giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà nước lỗi thời, xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng.
Bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến, nhưng tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, nhất là tuỳ theo sự so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng, nó có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Bạo lực cách mạng, khái quát lại, có hai lực lượng: lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị.
Khẳng định bạo lực cách mạng là tất yếu, phổ biến, điều đó không có nghĩa là chúng ta phủ nhận khả năng giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình.
Nhưng để giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình, phải có điều kiện:
- Giai cấp thống trị không còn bộ máy bạo lực đáng kể hoặc có bộ máy bạo lực nhưng đã mất hết ý chí chống lại quần chúng cách mạng.
- Lực lượng cách mạng phát triển mạnh, áp đảo kẻ thù. Cần chống lại chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và chủ nghĩa xét lại về cái gọi là "quá độ hoà bình".
Trong thời đại ngày nay, trước tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, sự biến đổi phức tạp của các trào lưu cách mạng, đặc biệt là sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, nhiều nhà lý luận tư sản đã bác bỏ lý luận cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, họ không thể phủ nhận được tính quy luật vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là phải thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Chỉ có cách mạng vô sản mới giải quyết được một cách căn bản mâu thuẫn trong xã hội tư bản, mới thay thế được xã hội tư bản bằng xã hội mới cao hơn, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó khăn và phức tạp.
TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ
Chúc mừng anh/chị đã hoàn thành chương XII. Anh/chị cần ghi nhớ:
1. Nguồn gốc, bản chất của nhà nước.
2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước. Kiểu và hình thức của nhà nước.
3. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới.
4. Bản chất và nguyên nhân của cách mạng xã hội. So sánh cách mạng xã hội với đảo chính, cải cách xã hội.
5. Bản chất của bạo lực cách mạng.
6. Tính tất yếu khách quan của cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay.
CÂU HỎI SUY LUẬN
Câu hỏi 1: Hãy phân tích nguồn gốc, bản chất của nhà nước.
Câu hỏi 2: Vì sao nói, nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới? Liên hệ với việc xây dựng Nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay