Home » » HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

Written By kinhtehoc on Thứ Hai, 30 tháng 1, 2012 | 11:40

HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
CHƯƠNG X

HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

Mục tiêu

Sau khi học xong chương này anh/chị cần nắm được xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên; đặc thù của quy luật xã hội; những nội dung cơ bản của lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Triết học Mác-Lênin, đặc biệt là quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; từ đó, bước đầu biết vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội vào lý giải sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Nội dung

I. XÃ HỘI - BỘ PHẬN ĐẶC THÙ CỦA TỰ NHIÊN

1. Sự tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên

Theo nghĩa rộng, xã hội được hiểu là một bộ phận của thế giới vật chất tách khỏi giới tự nhiên, là hình thức phát triển lịch sử của hoạt động sống của con người.

Theo nghĩa hẹp, xã hội được hiểu là một kiểu hệ thống xã hội cụ thể trong lịch sử (những hình thái kinh tế - xã hội hoặc là những xã hội riêng biệt, cụ thể (xã hội Pháp, xã hội Việt Nam).

Tự nhiên, theo nghĩa rộng, là toàn bộ thế giới vật chất, vô cùng, vô tận; là những điều kiện thiên nhiên, hoàn cảnh địa lý xung quanh mà trong đó con người tồn tại. Tự nhiên còn là cái khách thể mà chủ thể người tác động, biến đổi và cải tạo nó. Đó là giới tự nhiên với tính cách là đối tượng cải tạo của con người.

Tự nhiên vừa là nguồn gốc xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Bởi lẽ, thứ nhất, chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho sự sống của con người. Thứ hai, chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho hoạt động sản xuất xã hội.

Sự tác động của tự nhiên vào đời sống con người theo quy luật tự nhiên và tự phát, còn con người tác động vào tự nhiên có ý thức thông qua hoạt động thực tiễn của mình. Chính hoạt động lao động là cơ sở tạo nên sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên. Con người cần phải giữ được môi trường tự nhiên tốt cho sự tồn tại của mình và để cân bằng quan hệ tự nhiên - xã hội. Ngược lại, nếu con người phá vỡ sự cân bằng quan hệ tự nhiên - xã hội con người sẽ phải gánh chịu hậu quả thiên tai khôn lường.

2. Đặc điểm của quy luật xã hội

Quy luật của tự nhiên được hình thành xuyên qua vô số những tác động tự phát, “mù quáng” của các yếu tố tự nhiên. Quy luật xã hội là quy luật đặc thù của xã hội, nó chỉ nảy sinh, tồn tại thông qua hoạt động của con người. Do vậy, không có hoạt động của con người thì quy luật xã hội không thể xuất hiện và tồn tại.

Cả quy luật tự nhiên, cả quy luật xã hội đều có điểm chung:

Thứ nhất, cả hai loại quy luật này đều mang tính khách quan đó là tính chất “chung”. Tính khách quan của quy luật thể hiện ở chỗ, chúng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Không phụ thuộc vào việc con người có nắm bắt được chúng hay không.

Thứ hai, cả quy luật tự nhiên, cả quy luật xã hội đều có tính tất yếu và tính phổ biến, mặc dù tính tất yếu và phổ biến của quy luật xã hội có phụ thuộc vào phạm vi và cấp độ của các quan hệ xã hội.

Hai loại quy luật này có sự khác nhau:

Quy luật tự nhiên không cần sự tham gia của con người, quy luật xã hội phải thông qua hoạt động của con người có ý thức - cái khách quan được biểu hiện thông qua cái chủ quan. Đó là yếu tố “không chung”. Chính điều này làm cho quy luật xã hội có đặc thù - đó là tính xu hướng.

Quy luật xã hội có những đặc điểm sau:

- Thể hiện thông qua hoạt động (gắn với nhu cầu và lợi ích) của con người. Lợi ích trở thành một yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của quy luật xã hội.

- Mang tính xu hướng và rất phức tạp.

- Để nhận thức quy luật xã hội phải có phương pháp khái quát hoá, trừu tượng hoá cao. Bởi lẽ, quy luật xã hội phải thông qua thời gian rất lâu mới thể hiện ra. Do đó, không thể kiểm tra bằng thực nghiệm khoa học ngay lập tức như đối với các quy luật tự nhiên.

Triết học Mác thừa nhận sự thống nhất và khác biệt của quy luật xã hội và quy luật tự nhiên, từ đó đi sâu nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là lý luận triết học về xã hội của chủ nghĩa Mác.

II. SẢN XUẤT VẬN CHẤT - CƠ SỞ CỦA SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

Khái niệm sản xuất vật chất

Khác với các nhà tư tưởng tiền bối, điểm xuất phát của C.Mác “đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”. Với cách tiếp cận đúng đắn này, C.Mác đã tìm thấy chiếc “chìa khóa” để giải mã những vấn đề phức tạp của xã hội mà trước ông chưa ai làm được. Theo triết học Mác-Lênin:

Sản xuất vật chất là quá trình hoạt động lao động của con người, trong quá trình đó, con người sử dụng các phương tiện, công cụ lao động thích hợp tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.

Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại, phát triển xã hội

Thứ nhất, sản xuất vật chất là nền tảng, là cơ sở để duy trì sinh hoạt vật chất cho xã hội. Nếu thiếu nó sẽ không có bộ mặt tinh thần, không có sản xuất tinh thần và tất nhiên là con người, xã hội không thể tồn tại.

Thứ hai, chính lịch sử phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự phát triển của đời sống tinh thần như chính trị, đạo đức, pháp quyền, v.v.

Thứ ba, trong quá trình sản xuất vật chất con người không chỉ cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội mà còn cải tạo chính bản thân mình. Trên cơ sở đó con người ngày càng phát triển.

III. BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT

1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất

a. Phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là cách thức mà con người dùng để làm ra của cải vật chất cho mình trong một giai đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó con người có những quan hệ nhất định với tự nhiên và có những quan hệ nhất định với nhau trong sản xuất vật chất.

Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một phương thức sản xuất đặc trưng nhất định và theo đó có một phương thức sinh hoạt xã hội nhất định.

Các phương thức sản xuất trong lịch sử được thay thế lẫn nhau một cách tất yếu khách quan bằng các cuộc cách mạng xã hội. Khi phương thức sản xuất mới ra đời, thì toàn bộ kết cấu kinh tế, kết cấu giai cấp, xã hội, các quan điểm tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức cùng các thiết chế tương ứng của nó như nhà nước, đảng phái, v.v cũng thay đổi.

Phương thức sản xuất là sự thống nhất hữu cơ của hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

b. Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức khoẻ thể chất, kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức lao động của họ) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.

Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng mang tính khách quan. Nó biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. Nó là sản phẩm của sự kết hợp giữa lao động sống và lao động quá khứ.

Lực lượng sản xuất là tiêu chí quan trọng nhất để chỉ ra những nấc thang của sự tiến bộ xã hội vì các chế độ kinh tế khác nhau ở chỗ, nó sản xuất bằng cách nào, với công cụ lao động nào.

Trong lực lượng sản xuất gồm ba yếu tố cơ bản: con người - người lao động với thể lực, học vấn, kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ lao động; tư liệu lao động (gồm công cụ lao động và đối tượng lao động). Các yếu tố trong lực lượng sản xuất không thể tách rời nhau, chúng có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó yếu tố con người - người lao động giữ vị trí hàng đầu, tư liệu sản xuất đóng vai trò rất quan trọng.

Ngày nay khoa học - kỹ thuật ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Điều này thể hiện ở chỗ, khoa học đã thẩm thấu vào tất cả quy trình lao động, đóng vai trò quan trọng trong tổ chức, quản lý sản xuất, trong chế tạo, cải tiến công cụ lao động, v.v.

c. Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) thể hiện ở quan hệ về mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất, ở quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ về mặt phân phối sản phẩm sản xuất ra. Như vậy, quan hệ sản xuất gồm ba quan hệ:

- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất;

- Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất;

- Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất.

Ba quan hệ trên trong quan hệ sản xuất thống nhất với nhau. Tuy nhiên, trong ba quan hệ này thì quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm tư liệu sản xuất trong tay, người ấy sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm. Chính quan hệ sở hữu cũng quy định tính đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất của từng xã hội. Do vậy, quan hệ sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác. Mặc dù vậy, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm có ảnh hưởng quan trọng tới quan hệ sở hữu. Chúng có thể góp phần củng cố hoặc phá hoại quan hệ sở hữu.

Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của con người.

2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất

a. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất

Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, ở trình độ kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, v.v ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Ví dụ, khi trình độ sản xuất thủ công thì tính chất của nó là cá nhân. Khi trình độ của lực lượng sản xuất là cơ khí, hiện đại thì tính chất của nó là xã hội hoá. Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Điều này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất này mà quan hệ sản xuất phải biến đổi theo cho phù hợp.

Thứ hai, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, nó luôn luôn vận động và biến đổi trong quá trình lịch sử. Lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất. Sự biến đổi trong lực lượng sản xuất (nội dung) sớm muộn cũng kéo theo sự biến đổi trong quan hệ sản xuất (hình thức).

Thứ ba, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến trình độ nào đó nhất định làm cho quan hệ sản xuất trở nên không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nữa. Khi ấy, xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội nhằm phá bỏ "xiềng xích trói buộc" lực lượng sản xuất để xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

b. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

Mặc dù bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối so với lực lượng sản xuất. Vì vậy, quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai xu hướng:

Thứ nhất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Thứ hai, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất (hoặc là lạc hậu, hoặc là vượt trước quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất) thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự phù hợp (được quan niệm là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn), tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn, bao hàm mâu thuẫn.

