Home » » LUẬN NGỮ KHỔNG TỬ -4

LUẬN NGỮ KHỔNG TỬ -4

Written By kinhtehoc on Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011 | 00:38

8.      泰伯 Thái Bá



第八篇thiên 8
21 bài
8.1
子曰:泰伯,其可谓至德也已矣。三以天下让,民无得而称焉。
Tử viết: Thái Bá, kỳ khả vị chí đức dã dĩ hĩ. Tam dĩ thiên hạ nhượng, dân vô đắc nhi xưng yên.
Khổng tử nói: Thái Bá là con người có đức hết mực. Ba lần đem thiên hạ nhường cho người khác, không để dân chúng biết mà ca ngợi.
(Chú thích: Thái Bá là con trưởng của vua chư hầu Cổ Công Đán Phụ (tổ phụ nhà Chu), biết nhà vua muốn chọn Cơ Xương, con người em trai út là Quý Lịch của mình làm vua. Thái Bá biết ý nguyện vua cha, bèn bàn với người em là Trọng Ung cùng trốn sang xứ Ngô Việt để cha dễ dàng thực hiện ý nguyện)
8.2
子曰:恭而无礼则劳,慎而无礼则葸,勇而无礼则乱,直而无礼则绞。君子笃於亲,则民兴於仁,故旧不遗,则民不偷。
Tử viết: Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ, dũng nhi vô lễ tắc loạn, trực nhi vô lễ tắc giảo. Quân tử đốc ư thân, tắc dân hưng ư nhân, cố cựu bất di, tắc dân bất thâu.
Khổng tử nói: Cung kính mà không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn thận mà không biết lễ thì sợ hãi, dũng cảm mà thiếu lễ thì sinh loạn nghịch, ngay thẳng mà không biết lễ thì dễ nóng nảy. Quân tử ngồi cấp trên nếu biết đối đãi nồng hậu với người thân thích thì dân chúng hăng hái theo điều nhân, không lạnh nhạt với bạn cũ, quan chức cũ thì dân chúng không đối xử bạc bẽo với nhau.
8.3
曾子有疾,召门弟子曰:“启/啟予足!启予手!诗云:‘战战兢兢,如临深渊,如履薄冰。’而今而后,吾知免夫,小子!”
Tăng Tử hữu bệnh, triệu môn đệ tử viết: Khải dư túc ! Khải dư thủ ! Thi vân: “Chiến chiến căng căng căng, như lâm thâm uyên, như lý bạc băng” nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phu, tiểu tử !
Tăng Tử ốm nặng, gọi học trò đến nói: Xem chân của ta, xem tay ta… Kinh Thi viết “Run rẩy nơm nớp, như đi ven vực thẳm, như bước trên lớp băng mỏng nước sâu”, từ nay về sau, ta không còn lo lỡ làm thương tổn thân thể vốn của mẹ cha nữa, các trò ơi !
 (Lời bàn: Câu thơ trong Kinh Thi nhắc con người thường xuyên cẩn thận giữ gìn thân thể … Tăng tử sắp chết, nhận thấy thân thể mình nguyên vẹn thì yên tâm rằng chưa làm xúc phạm tổn thương thân thể, tức là đã giữ được chữ hiếu)
8.4
曾子有疾,孟敬子问之。曾子言曰:“鸟之将死,其鸣也哀;人之将死,其言也善。君子所贵乎道者三:动容貌,斯远暴慢矣;正颜色,斯近信矣;出辞气,斯远鄙倍矣。笾豆之事,则有司存”。
Tăng Tử hữu tật, Mạnh Kính tử vấn chi. Tăng Tử ngôn viết: Điểu chi thương tử, kỳ minh dã ai ; Nhân chi thương tử, kỳ ngôn dã thiện. Quân tử sở quý hồ đạo giả tam: động dung mạo, tư viễn bạo mạn hĩ; Chính nhan sắc, tư cận tín hĩ; Xuất từ khí, tư viễn bỉ bội hĩ. Biên đậu chi sự, tắc hữu ti tồn.
Tăng tử ốm nặng, Mạnh Kính tử đến thăm. Tăng tử nói: Con chim sắp chết tiếng kêu bi thương, con người sắp chết lời nói rất thực. Quân tử theo đạo cần chú ý ba điều: Cử chỉ nên khoan thai điềm đạm; ắt rời xa thô bạo ngạo mạn); Sắc mặt đoan trang nên được tín nhiệm, cất lời nói thì chú ý giọng điệu tránh thô bỉ sai sót. Còn việc cúng tế khác đã có quan chủ sự lo toan.
8.5
曾子曰:以能问於不能,以多问於寡,有若无, 实若虚;犯而不校…昔者吾友尝从事於斯矣。
Tăng Tử viết: Dĩ năng vấn ư bất năng, dĩ đa vấn ư quả, hữu nhược vô, thực nhược hư; Phạm nhi bất giáo…..Tích giả ngô hữu thường tòng sự ư tư hĩ.
Tăng t nói: Người làm được lại dám đi hỏi người không biết, người biết nhiều lại đi hỏi kẻ biết ít. Có tài năng mà nhìn qua như không có, có học thức mà thể hiện như không. Bị xúc phạm mà không tranh cãi so đo. Ta từng có những người bạn cũ như thế.
8.6
曾子说: 可以託六尺之孤,可以寄百里之命,临大节而不可夺也。君子人与?君子人也 。
Tăng tử thuyết: Khả dĩ thác lục xích chi cô, khả dĩ ký bách lý chi mệnh, lâm đại tiết nhi bất đoạt dã. Quân tử nhân dư ? Quân tử nhân dã.
Tăng Tử nói: Có thể gửi gắm vua còn nhỏ tuổi, có thể giao vận mệnh quốc gia, nguy hiểm thân mình không mất khí tiết. Người ấy có phải quân tử không ? Đúng là người quân tử.

8.7
曾子曰:士不可以不弘毅, 任重而道远。仁以为己任,不亦重乎?死而后已,不亦远乎?
Tăng Tử viết: Sĩ bất khả dĩ bất hoằng nghị, nhậm trọng nhi đạo viễn. Nhân dĩ vi kỷ nhậm, bất diệc trọng hồ? Tử nhi hậu dĩ, bất diệc viễn hồ ?
Tăng Tử nói: Kẻ sĩ không thể thiếu lý tưởng lớn lao và ý chí kiên cường bởi vì bởi vì họ phải gánh vác trách nhiệm lớn lao. Gánh điều nhân chẳng phải rất nặng ư ? Đến chết mới được ngừng nghỉ, chẳng phải đường dài ư ?
8.8
子曰:兴於诗,立於礼,成於乐。
Tử viết: Hưng ư thi, lập ư lễ, thành ư nhạc.
Khổng tử nói:  Thơ có thể gây hứng thú làm điều tốt, lễ giúp ta lập thân, âm nhạc giúp ta tu dưỡng, hoàn thành nhân cách.
8.9
子曰:民可使由之,不可使知之。
Tử viết: Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi.
Khổng tử nói: Có thể khiến cho dân chúng đi theo đường của ta, không thể để họ hiểu vì sao phải như vậy.
 (Lời bàn: Câu nói trên có một cách hiểu khác, nếu đánh dấu phảy khác đi thì câu nói sẽ là: “Dân khả sử, do chi; Bất khả sử, tri chi”:  Nếu dân đồng ý làm theo thì để họ làm; Nếu dân chưa hiểu thì phải giải thích cho họ biết).
8.10
子曰:好勇疾贫,乱也。人而不仁,疾之已甚,乱也。
Tử viết: Hiếu dũng tật bần, loạn dã. Nhân nhi bất nhân, tật chi dĩ thậm, loạn dã.
 Khổng tử nói: Kẻ dũng mà ghét sự nghèo hèn của mình thì dễ làm loạn. Kẻ bất nhân mà bị ghét bỏ quá mức cũng dễ làm loạn.
 8.11
子曰:如有周公之才之美,使骄且吝,其余不足观也已。
Tử viết:: Như hữuChucông chi tài chi mỹ, sử kiêu thả lận, kỳ dư bất túc quan dã dĩ
Khổng tử nói: Nếu có người tài năng và nghệ thuật giỏi như Chu công mà kiêu ngạo, keo kiệt thì những phẩm chất khác của người đó không cần quan sát nữa làm chi.

8.12
子曰:三年学,不至於谷,不易得也。
Tử viết: Tam niên học, bất chí ư lộc, bất dị đắc dã
Người đi học ba năm chẳng chú ý cầu bổng lộc, ít thấy người được như vậy.
 8.13
子曰:“笃信好学,守死善道.危邦不入,乱邦不居。天下有道则见,无道则隐。邦有道,贫且贱焉,耻也;邦无道,富且贵焉,耻也” 。
Tử viết: Đốc tín hiếu học, thủ tử thiện đạo. Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư. Thiên hạ hữu đạo tắc kiến, vô đạo tắc ẩn. Bang hữu đạo, bần thả tiện yên, sỉ dã; Bang vô đạo, phú thả quý yên, sỉ dã.
Khổng tử nói: Dốc lòng tin vào học đạo, quyết tử quên thân giữ đạo, không đến những nước nguy hiểm, không ở đất loạn lạc. Thiên hạ có đạo thì ra làm quan, vô đạo thì đi ở ẩn. Nước có đạo mà nghèo nàn thì đáng sỉ nhục. Nước nhà loạn lạc mà mình giàu có cũng đáng sỉ nhục.
8.14
子曰:不在其位,不谋其政。
Tử viết: Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính.
Khổng tử nói: Không giữ chức vụ nào thì đừng bàn về việc ấy.
8.15
子曰:师挚之始《关睢》之乱,洋洋乎盈耳哉!
Tử viết: Sư Chí chi thỉ “Quan thư” chi loạn, dương dương hồ doanh nhĩ tai.
Khổng tử nói: Nhạc sư Chí mới phổ nhạc bài “Quan thư”mới nghe ồn ào, sau thấy dào dạt vui thích thuận tai lắm.

8.16
子曰:狂而不直,侗而不愿,悾悾而不信,吾不知之矣。
Tử viết: Cuồng nhi bất trực, đồng nhi bất nguyện, không không nhi bất tín, ngô bất tri chi hĩ.
Khổng tử nói: Cuồng vọng mà thiếu ngay thẳng, kém hiểu biết mà không chân thành, bất tài mà không tín nghĩa. Ta không hiểu loại người này.
8.17
子曰:学如不及, 犹恐失之。
Tử viết: Học như bất cập, do khủng thất chi.
Khổng tử nói: Học tập phải như đuổi không kịp, dù có đuổi kịp còn sợ mất mát điều đã học.
8.18
子曰:巍巍乎,舜禹之有天下也而不与焉!
Tử viết: Nguy nguy hồ, Thuấn Vũ chi hữu thiên hạ dã nhi bất dự yên.
Khổng tử nói: Lồng lộng cao cả thay vua Thuấn vua Vũ, có cả thiên hạ rồi mà không kiêu hãnh tự mãn.

8.19
子曰:“大哉尧之为君也!巍巍乎唯天为大,唯尧则之。荡荡乎,民无能名焉。巍巍乎其有成功也,焕乎其有文章!”
Tử viết: Đại tai Nghiêu chi vi quân dã ! Nguy nguy hồ duy thiên vi đại, duy Nghiêu tắc chi. Đãng đãng hồ, dân vô năng danh yên. Nguy nguy hồ kỳ hữu thành công dã, hoán hồ kỳ hữu văn chương.
Khổng tử nói: Vĩ đại thay vua Nghiêu ! Cao quí thay, chỉ có trời là cao lớn nhất, và chỉ có vua Nghiêu theo kịp đạo trời. Mênh mông bát ngát dân chúng không ca ngợi xiết. Công lao vua Nghiêu thật vĩ đại, văn chương lễ nhạc ban ra tươi sáng khắp nơi.
8.20
舜有臣五人而天下治。武王曰:“予有十人”。孔子曰:“才难,不其然乎?唐虞之际,於斯为盛,有妇人焉九人而已。三分天下有其二,以服事殷。周之德,其可谓至德也已矣” 。
Thuấn hữu thần ngũ nhân nhi thiên hạ trị. Vũ vương viết: Dư hữu thập nhân. Khổng tử viết: Tài nan, bất kỳ nhiên hồ ? Đường Ngu chi tế, ư tư kỳ thịnh, hữu phụ nhân yên cửu nhân nhi dĩ. Tam phân thiên hạ hữu kỳ nhị, dĩ phục sự Ân.Chuchi đức, kỳ khả vị chí đức dã dĩ hĩ.
Vua Thuấn chỉ có năm hiền thần mà thiên hạ bền vững. Vua Vũ Vương từng nói: Ta có mười người. Khổng tử nói: Có được nhân tài khó thay, chẳng phải vậy ư? Sau thời Đường Ngu có lúc Vũ vương đạt đến thịnh vượng, nhưng trong 10 người chỉ có 1 người là nữ, nên thực ra chỉ có 9 người mà thôi. Được hai phần ba thiên hạ, vua Vũ vẫn lấy thân phận chư hầu phục vụ nhà Ân. Đức của vua Chu Vũ Vương là cao quí nhất.
8.21
子曰:禹,吾无间然矣。菲饮食而致孝乎鬼神,恶衣服而致美乎黻冕;卑宫室而尽力乎沟洫。禹,吾无间然矣。
Tử viết: Vũ, ngô vô gian nhiên hĩ. Phỉ ẩm thực nhi trí hiếu hồ quỷ thần, ố y phục nhi trí mỹ hồ phất miện; Ti cung thất nhi tận lực hồ câu hức. Vũ, ngô vô gian nhiên hĩ.

Khổng tử nói: Vua Vũ, ta chẳng thấy có khuyết điểm nào để nói nữa. Ăn uống đạm bạc mà tế lễ quỷ thần rất thịnh soạn, trang phục bình thường giản dị mà tế lễ thì mặc đẹp, mũ miện đầy đủ. Nơi ở thì chật hẹp, dốc toàn lực ra xây dựng đê điều thủy lợi. Về vua Vũ, ta chẳng có gì để nói.

Hết thiên 8

9.      子罕Tử hãn

第九篇 thiên 9
31  bài
9·1
子罕言利与命与仁。
Tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân
Khổng tử ít khi bàn về lợi ích liên quan đến thiên mệnh và nhân
(Lời bàn: Khổng tử it bàn về lợi, bởi vì lợi mình mà hại người, hại đạo. Các quan điểm của cổ nhân là “Trọng nghĩa, khinh lợi”, “Trọng nghĩa, khinh tài, “Nghĩa trước, lợi sau”. Thiên mệnh huyền bí, con người chưa thể thấu hiểu được, nói tùy tiện khiến người ta lo lắng. “Nhân” là khái niệm mở rộng, không thể bàn lý thuyết, do vậy Khổng tử chỉ xem xét những trường hợp cụ thể. Xin xem thiên 5.13 Công Dã Tràng (Tử Cống nói: Văn chương của thầy, chúng ta đã được biết. Còn luận bàn của thầy về nhân tính và đạo trời thì chúng ta chưa biết)
Có hai cách giải thích khác.
1- Cố Gs Cao Xuân Huy giải thích:”Khổng tử ít khi bàn về lợi ích liên quan đến thiên mệnh và nhân” (Gs Nguyễn Huệ Chi thuật lại). Nghĩa là có bàn về lợi nếu không liên quan đến mệnhnhân.
2 – Khổng tử ít khi bàn về lợi nhưng chỉ bàn về mệnh trời và nhân tính (do phiên âm như sau: Tử hãn ngôn lợi dự mệnh dự nhân)
9·2
达巷党人曰:“大哉孔子!博学而无所成名” 。子闻之,谓门弟子曰:“吾何执?执御乎?执射乎?吾执御矣” 。.
Đạt Hạng đảng nhân viết:  Đại tai Khổng tử ! Bác học nhi vô sở thành danh. Tử văn chi, vị môn đệ tử viết: Ngô hà chấp? Chấp ngự hồ ? Chấp xạ hồ ? Ngô chấp ngự hĩ.
Một người ở làng Đạt Hạng nói: “Khổng tử thật là vĩ đại ! Người học rộng nhưng rất tiếc chẳng có chức danh gì”.  Khổng tử nghe được, nói với học trò: “Ta làm cái gì ư? Ta đánh xe hay là bắn cung? Thôi, ta làm nghề đánh xe vậy.”
(Lời bàn: Người dân ca ngợi Khổng tử vĩ đại nhưng họ tiếc rằng ngài chẳng có danh hiệu gì. Thực ra Khổng tử vĩ đại ở đức nhân. Đây là điều cốt lõi của con người và nền tảng văn minh của xã hội…Con người không nhất thiết phải có một cái danh gì cụ thể. Nếu nhất định phải có thì ngài nhận mình là nghề đánh xe. Tức là đánh xe dẫn đường cho con người vậy !)
9·3
子曰:“麻冕,礼也;今也纯,俭, 吾从众。拜下, 礼也;今拜乎上,泰也。虽违众,吾从下” 。
Tử viết: Ma miện, lễ dã; Kim dã đồn, kiệm, ngô tòng chúng. Bái hạ, lễ dã; kim bái hồ thượng, thái dã. Tuy vi chúng, ngô tòng hạ.
Khổng tử nói: Đội mũ tang bằng vải gai đen là theo lễ xưa, nay dùng vải tơ rẻ tiền hơn. Vậy ta làm theo mọi người. Còn trong việc bái yết vua, theo đúng lễ là vái từ bậc thềm dưới, đời nay người ta vái từ bậc thềm trên, như thế là kiêu mạn, ta khác với họ. ta vẫn vái ở bậc thềm dưới.
 9·4
子绝四: 毋意,毋必,毋固,毋我。
Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã.
Khổng tử không bao giờ mắc bốn sai lầm này: chỉ dựa vào ý riêng, áp đặt phán đoán, cố chấp, tự cho mình là đúng.
9·5
子畏於匡,曰:“文王既没,文不在兹乎?天之将丧斯文也,后死者不得与於斯文也;天之未丧斯文也,匡人其如予何?”
Tử úy ư Khuông, viết: Văn Vương kí một, văn bất tại tư hồ? Thiên chi thương tang tư văn dã, hậu tử giả bất đắc dữ ư tư văn dã; Thiên chi vị táng tư văn dã, Khuông nhân kỳ như dư hà ?
Khi qua đất Khuông bị vây khốn, Khổng tử nói: Vua Văn Vương đã mất đi, chẳng phải lễ nhạc, văn hóa đều còn ở nơi ta cả ư? Nếu Trời muốn hủy diệt nền văn hoá này thì sao vua Văn Vương mất đi lại ủy thác cho ta nắm lấy làm chi ? Còn nếu Trời không muốn mất nền văn hoá này thì người Khuông làm gì được ta !
9·6
太宰问於子贡曰:“夫子圣者与?何其多能也?”. 子贡曰:“固天纵之将圣,又多能也” 。子闻之,曰:“太宰知我乎?吾少也贱,故多能鄙事。君子多乎哉?不多也”。
Thái Tể vấn ư Tử Cống viết: Phu tử thánh giả dự ? Hà kỳ đa năng dã ? Tử Cống viết: Cố thiên tung chi thương thánh, hữu đa năng dã”. Tử văn chi, viết: Thái Tể tri ngã hồ ? Ngô thiểu dã tiện, cổ đa năng bỉ sự. Quân tử đa hồ tai ? Bất đa dã.
Quan Thái tể hỏi Tử Cống: Khổng tử là bậc thánh phải không?  Vì sao ngài nhiều tài nghệ như vậy?. Tử Cống nói:  Đây do Trời để cho Khổng tử làm thánh nhân, có nhiều tài… Khổng tử biết việc này, nói: “Quan Thái tể làm sao hiểu được ta. Lúc nhỏ ta nghèo hèn, phải làm nhiều nghề nên biết nhiều việc nhỏ mọn. Người quân tử có cần biết nhiều vậy không ? Ta nghĩ không cần biết nhiều như vậy”
 9·7
牢曰:子云,‘吾不试,故艺’  。
Lao viết: Tử vân, ngô bất thí, cố nghệ”
Ông Lao nói:Khổng tử từng nói ta không thành danh, nên biết một số công nghệ”.
(Lời bàn: Khổng tử ít được trọng dụng làm quan (chỉ có mấy năm làm quan nước Lỗ). Ông cho rằng làm quan thì bận rộn, đắc chí, không có chí tiến bộ nữa. Khi hết quan về làm dân thì chẳng biết làm gì… Còn những người không được làm quan thì ra sức tìm tòi, mưu cầu cuộc sống, rèn luyện trong gian khổ, tài năng được bộc lộ).
9·8
子曰: 吾有知乎哉?无知也。有鄙夫问於我,空空如也。我叩其两端而竭焉。
Tử viết: Ngô hữu tri hồ tai ? Vô tri dã. Hữu bỉ phu vấn ư ngã, không không như dã. Ngã khấu kỳ lưỡng đoan nhi kiệt yên.
Khổng tử nói: Ta có nhiều hiểu biết ư ?  Không, ta không hiểu biết nhiều đâu. Có một nông dân hỏi ta một việc, lúc đầu ta chưa hiểu gì cả. Sau, ta phải hỏi lại trước sau đầu đuôi, rồi ta giải thích tường tận cho họ.
9·9
子曰:凤鸟不至,河不出图,吾已矣夫!
Tử viết:: Phượng điểu bất chí, hà bất xuất đồ, ngô dĩ hĩ phù !
 Khổng tử nói: Phượng hoàng không bay đến, sông Hoàng Hà không xuất hiện đồ thư, đời ta thế là hết rồi !
(Chú thích: Theo truyền thuyết, thiên hạ thái bình thì chim phượng hoàng bay đến, thánh nhân xuất hiện thì trên sông Hoàng nổi tấm đồ thư (truyền thuyết về Hà đồ / bức vẽ bát quái trên sông- nguồn gốc của Kinh Dịch). Khổng tử buồn bã vì thời Xuân thu loạn lạc, chư hầu phân tranh, mất hết đạo đức lễ nghĩa, không ai theo lễ nhàChunữa)
 9·10
子见齊衰.者, 冕衣裳者与瞽者,见之,虽少,必作;过之,必趋。
Tử kiến tề thôi giả, miện y thường giả dữ cổ giả, kiến chi, tuy thiểu, tất tác; Quá chi, tất xu.
 Khổng tử gặp người mặc tang phục, một người đội mũ miện mặc lễ phục và người mù dù họ còn trẻ, ngài cũng nhất định đứng lại hoặc nếu qua rồi thì đi nhanh hơn.
(Lời bàn: Là người có đức nhân, Khổng tử thương cảm người có tang, người khuyết tật và tôn trọng người có chức tước)
 9·11
颜渊喟然叹曰: 仰之弥高, 钻之弥坚,瞻之在前, 忽焉在后。夫子循循然善诱人,博我以文,约我以礼,欲罢不能。即竭吾才,如有所立卓尔。虽欲从之,末由也已”。
Nhan Uyên vị nhiên thán viết: Ngưỡng chi di cao, toàn chi di kiên, chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu. Phu tử tuần tuần nhiên thiện dụ nhân, bác ngã dĩ văn, ước ngã dĩ lễ, dục bãi bất năng. Tức kiệt ngô tài, như hữu sở lập trác nhĩ. Tuy dục tòng chi, mạt do dã dĩ
Nhan Uyên ngậm ngùi than rằng: Đạo của thầy càng ngước lên nhìn, càng thấy cao, càng nghiên cứu càng thấy sâu xa. Mới thấy phía trước, lại thấy phía sau. Thầy khéo léo dẫn giải cho ta hiểu. Thầy dùng đủ loại văn chương làm cho ta hiểu, lại dùng lễ tiết để đưa hành vi của ta vào khuôn phép, khiến ta muốn thôi cũng không được. Ta cố sức học mà vẫn thấy thầy đứng sừng sững trước mặt…Ta muốn theo đến cùng mà khó đạt yêu cầu của thầy ta.
 9·12
子疾病,子路使门人为臣。病间,曰:“久矣哉,由之行诈也。无臣而为有臣。吾谁欺?欺天乎?且予与其死於臣之手也,无宁死於二三子之手乎?且予纵不得大葬,予死於道路乎?”
Tử tật bệnh, Tử Lộ sử môn nhân vi thần. Bệnh gián, viết: Cửu hĩ tai, di chi hành trá dã. Vô thần nhi vi hữu thần. Ngô thùy khi ? Khi thiên hồ? Thả dư dữ kỳ tử ư thần chi thủ dã, vô ninh tử ư nhị tam tử chi thủ hồ? Thả dư tung bất đắc đại táng, dư tử ư đạo lộ hồ ?
Khổng tử ốm nặng, Tử Lộ bảo học trò của thầy đóng vai gia thần lo liệu hậu sự. Bệnh tình thuyên giảm, Khổng tử nói: Quá lắm rồi, Trọng Do, thật quá bày vẽ. Không thực tế lại còn dối trá nữa. Ta làm gì có gia thần mà lại giả bộ thế. Ta lừa ai ? lừa trời chăng ? Giả sử ta chết trong tay gia thần, sao bằng chết trong tay học trò của ta ! Dù không được tang lễ trọng thể, chả lẽ ta chết ở ngoài đường hay sao ?
 (Chú thích: Tử Lộ vì tôn kính thầy mà đạo diễn đám tang thầy theo kiểu quan chức, quí tộc. Khổng tử thì muốn hành xử theo đúng chính danh, nếu làm như trò là dối người lừa trời, chết mà còn mắc thêm tội)
9·13
子贡曰:有美玉於斯,韫匵而藏诸?求善贾而沽诸?.
子曰: 沽之哉,沽之哉!我待贾者也。
Tử Cống viết:  Hữu mỹ ngọc ư tư, uẩn độc nhi tàng chư ? Cầu thiện giá nhi cô chư ?
Tử viết: Cô chi tai, cô chi tai ! Ngã đãi giá giả dã.
Tử Cống nói: Đây có viên ngọc đẹp, bây giờ cất vào trong tráp hay là đem tìm người biết giá trị của nó mà bán đi ?
Khổng tử đáp: Bán đi, bán đi…Ta đang đợi người biết giá của nó đây.
 (Chú thích: Viên ngọc là ẩn dụ chỉ tài năng. Khổng tử nói mình chờ vua chúa mời đi làm quan)
9·14
子欲居九夷。或曰:“陋,如之何?”. 子曰:“君子居之,何陋之有?”
Tử dục cư Cửu Di. Hoặc viết: Lậu, như chi hà?. Tử viết: Quân tử cư chi, hà lậu chi hữu ?
Khổng tử muốn đến đất Cửu Di để ở. Có người nói “Đất ấy quá lạc hậu, làm sao ở được”. Khổng tử nói:  Có người quân tử ở đó, làm sao còn lạc hậu nữa.

9·15
子曰:吾自卫反鲁,然后乐正,雅颂各得其所。
Tử viết: Ngô tự Vệ phản Lỗ, nhiên hậu nhạc chính, nhã tụng các đắc kỳ sở.
Khổng tử nói: sau khi ta từ nước Vệ trở về Lỗ, chỉnh lý lại các bản nhạc, khiến cho Nhã và Tụng có vị trí thích đáng của nó (như lễ, nhạc thời nhà Chu).
9·16
子曰:出则事公卿,入则事父兄,丧事不敢不勉,不为酒困,何有於我哉。
Tử viết: Xuất tắc sự công khanh, nhập tắc sự phụ huynh, tang sự bất cảm bất miễn, bất vi tửu khốn, hà hữu ư ngã tai.
Khổng tử nói: Ở triều đình thì tôn kính công khanh. Ở nhà hiếu đễ với cha mẹ, anh chị, gặp việc tang thì chu toàn lễ tiết, rượu chè không quá say sưa. Những việc đó ta đã làm được ít nào chăng ?
9·17
子在川上曰:逝者如斯夫,不舍昼夜 。
Tử tại xuyên thượng viết: Thệ giả như tư phù, bất xá trú dạ.
Khổng tử ngồi bờ sông nói: Kẻ ra đi mãi không trở lại, ngày đêm không ngừng trôi.
(Lời bàn: Nhìn nước sông (kẻ ra đi) nghĩ tới thời gian, trôi đi mãi không trở lại được, Khổng tử nhận ra qui luật khách quan, nghĩ về sự phấn đấu không mệt mỏi của con người… Nhà triết học Hi Lạp cổ đại Heraclet cũng viết: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Từ hai phương trời xa, hai tư tưởng lớn gặp nhau)
9·18
子曰:吾未见好德如好色者也。
Tử viết: Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã.
Khổng tử nói: Ta chưa thấy người nào thích đức nhân như thích sắc đẹp.
 (Lời bàn: Ngài biết bản tính tự nhiên của con người là thích sắc đẹp, nhưng yêu cầu họ nên rèn luyện tu dưỡng chữ Nhân)

9·19
子曰:譬如为山,未成一篑,止,吾止也;譬如平地,虽覆一篑,进,吾往也。
Tử viết: Thí như vi sơn, vị thành nhất trách, chỉ, ngô chỉ dã; Thí như bình địa, tuy phúc nhất trách, tiến, ngô vãng dã.
Khổng tử nói: Cũng như đắp núi, nếu thêm một sọt nữa thì thành núi, nếu ta đột nhiên ngưng lại là do ta tự dừng lại. Lại ví như ta đắp hang hố thành đất bng, chỉ đổ thêm một sọt đất nữa thôi, ta cũng cố gng tiếp tục, đó là do ta muốn tiến đến thành công.               
9·20
子曰:语之而不惰者,其回也与!
Tử viết: Ngữ chi nhi bất nọa giả, kỳ Hồi dã dư !
Khổng tử nói: Người nghe ta nói mà không uể oải, có lẽ chỉ có Nhan Hồi.
9·21
子谓颜渊曰:惜乎!吾见其进也,未见其止也。
Tử vị Nhan Uyên: Tích hồ ! Ngô kiến kỳ tiến dã, vị kiến kỳ chỉ dã.
Khổng tử nói về Nhan Uyên than rằng: Tiếc thay ! Ta chỉ thấy trò Hồi không ngừng tiến lên, chứ chưa bao giờ thấy trò ấy ngừng phấn đấu.
9·22
子曰:苗而不秀者有矣夫;秀而不实者有矣夫!
Tử viết: Miêu nhi bất tú giả hữu hĩ phù; Tú nhi bất thực giả hữu hĩ phù !
Khổng tử nói: Lúa nảy mầm mà không ra đòng nở hoa, chuyện này đích xác là có đây ! Làm đòng nở hoa mà không kết hạt, chuyện này đích xác là có đây!

(Lời bàn: Khổng tử ví người quân tử cũng như cây lúa vậy, nghĩa là phải có ích)
9·23
子曰:后生可畏,焉知来者之不如今也?四十,五十而无闻焉,斯亦不足畏也已。
Tử viết: Hậu sinh khả úy, yên tri lai giả chi bất như kim dã ? Tứ thập, ngũ thập nhi vô văn yên, tư diệc bất túc úy dã dĩ.
Khổng tử nói: Những người sinh sau rất đáng sợ, nhưng biết đâu tương lai của họ không bằng hiện nay ! Nếu họ đến bốn chục, năm chục tuổi mà chưa có tiếng tăm gì thì không phải sợ họ nữa.
9·24
子曰:法语之言,能无从乎?改之为贵。巽与之言,能无说乎?绎之为贵。说而不绎,从而不改,吾末如之何也已矣。
Tử viết: Pháp ngữ chi ngôn, năng vô tòng hồ ? Cải chi vi qu‎í. Tốn dữ chi ngôn, năng vô duyệt hồ ? Dịch chi vi quí. Duyệt nhi bất dịch, tòng nhi bất cải, ngô mạt như chi hà dã dĩ hĩ.
Khổng tử nói: Lời nói đúng đắn có thể không nghe theo ư ? Làm theo lời ấy mà sửa chữa mới là quý. Lời nói từ tốn nhẹ nhàng nghe không vui sướng sao ? Vui thích chưa đủ, còn phải suy nghĩ nữa. Chỉ biết tiếp thu mà không sửa chữa, biết vui thích mà không suy nghĩ, ta chả biết loại người ấy thế nào nữa.
9·25
子曰:主忠信,毋友不如己者,过则勿惮改。
Tử viết:: Chủ trung tín, vô hữu bất như kỷ giả, quá tắc vật đạn cải.
Khổng tử nói: Cốt yếu là phải biết giữ trung và tín, không kết bạn với kẻ không giống mình, có lỗi thì biết sửa chữa.
9·26
子曰:三军可夺帅也,匹夫不可夺志也。
Tử viết: Tam quân khả đoạt soái dã, thất phu bất khả đoạt chí dã.
Khổng tử nói: Trước ba quân, có thể cướp cờ, đoạt tướng nhưng không thể cướp đoạt ý chí của người dân bình thường.
 (Lời bàn: Khổng tử muốn nhắn nhủ các chính khách, tướng lĩnh, nhà lãnh đạo phải nghĩ đến ý chí nhân dân, không thể áp đặt chính kiến cho họ)
9·27
子曰:“衣敝縕袍,与衣狐貉者立而不耻者,其由也与?‘不忮不求,何用不臧?’”. 子路终身诵之。子曰:“是道也,何足以臧?”
Tử viết: Ý tệ uân bào, dự ý hồ hạc giả lập nhi bất sỉ giả, kỳ Do dã dư ? Bất kỵ bất cầu, hà dụng bất tang ? Tử Lộ chung thân tụng chi. Tử viết: Thị đạo dã, hà túc dĩ tang ?
Khổng tử nói: Mặc áo vải cũ rách dám đứng chung với người áo lông gấm mà không hổ thẹn, ta thấy chỉ có Tử Lộ thôi. Kinh Thi có câu:  Không đố kỵ, chẳng tham cầu, làm gì mà chẳng tốt đẹp”. Tử Lộ nghe được, thích lắm cứ đọc mãi hai câu này… Thấy vậy Khổng tử bảo: Chỉ có đọc thuộc như vậy, chưa đủ tốt đẹp được.
9·28
子曰:岁寒然后知松柏之后彫后也。
Tử viết: Tuế hàn nhiên hậu tri tùng bá chi hậu điêu hậu dã.
Khổng tử nói: a lạnh, mới biết cây tùng cây bách rụng lá sau cùng
(Chú thích: người quân tử  được ví như cây tùng cây bách chịu đựng mọi thời tiết)
9·29
子曰:知者不惑,仁者不忧,勇者不惧。
Tử viết: Trí giả bất hoặc, nhân giả bất ưu, dũng giả bất cụ
Khổng tử nói: Người có trí tuệ không nhầm lẫn, người đức nhân không bao giờ ưu lo, người dũng khí chẳng bao giờ sợ hãi.
9·30
子曰:可与共学, 未可与适道;可与适道,未可与立;可与立,未可与权。
Tử viết: Khả dự cộng học, vị khả dự thích đạo; Khả dự thích đạo, vị khả dự lập; Khả dự lập, vị khả dự quyền.
Khổng tử nói: Cùng học với nhau chưa chắc cùng đắc đạo như nhau. Có thể cùng đạt như nhau nhưng chưa chắc kiên định đạo lý như nhau. Có thể cùng kiên định như nhau, chưa chắc hành xử phù hợp hoàn cảnh như nhau.
(Lời bàn: Có thể suy ra: có bằng cấp như nhau chưa chắc trình độ ngang nhau…Cùng chức vụ ngang nhau, chưa chắc làm tốt như nhau.)
9·31
“唐棣之华,
偏其反而。
岂不尔思,
室是远而”。
子曰:“未之思也,夫何远之有?”
Đường lệ chi hoa,
thiên kỳ phản nhi.
Khải bất nhĩ tư,
thất thị viễn nhi.
Tử viết: Vị chi tư dã, phù hà viễn chi hữu?
                 “Cây đường lệ nở hoa
Đung đưa nở rồi khép
Anh đâu quên nhớ em
Chỉ vì nhà xa quá !”
Đọc xong 4 câu thơ trên, Khổng tử bình luận: Vậy là chẳng “nhớ” gì đâu. Nhớ thật thì có gì là xa xôi ?!
(Lời bàn; Khổng tử là một nhà phê bình văn học sắc sảo đến lạnh lùng…Những người làm  thơ viết nhạc trẻ đã viết ra những thơ tình, nhạc tình sướt mướt, uốn éo giả tạo nghĩ gì khi đọc Khổng tử ?! Khổng tử còn mượn bài thơ nói về một chuyện khác: Yêu đạo lý là thật lòng nhưng người học kêu khó quá, kêu thiếu thời gian, nại ra mọi lý do lý trấu để trì hoãn việc học đạo…)
 Hết thiên 9
  1. 10.  乡党Hương đảng
第十篇 thiên 10
27 bài
10·1
孔子於乡党,恂恂如也,似不能言者。其在宗庙,朝廷,便便言, 唯谨尔。
Khổng tử ư hương đảng, tuân tuân như dã, tự bất năng ngôn giả. Kỳ tại tông miếu, triều đình, tiện tiện ngôn, duy cẩn nhĩ.
Khổng tử ở quê nhà, đối với bậc trên, kính cẩn chậm chạp, như không biết nói gì làm gì. Nhưng khi ở nơi tông miếu triều đình làm việc, Khổng tử làm việc chắc chắn, thận trọng.
10·2
朝,与下大夫言,侃侃如也;与上大夫言, 訚訚如也。君在,踧踖如也,与与如也。
Triều, dữ hạ đại phu ngôn, khản khản như dã; Dữ thượng đại phu ngôn, ngân ngân như dã. Quân tại, địch địch như dã, dữ dữ như dã.
Ở triều đình, (Khổng tử) nói chuyện với quan đại phu dưới quyền thì thẳng thắn, với quan cấp trên thì giữ thái độ từ tốn. Khi vua đến thì ngài cung kính rụt rè như không yên tâm, không thể hiện cử chỉ gì thất lễ.
10·3
君召使摈,色勃如也;足躩如也。揖所与立,左右手,衣前后,襜如也。趋进,翼如也。宾退,必复命曰:“宾不顾矣” 。
Quân triêụ sử thấn, sắc bột như dã; Túc khước như dã. Ấp sở dự lập, tả hữu thủ, y tiền hậu, xiêm như dã. Xu tiến, dực như dã. Tân thoái, tất phục mệnh viết: Tân bất cố hĩ.
Vua triệu đến tiếp khách, Khổng tử tiếp chỉ xong thái độ nghiêm trang.Trước mặt khách, Khổng tử cẩn thận chu đáo, chân bước nhanh hơn. Đứng chào khách, ngài chắp hai tay cúi đầu, bên trái rồi bên phải, trang phục ngay ngắn chỉnh tề phía trước và phía sau. Dẫn khách vào, đi nhanh lên trước đưa thẳng hai tay như cánh chim. Khách ra về, ngài quay lại vua thưa: Khách không còn ngoảnh mặt lại nữa.
10·4
入公门,鞠躬如也,如不容。立不中门,行不履阈。过位,色勃如也,足躩如也,其言似不足者。摄齐升堂,鞠躬如也,屏气似不息者。出,降一等,逞颜色,怡怡如也。没阶,趋进,翼如也。复其位,踧踖如也。
Nhập cung môn, cúc cung như dã, như bất dung. Lập bất trung môn, hành bất lý vực. Quá vị, sắc bột như dã, túc khước như dã, kỳ ngôn tự bất túc giả. Nhiếp tư thăng đường, cúc cung như dã, bình khí tựa bất tức giã. Xuất, hàng nhất đẳng, sính nhan sắc, di di như dã. Một giai, xu tiến, dực như dã. Phục kỳ vị, địch địch như dã.
Khi vào cửa cung điện, Ngài kính cẩn khom lưng, như mình không có chỗ dung thân (cảm thấy mình không xứng đáng). Không đứng giữa cửa, không dẫm chân lên ngưỡng cửa; Khi đi ngang chỗ vua ngồi, sắc mặt hơi đổi, chân bước nhanh hơn, nói khe khẽ. Khi vén áo bước lên công đường, ngài cúi mình nín thở. Khi trở ra, xuống một bậc thềm thì sắc mặt ngài thư giãn vui vẻ, xuống tới bậc chót rảo bước, hai tay đưa như chim xòe cánh. Trở lại vị trí của mình thì ngài giữ vẻ cung kính.
10·5
执圭,鞠躬如也,如不胜。上如揖,下如授。勃如战色,足蹜蹜,如有循。享礼,有容色。私觌,愉愉如也。
Chấp Khuê, cúc cung như dã, như bất thăng. Thượng như ấp, hạ như thụ. Bột như chiến sắc, túc súc súc, như hữu tuần. Hưởng lễ, hữu dung sắc. Tư địch, du du như dã.
Mang ngọc Khuê (đi sứ, dâng lên vua chư hầu) hai tay dâng lên như bưng không nổi, Khổng tử giơ ngọc lên (như chào) rồi hạ xuống ngang ngực, báo hiệu sắp dâng lễ, nét mặt kính sợ. Khi dâng lễ vật, ngài tươi tắn trang trọng. Khi đưa lễ của riêng mình thì ngài thoải mái vui tươi.
10·6
君子不以绀緅饰,红紫不以为亵服。当暑,袗絺绤,必表而出之。缁衣,羔裘;素衣,麑裘;黄衣,狐裘。亵裘长, 短右袂。必有寝衣,长一身有半。狐貉之厚以居。去丧,无所不佩。非帷裳, 必杀之。羔裘玄冠不以吊。 吉月,必服而朝。
Quân tử bất dĩ cám tưu sức, hồng tử bất dĩ vi tiết phục. Đương thử, chẩn hi khích, tất biểu nhi xuất chi. Tri y, cao cừu; Tố y, nghê cứu; Hoàng y, hồ cừu, tiết tiết trường, đoản hữu mệ. Tất hữu tẩm y, trường nhất thân hữu bán. Hồ hạc chi hậu di cư. Khứ tang, vô sở bất bội. Phi duy thường, tất sát chi. Cao cừu huyền quan bất dĩ điếu. Cát nguyệt, tất phục nhi triều.
Quân tử không dùng màu xanh da trời và màu đỏ nâu để viền quần áo (màu xanh da trời là màu dùng khi cúng tế, màu đỏ nâu dùng khi có tang). Trời nóng, Khổng tử mặc áo đơn mỏng nhất định có lót bên trong. Mùa lạnh áo da cừu đen bên trong, áo dài đen ở ngoài; hoặc áo da hươu trắng bên trong thì áo dài trắng ở ngoài, nếu mặc áo da cáo màu vàng ở trong thì áo dà vàng ở ngoài. Áo thường ngày mặc ở nhà dài hơn lễ phục một ít, ống tay phải ngắn hơn ống trái một ít cho dễ làm việc. Khi ngủ ngài mặc áo dài bằng nửa người. Áo da hạc da cáo mặc làm việc nhà có lông dày và ấm. Khi mãn tang thì ngài thường đeo ngọc. Nói chung áo mặc ở nhà thì giản dị hơn. Không mặc áo da cừu màu đen và mũ đen đi viếng tang. Ngày đầu tháng, Khổng tử mặc triều phục vào chầu vua.
10·7
齐,必有明衣,布。齐,必变食,居必迁坐。
Trai, tất hữu minh y, bố. Trai, tất biến thực, cư tất thiên tọa.
Vào kỳ tế lễ, Khổng tử giữ mình sạch sẽ, mặc áo vải trắng. Trong kỳ tế lễ, thay đổi thức ăn, dời phòng nghỉ (tạm không ở chung phòng với thê, thiếp)
10·8
食不厌精,脍不厌细。食饐而餲,鱼馁而肉败,不食。色恶,不食。臭恶,不食。失饪,不食。不时,不食,割不正 ,不食。不得其酱,不食。肉虽多,不使胜食气。唯酒无量,不及乱。沽酒市脯,不食。不撤薑食,不多食。
Thực bất yếm tinh, khoái bất yếm tế. Thực bất nhi ế, ngư nỗi nhi nhục bại, bất thực. Sắc ố, bất thực. Xú ố, bất thực. Thất nhẫm, bất thực. Bất thời, bất thực, cát bất chính, bất thực. Bất đắc kỳ tương, bất thực. Nhục tuy đa, bất sử thắng thực khí. Duy tửu vô lượng, bất cập loạn. Cô tửu thị bô, bất thực. Bất triệt khương thực, bất đa thực.
Về ăn uống Khổng tử không cần cao lương mỹ vị nhưng chọn thực phẩm vệ sinh và hợp đạo lí quân tử. Gạo giã trắng, thịt thái mỏng. Ngài không ăn tám loại sau đây: lương thực để lâu đổi màu, thức ăn ôi thiu, rau quả héo úa, thịt cá sống đã ngả màu, thức ăn có mùi khó ngửi, nấu sống hay chín quá, thực phẩm trái mùa, thức ăn nêm nếm không đúng cách, miếng thịt thái không vuông vắn. Thức ăn nhiều ngài cũng không ăn quá no, rượu không giới hạn nhưng không quá say. Không mua rượu và thịt khô ngoài chợ. Mỗi bữa ăn đều có gừng, chỉ vừa đủ.
10·9
祭於公,不宿肉,祭肉不出三日。出三日,不食之矣。
Tế ư công, bất túc nhục, tế nhục bất xuất tam nhật. Xuất tam nhật, bất thực chi hĩ.
Khổng tử dự l ở tông miếu, không để thịt qua đêm. Khi tế ở nhà, ngài không để thịt quá ba ngày. Nếu quá ba ngày, ngài không ăn nữa.
10·10
食不语,寝不言。
Thực bất ngữ, tẩm bất ngôn.
Khi ăn không trò chuyện, khi ngủ cũng không nói chuyện với ai.
 10·11
虽疏食菜羹,瓜祭,必齐如也。
Tuy sơ thực thái canh, qua tế, tất trai như dã.
Tuy ăn cơm rau cải bình thường, Khổng tử cũng cúng một ít dưa, thành tâm như cúng lễ.
10·12
席不正,不坐。
Tịch bất chính, bất tọa.
Chiếu trải không ngay ngắn, (ngài) không ngồi.
10·13
乡人饮酒,杖者出,斯出矣。
Hương nhân ẩm tửu, trượng gỉa xuất, tư xuất hĩ.
Khi uống rượu với người làng, đợi các cụ cao tuổi rời khỏi mâm, Khổng tử mới rời sau.

10·14

乡人傩,朝服而立於阼阶。
Hương nhân na, triều phục nhi lập ư tộ giai.
Người làng làm l tống qu nghênh thần, Khổng tử mặc triều phục đứng bậc thềm phía đông.
 (Chú thích: Khổng tử quen lệ cúng tế ở triều đình, quan chức đứng phiá đông. Về quê thầy vẫn coi trọng lễ như thế)
10·15
问人於他邦,再拜而送之。
Vấn nhân ư tha bang, tái bái nhi tống chi.
Khi nhờ người thăm hỏi bạn hữu ở nước khác, Khổng tử vái người đưa tin hai cái để tiễn người ấy.
(Chú́ thích: Môt vái cảm tạ và tống tiễn người đưa tin, một vái gửi người bạn hữu ở nước kia)
 10·16
康子馈药,拜而受之。曰:“丘未达,不敢尝” 。
Khang tử quĩ dược, bái nhi thụ chi. Viết: Khâu vị đạt, bất cảm thường .
 Quí Khang tử biếu thuốc, Khổng tử bái tạ rồi mới nhận, rồi nói: Khâu này chưa rõ tính thuốc nên chưa dám nếm.
 10·17
厩焚。子退朝,曰:“伤人乎?”. 不问马。
Cứu phần. Tử thoái trào, viết: Thương nhân hồ ? Bất vấn mã.
Chuồng ngựa cháy. Khổng tử rời khỏi triều đình, về đến nhà chỉ hỏi “Có ai bị thương không?”. Không hỏi ngựa.
(Lời bàn: những người nuôi ngựa là nô lệ nhưng vẫn được Khổng tử coi trọng như người bình thường, người thân thích)
 10·18
君赐食,必正席先尝之.君赐腥,必熟而荐之。君赐生,必畜之.侍食於君,君祭,先饭。
Quân tứ thực, tất chính tịch tiên thường chi. Quân tứ tinh, tất thục nhi tiến chi. Quân tứ sinh, tất súc chi. Thị thực ư quân, quân tế, tiên phạn.
Vua ban cho thức ăn chín, Khổng tử nhất định trải chiếu ngay ngắn rồi mới ngồi ăn. Vua ban thức ăn sống, Khổng tử nấu xong, cúng tổ tiên rồi mới ăn. Vua ban cho con vật còn sống, Khổng tử giữ lại nuôi. Khi ngồi hầu cơm vua, vua đang tế lễ, Khổng tử nếm trước.
 (Lời bàn: Khổng tử nếm trước như một vệ sĩ để kiểm tra an toàn thực phẩm).

10·19
疾,君视之,东首,加朝服,拖绅。
Tật, quân thị chi, đông thủ, gia triều phục, tha thân.
Khổng tử bệnh nằm ở nhà, vua đến thăm, Khổng tử chuyển đầu hướng phiá đông, đem triều phục đắp lên người, dây đeo ở trên cùng.
10·20
君命召,不俟驾行矣。
Quân mệnh triệu, bất sĩ giá hành hĩ.
Khi vua gọi, Khổng tử đi bộ tới ngay, không cần xe.
 (Lời bàn: Theo nghi lễ, các quan được quyền đi xe ngựa theo cấp bậc, Khổng tử đi bộ để khỏi phải chờ xe lâu, tận tụy với nhiệm vụ)
 10·21
入太庙,每事问。
Nhập thái miếu, mỗi sự vấn.
Khi vào lễ thái miếu, Khổng tử gặp điều gì cũng hỏi.
(Lời bàn: Thái miếu là miếu thờ tổ tiên của vua. Khổng tử hỏi lại nghi lễ cho chắc ăn, để tránh sai sót)
10·22
朋友死,无所归,曰:“於我殡” 。
Bằng hữu tử, vô sở quy, viết: Ư ngã thấn.
Bạn hữu qua đời, không có thân thuộc, Khổng tử nói: Việc này do ta chịu trách nhiệm.
10·23
朋友之馈,虽车马,非祭肉,不拜。
Bằng hữu chi quĩ, tuy xa mã, phi tế nhục, bất bái.
Bạn hữu tặng quà, dù là vật quí như xe ngựa nhưng không phải vật cúng tế được thì khi nhận, Khổng tử không bái tạ.
 10·24
寝不尸,居不容。
Tẩm bất thi, cư bất dung.
Ngủ ở nhà Khổng tử không nằm duỗi thẳng như cái xác, ở nhà dung mạo bình thường, không quá nghiêm túc
10·25
见齐衰者,虽狎,必变。见冕者与瞽者,虽亵,必以貌。凶服者式之。式负版者。有盛馔,必变色而作。迅雷风烈必变。
Kiến tế thôi giả, tuy hiệp, tất biến. Kiến miện giả dự cổ giả, tuy tiết, tất dĩ mạo. Hung phục giả thức chi. Thức phụ bản giả. Hữu thịnh soạn, tất biến sắc nhi tác.Tấn lôi phong liệt ất biến.
Gặp người có tang tuy là quan hệ thân cận, Khổng tử vẫn thay đổi thái độ tỏ lòng thương xót. Nhìn thấy người mặc triều phục đội mũ miện hoặc người mù tuy là người quen, Khổng tử vẫn giữ thái độ lịch sự. Đi xe trên đường, gặp người mặc tang phục, Khổng tử cúi người phía trước gật đầu như chia sẻ với họ, tay vịn thành xe. Gặp người cầm sổ sách nhà nước cũng cúi chào như vậy để tỏ lòng kính trọng. Khi làm khách, thấy chủ nhà dọn mâm thịnh soạn, Khổng tử cũng thay đổi thái độ, cảm ơn rồi mới cầm đũa. Thấy cơn sấm to gió lớn, Khổng tử cũng tỏ vẻ lo lắng thiên tai gây họa cho dân.
10·26
升车,必正立,执绥。车中,不内顾,不疾言,不亲指。
Thăng xa, tất chính lập, chấp tuy, xa trung, bất nội cố, bất tật ngôn, bất thân chỉ.
Lên xe, phải đứng thẳng, nắm sợi dây vịn rồi bước lên, vào trong xe. Lên xe rồi, không nhìn vào trong (tránh tò mò), không nói chuyện ngay, không giơ tay chỉ trỏ.
10·27
色斯举矣,翔而后集。曰:“山梁雌雉,时哉时哉!”. 子路共之,三嗅而作。
Sắc tư cử hĩ, tường nhi hậu tập. Viết: Sơn lương thư trĩ, thời tai thời tai !. Tử Lộ cộng chi, tam khữu nhi tác.
Con chim thấy người có khí sắc dữ tợn, nó cất cánh bay đi vòng lại, rồi mới đỗ xuống. Khổng tử nói: Con chim trĩ mái trên sườn núi kia nó biết thời cơ lắm thay ! Tử Lộ định vồ bắt, nó kêu ba tiếng mà bay đi.
 (Lời bàn: Con chim trước khi đỗ xuống thì quan sát, thấy người lạ, nó lượn vòng một lát, thấy yên tâm mới hạ cánh. Khổng tử lấy việc đó khuyên bảo học trò đi tới đâu cũng phải quan sát sự an nguy rồi hãy ở).
Hết thiên  10
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved