Đã khá lâu, từ thời mới vào trường trung học, ta đã học văn phạm. Và vì đã khá lâu nên đến nay ta ngờ ngợ giữa liên từ và giới từ, giữa từ và chữ... Ta thử ôn lại ẩn dụ và hoán dụ. Ví dụ khi ta viết: "Chiến tranh giáng xuống một cơn giông bão thời cuộc". Ta đã so sánh chiến tranh với cơn giông bão, sự so sánh không cần liên từ "như" làm trung gian đứng ở giữa. Đó là một ẩn dụ, một so sánh tương đương. Còn như khi ta viết "chiến tranh, cơn khói lửa" hay "cơn đao binh", thì khói lửa hay đao binh chỉ là một phần của chiến tranh, một sự so sánh không phải tương đồng. Đó là một hoán dụ.Vậy hoán dụ là sự so sánh do tương quan kết hợp. (Xin xem phần mỹ từ pháp trong cuốn "Việt Nam Văn Phạm" của Trần Trọng Kim, và phần tu từ pháp trong cuốn "Cấu Trúc Thơ" của Thụy Khuê). Ẩn dụ hay hoán dụ có thể chỉ ở vài từ, mà có khi gồm trọn bài thơ hay cả một tập truyện. Trọn bài thơ "Thề Non Nước" của Tản Đà, truyện "Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời" của Mai Thảo, đều là những ẩn dụ. Ta cần lưu ý ẩn dụ và nhân cách hóa, vì cả hai thường đứng cận kề nhau. Ví dụ "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" (Nguyễn Du). Hoa đào là ẩn dụ, so sánh với người đẹp. Nhưng "hoa đào cười" là nhân cách hóa, coi sự vật sinh hoạt như con người. Ta cũng nên phân biệt ẩn dụ thường và ẩn dụ mỹ cảm. "Ẩn dụ thường" chỉ dùng để tránh điệp ngữ, nghĩa là dùng một sự so sánh để tránh lặp lại những từ đã dùng nhiều lần. "Ẩn dụ mỹ cảm" cần thiết cho thơ. Ẩn dụ mỹ cảm cần phải sáng tạo riêng, đừng lặp lại của người khác để tránh khuôn sáo. Khi đặt vấn đề thơ phải tận dụng ngôn ngữ văn chương (vì cảm hứng về đề tài khoa học) thì ẩn dụ mỹ cảm sẽ đóng vai trò chính. Ví dụ khi ta viết về đề tài những thiên thể vĩ đại có trọng-lực hút lẫn nhau. Thiên thể vĩ đại hơn hết trong vũ trụ là các Thiên-hà. Ngân-hà cũng là một Thiên-hà, có tên riêng như vậy vì chi-chít sao của nó trông xa giống như một con sông bạc màu sữa ngà. Các Thiên-hà khác cũng chi-chít tinh tú, nhưng ở quá xa nên ta không thể thấy được bằng mắt thường. Các Thiên-hà tụ thành do hàng tỉ tinh tú, và những khối hàng tỉ tinh tú ấy quay quần như từng hòn đảo riêng và phân bố rải rác trong vũ trụ rất xa nhau, nhưng đôi khi có hai khối lại tao ngộ chỉ cách nhau một hay hai triệu năm-ánh-sáng. Khoảng cách ấy kể như rất gần đối với vũ trụ bao la vô tận. Gần kề, nên trọng-lực hai Thiên hà hút nhau, nhưng đồng thời lại bị sức giãn nở sau trận Big Bang làm cho tất cả đều bị trôi giạt ra ngoài rìa vũ trụ. Ta so sánh điều này như một đôi-lứa keo-sơn, gắn bó cùng đi trên chuyến-tàu-thời-gian, cứ đi mãi cho đến tàn cuộc đời. Thiển nghĩ đây là một ẩn dụ mỹ cảm do diễn tả bằng biểu tượng có chất thơ. Cố công thi-hóa những khám phá vật lý vũ trụ, người viết bài này đã đôi lần thử-nghiệm sáng tác, xin giới thiệu bài thơ dưới đây (những bài thơ khác cùng loại, đã tuyển chọn lại, trong http://www.tranvannam.com):
Đỉnh núi xanh với Viễn-vọng-đài
Khiến trời bí ẩn đã cung khai
Ngân-hà không phải nơi cùng tận
Còn rải rác trời dấu nhạt phai. Những đốm mờ mờ như bụi hơi
Bấy lâu tưởng ở cùng bầu trời
Mà bao nhiêu triệu quang-niên cách
Những đảo Thiên-hà tụ lẻ loi.
Từng đốm Thiên-hà một cõi nơi
Có khi tao ngộ, hút song đôi
Mỗi giây vạn dặm gần nhau lại
Vài tỉ năm là xáp nhập thôi.
Hấp-lực quần nhau riêng biệt phương
Khi vòng ngoài, vũ trụ phình trương
Khởi từ Trận Nổ rồi lan rộng
Những đảo-trời trôi giạt thảm thương!
Cục-bộ giao-tình hút-kéo-lôi
Mà miên-trường, tất cả cùng trôi
Như hai hệ-lụy đời chung kiếp
Trên chuyến-thời-gian bất phục hồi.
(Bài thơ: Ghì Nhau Khi Trôi Giạt - Tạp chí VĂN, bộ mới, số 2, năm 1997 - California) Rất may mắn (vì thật hiếm hoi) khi tìm được một bài thơ ẩn dụ mỹ cảm rất sát với vấn đề đang bàn tới: bài thơ của thi sĩ John Updike cảm hứng về những tia vật chất tàng hình trong vũ trụ. Khoa học gọi là Dark Matter (chất tối), đó là loại vật chất (có thể là những hạt vô cùng nhỏ, có thể là những thiên thể vô cùng vĩ đại) mà khoa học chưa thể dùng viễn-vọng-kính mặt gương để thâu nhận hình ảnh vì nó không phát ra ánh sáng. Nó cũng không phát ra những tia vũ trụ khác để thâu nhận hình ảnh qua vô tuyến viễn vọng (Radio-telescope), hồng-ngoại-viễn-vọng (Infrared-telescope), cực-tím-viễn-vọng (Ultraviolet-telescope), quang-tuyến-viễn-vọng (X-Ray-telescope). Vì vậy nó là vật chất tàng hình. Tàng hình nhưng nó lại chi phối sự vận hành trong vũ trụ, có tới 90% vật chất trong vũ trụ là tàng hình. Nếu không có 90% vật chất đó thì vũ trụ (bao gồm những-thấy-được bằng viễn vọng kính mặt gương nắm bắt ánh sáng; và những-thấy-được bằng các loại viễn vọng nắm bắt tia vũ trụ); tất cả gọi là vũ trụ đó vẫn không đủ trọng lực để hãm bớt đà bành trướng giãn nở sau trận Big Bang. Một trong những thứ vật chất tàng hình là trùng trùng lớp lớp hạt Neutrinos. Chúng đang đi xuyên qua thân thể con người, xuyên qua cả Trái Đất, chỉ có thể đặt các máy dò tìm chúng ở dưới đáy biển sâu, hoặc dưới các hầm mỏ thăm thẳm trong lòng đất. Một đoạn trong bài thơ như dưới đây: Những hạt Neutrinos vô cùng nhỏ
Chúng không có điện tính,
cũng không có sức nặng
Và không kết hợp với bất cứ chất gì khác
Trái Đất đối với chúng
chỉ là một khối cầu mềm
Giản dị, bởi vì chúng đi xuyên qua
...
Từ không gian đến,
chúng là những máy chém không đau
Đi xuyên qua đầu ta xuống đến đồng cỏ
Ban đêm, chúng đến xứ Nepal
Đâm sâu qua thân thể hai kẻ đang yêu
Xuyên lên từ phía dưới giường của họ
(Vì chúng qua từ hướng bên kia Trái Đất)
Bạn gọi đó là một điều kỳ diệu
Còn tôi cho là một sự xâm nhập thô lỗ (Neutrinos, they are very small
And do not interact at all
The earth is just a silly ball
To them, through which they simply pass
...
And painless guillotines, they fall
Down through our heads into the grass
At night, they enter at Nepal
And pierce the lover and his lass
From underneath the bed - you call
it wonderful; I call it crass.
(Trích trong bài thơ Cosmic Gall của John Updike) Một vấn đề khoa học, một khám phá kỳ diệu về vật chất, lại được diễn tả bằng hình ảnh rất gần với nhân sinh, gần với thế gian phàm tục, khác với khoa học viễn tưởng của ngành vật lý lý thuyết. Vật lý lý thuyết gần kề với truyện khoa học giả tưởng, nhưng tưởng tượng của nhà bác học dựa vào các phương trình toán học cao cấp; không phải hoàn toàn giả tưởng. Thuyết tương đối của Einstein, Baby Universes được hình thành sau khi các Black Holes tiêu thụ vật chất của vũ trụ này (do Stephen Hawking nghĩ ra); wormholes (lỗ con sâu) tức là những đường hầm thông qua các vũ trụ thuộc kích thước thứ tư thứ năm... đều là những vấn đề của Vật Lý Lý Thuyết (Theoretical Physics). Đây là một bài thơ viễn tưởng cảm hứng từ vật lý lý thuyết: Có một cô nàng tên là Hào Quang
Nàng đi mau hơn tốc độ ánh sáng
Nàng đi trong một ngày, đi vào lẽ Tương Đối
Trở về khởi điểm trước lúc khởi hành. (Xin dịch thoát câu cuối cho dễ hiểu điều nghịch-lý thời-gian trong Thuyết Tương Đối) (There was a lady named Bright
Who traveled much faster than light.
She departed one day in a Relative Way
And returned in the previous night) (Tác giả: A.H.R. Buller) Dựa vào vật lý lý thuyết hay dựa vào những khám phá vật lý vũ trụ mà viết thành truyện hoang đường thì đó là văn chương khoa học giả tưởng. Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn với tập truyện "Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn" (xuất bản 1960 tại Sài Gòn) dựa vào thuyết tương đối của Einstein. Truyện con người đi với tốc độ ánh sáng làm thời gian chậm lại mà trở về thế kỷ 18, trở lại Thăng Long vào năm vua Quang Trung lâm bệnh nặng, cứu sống nhà vua để hoàn tất phần lịch sử đã bỏ dở do cái chết lúc còn quá trẻ của ngài: "Một lít huyết thanh khô đóng bánh ở ngân hàng máu thành phố Nữu Ước, được Khang cho pha loãng trở lại và chảy dần dần vào huyết quản vị anh hùng Tây Sơn" (trang 222, sách đã dẫn). Cũng như loạt phim khoa học giả tưởng "Star Trek" đã dựa vào những khám phá mới đây của vật lý vũ trụ, qua phân tích của giáo sư thiên văn Lawrence Krauss của trường đại học "Case Western Reserve University", rất rõ ràng dễ hiểu trong chương 9 của cuốn "The Physics of Star Trek", xuất bản năm 1995 tại Hoa Kỳ (New York). TRẦN VĂN NAM
(Kèm theo dưới đây là 9 bài thơ với đề-tài vật-lý vũ-trụ) |