Tiêu chí của sự phù hợp được biểu hiện thông qua sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và được thể hiện cụ thể là năng suất lao động tăng; người lao động hăng hái sản xuất; đời sống của người lao động được nâng cao; môi trường làm việc được cải thiện; lực lượng sản xuất phát triển, v.v.

Sự tác động của quan hệ sản xuất tới lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở chỗ, quan hệ sản xuất quy định mục đích của nền sản xuất. Trên cơ sở đó tác động đến thái độ của người lao động, tới tính tích cực ứng dụng khoa học, kỹ thuật hay cải tiến công cụ lao động, v.v của người lao động. Từ đó tác động tới lực lượng sản xuất. Ví dụ, nếu mục đích của nền sản xuất xã hội là vì lợi nhuận thì sớm hay muộn người lao động cũng không tích cực lao động. Nếu mục đích của nền sản xuất là vì con người - nhân dân lao động thì chắc chắn, người lao động sẽ tích cực, nhiệt huyết lao động.

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Quy luật này làm cho lịch sử là một dòng chảy liên tục song mang tính gián đoạn. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, quy luật này có những biểu hiện đặc thù của nó.

IV. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

1. Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng

a. Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định.

Như vậy trong một cơ sở hạ tầng bao gồm ba loại quan hệ sản xuất:

- Quan hệ sản xuất tàn dư của phương thức sản xuất cũ;

- Quan hệ sản xuất thống trị;

- Quan hệ sản xuất mầm mống của phương thức sản xuất tương lai. Ví dụ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa có: quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa; quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (thống trị trong xã hội) và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm mống của xã hội tương lai).

Đặc trưng của cơ sở hạ tầng của một xã hội là do quan hệ sản xuất thống trị quy định. Điều đó chứng tỏ một cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều quan hệ sản xuất thì quan hệ sản xuất thống trị sẽ giữ địa vị chi phối các quan hệ sản xuất khác.

b. Kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v với những thiết chế tương ứng (Nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể) được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng đều liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũng có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có yếu tố có quan hệ trực tiếp (như chính trị, pháp luật), có yếu tố có quan hệ gián tiếp (như nghệ thuật, khoa học).

Trong xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị, bộ phận có quyền lực nhất, có vai trò đặc biệt trong kiến trúc thượng tầng. Bởi lẽ, nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được thống trị của mình trên các mặt đời sống xã hội.

2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng quyết định một kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ: mỗi cơ sở hạ tầng hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó; tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giữ địa vị thống trị về kinh tế thì cũng giữ địa vị thống trị trong kiến trúc thượng tầng, trong đời sống chính trị, tinh thần. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quy định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.

Sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Điều này thể hiện rất rõ, khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng cũ do nó sinh ra cũng mất theo, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với nó sẽ xuất hiện. Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng rất phức tạp. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như quan điểm chính trị, pháp luật. Có những yếu tố thay đổi rất chậm như tôn giáo, nghệ thuật, v.v.

b. Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thông qua chức năng xã hội của nó. Chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở và kiến trúc thượng tầng cũ.

Trong các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng quyết định năng lực hiện thực hóa tính tất yếu kinh tế, vì nó là lực lượng vật chất có sức mạnh kinh tế, là bộ máy bạo lực tập trung nhất của giai cấp thống trị về kinh tế.

Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, với nhiều cấp độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng theo nhiều chiều đan xen, nhưng thường diễn ra theo hai chiều tích cực và tiêu cực. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó sẽ tác động mạnh mẽ tới kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển tức là thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm cơ sở hạ tầng phát triển. Tuy nhiên, nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm kinh tế phát triển thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng cũ sẽ bị thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ hơn, để thúc đẩy kinh tế phát triển.

c. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không chỉ tác động đến cơ sở hạ tầng mà chúng còn tác động lẫn nhau. Ví dụ, giữa triết học và chính trị, giữa đạo đức và pháp luật, v.v có tác động lẫn nhau và cùng nhau tác động đến cơ sở hạ tầng. Lưu ý là sự tác động đó cũng phải thông qua nhà nước với những luật pháp tương ứng thì trên cơ sở đó mới có được hiệu lực mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.

V. PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội

Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, nhưng có ba mặt cơ bản là:

Lực lượng sản xuất ® Quan hệ sản xuất ® Kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt này có vị trí riêng, nhưng tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Trong đó, lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của hình thái kinh tế - xã hội và quyết định các quan hệ xã hội. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra và quy định nhưng nó có nhiệm vụ bảo vệ, duy trì, phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.

Ngoài những mặt cơ bản nói trên, mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn có những quan hệ khác: dân tộc, gia đình và những quan hệ xã hội. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất và biến đổi cùng sự biến đổi của quan hệ sản xuất.

2. Ý nghĩa phương pháp luận của phạm trù hình thái kinh tế xã hội

a. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên

Các hình thái kinh tế - xã hội như những nấc thang của quá trình lịch sử, các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển do sự tác động của các quy luật khách quan. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; trong xã hội có giai cấp còn thêm quy luật đấu tranh giai cấp. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó làm cho sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra như một quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử.

Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Bởi lẽ, nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo. Trên cơ sở đó, hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.

Loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội theo trật tự từ thấp đến cao. Đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục lịch sử từ thấp lên cao một cách tuần tự. Tuy nhiên do những điều kiện khách quan và chủ quan cụ thể nào đó về điều kiện tự nhiên, chính trị, truyền thống, v.v mà một nước nào đó, một dân tộc nào đó có thể “bỏ qua” những giai đoạn lịch sử nhất định. Mặc dù vậy, việc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội ấy không thể diễn ra một cách chủ quan, tuỳ tiện mà vẫn tuân theo quy luật khách quan. Nói cách khác, sự khác nhau đó về trật tự phát triển vẫn là “quá trình lịch sử - tự nhiên”.

b. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội

Học thuyết này chỉ rõ, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Do vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng thuần tuý để giải thích các hiện tượng xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất vật chất.

Muốn nhận thức đúng xã hội phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội, đặc biệt phải đi sâu phân tích quan hệ sản xuất thì mới hiểu được đúng đời sống xã hội. Bởi lẽ, xã hội không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân mà là một thể thống nhất hữu cơ của các mặt lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Trong đó, quan hệ sản xuất đóng vai trò quyết định các quan hệ xã hội khác.

Để nhận thức đúng xã hội phải tìm hiểu quy luật phát triển của xã hội không được tuỳ tiện, chủ quan. Bởi lẽ, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra rằng, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

Phải biết vận dụng sáng tạo học thuyết này vào xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội nhất là đối với Việt Nam chúng ta vì chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hiện nay có những quan điểm phủ nhận học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác, cho rằng nên phân chia xã hội theo nền văn minh. Quan điểm này lấy trình độ văn minh làm tiêu chuẩn phân chia xã hội. Dưới lát cắt trình độ văn minh thì cách tiếp cận này có lý nhất định. Tuy nhiên, cách tiếp cận này là phiến diện, không đầy đủ vì chỉ thấy được trình độ văn minh mà không thấy được những mặt khác của đời sống xã hội như chính trị, văn hoá, gia đình, pháp luật, đạo đức, v.v. Hơn nữa, cách tiếp cận này không chỉ ra được quy luật vận động, phát triển của xã hội cũng như nguyên nhân của sự phát triển xã hội.

3. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam

Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự qua độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, có kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản.

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử. Đó là sự quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là quá trình phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Do đó, phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, không nóng vội chủ quan, phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều hình thức kinh tế quá độ.

Đồng thời, phải khắc phục quan niệm “bỏ qua” một cách giản đơn. Phải tìm ra những hình thức kinh tế trung gian quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đang phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, phát triển kinh tế phải gắn với công bằng xã hội, tiến bộ xã hội, đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, phát triển văn hoá, y tế, giáo dục.

TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ

Chúc mừng anh/chị đã hoàn thành chương X. Sau đây là những vấn đề cốt lõi cần ghi nhớ:

1. Xã hội - bộ phận đặc thù của tự nhiên, đặc điểm quy luật xã hội.

2. Sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội.

3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

5. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.

6. Việt Nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là phù hợp quy luật nhưng phải theo tinh thần đại hội IX, X của Đảng ta là: không cho quan hệ sản xuất TBCN và kiến trúc thượng tầng TBCN giữ địa vị thống trị.

CÂU HỎI SUY LUẬN

Câu hỏi 1: Tính xu hướng của quy luật xã hội là gì?

Gợi ý: Do quy luật xã hội chỉ có thể nảy sinh, tồn tại thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Mà con người lại có ý thức, có lợi ích, niềm vui, nỗi buồn. Con người không tự ý thay thế hay xoá bỏ được quy luật nhưng thông qua hoạt động của mình có thể làm cho quy luật xã hội nhanh hoặc chậm diễn ra. Đó chính là tính xu hướng của quy lụât xã hội.

Câu hỏi 2: Đảng và Nhà nước ta thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần có đúng với quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX không?

Gợi ý: Đúng, bởi lẽ, trình độ của LLSX của nước ta vừa thấp kém, vừa không đồng đều. Chính sự thấp kém và không đồng đều này quy định phải có nhiều loại hình QHSX phù hợp với nhiều trình độ khác nhau của LLSX.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved