|
Vua Trần Nhân Tông cùng với Trần Hưng Đạo Đại Vương và quốc dân đã hai lần gian khổ ra sức phá tan giặc Nguyên xâm lược. Khi giặc đã yên, ngài lui về làm Thái Thượng Hoàng, nhừơng ngôi cho con là vua Anh Tông, tuy ngài còn giúp vua trị nước. Sau khi nhà Nguyên đã chịu bỏ hẳn ý định đánh chiếm nước ta, ngài bỏ quyền thế nơi kinh thành, vào dẫy núi Yên Tử tỉnh Quảng Ninh. tu hạnh đầu đà tới đắc đạo. Ngài thành lập Thiền phái Trúc Lâm hoàn toàn Việt Nam, trở thành Vua Bụt Sơ Tổ Trúc Lâm của Đại Việt. Ta hãy đọc bài thơ Đăng Bảo Đài Sơn dưới đây của ngài. Có thể nói đây là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của thơ thiền Đại Việt cổ. |
|
Bình Chú: Một đêm trăng sáng, trên ngọn núi Bảo Đài, trong dẫy Yên Tử, vua Bụt viết một bài thơ đẹp huyền diệu trong từng câu chữ: Đất hẹp làm đài cổ trông như nổi cao lên Thời tiết luân chuyển mới vào đầu mùa xuân Với trí tuệ của bậc liễu ngộ, mọi sự đều không phiếm diện, có thể nhìn theo hai thế đối kháng: Ngõ hoa có ánh trăng chiếu là có bóng rợp đi theo. Mây vờn quanh núi có thể nói xa, mà cũng có thể nói gần. Nói xa và gần là đối đãi, so sánh. Mọi việc trên đời như nước mới vừa trôi đi, là đã có nước khác tới. Cho nên không có hạnh phúc cũng như đau khổ dài lâu. Nhìn lại tâm con người, vì có tâm thực nên mới biết có tâm vọng. Có lòng sáng, nên mới biết có lòng tà". Trăm năm cuộc đời tu chỗ đó. Ngài dùng những hình ảnh giúp sự thực chứng mà không dùng ý niệm trừu tượng: Tu bằng việc thực nghiệm cảm thọ trong cảm thọ. Hai câu kết: Thổi sáo lên đi: Vừa thổi hơi ra hết là ánh trăng ngoài kia tràn vào đầy trong lòng, phủ đầy ngực áo ngoài: Ta hoà mình vào cả vũ trụ mênh mông đầy ánh trăng đó. Một hình tượng vô ngã vô cùng đẹp. Mà "Vô ngã là niết bàn".
|